Đề tài Đánh giá chung về hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua

LỜI MỞ ĐẦU Quá trình toàn cầu hoá đang thúc đẩy mạnh mẽ sự hội nhập của các nước vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Có thể nói, hiện nay hầu như không có một quốc gia nào đứng ngoài quá trình hội nhập nếu không muốn tự cô lập và rơi vào nguy cơ tụt hậu. Gắn liền với xu thế vận động chung của thế giới trong những năm tới, Việt Nam cũng đang thực hiện chuyển đổi cơ chế chính sách và thực hiện mở rộng các mối quan hệ kinh tế với thế giới bên ngoài theo đường lối đổi mới và mở cửa của Đảng Quán triệt quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế do Đại hội Đảng đề ra, đồng thời nhận thức rõ xu thế của thời đại, ngành ngân hàng Việt Nam đã không ngừng tiến hành những cải cách cần thiết: đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu lại tình hình tài chính, lành mạnh hoá hoạt động tín dụng, tạo sức mạnh về vốn, đảm bảo nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển, mở rộng dịch vụ ngân hàng trên nền tảng công nghệ hiện đại, đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao hiệu quả kiểm tra, kiểm soát, đảm bảo an toàn hệ thống tiến dần đến các chuẩn mực quốc tế. Tuy được đánh giá là một trong những ngành năng động nhất trong việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng ngành ngân hàng còn đứng trước nhiều khó khăn và thách thức không nhỏ: Thực trạng tài chính yếu, vốn Nhà nước cấp nhỏ, mô hình tổ chức truyền thống chưa thực sự hướng tới khách hàng .

pdf33 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1804 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá chung về hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m có những bước tiến đáng kể,và khả năng trong 5 hay 10 năm tới là rất khả quan.Số lượng doanh nghiệp niêm yết trên sàn sẽ tăng lên,khối lượng giao dịch trên mỗi phiên sẽ tăng lên cả trên sàn giao dịch và cả trên OTC. Những chuyển biến tích cực đó báo hiệu cho hoạt động của các ngân hàng sẽ khẩn trương hơn.Cụ thể là lượng tiền giao dịch sẽ nhiều hơn,số người giao dịch ngân hàng với mục đích cho việc chơi chứng khoáng của mình sẽ tăng lên.  Chu kỳ kinh doanh: Chu kỳ kinh doanh là sự thăng trầm về khả năng tạo ra của cải của nền kinh tế trong những giai đoạn nhất định.Trong ngành ngân hàng cũng vậy,ứng với mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh ngân hàng có các chính sách hoạt động hợp lý nhằm mang lại lợi ích cao nhất . Trong mỗi giai đoạn ngân hàng cần xác định rõ đâu là khách hàng mục tiêu ,đâu là khách hàng tiềm năng .  Các chuyên gia kinh tế đều đánh giá cao động thái “nới” tỷ giá bình quân liên ngân hàng của Ngân hàng nhà nước. Rất có thể ngân hàng sẽ có chịu những tác động nhất định. Có thể nói đây là một bước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo cung cầu thị trường của NHNN. chính sách quản lý ngoại hối và tỷ giá của chúng ta trong thời gian qua là khá ổn định, đáp ứng được cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Cung cầu ngoại tệ thời gian qua đúng là có lúc cóbiến động, cầu tăng đột biến, trong khi nguồn cung không đủ đáp ứng. Nhưng xét các yếu tố tổng thể như dự trữ ngoại tệ, khả năng cung ứng và yêu cầu của xã hội thì tình hình thị trường ngoại tệ vẫn chưa đến mức gay gắt. Quyết định này của NHNN đã theo sát tư tưởng chỉ đạo nhắm tới mục đích giảm nhập siêu. Đây cũng là biện pháp chủ động đi trước khi phán đoán được tình hình. Thường thì thời điểm cuối năm, nhu cầu về USD tăng cao, giá USD trên thị trường ngoại tệ cũng theo đó mà đi lên. Bởi vậy, việc điều chỉnh này khiến mức giá USD không bị chênh lệch lớn và tránh gây ra những đột biến gây bất lợi cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, còn góp phần ổn định tâm lý cho người dân, nhà đầu tư, doanh nghiệp. Trước khả năng giá USD có thể tăng hầu hết các ngân hàng có tâm lý găm giữ chờ lên cao rồi mới bán ra. Điều này là hoàn toàn có thể nếu chính sách giải quyết không hợp lý. Khi chính sách đưa ra được hài hòa thì ngân hàng muốn giữ USD lại, nhưng giữa lợi ích thu được và việc phải dự trữ không thu được lãi chênh nhau không lớn thì ngân hàng sẽ phải bán ra, đây là nghệ thuật trong việc điều hành chính sách. 3.XÃ HỘI (Socio-cultural) Tài chính - Ngân hàng vẫn là ngành đắt giá nhất trong 5 năm tới PGS.TS Tô Ngọc Hưng, Giám đốc Học viện Ngân hàng cho biết: “Dự báo trong vòng 5 năm tới, ngành Tài chính - Ngân hàng vẫn luôn được xã hội quan tâm và là ngành thu hút nguồn lao động khá lớn do nền kinh tế phát triển mạnh”. Lĩnh vực ngành Tài chính - Ngân hàng (TCNH) luôn được xã hội quan tâm, bởi lẽ đây là ngành mà trong những năm vừa qua số lượng tuyển dụng lao động khá lớn do điều kiện về kinh tế xã hội phát triển. Bất cứ một quốc gia nào để có điều kiện phát triển tốt thì phải có hệ thống ngân hàng vững mạnh. Nếu đặt vấn đề phải có hệ thống ngân hàng vững mạnh thì rõ ràng họ phải quan tâm đến nguồn nhân lực. Đặc biệt trong thời gian vừa qua, điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế ở các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng, nên hệ thống ngân hàng tài chính phát triển và mở rộng rất nhanh, có điều kiện thu hút nguồn nhân lực về lĩnh vực này khá lớn. Tuy nhiên, trong năm 2008 - 2009, khi tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam thì việc mở rộng các ngân hàng không còn như trước đây, song nguồn nhân lực cho hệ thống này mọi người vẫn rất quan tâm bởi lý do sau: Lực lượng lao động chính của ngành này, hàng năm số lượng nghỉ chế độ cũng khá lớn và sàng lọc trong hoạt động đối với những người đã tuyển dụng nhưng không làm được việc cũng nhiều. Bên cạnh đó, hàng năm có sự di chuyển nhân lực từ ngân hàng này sang ngân hàng kia, do vậy bộc lộ nơi thừa, nơi thiếu nên mọi người đều có cảm giác thiếu nhân lực. Đặc biệt, năm 2010 các ngân hàng nước ngoài họ vào thị trường Việt Nam sẽ rất nhiều. Đây sẽ là nơi thu hút lực lượng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, kể cả lao động mới. Từ đó, dẫn đến nhu cầu lao động trong ngân hàng không phải đến ngưỡng nào là đủ, nó luôn luôn có sự thay đổi, bổ sung liên tục. Bên cạnh đó, khi mở rộng mạng lưới đồng thời các ngân hàng cũng đi sâu vào nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho bản thân họ.  Nước ta là một nước đang phát triển và trải qua thời kì chiến tranh kéo dài vì vậy vấn đề công tác xã hội rất được các ngân hàng quan tâm. Không chỉ chú trọng đến các hoạt động kinh doanh, các ngân hàng còn dành hàng trăm tỷ đồng cho các hoạt động xã hội, công tác từ thiện ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, xa. Với phương châm hoạt động của ngân hàng là "Gắn xã hội trong kinh doanh", các ngân hàng sát cánh cùng cấp uỷ, chính quyền các địa phương hỗ trợ, giúp đỡ những gia đình có hoàn cảnh khó khăn với những hành động cụ thể. Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ để bảo đảm an sinh xã hội như cho vay lãi suất thấp đối với hộ nghèo; chính sách tín dụng hỗ trợ phát triển nông nghiệp và xây dựng hạ tầng nông thôn; đầu tư xây dựng nhà cho người nghèo, diện chính sách, nhà ở cho người lao động ở khu công nghiệp tập trung, ký túc xá cho sinh viên; thực hiện trợ cấp khó khăn cho người hưởng lương từ ngân sách nhà nước có đời sống khó khăn, thu nhập thấp; chương trình giảm nghèo; chủ động cứu trợ cho người dân gặp thiên tai, lũ lụt,... là việc làm thiết thực và quan trọng trong điều kiện khủng hoảng kinh tế và suy giảm kinh tế hiện nay.  Vấn đề bảo vệ môi trường này không còn là vấn đề riêng của một quốc gia mà là vấn đề của toàn nhân loại. Sau năm 2020, khi Việt Nam trở thành đất nước công nghiệp, vấn đề môi trường trở nên cực kỳ quan trọng cho thế hệ tương lai. Môi trường xanh, sạch, đẹp chính là ba yếu tố để phát triển bền vững. Muốn như vậy phải có những hành động, biện pháp thật cụ thể ngay từ bây giờ. Vì vậy điều này cũng tác động đến lĩnh vực ngân hàng. Thứ nhất, nếu doanh nghiệp vay tiền làm ô nhiễm môi trường và phải thanh toán chi phí làm sạch hoặc trả cho việc gây ô nhiễm môi trường... thì sẽ ảnh hưởng xấu đến danh tiếng, làm giảm lợi nhuận và vì thế khả năng trả khoản vay của ngân hàng cũng giảm theo. Ở một số nước, các ngân hàng thậm chí còn có nghĩa vụ pháp lý nếu họ đầu tư vào một dự án gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và xã hội. Thứ hai, khi ngân hàng đầu tư vào doanh nghiệp thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường thì rất nhiều khả năng gây dựng một hình ảnh tốt, nhờ đó ngân hàng có thể thu hút nhiều khách hàng hơn. Thực tế ngày càng có nhiều người tiêu dùng khẳng định muốn mua sản phẩm của những doanh nghiệp hoạt động tuân theo một số chuẩn mực tốt về lao động, không làm ô nhiễm môi trường... các doanh nghiệp cũng đã ý thức điều này, tìm kiếm nguồn tài chính để thực hiện kinh doanh công nghệ sạch. Đây là cơ hội phát triển đầu tư tín dụng một cách hiệu quả và bền vững cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính. Nếu các ngân hàng và tổ chức tài chính nhận thức được tầm quan trọng của xu hướng mới mẻ này và cam kết thực hiện, họ sẽ có cơ hội dành được một lợi thế cạnh tranh thông qua việc cung cấp tài chính cho khách hàng thực hiện các dự án cải thiện về môi trường và xã hội hoặc tài trợ những doanh nghiệp hoạt động theo các tiêu chí sản xuất bền vững.  Ở Việt Nam, đại bộ phận dân cư tập trung sinh sống ở khu vực nông thôn, người dân đa phần có dân trí chưa cao. Những hiểu biết về vay vốn và tiếp cận ngân hàng không có nhiều trong đại bộ phận người dân. Nhu cầu vốn của người nông dân là rất lớn. Nhưng khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng của nông dân bị hạn chế do lãi suất và cơ chế vay vốn còn có nhiều điểm chưa phù hợp với đặc điểm nông thôn, nông dân. Trên thực tế, đến nay mới chỉ có Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) có dư nợ tín dụng lớn đối với lĩnh vực nông nghiệp. Một số ngân hàng khác cho vay nông nghiệp nhưng dưới dạng hỗ trợ xuất khẩu gạo, cà phê, hạt tiêu… còn vốn trực tiếp đến nông dân rất hạn chế. Tuy nhiên, thực tế này có thể sẽ thay đổi và nông thôn sẽ là thị trường mà nhiều ngân hàng hướng tới. Mới đây, Ngân hàng Liên Việt (LienVietBank) có kế hoạch, trong giai đoạn 2010 - 2013, ngân hàng này sẽ cho vay lĩnh vực nông thôn khoảng 3.000 - 5.000 tỷ đồng để đẩy mạnh tín dụng nông nghiệp ở ĐBSCL (riêng năm 2010 sẽ cho vay khoảng 1.200 tỷ đồng, thí điểm ở Hậu Giang, Cần Thơ, và An Giang). Với vai trò trung gian, ngân hàng sẽ triển khai các chính sách, chương trình hỗ trợ của Nhà nước thông qua việc thực hiện đồng bộ 2 giải pháp: Hỗ trợ vốn gián tiếp và hỗ trợ vốn trực tiếp đối với "Nhà nông". Các biện pháp hỗ trợ gián tiếp như: hỗ trợ vốn cho nhà doanh nghiệp, đồng thời kết hợp xây dựng đầu ra cho sản phẩm; hỗ trợ vốn cho nhà khoa học, đồng thời kết hợp thẩm định chất lượng sản phẩm. Hỗ trợ vốn trực tiếp cho nông dân thông qua hỗ trợ vốn vật tư nông nghiệp. Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp vì thế nông dân cần được các ngân hàng hỗ trợ nhiều hơn nữa và trở thành thị trường tiềm của ngành ngân hàng trong tương lai.  Cơ cấu “dân số vàng” đồng nghĩa với sự tập trung của một lực lượng lao động trẻ hùng hậu chưa từng có. Về lý thuyết, một khi lực lượng này được tận dụng tối đa trí tuệ, sức lao động, sẽ tạo ra khối lượng của cải vật chất khổng lồ, tạo ra giá trị tích luỹ lớn cho tương lai, đảm bảo an sinh xã hội khi đất nước bước vào giai đoạn dân số già. Giới trẻ không chỉ có tuổi trẻ, không chỉ có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, lại được ra đời và lớn lên trong thời kỳ đất nước đổi nên sớm có trình độ kinh doanh, mà còn là lớp người do ưu thế về lứa tuổi đã dám nghĩ, dám làm và “có gan làm giàu”. Vì vậy với một xã hội năng động như thế ngân hàng sẽ càng phát triễn để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội năng động. .4.CÔNG NGHỆ:( Technology) Trong thế giới tài chính ngân hàng và không có gì đứng yên. Sự thay đổi lớn nhất của tất cả đang ở trong phạm vi, kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng truyền thống của nó từ có liên quan với việc chấp nhận tiền gửi từ khách hàng, cho vay của thặng dư của tiền gửi cho khách hàng phù hợp với người muốn vay và truyền dẫn của các quỹ. Ngoài việc kinh doanh truyền thống, các ngân hàng bây giờ một ngày cung cấp một loạt các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu tài chính và phi tài chính của tất cả các loại khách hàng từ các chủ tài khoản nhỏ nhất để các công ty lớn nhất và trong một số trường hợp khách hàng không. Số lượng dịch vụ được cung cấp khác từ ngân hàng để ngân hàng tùy thuộc chủ yếu vào loại và kích thước của Ngân hàng. Trong xu thế toàn cầu hóa và sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ở Việt Nam ngày càng trở nên khốc liệt, chúng ta càng thấy vai trò của công nghệ đối với hoạt động kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của từng ngân hàng. Công nghệ sẽ thể hiện rất rõ giúp ngân hàng trong lĩnh vực quản trị, trong việc mở rộng sản phẩm dịch vụ, thông qua đó, ngày càng đáp ứng được các nhu cầu khắt khe của hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, công nghệ cũng cho phép ngân hàng quản trị rủi ro tốt hơn, từ đó đưa ra các công cụ hỗ trợ để giúp ngân hàng đưa ra những quyết định đúng đắn Hiện nay, các ngân hàng Việt Nam đều đã trang bị hệ thống thông tin hiện đại. Hầu hết các ngân hàng đều vận hành 24/24 trên nền tảng công nghệ để xây dựng các mối quan hệ trực tiếp với khách hàng, online trực tuyến với các giao dịch. Do vậy cho nên không thể không có công nghệ, hay nói cách khác, công nghệ đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính công nghệ đã tạo ra cho ngân hàng một nhịp thở mới, một hoạt động mới mà trước đây khi chưa có công nghệ, ngân hàng chưa thể có được.Trong nền kinh tế ngày nay, lòng trung thành của khách hàng phụ thuộc vào thời gian đáp ứng, tính an toàn và chất lượng dịch vụ. Đối với các dịch vụ tài chính, các yêu cầu này đang ngày càng phụ thuộc vào hệ thống công nghệ thông tin. Một trong những tiêu chuẩn là doanh nghiệp phải có một hệ thống hạ tầng công nghệ thong tin được xây dựng thống nhất, đáp ứng được nhu cầu mở rộng và cấu trúc sao cho có thể triển khai các ứng dụng khác nhau một cách nhanh chóng, chính xác, khoa học và thuận tiện. Công nghệ tiên tiến, hiện đại là thế mạnh nổi bật của các NH nước ngoài và chắc chắn họ sẽ tận dụng triệt để khi vào thị trường tài chính tiền tệ của Việt Nam nơi mà trình độ kỹ thuật công nghệ vẫn còn ở mức rất thấp. Thấy rõ được khoảng cách về công nghệ ngân hàng giữa phía Việt Nam và thế giới nên các ngân hàng Việt Nam đã có những thay đổi nhất định trong việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Từ ngày 1/5/2002 hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (HTTTĐTLNH) giai đoạn I do WB tài trợ đã đi vào hoạt động theo quyết định 309/QĐ - NHNN ngày 9/4/2002. Đây là hệ thống thanh toán liên ngân hàng đầu tiên thực hiện theo phương thức thanh toán tổng tức thời dựa trên công nghệ hiện đại được áp dụng tại Việt nam mà nhiều nước trên thế giới đã và đang áp dụng. Theo thiết kế, hệ thống có những chức năng cơ bản sau: Thực hiện thanh toán giá trị cao, giá trị thấp khẩn; xử lý quyết toán tổng tức thời và quyết toán bù trừ ròng. Nhưng trong giai đoạn đầu, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng mới thực hiện luồng thanh toán giá trị cao, giá trị thấp khẩn và xử lý quyết toán tổng tức thời. Sau một năm thực hiện thanh toán qua HTTTĐTLNH tại các tổ chức tín dụng và các ngân hàng cho thấy: Hệ thống TTĐTLNH hoạt động ổn định thông suốt, không xảy ra những trục trặc, vướng mắc lớn. Tại các sở giao dịch, các chi nhánh NHNN các tỉnh, thành phố và các thành viên, đơn vị thành viên tổ chức luân chuyển, kiểm soát chứng từ, hạch toán, thanh quyết toán đảm bảo chính xác, kịp thời và an toàn vốn, thời gian thực hiện một món chuyển tiền không quá 10 giây. Đến nay đã có 36 NHTM tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng rút ngắn được thời gian thanh toán và tăng sự luân chuyển vốn. Khi bắt đầu khai trương hệ thống này thì chỉ mới có khoảng 20% số lượng NHTM tham gia, khối lượng giao dịch đạt hơn 1.000 tỉ đồng mỗi ngày. Có thể coi Vietcombank (VCB) là ngân hàng đi đầu trong việc áp dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại trong thời gian qua.. VCB cũng đã triển khai xong đề án VCB-version 2010 thực hiện nối mạng toàn hệ thống, triển khai thực hiện hệ thống thanh toán điện tử liên hàng trực tuyến VCB online, đưa vào vận hành hệ thống giao dịch tự động ATM, công bố Website. Ngày 18/3 /2003 tại Hà Nội VCB đã khai trương thẻ Vietcombank American Express loại vàng và xanh, lần đầu tiên sử dụng đồng nội tệ được phát hành ở Việt Nam. Khách hàng sử dụng thẻ sẽ được hưởng hàng loạt các tiện ích như được chấp nhận thanh toán tên toàn thế giới, được hưởng ưu đãi giảm giá các dịch vụ và giải trí, được lựa chọn cung cấp dịch vụ thay thế thẻ khẩn cấp trong vòng 48 giờ, được cung cấp dịch vụ trợ giúp khẩn cấp và bảo hiểm tai nạn khi đi du lịch, được phục vụ tại hơn 1.700 văn phòng dịch vụ du lịch của American Express trên toàn thế giới, có thể rút tiền tại hơn 500.000 máy rút tiền tự động trên toàn thế giới. Techcombank tiếp tục triển khai phần mềm ứng dụng ngân hàng Globus. Đây là một trong những phần mềm ứng dụng ngân hàng hàng đầu thế giới hiện nay, được phát triển bởi hãng Temerous của Thụy Sĩ, tích hợp trong nó các công cụ vận hành và quản trị ngân hàng hiện đại phù hợp với các mục tiêu và định hướng phát triển của Techcombank trong 10-15 năm tới. Hiện nay cùng với việc lắp ráp máy ATM, thực hiện những dịch vụ ngân hàng hiện đại như Homebanking thì hệ thống ngân hàng Việt Nam đang bắt đầu thử nghiệm và đưa vào thực hiện cung cấp một số dịch vụ ngân hàng điện tử. Ngân hàng điện tử sẽ tiết kiệm được chi phí và mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng. Tuy nhiên với trình độ công nghệ, pháp lí như hiện nay thì mối quan hệ giữa hoạt động ngân hàng điện tử và việc giữ bí mật thông tin cho khách hàng đang được xem xét để đảm bảo thông tin trên mạng và bảo mật thông tin tiền gửi trong hoạt động ngân hàng điện tử. Hiện tại, nhiều phần mềm mới đã có thể cho phép các ngân hàng có thể thực hiện tới 1.000 giao dịch/giây, quản trị tới 50 triệu tài khoản khách hàng và hỗ trợ thực hiện giao dịch qua hệ thống 24h/ngày. Quy trình giao dịch về séc, lệnh thanh toán và hạch toán các tài khoản khách hàng... được xử lý theo hướng tập trung hoá và tự động hoá, giảm rủi ro, đảm bảo xử lý nhanh gọn và khoa học. Bên cạnh những sản phẩm cơ bản của hoạt động ngân hàng như gửi, rút tiền thì những chỉnh sửa nhỏ trong hệ thống phần mềm sẽ giúp ngân hàng thiết kế triển khai được nhiều sản phẩm đa dạng, cung cấp nhiều dịch vụ mới như: thanh toán hoá đơn, mua thuê bao trả trước, quản lý tài khoản qua Internet Banking. Thời gian qua, một số ngân hàng thương mại đã đầu tư hàng triệu USD để tiếp tục phát triển giai đoạn hai của chương trình hiện đại hoá với mục tiêu hỗ trợ phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới, trên cơ sở ứng dụng và phát triển hệ thống ngân hàng lõi. Nhìn chung, đổi mới công nghệ đã mang về chế biến nhanh và truyền tải thông tin, tiếp thị dễ dàng các sản phẩm ngân hàng, tăng cường tiếp cận khách hàng và nâng cao nhận thức, mạng lưới rộng lớn hơn và liên kết khu vực và toàn cầu trên một quy mô chưa từng thấy. CNTT phát triển đã thay đổi như vậy, phạm vi sản phẩm, các kênh dịch vụ phát triển sản phẩm, và loại hình dịch vụ ngân hàng, cũng như đóng gói các dịch vụ như vậy, với hiệu quả đáng kể và chỉ có ở các ngân hàng, mà còn các dịch vụ feeder phụ trợ và cho các ngân hàng. Các dịch vụ tài chính như vậy, ngành công nghiệp đã trở thành hầu như phụ thuộc vào phát triển CNTT. Hầu hết các ngân hàng làm cho có thể nhìn thấy những nỗ lực để theo kịp với các hệ thống mới và các quy trình. Sự phát triển trong công nghệ thông tin đã cho phép các ngân hàng để cung cấp đa dạng hơn và thuận tiện dịch vụ tài chính, thậm chí không bổ sung thêm ngành vật lý. Các máy ATM ngày nay là những cỗ máy tinh vi hơn, có thể quét các khách hàng và rút tiền ngân hàng, chấp nhận tiền mặt hoặc séc, tạo điều kiện ứng dụng của khách hàng cho các khoản vay và cho phép để thảo luận đối mặt để phải đối mặt với một đại diện dịch vụ thông qua video. Sự phát triển của dịch vụ Internet, đó là một, phong phú, chi phí thấp và mạng lưới tài chính thuận tiện, đã tạo điều kiện dịch vụ ngân hàng cho khách hàng, bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào. Việc tích hợp e-kinh doanh với ngân hàng qua internet và các ngân hàng 'các trang web cũng là một tính năng đáng chú ý. Những tiến bộ về CNTT đã kích hoạt các ngân hàng để từng bước thay thế công việc lao động của thủ tục tự động với chế biến trên mạng thời gian thực. Vì vậy việc Tin học hóa hệ thống thông tin quản lý, nâng cấp công nghệ, bảo mật dữ liệu, ứng dụng SOA - tăng tính hiệu quả qui trình quản trị ngân hàng… được đánh giá là những xu hướng phát triển công nghệ của ngành ngân hàng =>KẾT LUẬN Công nghệ đã được một trong những yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển của nhân loại. Công nghệ thông tin và truyền thông là sự ra đời chính trong lĩnh vực công nghệ được sử dụng để truy cập, xử lý, lưu trữ và phổ biến thông tin điện tử. Ngân hàng phát triển nhanh ngành công nghiệp là việc sử dụng của công nghệ trong là từ các máy ATM, ngân hàng trực tuyến, ngân hàng, điện thoại, vv… Ngân hàng di động, thẻ nhựa là một trong những sản phẩm ngân hàng mà phục vụ cho nhu cầu của phân khúc bán lẻ đã có số lượng phát triển theo cấp số nhân trong những năm gần đây. tăng trưởng này đã được ủng hộ mạnh mẽ việc phát triển trong lĩnh vực công nghệ, mà không có điều này không có thể đã được khóa học có thể có của nó sẽ thay đổi lối sống của chúng tôi trong những năm tới. 5.PHÁP LUẬT: Yếu tố pháp luật là một yếu tố đang có những tác động khá mạnh mẽ đến các ngân hàng ở VN. Đáng chú ý nhất là lộ trình thực hiện thông tư 13/2010-TT-NHNN (TT13) và Nghị định 141/2006/NĐ-CP (NĐ 141).  Thông tư 13/TT/NHNN ban hành ngày 20/5/2010 là một trong những văn bản quan trọng điều chỉnh các hoạt động cơ bản của tổ chức tín dụng gồm: tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (lên 9%); giới hạn tín dụng; tỷ lệ khả năng chi trả; giới hạn tỷ lệ mua cổ phần cũng như tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động. Trước mắt thì các ngân hàng đang gặp nhiều khó khăn trong viêc thực hiện thông tư 13. Nó làm niềm tin của các nhà đầu tư trong nước sụt giảm vì cho rằng một số nội dung của TT 13 cản trở nguồn cung tín dụng (có ý kiến cho rằng NHNN muốn dùng TT 13 để thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ). Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận doanh nghiệp và ngân hàng, giảm sự hấp dẫn của TTCK và tính thanh khoản của thị trường BĐS. Chắc chắn một điều là khi Thông tư 13 bắt đầu có hiệu lực thì các ngân hàng sẽ khó khăn về nguồn vốn, thanh khoản... dẫn đến lợi nhuận sụt giảm. Nhưng trong những năm tới thì thông tư 13 sẽ có những tác động lớn đến ngành ngân hàng đó là: ổn định giá trị đồng tiền, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và hệ thống thanh toán.  Nghị định 141/2006/NĐ-CP (NĐ 141): nghị định 141 được ban hành năm 2006 quy định các tổ chức tín dụng phải tăng vốn điều lệ lên tối thiểu là 3000 tỉ đồng trước ngày 31/12/2010. Theo một nguồn tin từ NHNN thì trong số 23 NHTM phải tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỉ đồng vào cuối năm nay thì hiện 13 NH đã trình hồ sơ đầy đủ về kế hoạch tăng vốn điều lệ năm tài chính 2010 lên Thống đốc NHNN, 7 hồ sơ đang kiểm tra xem xét tại cơ quan thanh tra, giám sát thuộc NHNN và 3 NH chưa đầy đủ hồ sơ. Cho đến thời điểm này thì chưa một NH nào báo cáo phương án xử lý trong trường hợp TCTD không đạt được mức vốn này. Tuy nhiên, chưa chắc tất cả 23 NHTM tăng đủ vốn vào cuối năm nay.  Trong những năm tới có thể sẽ có nhiều ngân hàng bị sát nhập làm thay đổi cơ cấu hệ thống ngân hàng hiện nay.  Sẽ còn những quy định tiếp tục được ban hành trong thời gian tới nhằm vươn tới những chuẩn mực cao hơn. Do đó trong 5 tới 10 năm nữa những rủi ro: kém thanh khoản, làm giá tiền gửi, ép giá lãi suất liên ngân hàng... sẽ từng bước dần loại bỏ khỏi hệ thống ngân hàng  Ngân hàng Nhà nước vừa có văn bản chỉ đạo về việc thu thập và cung cấp thông tin, số liệu về tình hình kinh doanh vàng tại một số thành phố lớn. Đây được xem là một động thái nữa của Ngân hàng Nhà nước tiến tới quản lý chặt chẽ hơn loại hàng hóa đặc biệt này. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã liên tục có các động thái can thiệp nhằm bình ổn thị trường vàng trong nước. Sau khi quyết định ngừng hoạt động các sàn vàng được ban hành, việc giao dịch vàng tài khoản ở nước ngoài cũng bị chấm dứt. Theo đó, các chi nhánh trên sẽ thu thập và cung cấp các thông tin về số lượng các doanh nghiệp đăng ký hoạt động kinh doanh vàng theo Thông tư số 10/2003/TT-NHNN. Các thông tin được yêu cầu bao gồm các hoạt động mua bán vàng, sản xuất, gia công vàng, xuất khẩu, nhập khẩu vàng trên địa bàn thành phố; hình thức tổ chức hoạt động kinh doanh vàng là dưới hình thức doanh nghiệp hay hộ kinh doanh; tình hình chấp hành các quy định của pháp luật về hóa đơn, chứng từ của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vàng.  Các sàn vàng trên toàn quốc chính thức ngừng hoạt động vào ngày 30/3/2010. Trên đây là ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng. Để tạo hành lang pháp lý về vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm rà soát lại tất cả các quy định hiện hành về quản lý vàng để trình Chính phủ ban hành thành một Nghị định quản lý đối với vàng theo hướng Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với loại hàng hóa đặc biệt này.  Tiềm ẩn rủi ro của sàn vàng đã bắt đầu hiển hiện, đòi hỏi cần tăng cường sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh này. Bởi các hoạt động kinh doanh liên quan đến vàng đều có ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tiền tệ và bảo đảm ổn định kinh tế-xã hội.  Vì vậy, Thủ tướng yêu cầu không được tổ chức và thực hiện việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước dưới mọi hình thức. Chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày hôm nay, 30/12/2009, mọi hoạt động liên quan đến kinh doanh sàn giao dịch vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước phải chấm dứt hoạt động. Nghĩa là đối với những sàn vàng đang hoạt động thì công việc kinh doanh bắt buộc phải ngừng trước ngày 30/3/2010.  Thủ tướng cũng yêu cầu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bãi bỏ ngay quy định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài theo Quyết định số 3/2006/QĐ-NHNN ngày 18/1/2006.  Trước đó, Ngân hàng Nhà nước đã trình Chính phủ hai phương án xử lý sàn vàng: Chấm dứt hoạt động kinh doanh của các sàn vàng; hoặc tiếp tục cho phép kinh doanh vàng trên tài khoản trong nước một cách chặt chẽ trong đó mức dự kiến kỹ quỹ có thể lên đến 100%.  Ngày 22/12 vừa qua, Thường trực Chính phủ cũng đã có cuộc họp bàn về việc quản lý nhà nước đối với mọi loại hình sản xuất, kinh doanh vàng và quản lý hoạt động sàn giao dịch vàng.  Như vậy, với văn bản thông báo kết luận ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đối với việc quản lý hoạt động kinh doanh vàng, được ban hành hôm nay (30/12), sẽ là cơ sở pháp lý thống nhất xử lý vấn đề vốn thời gian qua đã khiến không chỉ giới chuyên môn, ngành tài chính ngân hàng mà người dân đặc biệt quan tâm, bàn thảo.  Cũng chính do thiếu khung pháp lý chặt chẽ, nhà cung cấp “sàn vàng” luôn trong tình trạng “vừa làm vừa lo”, còn nhà đầu tư thường bị thua thiệt khi có tranh chấp. Trong điều kiện như vậy, loại hình kinh doanh sàn vàng hiện nay là khá rủi ro cho giới đầu tư và cả hệ thống tài chính vì kinh doanh vàng tài khoản là một ngành đặc thù có liên quan đến cung cầu tiền tệ quốc gia. Việc chấm dứt việc kinh doanh sàn giao dịch vàng và kinh doanh vàng trên tài khoản đã và sẽ làm giảm lợi nhuận của các ngân hàng trong tương lai  Một số quy định mới có ảnh hưởng lớn như tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ,cấm hoạt động của các sàn vàng, sự ra đời các quy định nhằm đảm bảo an toàn hơn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Có ba mang hoạt động chính đem lại doanh thu cho các ngân hàng đó là hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư, cuối cùng là dịch vụ. => Thứ nhất, về dịch vụ: Nhiều ngân hàng có thu nhập dịch vụ từ hoạt động kinh doanh của các sàn vàng thì đã không còn nữa, vì tới hết tháng 3/2010, các sàn vàng đã bị đóng cửa. Thu dịch vụ từ hoạt động thanh toán trong nước không đáng kể, còn thanh toán quốc tế lại không tăng trưởng mạnh là bao, mang dịch vụ từ kinh doanh thẻ các ngân hàng thường bị lỗ nhiều hơn là có lãi. Nên thu dịch vụ của các ngân hàng năm 2010 sẽ không đáng kể. => Thứ hai, về thu từ hoạt động đầu tư: Một số ngân hàng, trong các năm trước còn có thể thu được lợi nhuận từ góp vốn mua cổ phẩn, hoặc đầu tư vào chứng khoán. Nhưng trong năm 2010, bất động sản và chứng khoán đều không khả quan, một số ngân hàng lại còn phải bán rẻ cổ phiếu để đảm bảo tỷ lệ CAR theo đúng quy định mới nên hoạt động đầu tư lại càng trở nên kém hơn và thậm chí thua lỗ. => Thứ ba, về thu từ hoạt động tín dụng: Năm 2010, nguồn thu tín dụng là nguồn thu chính của các ngân hàng. Tuy nhiên, với các quy định mới nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, cùng với quy định về trần huy động, trần cho vay, khiến cho nguồn thu này cũng bị hạn chế đáng kể. Đầu tiên phải kể tới thời hạn phải trích lập dự phòng chung bằng 0.75% trên tổng dư nợ tín dụng, năm nay là năm cuối cùng các ngân hàng phải thực hiện việc này theo quyết định 493, nhiều Ngân hàng trích lập không đầy đủ các năm trước hoặc chưa trích lập thì năm nay phải trích lập dự phòng với chi phí khá lớn. Tiếp theo là quy định về hệ số các tài sản rủi ro như chứng khoán và bất động sản tăng lên theo quy định mới sẽ làm cho các ngân hàng phải trích lập dự phòng riêng tăng lên. Thứ ba là quy định về tổng nguồn vốn cho vay chỉ bằng 80% vốn huy động, và quy định các ngân hàng không được phép dùng nguồn vốn liên ngân hàng để cho vay dài hạn cũng làm cho lãi suất cho vay bình quân của ngân hàng sẽ giảm xuống và ảnh hưởng tới lợi nhuận ngân hàng. Cuối cùng là việc các ngân hàng phải chuẩn bị cho việc tăng vốn và tìm kiếm các nguồn vốn, đối tác mới cũng có thể dẫn tới làm tăng thêm chi phí của ngân hàng. 6.ĐẠO ĐỨC:  Thiếu giám sát tài chính (cả từ phía chính phủ lẫn từ phía cổ đông) có thể làm nảy sinh rủi ro đạo đức ở các ngân hàng, đó là việc họ cho vay mạo hiểm quá mức. Niềm tin rằng chính phủ vì lợi ích của người gửi tiền sẽ cứu các ngân hàng khỏi bị đổ vỡ có thể làm nảy sinh rủi ro đạo đức ở các ngân hàng. Bản thân các ngân hàng lại có thể gặp phải những rủi ro đạo đức ở người đi vay khi ngân hàng không giám sát được đầy đủ người đi vay kích thích người này dùng khoản vay một cách mạo hiểm quá mức.  Hoạt động tín dụng của Ngân hàng luôn luôn tìm ẩn chứa đựng các rủi ro. Nhìn nhận nguyên nhân thì ai cũng đều biết. Một quy chế, một quy trình chưa chuẩn tắc, không thiết chế được tất cả các điều kiện phòng và chống thì tất yếu không thể loại trừ được tất cả các trường hợp rủi ro. Nếu một quy trình hợp lý, hiệu quả thì rủi ro phát sinh chỉ do yếu tố con người thực thi. Loại trừ các trường hợp bất khả kháng, khi nói về yếu tố con người sẽ có hai khả năng: (a) trình độ cán bộ nhân viên; (b) đạo đức nghề nghiệp. Như vậy giải quyết vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng đến đây sẽ là:  Thứ nhất, cần xóa bỏ ngay tư tưởng dễ dãi trong việc thẩm định đối với những khách hàng vay có Tài Sản Bảo Đảm của cán bộ Ngân hàng có liên quan. Cần phải hiểu, rủi ro là một tình huống xác xuất không mong muốn của cả hai bên, mà khi tình huống này sảy ra thì dẫn đến một kết cục tất yếu là mục tiêu cuối cùng trong giao kết hợp đồng tín dụng không đạt được như mong muốn và đương nhiên cả hai bên đều ít nhiều chịu thiệt hại. Như thế, chẳng có ngân hàng nào lại muốn thu được tiền từ hoạt ôộng cho vay bằng con đường bán Tài sản thế chấp của khách hàng vay, mà phải bằng con đường, phương án như đã thẩm định. Vì vậy, việc xem xét đánh giá nguồn trả nợ là cộng việc hết sức quan trọng trong công tác thẩm định của mỗi cán bộ ngân hàng có liên quan, chứ không phải khách hàng vay nào có TSĐB thì xem nhẹ công việc thẩm định. Hơn nữa, với những quy định của pháp luật hiện hành thì việc xử lý TSĐB để thu nợ là 01 việc không hề dễ dàng cho bất kỳ ngân hàng nào đang còn hoạt động tại Việt Nam. Đặc biệt TSĐB là Bất động sản, với Nghị định 163/2006 có hiệu lực ngày 27/1/2007 chưa có thông tư hướng dẫn thi hành thì Ngân hàng sẽ cầm chắc phần "Thật thà, thẳn thắn thì thường thất thế thua thiệt" nếu khách hàng vay không hợp tác.  Thứ hai, như ta đã biết đạo đức là một vấn đề tối quan trọng trong cuộc sống nói chung, và trong công tác tín dụng nói riêng. Một cán bộ tín dụng khi yếu về chuyên môn nghiệp vụ thì có thể được đào tạo thêm, nhưng nếu một cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà lại tha hóa về mặt đạo đức thì quả là một vấn đề hết sức nguy hiểm trong công tác tín dụng. Không riêng gì trong hoạt động tín dụng, ngày nay trong cuộc sống có một bộ phận không nhỏ sống bằng thủ đoạn chứ không phải bằng chính năng lực và kinh nghiệm của mình. Vì vậy thực hiện việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng để giảm thiểu rủi ro mới chỉ là điều kiện cần của những người lãnh đạo (ngay ở vị trí của cấp lãnh đạo cũng vướng phải vấn đề đạo đức, vấn đề giữa người chủ và người quản lý) và điều kiện đủ ở đây là giải quyết vấn đề đạo đức của cán bộ tín dụng. Nhưng đạo đức hình thành từ đâu? trong công việc có tạo nên đạo đức được biểu hiện thông qua các hành vi ứng xử của mỗi nhân viên? đạo đức có gắn liền với kế hoạch cuộc đời của mỗi nhân viên ví dụ như nhân viên A làm việc tại ngân hàng B với định hướng chỉ làm lấy kinh nghiệm thì rõ ràng ít nhiều các vấn đề đạo đức sẽ phát sinh).  Đến đây, rõ ràng đạo đức là một phạm trù rất rộng trong cuộc sống và như vậy trong hoạt động ngân hàng giải quyết vần đề đạo đức của mỗi cán bộ tín dụng không thể thoát ra khỏi ngoài phạm vi của những quy định, nội quy làm việc, và hơn bao giờ hết, nếu mỗi cán bộ tín dụng không tự mình nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với các công việc mình đang làm thì đương nhiên phải chịu trách nhiệm do hậu quả của mình gây ra. Về phía Ngân hàng, cần phải có cơ chế trách nhiệm quyền lợi rõ ràng và phải đảm bảo rằng nó được thực thi một cách nghiêm khắc. Những nhân viên có dấu hiệu làm trái hoặc đạo đức kém thì cần phải chấm dứt ngay công việc đang làm. Việc Ngân hàng không chịu "thay máu" vì những lí do khác, để loại bỏ những con sâu bệnh bị tha hóa, thì về lâu dài Ngân hàng gặp nguy cơ...là điều đương nhiên. Vì những viên gạch xấu không thể xây dựng nên được bức tường thành vững chắc. Hơn nữa, nếu ngân hàng không mạnh tay trong chuyện này, thì công việc của những cán bộ tín dụng này đem lại không phải là kết quả mà là hậu quả, hậu quả này được tích lũy dần theo năm tháng và tất yếu trở thành khôn lường.  Tóm lại, cần phải nhanh chóng phát hiện ra và chấm dứt ngay những hành vi vi phạm trong hoạt động tín dụng của các cán bộ ngân hàng có liên quan và đồng thời phải có những biện pháp kỷ luật thích đáng. Vì trên hết, tính kỷ luật là tối quan trọng trong hoạt động của một tập thể nói chung và trong hoạt động Ngân hàng nói riêng. Đây cũng là một cách trả lời cho 3 câu hỏi trên, góp phần giải quyết vấn đề đạo đức của mỗi cán bộ ngân hàng có liên quan. Dù biết rằng giải quyết vấn đề đạo đức nghề nghiệp là chuyện không hề dễ dàng nhưng không có nghĩa là không thể giải quyết III. CƠ HỘI , THÁCH THỨC, ĐIỂM MẠNH, ĐIỂM YẾU CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI(THỜI HỘI NHẬP TOÀN CẦU): 1.CƠ HỘI: (Opportunities) 1. Có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Từ đó, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. 2 .Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng VN, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong hệ thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với hội nhập quốc tế. 3. Hội nhập kinh tế quốc tế giúp các NHTM VN học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng trong nước sẽ phải nâng cao trình độ quản lý, cải thiện chất lượng dịch vụ để tăng cường độ tin cậy đối với khách hàng. 4 .Hội nhập quốc tế sẽ tạo động lực thúc đẩy cải cách ngành ngân hàng VN, thị trường tài chính sẽ phát triển nhanh hơn tạo điều kiện cho các ngân hàng phát triển các loại hình dịch vụ mới… 5. Hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng VN từng bước mở rộng hoạt động quốc tế, nâng cao vị thế của các NHTM VN trong các giao dịch tài chính quốc tế. 6. Mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống NHTM VN trong các giao dịch quốc tế. Từ đó, có điều kiện tiếp cận với các nhà đầu tư nước ngoài để hợp tác kinh doanh, tăng nguồn vốn cũng như doanh thu hoạt động. 7 .Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại VN buộc các NHTM VN phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở VN. 2.THÁCH THỨC: (Threats) 1. Do khả năng cạnh tranh thấp, việc mở cửa thị trường tài chính sẽ làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý làm cho áp lực cạnh tranh tăng dần. 2. Áp lực cải tiến công nghệ và kỹ thuật cho phù hợp để có thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. 3 Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và nhất quán, còn nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng. 4. Khả năng sinh lời của hầu hết các NHTM VN còn thấp hơn các ngân hàng trong khu vực, do đó hạn chế khả năng thiết lập các quỹ dự phòng rủi ro và quỹ tăng vốn tự có. 5. Trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng VN cũng chịu tác động mạnh của thị trường tài chính thế giới, nhất là về tỷ giá, lãi suất, dự trữ ngoại tệ, trong khi phải thực hiện đồng thời nhiều nghĩa vụ và cam kết quốc tế. 6. Các ngân hàng thương mại VN đầu tư quá nhiều vào doanh nghiệp nhà nước, trong khi phần lớn các doanh nghiệp này đều có thứ bậc xếp hạng tài chính thấp, và thuộc các ngành có khả năng cạnh tranh yếu. Đây là nguy cơ tiềm tàng rất lớn đối với các NHTM. 7. Hội nhập kinh tế, quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân hàng còn rất sơ khai, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. 8. Cấu trúc hệ thống Ngân hàng tuy phát triển mạnh mẽ về chiều rộng (cả ở khu vực quản lý lẫn khu vực kinh doanh) nhưng còn quá cồng kềnh, dàn trải, chưa dựa trên một mô hình tổ chức khoa học làm cho hiệu quả và chất lượng hoạt động còn ở mức kém xa so với khu vực. 9. Việc đào tạo và sử dụng cán bộ, nhân viên còn bất cập so với nhu cầu của nghiệp vụ mới, đặc biệt còn coi nhẹ hoạt động nghiên cứu chiến lược và khoa học ứng dụng làm cho khoảng cách tụt hậu về công nghệ ngân hàng của VN còn khá xa so với khu vực. Nền văn minh tiền tệ của nước ta do đó chưa thoát ra khỏi một nền kinh tế tiền mặt. 10. Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội tiếp cận và huy động nhiều nguồn vốn mới từ nước ngoài nhưng đồng thời cũng mang đến một thách thức không nhỏ cho các NHTM VN là làm như thế nào để huy động vốn hiệu quả. Vì khi đó, NHTM VN thua kém các Ngân hàng nước ngoài về nhiều mặt như công nghệ lạc hậu, chất lượng dịch vụ chưa cao… sẽ ngày càng khó thu hút khách hàng hơn trước. 11. Thách thức lớn nhất của hội nhập không đến từ bên ngoài mà đến từ chính những nhân tố bên trong của hệ thống ngân hàng VN. Vấn đề cần quan tâm hàng đầu là nguồn nhân lực và các cơ chế khuyến khích làm việc tại ngân hàng hiện nay. Chảy máu chất xám là vấn đề khó tránh khỏi khi mở cửa hội nhập. Các NHTM VN cần có các chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ hợp lý để lôi kéo và giữ chân các nhân viên giỏi. 3.ĐIỂM MẠNH: (Strengths) 1 Có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp. 2 Am hiểu về thị trường trong nước. 3 Đội ngũ khách hàng khá đông đảo. 4 Chiếm thị phần lớn về hoạt động tín dụng, huy động vốn và dịch vụ. 5 Đội ngũ nhân viên tận tụy, ham học hỏi và có khả năng tiếp cận nhanh các kiến thức, kỹ thuật hiện đại. 6 Có được sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt từ phía NH Trung ương. 7 Môi trường pháp lý thuận lợi. 8 Hầu hết đều đang thực hiện hiện đại hóa ngân hàng. 4.ĐIỂM YẾU: (Weaknesses) 1 .Năng lực quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế so với yêu, bộ máy quản lý cồng kềnh, không hiệu quả. 2 .Chính sách xây dựng thương hiệu còn kém. 3. Chất lượng nguồn nhân lực kém, chính sách tiền lương chưa thỏa đáng, dễ dẫn đến chảy máu chất xám. 4 .Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của phần lớn các NHTM VN đều thua kém các ngân hàng trong khu vực. 5 .Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng và chưa đáp ứng nhu cầu toàn diện của khách hàng. 6. Thiếu sự liên kết giữa các NHTM với nhau. 7. Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là tín dụng, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro. 8. Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ nhất quán. 9. Quy mô vốn hoạt động còn nhỏ nên chưa thực hiện được mục tiêu kinh doanh một cách hoàn chỉnh. 10. Việc thực hiện chương trình hiện đại hóa của các NHTM VN chưa đồng đều nên sự phối kết hợp trong việc phát triển các sản phẩm dịch vụ chưa thuận lợi, chưa tạo được nhiều tiện ích cho khách hàng như kết nối sử dụng thẻ giữa các ngân hàng. IV. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIÊN CHO CÁC NGÂN HÀNG TRONG THỜI GIAN TỚI Thông qua phân tích mô hình PESTLE, theo nhóm chúng tôi các các ngân hàng Việt Nam cần thực hiện các biện pháp sau: * Nhà nước: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng theo hướng hội nhập. Hai luật ngân hàng cần khẩn trương hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi hai Luật ngân hàng VN phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Trước mắt, NHNN cần phối hợp với các Bộ có liên quan như: Bộ tư pháp, Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ tài Chính, Công an,…ban hành những Thông tư liên bộ có liên quan đến vấn đề xử lý tài sản thế chấp, đặc biệt là các tài sản của DNNN để NHTM thu hồi nợ nhanh chóng và góp phần lành mạnh hóa năng lực tài chính của các NHTM trước thềm hội nhập, cũng như trước khi tiến hành cổ phần hóa NHTM NN. 1.Giải pháp đối với ngân hàng Nhà nước: - Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ theo hướng tự do hoá có sự điều tiết gián tiếp của Nhà nước thông qua lãi suất định hướng của ngân hàng Nhà nước (lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản). - Hoàn thiện cơ chế điều hành tỉ giá hối đoái theo hướng vừa linh hoạt trong ngắn hạn, vừa ổn định trong dài hạn, khuyến khích xuất khẩu, góp phần ổn định thị trường tiền tệ và đặc biệt là thị trường vốn. - Hoàn thiện hệ thống thị trường tiền tệ thứ cấp, đặc biệt là thị trường liên hàng về nội tệ và ngoại tệ. Phát triển các công cụ tài chính của thị trường này, đặc biệt là các công cụ, các giao dịch giúp hạn chế rủi ro về tỷ giá hối đoái Forward, Future, Option. - Xây dựng và phát triển thị trường mở, phát triển một số trung tâm giao dịch nghiệp vụ này, coi đây là một trong những công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ giúp ngân hàng Nhà nước điều tiết kịp thời và có hiệu quả lượng tiền cung ứng phù hợp với yêu cầu kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ. - Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, đồng thời xây dựng các biện pháp kiểm soát chu chuyển vốn quốc tế đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát nợ nước ngoài. Kiểm soát tiến tới xoá bỏ việc sử dụng ngoại tệ trong thanh toán nội địa, tiến tới trên lãnh thổ Việt Nam chỉ thanh toán và tiết kiệm bằng đồng Việt Nam. - Kiểm soát, hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng đôla hoá trên cơ sở nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam, đa dạng hoá các công cụ tài chính, các hình thức đầu tư, phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt kết hợp với các biện pháp quản lí ngoại tệ nói trên. - Xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức hệ thống NHNN:Hoàn thiện mô hình tổ chức hệ thống NHNN để phù hợp với vai trò độc lập tự chủ của NHNN, phân định lại chức năng nhiệm vụ của HĐTW với thống đốc NHNN, chức năng nhiệm vụ của các cục vụ nên được điều chỉnh lại bằng việc giảm bớt cách điều hành tập trung sự vụ chuyển qua việc đi sâu nghiên cứu, tư vấn về hoạch định các chính sách, cơ chế, tác nghiệp liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng, hối đoái gắn với tổ chức hoạt động các thị trường tài chính- tiền tệ- hối đoái. Các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố cần bố trí lại cơ sở hoạt động theo khu vực. Các cơ sở này có nhiệm vụ: quản lý tài khoản của các ngân hàng và tổ chức tài chính trên địa bàn; giao dịch thanh toán tiền mặt và không tiền mặt; giám sát thường xuyên việc tuân thủ nghĩa vụ dự trữ bắt buộc các tổ chức tín dụng trên địa bàn; thanh tra các TCTD ở khu vực. 2.Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại: - Khuyến khích dân mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng dưới nhiều hình thức như: tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có hạn chế số lần rút trong tháng, khống chế số dư tối thiểu được trả lãi, tiền gửi sổ tiết kiệm, tiền gửi tiết kiệm dùng cho mục đích cụ thể, tiền gửi với dịch vụ tự động chuyển thẳng vào tài khoản, tiền gửi có dịch vụ thanh toán hoá đơn tự động, tiền gửi có số dư nhất định được trả lãi theo lãi suất thị trường tiền tệ, phát hành kì phiếu gửi tiền với lãi suất cố định được trả lãi định kì. áp dụng các biện pháp kích thích gồm cấp séc miễn phí, sử dụng ATM, gửi tiền một nơi rút nhiều nơi, quay xổ số có thưởng... - Thu hút các doanh nghiệp mở và sử dụng tài khoản tiền gửi không kì hạn có các dịch vụ tiện ích như thanh toán trong hệ thống ngân hàng miễn phí, trang bị hệ thống nối mạng trực tiếp với ngân hàng để quản lí điều hành vốn chủ động, nhanh chóng, được vay với lãi suất ưu đãi, cấp séc thanh toán miễn phí, các dịch vụ chuyển tiền nhanh, thanh toán séc nhanh, tư vấn doanh nghiệp miễn phí về các dịch vụ và các biện pháp chống rủi ro, tư vấn nghiệp vụ tài sản có sinh lời cho doanh nghiệp... - - Trong quá trình hội nhập quốc tế, VN cần phải xây dựng một hệ thống ngân hàng có uy tín, có khả năng cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả, an toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu lực, đảm bảo sự bình đẳng an toàn cho mọi tổ chức hoạt động dịch vụ ngân hàng tài chính trên lãnh thổ VN. - Thực hiện quảng cáo bán sản phẩm, quảng cáo báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng nhằm xây dựng danh tiếng, hình ảnh của ngân hàng trong giới doanh nghiệp cũng như trong quảng đại quần chúng.Mở thêm giờ giao dịch hàng ngày đối với các quầy bán lẻ. - -Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ ngân hàng, thực hiện các dịch vụ ngân hàng điện tử nhằm phục vụ cho khách hàng 24/24, từ đó giảm được việc phát triển các chi nhánh tốn kém trong việc xây dựng trụ sở và lãng phí trong sử dụng lao động. -Đào tạo, nâng cao trình độ nhận thức và kỹ năng nghiệp vụ ngân hàng là yêu cầu thường xuyên. Các ngân hàng cần có trung tâm đào tạo được trang bị hiện đại. Chương trình đào tạo ở các ngân hàng phải thiết thực, cụ thể nhằm trau dồi, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên, đào tạo và đào tạo lại cán bộ thực hiện tốt nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới. - Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và phải xem đây là mục tiêu chiến lược để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu hút khách hàng trong nước. Đặc biệt là cơ chế thanh toán, phải nhanh chóng, an toàn, tiện lợi và có tính hệ thống, đồng bộ. Mạng lưới phủ khắp nơi, nhưng giữa các chi nhánh không liên lạc với nhau được thì vô nghĩa. Đầu tư vào công nghệ hiện đại có thể làm tăng chi phí ban đầu, nhưng sẽ giảm chi phí nghiệp vụ trong dài hạn, thu hút nhiều khách hàng, quản trị được rủi ro do thông tin nhanh chóng, công tác điều hành hiệu quả, đặc biệt là ngân hàng sẽ huy động nhiều tiền gởi thanh toán (lãi suất thấp) do thanh toán dễ dàng, tiện lợi và mở rộng kênh phân phối. =>Để ngành ngân hàng thực sự đứng vững trong môi trường cạnh tranh của việc toàn cầu hoá trong những năm tới, thì các giải pháp trên cần phải thực hiện một cách đồng bộ. V.KẾT LUẬN: Dưới sự tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, ngành ngân hàng Việt Nam trong những năm qua đã thực sự có những bước chuyển mình to lớn trong tất cả các lĩnh vực: bổ sung sửa đổi các văn bản chính sách pháp luật nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng, tiến hành quá trình tái cơ cấu một cách triệt để, quá trình cải cách toàn diện hệ thống Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại trong nước... Tất cả nhằm tạo một môi trường thuận lợi nhất cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời gian sắp tới, ngành ngân hàng gặp không ít khó khăn, thách thức, đồng thời cũng tạo nhiều thời cơ cho các ngân hàng Việt Nam đứng vững trong hội nhập quốc tế - xu hướng tất yếu của thời đại. Do đó, để tồn tại, phát triển trong cạnh tranh đòi hỏi các ngành ngân hàng phải chủ động đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý, hiện đại hoá hệ thống thanh toán, nhanh chóng tiếp cận và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới nhằm nâng cao hiệu quả và đứng vững trong cạnh tranh. V.LỜI KẾT: Phạm vi nghiên cứu của nhóm bao gồm các vấn đề liên quan đến lý luận về xu hướng toàn cầu hoá , những tác động của môi trường đến ngành ngân hàng... Đây là một vấn đề lớn và phức tạp, nhưng do thời gian nghiên cứu có hạn cũng như năng lực của bản thân của các thành viên trong nhóm còn hạn chế cho nên bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, nhóm rất mong nhận được sự chỉ bảo, ý kiến của các thầy để hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu của nhóm DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: - Báo cáo tổng kết của NHNN VN và NHNN chi nhánh TP.HCM -Nghị quyết của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế số 07-NQ/TW. -Quyết định của Thống đốc NHNN số 300/QĐ- NH5. -Nghị định số 63/1998/NĐ-CP và thông tư 01/1999/TT- NHNN7. -Nghị định số 178/ 1999/NĐ - CP. -Quyết định số 283 /2000/QĐ - NHNN14. -Nghị định số 13/1999/NĐ- CP và thông tư số 08/2000/TT- NHNN5. -Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ. -Tạp chí nghiên cứu kinh tế. - Tạp chí Nhà nước và pháp luật . -Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng. -Tạp chí kinh tế và thương mại. -Thời báo ngân hàng. - Website Ngân hàng Nhà nước VN - www.sbv.gov.vn - Bảng tổng hợp các câu hỏi phỏng vấn các cán bộ công chức, các chuyên gia tài chính-ngân hàng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTH037.pdf
Tài liệu liên quan