Đề tài Đánh giá hiệu quả của chính sách tài khóa trong việc kiềm chế lạm phát

Đặt vấn đề Trong những năm gần đây tỷ lệ lạm phát có xu hướng tăng cao đã có những tác động tiêu cực tới nền kinh tế và đã đạt ra những thách thức cho điều hành kinh tế vĩ mô nhằm kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Trong đó Chính sách tài khóa (CSTK) là một trong những công cụ quan trọng và giữ vai trò quyết định trong việc quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ. Các chính sách điều hành của Chính phủ đã có những tác dụng nhất định trong việc kiềm chế lạm phát, tuy nhiên hiệu quả của Chính sách tài khóa còn chưa thể hiện rõ nét. Đặc biệt hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO nên tình hình kinh tế trong nước ngày càng chịu nhiều tác động của tình hình kinh tế chính trị thế giớivà việc thực hiện các cam kết WTO. Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng đã có rất nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân của lạm phát trong đó có có nguyên nhân từ chính sách tài khóa đặc biệt là vấn đề chi tiêu công không hiệu quả. Để có cách nhìn khách quan về hiệu quả của CSTK, Nhóm thuyết trình chọn đề tài “Đánh giá hiệu quả của chính sách tài khóa trong việc kiềm chế lạm phát” nhằm đánh giá thực trạng về các nguyên nhân, tác động của lạm phát và những tác động của chính sách tài khóa có ảnh hưởng như thế nào tới lạm phát cũng như hiệu quả của CSTK trong việc kiềm chế lạm phát. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Có nhiều quan điểm khác nhau về chính sách tài khóa (CSTK) nhưng những quan điểm này đều có điểm chung là: nội dung chủ yếu của CSTK là những chủ trương, quan điểm và phương thức quản lý thu - chi NSNN của Chính phủ nhằm tác động tới nền kinh tế. Do đó đề tài của nhóm chủ yếu tập trung vào vấn đề thu – chi NSNN (tập trung vào thu từ thuế và chi tiêu công); vấn đề thâm hụt NSNN, các nguồn bù đắp thâm hụt NSNN có tác động như thế nào tới mức độ lạm phát của nền kinh tế, qua đó đánh giá hiệu quả của CSTK trong việc kiềm chế lạm phát và kiến nghị một số giải pháp. Do hạn chế về mặt thời gian, trình độ lý luận và tài liệu tham khảo nên đề tài không thể tránh khỏi sai sót, kính mong Thầy và lớp cho ý kiến bổ sung để bài luận được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1984 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả của chính sách tài khóa trong việc kiềm chế lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát. + Ngoài các lý thuyết trên còn tồn tại nhiều quan điểm khác lý giải về nguyên nhân của lạm phát như lạm phát do xuất nhập khẩu,… - Nguyên nhân chủ quan: bắt nguồn từ chính sách vĩ mô (chính sách tài chính và chính sách tiền tệ) không hiệu quả. Hoặc do nhà nước chủ động sử dụng lạm phát như một công cụ kích thích tăng trưởng kinh tế… - Nguyên nhân khách quan: thiên tai, chiến tranh, ảnh hưởng từ thị trường thế giới,… 1.3 Tác động của lạm phát Lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế – xã hội tuỳ theo mức độ của nó: + Tác động tích cực: Nếu duy trì được một tỷ lệ lạm phát vừa phải thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, bên cạnh những tác hại không đáng kể. + Tác động tiêu cực: lạm phát cao thường gây những tác hại đến kinh tế và đời sống xã hội (phân phối thu nhập, tăng trưởng kinh tế- công ăn việc làm, tác động khác, cơ cấu kinh tế) + Ngoài ra tác động của lạm phát còn tuỳ thuộc vào lạm phát có dự đoán trước được hay không. 2. Chính sách tài khóa 2.1 Khái niệm Định nghĩa 1: Chính sách tài khóa (CSTK) được hiểu là chính sách của chính phủ trong việc quản lý ngân sách nhà nước (NSNN), nhất là những vấn đề có liên quan tới chính sách thuế và vay nợ của chính phủ (theo định nghĩa của Wordnet Dictionary). Chính sách tài khóa thể hiện hành vi của chính phủ trong việc huy động nguồn tài chính/tiền (thu ngân sách) để tài trợ cho các khoản chi thường xuyên và đầu tư từ ngân sách (chi ngân sách) theo qui định của pháp luật. Định nghĩa 2: Chính sách tài khóa là các chính sách của Chính phủ nhằm tác động lên định hướng phát triển của nền kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu chính phủ và thuế khóa. Định nghĩa 3: CSTK là tổng hợp các quan điểm, cơ chế và phương thức huy động các nguồn hình thành NSNN, các quỹ tài chính có tính chất tập trung của Nhà nước nhằm mục tiêu phục vụ các khoản chi lớn của NSNN theo kế hoạch từng năm tài chính gồm: chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, bổ sung quỹ dự trữ quốc gia, trả nợ trong và ngoài nước đến hạn.(TS. Lê Quang Cường) Mặc dù có sự khác nhau giữa các nước về cách phân loại, phân tổ, tên gọi, song tựu trung lại, CSTK tập trung vào các khoản mục chính trong thu NSNN, thường bao gồm các khoản thu về thuế và phí; các khoản chi ngân sách thường bao gồm hai khoản mục chính là chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. 2.2 Nội dung của chính sách tài khóa + Khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp, tổng cầu ở mức rất thấp. Lúc này để mở rộng tổng cầu, Chính phủ phải tăng thêm chi tiêu hoặc giảm thuế nhằm gia tăng tổng cầu của nền kinh tế dẫn đến làm tăng sản lượng, việc làm, giảm thất nghiệp, song đổi lại nền kinh tế chấp nhận một mức lạm phát cao. + Ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng quá mức, lạm phát tăng cao, Chính phủ có thể giảm chi tiêu và tăng thuế, kích thích làm giảm tổng cầu của nền kinh tế, làm giảm sản lượng, giảm việc làm, tăng thất nghiệp nhưng đổi lại lạm phát giảm xuống. Với một cơ chế tác động đơn giản như vậy, chính sách tài khoá có thể coi là phương thuốc hữu hiệu để ổn định nền kinh tế. Tuy nhiên, chính sách tài khoá không có đủ sức mạnh đến như vậy, đặc biệt trong nền kinh tế hiện đại. Bởi vì hệ thống tài chính hiện đại có những nhân tố ổn định tự động; hó tính toán một cách chính xác liều lượng tăng, giảm chi tiêu và thuế một cách chính xác; độ trễ của CSTK trải qua một thời gian mới phát huy tác dụng do vậy chính sách tài khoá chỉ có tác dụng khi mức sản lượng đạt ở mức sản lượng tiềm năng; thâm hụt ngân sách nhà nước lớn sẽ gây ra lạm phát. 2.3 Công cụ của chính sách tài khoá 2.3.1 Chi tiêu công Dù còn tồn tại sự khác biệt về thể chế chính trị ở các quốc gia trên thế giới, trong thực tế luôn có hai lĩnh vực mà chi tiêu công hướng đến. Khu vực thứ nhất là chi tiêu công phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế. Chúng bao gồm nhiều khoản mục khác nhau và tất cả chúng đều có liên quan trực tiếp đến việc thiết lập một nền tảng tốt hơn cho phát triển kinh tế. Loại chi tiêu công này được mong đợi là góp phần nâng cao sản lượng của nền kinh tế. Bên cạnh các khoản chi vào đầu tư và phát triển, lĩnh vực thứ hai mà chi tiêu công hướng đến là khoản chi nhằm mục đích cải thiện và nâng cao đời sống của người dân trong nền kinh tế. Loại chi tiêu này được xem là chi tiêu dùng mặc dù nó cũng đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế thông qua việc nâng cao năng suất của của lực lượng lao động trong xã hội. 2.3.2 Hệ thống thuế Hiện nay có rất nhiều các quan điểm khác nhau về thuế nhưng điểm chung nhất đó là những khoản thu bằng tiền, có tính chất xác định không hoàn trả trực tiếp cho các chủ thể nộp thuế (công dân, doanh nghiệp) đóng góp cho nhà nước thông qua con đường quyền lực (nghĩa vụ nộp thuế) nhằm bù đắp những chi phí của nhà nước. Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, là công cụ quan trọng để phân phối lại thu nhập, góp phần tích cực giảm bội chi NSNN, giảm lạm phát góp phần ổn định trật tự xã hội. Thuế là công cụ quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô: khuyến khích hoặc kìm hãm hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế theo từng mục tiêu chung của Đất nước; thúc đẩy tăng cường đầu tư vốn và lành mạnh hóa thị trường. Thuế góp phần đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế (công bằng-thuế suất). Một hệ thống thuế muốn có hiệu quả phải đảm bảo tính công bằng, thuận tiện, ổn định, tính kinh tế, năng suất và hiệu quả kinh tế - xã hội. Hệ thống thuế hiện hành bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau tác động lên tất cả các hoạt động kinh tế, các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, Chính phủ hoàn toàn có thể sử dụng công cụ thuế để điều tiết hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư, phát triển các hoạt động sản xuất có lợi cho quốc kế dân sinh, thực hiện điều tiết, hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng, thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bảo hộ và khuyến khích phát triển sản xuất trong nước và tạo điều kiện hàng hóa trong nước cạnh tranh trên thị trường Thế giới. Bên cạnh đó cần phải thực hiện tốt công tác quản lý thuế để đảm tăng nguồn thu đáp ứng chi thường xuyên và đáp ứng cân đối NSNN. 3. Mục tiêu của chính sách tài khóa Mục tiêu của CSTK sẽ được thiết lập dựa trên mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đất nước nhằm ổn định nền kinh tế bằng những thay đổi về mức độ và thành phần của thuế và chi tiêu của chính phủ qua đó tác động đến các biến số sau trong nền kinh tế: tổng cầu và mức độ hoạt động kinh tế, kiểu phân bổ nguồn lực, phân phối thu nhập. 4. Yêu cầu của chính sách tài khóa + Thiết lập, tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể: kế hoạch thu chi NSNN, kế hoạch này dựa trên các cân đối kinh tế vĩ mô, trên cơ sở tăng trưởng kinh tế và các quy định của pháp luật. Tổ chức khai thác hiệu quả nguồn thu và công tác hành thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Phân bổ và sử dụng nguốn lực tài chính hiệu quả: yêu cầu chi NSNN phải được thiết lập một cách độc lập và trước khi ra quyết định chi tiêu từng phần (khoản mục chi tiêu). + Phân cấp quản lý NSNN để đảm bảo cân đối trong hệ thống NSNN: Phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách; các khoản chuyển giao giữa chính quyền nhà nước trung ương và chính quyền nhà nước địa phương; vay nợ của chính quyền địa phương. + Bội chi NSNN: Tùy thuộc vào mục đích chính trị, kinh tế mà có những quan điềm khác nhau trong việc xác định mục tiêu của CSTK. Các biện pháp để xử lý bội chi: tăng thuế, cắt giảm chi tiêu, phát hành tiền, vay nợ (trong nước và nước ngoài) và quản lý nợ công. 5. Tiêu chí đánh giá hiệu quả của CSTK Các tiêu chí đánh giá CSTK phải được xây dựng dựa trên các chỉ tiêu tổng thể của kinh tế vĩ mô: quy mô GDP; tỷ suất thu/GDP; sự gia tăng chi tiêu hằng năm/GDP; tỷ lệ nợ trên GDP; tỷ lệ tiết kiệm trên GDP; mức độ thâm hụt của cán cân thanh toán… Theo đó, hiện nay có một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của CSTK (các tiêu chí này có thể có sự khác nhau ở từng quốc gia, khu vực) cụ thể như sau: + Các tiêu chí về kinh tế vĩ mô như: tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, cán cân thanh toán, cân đối NSNN, … + Đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch thu – chi theo dự toán (đảm bảo tuân thủ kỷ luật tài chính tổng thể): - Các quốc gia đều thống nhất ở một điểm là việc tăng tốc độ thu NSNN từ thuế không thể vượt quá cao so với tỷ lệ tăng trưởng GDP mà giữa chúng phải có một giới hạn dừng nào đó (khác nhau ở từng quốc gia). Nếu tốc độ tăng thu vượt quá giới hạn này thì sẽ xảy ra hiện tượng tận thu và nguồn thu NSNN từ thuế trong các năm sau sẽ giảm. - Mức bội chi có nằm trong phạm vi kiểm soát hay không; nguồn bù đắp bội chi và tính hiệu quả của chi tiêu công. Xác lập tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP , theo thông lệ là nhỏ hơn 5% và tỷ lệ số bội chi ngân sách lũy kế so với GDP (thực chất là tỷ lệ nợ vay so với GDP vì thâm hụt được bù đắp chủ yếu bằng vay nợ). Theo Hiệp ước Masstricht, các quốc gia thành viên được phép bội chi NSNN không quá 3% GDP. + Hiệu suất sử dụng vốn đầu tư, hệ số ICOR so sánh trong khu vực và so sánh với những nước có trình độ phát triển tương đồng (thông thường, chỉ số ICOR của các nước là 2 – 3). + Vấn đề vay nợ để bù đắp thâm hụt: Khả năng hấp thụ vốn vay và khả năng hoàn trả, theo kinh nghiệm quốc tế nợ nước ngoài/ GDP nhỏ hơn 50%, tổng mức trả nợ/kim ngạch xuất khẩu hàng năm nhỏ hơn 20%, (tỷ lệ trả nợ), khả năng trả nợ nước ngoài nhỏ hơn 150% (tổng nợ nước ngoài/tổng kim kim ngạch xuất khẩu hàng năm); tỷ lệ nợ không quá 60% GDP đối với các nước thành viên EU; theo chuẩn an toàn của WB là không quá 40% GDP. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA TRONG VIỆC KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TRONG THỜI GIAN QUA (2007-2008) 1. Thực trạng tình hình lạm phát của Việt Nam trong thời gian vừa qua 1.1 Lạm phát năm 2007 và 2008: Biểu hiện: Chỉ số CPI qua các tháng của năm 2008 Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 % so tháng trước 2,38 3,56 2,99 2,2 3,91 2,14 1,13 1,56 0,18  -0,19 % so với năm 2007 2,38 6,02 9,19 11,6 15,96 18,44 19,78 21,65 21,87 21,43 Giá tiêu dùng qua các tháng trong năm 2007 và 2008 tính từ năm 1992. Tốc độ tăng giá tiêu dùng năm 2007 là 12,63% cao gấp rưỡi tốc độ tăng GDP 8,48%, tốc độ tăng CPI tính tới tháng 10/2008 là 21,43% cao gấp ba lần so với tốc độ tăng GDP (tốc độ tăng GDP 9 tháng/2008 là 6,52). 1.2 Nguyên nhân Dựa vào tình hình thực tiễn của Việt Nam những năm gần đây, lạm phát có thể do những nhóm nguyên nhân chính sau đây: Thứ nhất, nguồn vốn nước ngoài vào ồ ạt và Ngân hàng Nhà nước đã bỏ tiền ra mua USD vào với số lượng lớn trong một thời gian ngắn Trong năm 2007 Nhà nước bỏ tiền ra mua 9 tỉ USD (tương đương với 145 ngàn tỉ đồng) để tăng dự trữ ngoại hối. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều đã gây sức ép tăng giá đồng Việt Nam, đồng thời góp phần làm tăng tổng phương tiện thanh toán đã tạo sức ép tăng giá. Thứ hai, tín dụng tăng lên nhanh do yêu cầu sản xuất, kinh doanh Tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn. Tốc độ tăng cung tiền tại Việt Nam từ năm 2003 đến nay liên tục duy trì trên dưới 25% mỗi năm và tín dụng nội địa cũng tăng trên 35%, năm 2007 tăng 53%. Thế nhưng tốc độ tăng trưởng của Việt Nam lại chỉ tăng từ 7-8% trong khi đầu tư hàng năm của nền kinh tế chiếm tới 35% GDP. Sự mất cân đối giữa tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng trưởng GDP lớn làm cho lạm phát gia tăng vào những năm gần đây. Thứ ba, hiệu quả đầu tư của ta không cao dẫn tới hệ số hiệu quả (ICOR) cao, gấp đôi các nước khu vực Hệ số ICOR là mức gia tăng vốn đầu tư để đạt một đơn vị gia tăng tăng trưởng được dùng để đo năng suất của đồng vốn. Hệ số ICOR càng cao thì hiệu suất sử dụng vốn càng thấp. Hiện tại, hệ số ICOR của Việt Nam ta rất cao và ngày càng tăng chứng tỏ vốn đầu tư chưa được sử dụng tốt. Thứ tư, tài khóa bội chi (thâm hụt NSNN hàng năm khoảng gần 5%) Tổng chi tiêu của Nhà nước trong năm 2006 là 321 nghìn tỷ đồng, tăng 221,8 nghìn tỷ đồng (hay 45%) so với năm 2004. Như vậy, tốc độ tăng chi tiêu hàng năm của Nhà nước trong giai đoạn 2004-2006 là 20,3% năm (tương đương với tốc độ tăng truởng bán lẻ). Cũng trong giai đoạn trên, thu ngân sách tăng chủ yếu không phải từ nguồn thu nội địa mà là từ dầu mỏ, nợ và viện trợ nước ngoài. Thu nội địa trong năm 2004 chỉ đạt 119 nghìn tỷ, và trong năm 2006 là 190 nghìn tỷ, chỉ tăng 71 nghìn tỷ. Trong khi đó chỉ tiêu của nhà nước tăng 131 nghìn tỷ, từ 190 lên tới 321 nghìn tỷ, tức là gần gấp đôi mức tăng thu nội địa. Nhưng nếu các khoản chi tiêu này lại không được sử dụng một cách hiệu quả, chỉ đóng góp nhỏ cho sản lượng (tức là không làm cho tổng cung tăng một cách tương ứng) thì tất yếu sẽ dẫn tới lạm phát. Thứ năm, nguyên nhân chi phí đẩy: trong hai năm 2007 và 2008 giá nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm, giá dầu thế giới tăng cao đã làm cho mặt bằng giá những mặt hàng này trong nước tăng cao. Bên cạnh đó Việt Nam vẫn là một nước nhập khẩu, cùng với chính sách “neo” tỷ giá khiến cho lạm phát tại Việt Nam tăng. 1.2. Tác động của lạm phát 1.2.1. Đối với đời sống cư dân Lạm phát gây ra khó khăn cho người có thu nhập thấp nhiều hơn là cho người có thu nhập cao, vô hình chung đã đào sâu thêm sự cách biệt. Điều mà người dân trông chờ là tăng lương, nhưng tăng lương thì tính bằng năm mà giá cả thì leo thang từng ngày. Đặc biệt là đối với đa số dân cư đang sống ở nông thôn, họ không có gì bù đắp lại cả. Một báo cáo công bố ngày 22-8 của UNDP cho thấy người nghèo Việt Nam hưởng an sinh xã hội thấp nhất. Điều này càng chứng tỏ rằng ảnh hưởng của lạm phát lên những người nghèo ở Việt Nam là rất lớn. 1.2.2. Đối với các doanh nghiệp Do lạm phát cao nên các doanh nghiệp phải chịu thêm những chi phí phát sinh như: Bóp méo thước đo giá trị, dẫn đến doanh nghiệp khó so sánh doanh thu thực, chi phí thực, lợi nhuận thực và tiền lãi thực theo thời gian; chi phí sản xuất kinh doanh tăng; thay đổi giá tương đối và tạo ra nhầm lẫn trong phân bổ nguồn lực. 1.2.3. Đối với nền kinh tế nói chung - Do lạm phát nên không phản ánh giá trị thực, làm cho phân phối nguồn lực đã bị lệch và tác động đến đời sống, thị trường không còn khả năng phân bổ nguồn lực theo cách tốt nhất. Do tác động của các loại chi phí đặc trưng phát sinh trong điều kiện lạm phát tăng cao như chi phí mòn giày là chi phí rút tiền, bán tài sản,… khi đó tiết kiệm sẽ không đủ để đầu tư cho nền kinh tế vốn đã mất cung cầu về tiền – hàng càng làm cho nền kinh tế rối loạn hơn. Cùng điều kiện và hoàn cảnh, các nước trong khu vực có mức lạm phát thấp hơn Việt Nam. Nếu môi trường VN vẫn bất ổn, lòng tin của nhà đầu tư sẽ giảm đi, ảnh hưởng đến cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư bỏ đi cũng sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn. Lạm phát dẫn đến những bất ổn vĩ mô đã làm giảm đáng kể mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam. 1.3 Giải pháp về tài chính – tiền tệ đã thực hiện Thứ nhất, chính sách thắt chặt tiền tệ: hạn chế lượng tiền trong lưu thông, hạn chế cung tín dụng (tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu tái cấp vốn, phát hành tín phiếu bắt buộc... nới lỏng biên độ tỷ giá -NHNN đã nới lỏng biên độ tỷ giá 0,25% lên 3% trong hai năm 2007-2008) Thứ hai, cắt giảm chi tiêu hoặc dừng đầu tư vào các dự án không có hiệu quả mà các DNNN đang đầu tư; đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ thực hiện thanh kiểm tra tình hình hoạt động và sử dụng vốn của nhà nước của tất cả các doanh nghiệp có sử dụng vốn nhà nước, nhất là trong đầu tư hàng hóa công, cơ sở hạ tầng; thực hiện các giải pháp kiểm soát tình trạng thất thoát, lãng phí và tham nhũng. Giám sát chặt chẽ nguồn vốn vay của các tập đoàn kinh tế nhà nước, tránh tình trạng các tập đoàn này liên kết với nhau tham gia quá mức vào các lĩnh vực tài chính ngân hàng, chứng khoán, kinh doanh bất động sản, là những lĩnh vực đầy rủi ro. 2. Thực trạng CSTK trong thời gian qua 2.1 Thực trạng thu NSNN 2.1.1 Thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước năm 2007 Dự toán thu NSNN Quốc hội quyết định 281.900 tỷ đồng; phấn đấu cả năm ước đạt 287.900 tỷ đồng, vượt 2,1% (6.000 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 11,6% so với thực hiện năm 2006. Trong đó, thu nội địa cả năm đạt 159.500 tỷ đồng, vượt 5,1% (7.700 tỷ đồng) so dự toán; thu từ dầu thô ước đạt 68.500 tỷ đồng, bằng 95,5% dự toán (giảm 3.200 tỷ đồng); thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu dự toán 55.400 tỷ đồng, trên cơ sở dự toán thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 69.900 tỷ đồng; thu viện trợ không hoàn lại cả năm đạt 3.400 tỷ đồng, tăng 13,3% (400 tỷ đồng) so dự toán. Hoàn thành vượt mức dự toán thu ngân sách Quốc hội đã quyết định (vượt 2,1%), đạt tỷ lệ động viên so GDP là 25,2%, riêng thuế và phí là 23,4% GDP (nếu loại trừ yếu tố tăng giá dầu thô thì đạt 22,4% và 20,6% so GDP). Cơ cấu thu NSNN tiếp tục được cải thiện, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu cân đối NSNN tăng từ 52,1% năm 2006 lên 55,4% năm 2007 (bình quân giai đoạn 2001-2005 là 52,4%). 2.1.2 Dự toán thu NSNN năm 2008 Dự toán thu NSNN Quốc hội quyết định 323.000 tỷ đồng, cụ thể như sau: Thu nội địa: 189.300 tỷ đồng, trong đó kinh tế quốc doanh: 63.159, kinh tế ngoài quốc doanh 38.347, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 40.099, các khoản thu liên quan đến nhà, đất 21.974; thu từ dầu thô: 65.600; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu: 64.500; thu viện trợ không hoàn lại: 3.600 - Kết quả thu thuế và phí giai đoạn từ 1990-2007 Năm Thuế và phí (tỷ đồng) Tốc độ tăng (%) % thuế và phí/GDP % thuế và phí/thu NSNN 1991 9.844 160 12,8 92,8 1993 28.550 154 20,4 88,7 1994 36.740 129 20,6 88,7 1995 47.267 129 20,7 88,6 1996 58.943 125 21,7 96 1999 75.357 11,1 17,8 96 2000 87.883 11,7 19,9 96,8 2001 95.000 10,8 21,3 94,5 2002 102.530 10,9 21,5 92 2003 120.900 21 94 2006 145.520 21,5 94 2007 23,4 Theo số liệu thống kê, số thu thuế TNDN (không kể thu thuế TNDN từ dầu khí) vẫn tiếp tục tăng qua các năm: năm 2003 thu 21.147 tỷ đồng; năm 2004 thu 24.201 tỷ đồng; năm 2005 thu 28.729 tỷ đồng; năm 2006 thu 33.663 tỷ đồng; năm 2007 thu 39.469 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân hàng năm gần 17% (tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế). Số liệu chi tiết như sau : Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 I/ Tổng thu NSNN (nội địa) 115.459 153.139 181.359 228.750 251.278 II/ Thuế TNDN 36.305 42.798 60.153 75.256 72.360 1/ DNNN 13.445 13.578 15.817 18.162 17.582 2/ Ngoài QD 4.120 5.277 6.633 8.500 11.476 3/ DN có vốn đầu tư NN 3.582 4.685 5.675 7.311 8.872 4/ Dầu khí 15.158 19.258 32.028 41.283 34.430 III/Thuế TNDN không kể dầu thô 21.147 23.540 28.125 33.973 37.930 Tốc độ tăng so năm trước (%) 19,9% 11,3% 19,4% 20,7% 11,6% 2.2 Thực trạng chi tiêu công 2.2.1 Thực trạng chi tiêu công trong năm 2007 + Đầu tư công của Việt Nam hiện nay có ba nhóm chính là (1) tiền ngân sách, chiếm khoảng 50% tổng đầu tư toàn xã hội, (2) tín dụng nhà nước chiếm hơn 9% và (3) tiền đầu tư của chính doanh nghiệp. Có thể nói, đầu tư công chủ yếu là vốn Nhà nước rót cho các công trình lớn của nền kinh tế. - Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 2007 khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội lên đến 461.000 tỉ đồng, tức bằng 40% GDP, trong đó khu vực nhà nước chiếm hơn 200.000 tỉ đồng, phần còn lại là của khu vực ngoài nhà nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, trong khi khu vực Nhà nước thu một nguồn lực tài chính quá lớn của kinh tế, thì đa phần các công trình được thực hiện lại kém hiệu quả. - Một số liệu được công bố trước đây cho thấy, tỷ lệ thất thoát lãng phí trong đầu tư công khoảng 30% tổng vốn đầu tư. Nếu con số ấy chính xác thì số tiền thất thoát, lãng phí trong đầu tư công của năm 2007 đã lên đến 60.000 tỉ đồng. + Tổng chi tiêu của nhà nước trong năm 2006 là 321 nghìn tỷ đồng, tăng 221.8 nghìn tỷ đồng (hay 45%) so với năm 2004. Như vậy, tốc độ tăng chi tiêu hàng năm của nhà nước trong giai đoạn 2004-2006 là 20,3% năm (tương đương với tốc độ tăng trưởng doanh số bán lẻ). Cũng trong giai đoạn này, thu ngân sách tăng chủ yếu không phải từ nguồn thu nội địa mà là từ dầu mỏ, nợ và viện trợ nước ngoài. Thu nội địa trong năm 2004 chỉ đạt 119 nghìn tỷ, và trong năm 2006 là 190 nghìn tỷ, tăng có 71 nghìn tỷ. Trong khi đó, chi tiêu của nhà nước tăng 131 nghìn tỷ, từ 190 lên tới 321 nghìn tỷ, tức là gần gấp đôi mức tăng thu nội địa. Khi chi tiêu của nhà nước tăng nhanh hơn nhiều so với các nguồn thu ngoài dầu mỏ (ngay cả khi nguồn thu tăng này đến từ dầu mỏ hay viện trợ) thì những khoản chi tiêu này sẽ làm tăng tổng cầu. Thế nhưng nếu các khoản chi tiêu này lại không được sử dụng một cách hiệu quả, chỉ đóng góp được chút đỉnh cho sản lượng (tức là không làm cho tổng cung tăng một cách tương ứng) thì tất yếu sẽ dẫn tới lạm phát. + Theo báo cáo quyết toán NSNN năm 2006, hầu hết các khỏan chi đều bằng và vượt dự tóan, chi sai phải thu hồi khoảng 2.000 tỷ đồng nhưng mới thu được chưa đến 50%. + Đầu tư quá mức (gần 40% GDP) và hệ số ICOR 4,4 (có nghĩa là Việt Nam hiện cần 4,4 đơn vị đầu tư để tạo ra một đơn vị tăng trưởng) là rất cao so với các nước khác trong khu vực ở những giai đoạn phát triển tương đương như Việt Nam bây giờ (hệ số ICOR trung bình của các nước trong khu vực là khoảng 3). Theo đánh giá của các chuyên gia, chỉ số ICOR càng cao thì sự thất thoát, lãng phí trong đầu tư cũng lớn tương ứng. Một khối lượng lớn tiền được đưa vào nền kinh tế thông qua các dự án đầu tư, nhưng các dự án này kém hiệu quả làm cho khối lượng hàng hoá, dịch vụ của nền kinh tế không tăng được tương ứng đã gây áp lực cho lạm phát gia tăng. Hiện nay, việc bù đắp thâm hụt ngân sách chủ yếu bằng nguồn vốn vay nợ (về nguyên tắc chỉ được dùng cho chi ĐTPT), tuy nhiên nguồn vốn này đã được đầu tư tràn lan, dàn trải (xây dựng cơ sở hạ tầng) kém hiệu quả kinh tế nên chưa tạo ra được các sản phẩm phục vụ cần thiết cho tăng trưởng kinh tế. Bảng so sánh ICOR với các nước Nước Giai đoạn Tăng trưởng GDP (%/năm) Tổng đầu tư (% của GDP/năm) ICOR Hàn Quôc 1961-80 7,9 23,3 3,0 Đài Loan 1961-80 9,7 26,2 2,7 Indonesia 1981-95 6,9 25,7 3,7 Malaysia 1981-95 7,2 32,9 4,6 Thái lan 1981-95 8,1 33,3 4,1 Trung Quốc 2001-06 9,7 38,8 4,0 Việt Nam 2001-06 7,6 33,5 4,4 Bảng: Chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên của NSNN 2001 2002 2003 2004 2005 BQ %tốc độ tăng chi thường xuyên 9.8 9.3 22.5 15.3 11.2 14.2 %tốc độ tăng chi ĐTPT 35.8 12.3 12.8 12.6 12.5 15.8 % chi ĐTPT/tổng chi 37 40.5 37 32 31.5 35.1 %chi ĐTPT/ GDP 8.3 8.4 8.4 8.8 8.2 7.54 Nguồn bộ tài chính và tự tính toán 2.2.2 Thâm hụt ngân sách Thâm hụt NSNN nước ta hiện nay là 5%GDP (bao gồm cả tiền trả nợ gốc và không bao gồm các khỏan chi ngoài dự toán). Nhưng theo ước tính của Ngân hàng Phát triển Châu Á thì thâm hụt của NS Việt Nam theo cách tính quốc tế không bao gồm tiền trả nợ gốc nhưng bao gồm các khỏan chi ngoài dự tóan lên tới 7%. Tỷ lệ bội chi 5% GDP hằng năm và nguồn vốn qua phát hành TP đầu tư để thực hiện các chương trình mục tiêu, chương trình đầu tư không được cân đối trong ngân sách hàng năm làm cho chi tiêu công tăng nhanh. Mức độ bội chi ngân sách tăng dần theo thời gian giai đoạn 1991-1995 tỷ lệ bội chi so với GDP bình quân là 2,85%; giai đoạn 1996-2000 là 3,87% GDP; giai đoạn 2000-2007 là 4,9-5% GDP. 2.2.3 Bù đắp thâm hụt ngân sách - Vay nợ trong nước: bằng cách phát hành trái phiếu …..(Luật NHNN và Luật ngân sách không cho phép in tiền trực tiếp để tài trợ bội chi ngân sách, 2002 cho phép TPCP giao dịch trên thị trường mở, mặc dù đây là trái phiếu dài hạn). - Vay nợ nước ngoài: Tổng dư nợ nước ngoài tính tới năm 2006 là 15.641,33 triệu USD, năm 2007 là 19.252,55 triệu USD trong đó nguồn vốn ODA chiếm 1/3 số thiếu hụt tương đương 1,5-1,7% so với GDP .Như vậy có thể thấy là nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách được tài trợ một phần bằng vay nợ nước ngoài (tỷ lệ nợ trong nước và nước ngoài là khoảng 80%/20%) và tác động mạnh tới lạm phát. - NHNN tạm ứng xử lý thiếu hụt tạm thời ngân sách, theo quy định những khoản vay này phải có bảo đảm và phải được hoàn trả trong năm ngân sách nhưng trong thực tế lại không được đảm bảo và không được hoàn trả trong năm đúng theo luật định cũng góp phần làm tăng lượng tiền trong lưu thông và gây áp lực tới lạm phát (trong 3 năm 2005-2007 lượng tiền trong lưu thông tăng tới 135%, trong khi GDP lũy kế chỉ tăng 27%). 2.2.4 Đánh giá hiệu qủa của chính sách tài khóa trong việc kiềm chế lạm phát Trong những năm qua, chính sách tài khoá đã đóng góp rất lớn vào công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhờ nhiều biện pháp tích cực như từng bước xoá bỏ bao cấp ngân sách, chấm dứt phát hành tiền cho bội chi ngân sách, cải cách hệ thống thuế, hệ thống quản lý ngân sách Nhà nước (NSNN), đổi mới cơ chế quản lý chi tiêu công… nên chính sách tài khoá (CSTK) đã có những bước tiến rất đáng khích lệ, đã mở rộng được nguồn thu, đảm bảo cho việc chi tiêu của Chính phủ; góp phần giảm lạm phát, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi, hấp dẫn, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao. Trong đó đáng chú ý là hệ thống thuế và quản lý chi tiêu công, cụ thể: a. Đánh giá chung về tình hình thu ngân sách a1. Những mặt được + Hệ thống chính sách thuế cho nền kinh tế thị trường đã được ban hành và đưa vào áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, tạo môi trường pháp lý công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các khu vực và thành phần kinh tế. + Việc ban hành các luật thuế Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật thuế giá trị gia tăng thay thể Luật thuế lợi tức và Luật thuế doanh thu; sửa đổi, bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và một số các chính sách thuế khác đã góp phần nâng cao nguồn thu từ thuế vào NSNN, đảm bảo thực hiện được các mục tiêu của CSTK, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trong giai đoạn mới. + Tổng thu NSNN trong giai đoạn 2005-2007 tăng trung bình trên 15,8% mỗi năm. Trong đó tỷ trọng thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng tăng nhanh (39% và 26% năm 2005); tỷ trọng thuế xuất nhập khẩu giảm còn 12% năm 2005 (phù hợp với chính sách khuyến khích xuất khẩu và lộ trình cắt giảm thuế quan) + Nguồn thu từ thuế, phí và lệ phí đã tăng dần qua các năm về số tuyết đối và tương đối (đặc biệt trong giai đoạn từ 1990-1996 tốc độ tăng thu thuế, phí rất lớn trên 100%/năm) và có mức độ đóng góp rất lớn vào NSNN; tỷ lệ động viên vào NSNN tính %/GDP tăng đều qua các năm; nguồn thu vào NSNN chủ yếu là nguồn thu từ thuế, phí và lệ phí. Điều này chứng tỏ công tác thu thuế ngày càng được hoàn thiện, gắn liền với những thay đổi về chính sách cải cách hệ thống thuế (công tác quản lý thuế, hành thu thuế) a2. Những tồn tại và nguyên nhân + Một là, phân tích kỹ kết quả khai thác nguồn thu cho thấy trong giai đoạn 2005-2007, tỷ trọng thu NSNN/GDP tăng là do giá xăng dầu tăng và thuế tiêu thụ xăng dầu; tỷ trọng thuế thu nhập doanh nghiệp tăng chủ yếu là nhờ sự đóng góp của các DNNN (70%), trong đó các doanh nghiệp xăng dầu chiếm tỷ trọng rất lớn trong khi đó giá xăng dầu phụ thuộc vào giá xăng dầu quốc tế là yếu tố mà chúng ta không thể chi phối được nên nguồn thu này không mang tính chất bền vững. + Hai là, cơ cấu kinh tế không đồng bộ làm cho việc thu thuế và đánh thuế có những khó khăn nhất định. Cơ cấu nguồn thu bị phụ thuốc quá nhiều vào thuế XNK (nguồn thu từ thuế và phí XNK có xu hướng giảm trong những năm gần đây nhưng vẫn chiếm khoảng trên 20% tổng thu NSNN và bằng khoảng 4% GDP, trong số đó khoảng 90% là thuế nhập khẩu). Điều này phản ánh nguồn thu ngân sách chưa vững chắc (theo ước tính tác động từ việc cắt giảm thuế suất theo cam kết WTO sẽ làm giảm 10% tổng số thu thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu.) + Ba là, hệ thống chính sách thuế hiện nay còn phức tạp và thiếu tính ổn định làm chi phí quản lý thu thuế lớn, ảnh hưởng tới hiệu quả thu thuế (thất thu thuế), tạo điều kiện cho việc trốn thuế và bóp méo hệ thống thuế. Hệ thống thuế vẫn còn phân biệt giữa các đối tượng nộp thuế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hệ thống thuế vẫn phức tạp chồng chéo, thuế nhập khẩu và hệ thống đa thuế suất dựa vào công dụng của hàng hóa đã tạo nhiều kẽ hở cho gian lận thương mại khai báo thuế tùy tiện. +Bốn là, hạn chế về khả năng quản lý: việc quản lý một số sắc thuế gặp khó khăn nhất là thuế thu nhập cá nhân, VAT, thuế tài sản (80% là nông dân, thu nhập thấp, định giá tài sản, thanh toán không dùng tiền mặt, kiểm tra giám sát yếu…). Chưa bao quát hết đối tượng chịu thuế, đối tương nộp thuế (khi xây dựng chính sách thuế chưa nhận thức hết phạm vi điều chỉnh của từng sắc thuế và chưa dự đoán được nguồn thu phát sinh trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường…) + Năm là, trình độ cán bộ và hệ thống thông tin yếu kém, nghèo nàn về cơ sở dữ liệu làm hạn chế hiệu quả công tác quản lý thuế. Năng lực quản lý yếu, đạo đức cán bộ, cơ sở hạ tầng, thông tin thống kê không chính xác…nên những nhà hoạch định chính sách thuế đánh giá đúng những tác động của việc thay đổi chính sách thuế đến nền kinh tế và nguồn thu ngân sách từ đó khó đo lường được những thay đổi về nguồn thu ngân sách sẽ dẫn đến rủi ro và khó khăn cho CSTK. b. Đối với chi tiêu công b1. Những mặt được Từ khi có luật NSNN chính sách chi tiêu công đã có nhiều biến chuyển tích cực. Kỷ luật tài khóa tổng thể được tôn trọng nhà nước đã đẩy mạnh chính sách xã hội hóa các khoản chi y tế, giáo dục… thực hành tiết kiệm và tăng cường kiểm soát chi. Những chính sách này không những góp phần làm giảm áp lực chi ngân sách mà còn góp phần cơ cấu lại chi ngân sách theo hướng xóa bỏ những khoản chi bao cấp cho xã hội để ngân sách tập trung vào những khoản chi cơ bản làm nền tảng phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh chủ trương xã hội hóa dịch vụ công, chính sách khoán chi đã được thí điểm và từng bước triển khai mở rộng. Tất cả đã mang lại những kết qủa nhất định trong việc tôn trọng kỷ luật tài khóa tổng thể phân bổ và sử dụng nguồn. + Đã xây dựng khuôn khổ pháp lý quản lý chi tiêu ngân sách: Sự ra đời của luật NSNN năm 1996 và qua các lần bổ sung, sửa đổi ở các năm 1998 và năm 2002 đã tạo ra khuôn một khổ pháp lý khá hoàn chỉnh trong việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước (quốc hội, chính phủ, hội đồng nhân dân các cấp, UBND các cấp, các đơn vị sử dụng Ngân sách) về quản lý chi NSNN: + Cải thiện tính minh bạch chi ngân sách: Tính minh bạch chi NSNN có tầm quan trọng trong việc giải trình trước công dân về việc phân bổ nguồn lực tài chính của nhà nước và giải trình về chất lượng chi tiêu NSNN tổng thể. Tính minh bạch chi NSNN cũng rất quan trọng đối với các nhà tài trợ, đối với Chính phủ cũng như các cơ quan của Chính phủ, tính minh bạch tài chính có tầm quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu ngân sách (Quyết định số 225/1998/QĐ-TTg ngày 20.11.1998, Quyết định 1581/1998/QĐ-BTC ngày 20.11.1998, Nghị định 90/1998/NĐ-CP). + Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực: Sau khi ban hành Luật NSNN năm 1996, Chính phủ đã quyết định ban hành hệ thống định mức chi tiêu ngân sách năm 1997 và các định mức thường xuyên sửa đổi. Dựa vào hệ thống định mức, chính quyền địa phương dự toán nhu cầu chi tiêu và phân bổ nguồn lực tài chính… phương pháp này là một yếu tố quan trọng trong việc xác định hiệu quả về phân bổ và hiệu quả về mặt kỹ thuật trong chi tiêu công. Xây dựng ngân sách theo chương trình thông qua hoạch định chương trình đầu tư công giai đoạn 1996-2000 đã tạo ra một khuôn khổ thiết lập chương trình chi tiêu công toàn diện, bao gồm chi đầu tư và chi thường xuyên, qua đó giúp cho Chính phủ kiểm soát tốt việc phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính trong dài hạn. Chính sách của Chính phủ ưu tiên chi đầu tư hơn là chi thường xuyên. Điều này được thể hiện khá rõ nét ở quan điểm đã nêu trong Nghị quyết do Quốc hội thông qua cho giai đoạn 1996-2000 là tốc độ tăng chi thường xuyên không được vượt quá tốc độ tăng chi đầu tư. Thực tế cũng cho thấy, trong giai đoạn 1996 –2000, Chính phủ vẫn duy trì tỷ trọng chi đầu tư trong tổng chi ngân sách ở mức 6% GDP. + Trong quản lý chi tiêu công đã đạt được những tiến bộ: Đã ban hành các tiêu chí thích hợp để xác định thứ tự ưu tiên. Phân bổ ngân sách theo yếu tố đầu ra đã khuyến khích đơn vị chi tiết kiệm ngân sách. - Quy trình phân bổ nguồn lực tài chính nhà nước đã chú ý đến đến mối liên kết giữa kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung hạn (3- 5 năm) với nguồn lực trong một khuôn khổ kinh tế vĩ mô được dự báo. - Trong quá trình soạn lập ngân sách, kiểm soát các yếu tố đầu ra đã được coi trọng. Ngân sách chi thường xuyên và ngân sách chi đầu tư phát triển được soạn lập một cách có liên hệ làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực công. Phương thức cấp phát theo hạn mức kinh phí đã bám sát dự toán chi NSNN được duyệt cả về tổng số cũng như cơ cấu các mục chi; tạo điều kiện thuận lợi cho Kho bạc nhà nước, cơ quan tài chính trong việc kiểm soát chi. Phương thức cấp phát theo lệnh chi tiền chỉ áp dụng đối với các khoản chi đột xuất, không kế hoạch hóa được hoặc áp dụng đối với những đơn vị ít có quan hệ với NSNN, song trong cả một thời gian khá dài, hình thức cấp phát này được áp dụng cho hầu hết các dự án đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình mục tiêu. Từng bước quan hành và hoàn thiện chuẩn mực kế toán tạo sự thống nhất và có thể đánh giá được sự phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính kế toán ngân sách nhà nước, kế toán kho bạc nhà nước, kế toán của các đơn vị sử dụng ngân sách. b2. Tồn tại nguyên nhân Thứ nhất: Chú trọng cho chi đầu tư phát triển là cần thiết. Song tình trạng chi NSNN vượt dự toán thường thường xuyên xảy ra với mức độ từ 15-20% đưa đến tình trạng phân bổ NSNN thiếu căn cứ khoa học thể hiện sự vi phạm nghiêm trọng tính kỷ luật tài khóa tổng thể; cơ chế quản lý ngân sách theo đầu vào chưa tạo được sự phối hợp cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên dẫn đến tình trạng thiếu linh hoạt trong sự điều phối nguồn lực trong nội bộ các ngành. Thứ hai: Sự gia tăng quy mô chi tiêu công cộng (bội chi và chính sách kích cầu); việc phát hành TPCP để thúc đẩy đầu tư nhằm kích thích tăng trưởng khó đạt được kết quả như mong muốn mà gây ra tăng trưởng tiền tệ và lạm phát do Chính phủ không thể kiểm soát được hiệu quả của nguồn vốn đầu tư công (trong ngắn hạn đầu tư công tăng có thể làm gia tăng sản lượng nhưng trong dài hạn gây ra lạm phát). Thứ ba: Việc chính phủ chi tiêu nhiều cho đầu tư phát triển (thông qua vay nợ) có thể tạo ra sự chèn lấn đối với khu vực tư nhân. Các khoản nợ chi đầu tư XDCB ngoài Ngân sách đang tăng lên. Thứ tư: việc kém hiệu quả trong phân bổ, thiếu mối liên kết chặt chẽ, hệ thống thông tin quản lý chi tiêu công yếu kém, việc lập kế hoạch chi tiêu ngân sách còn thiếu khoa học đã và đang là những tồn tại cũng là những nguyên nhân làm cho chi tiêu công không hiệu quả. Cuối cùng là chi NSNN vẫn chưa dứt bỏ được hoàn toàn cơ chế bao cấp nhà nước không tính đến hiệu quả gây lãng phí nguồn lực tài chính CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ 3.1 Bối cảnh kinh tế vĩ mô trong thời gian tới + Việt Nam đang nỗ lực thực hiện chính sách CNH-HĐH nhằm chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, một loạt các mục tiêu về kinh tế-xã hội được xây dựng: - Tốc độ tăng GDP trung bình hằng năm đạt 7,5-8% - Tỷ lệ lạm phát thấp hơn tốc tộ tăng trưởng GDP - Đóng góp từ thuế vào NSNN trong khoảng từ 20-25% GDP - Thâm hụt NSNN thấp hơn 5% GDP - Tỷ lệ giảm nghèo… + Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc thực hiện các cam kết song phương đa phương khi gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh, đổi mới các chính sách kinh tế vĩ mô (CSTK) để phù hợp với các cam kết quốc tế. Nền kinh tế chịu tác động ngày càng sâu rộng của những biến động kinh tế-chính trị toàn cầu, đặc biệt trong thời gian sắp tới nền kinh tế toàn cầu tiếp tục chịu những hậu quả năng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính-tín dụng tại Mỹ. Do đó, việc đặt ra các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội có sự thay đổi. Việc thay đổi này sẽ tác động trực tiếp tới CSTK của Việt Nam trong thời gian tới. Một số chỉ tiêu kinh tế- xã hội quan trọng trong năm 2009 + Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 7% (GDP theo giá thực tế hoảng 1.820 nghìn tỷ đồng tương đương 106 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng 1.200 USD). + Giá trị tăng thêm khu vực nông lâm ngư nghiệp tăng khoảng 3%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng khoảng 8%, khu vực dịch vụ tăng khoảng 7,8%. + Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 76,7 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2008. + Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 725 nghìn tỷ đồng, bằng 40% GDP. + Tổng thu ngân sách nhà nước khoảng 418 nghìn tỷ đồng, tăng 4,76% so với ước thực hiện năm 2008; tổng chi ngân sách nhà nước 509,4 nghìn tỷ đồng, tăng 7,4% so với ước thực hiện năm 2008. Chúng tôi dự báo giai đoạn 2001 - 2010 tỷ suất thu thuế chỉ vào khoảng 19 - 20% GDP (giai đoạn 1991-2000: 16,2% GDP). + Bội chi ngân sách nhà nước khoảng 87,3 nghìn tỷ đồng, bằng 4,8% GDP. + Chỉ số tăng giá tiêu dùng dưới 15%. + Tạo việc làm cho khoảng 1,7 triệu lao động, trong đó đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài 9 vạn người. 3.2 Những thách thức của CSTK trong giai đoạn tới - Thứ nhất, nhu cầu vốn cho các chương trình phát triển kinh tế trong giai đoạn tới của đất nước đã đặt ra nhiệm vụ rất nặng nề cho chính sách tài khoá; - Thứ hai, quá trình hội nhập kinh tế trong khu vực và thế giới cùng hàng loạt các cam kết đối xử bình đẳng đang là những thách thức cho hệ thống thuế và gây áp lực không nhỏ tới nguồn thu ngân sách; - Thứ ba, sự tham gia của nhà nước các hoạt động kinh tế chưa mang tính thị trường cao, còn duy trì sự trợ giúp ngân sách nhà nước trong nhiều lĩnh vực, gây lãng phí và làm giảm tính hiệu quả của nhiều khoản chi ngân sách; - Thứ tư, công tác quản lý chi ngân sách còn hạn chế, cơ chế cấp phát, kiểm soát và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ngân sách còn lỏng lẻo, tạo nguy cơ gia tăng tổn thất nguồn vốn ngân sách của Nhà nước. - Thứ năm, quan hệ ngân sách giữa các cấp trong hệ thống NSNN chưa thực sự tạo nên môi trường bình đẳng giữa các địa phương trong các hoạt động kinh tế và dịch vụ công… - Thứ sáu, hệ thống pháp lý, cơ chế quản lý, cơ chế phối hợp trong công tác quản lý nợ Chính phủ còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ và chặt chẽ, chưa xứng đáng vai trò là kênh hỗ trợ kịp thời cho nguồn chi ngân sách. 3.2 Mục tiêu của CSTK trong thời gian tới Đảm bảo CSTK có đóng góp tích cực vào quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội trên cơ sở duy trì nguồn thu với hệ thống thuế suất hợp lý và ổn định, phân bổ chi tiêu hiệu quả. - Hệ thống thuế phải đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, góp phần kiểm soát tài chính khu vực công, lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Giữ kỷ luật tài chính tổng thể: Đảm bảo quy mô chi ngân sách nhà nước vào khoảng 24-25% GDP, trong đó chi đầu tư phát triển chiếm 25-25%, chi trả nợ 17-18% và chi thường xuyên  57-58%. Theo đó, khống chế bội chi ngân sách nhà nước 4-5%GDP; bù đắp bội chi ngân sách bằng nguồn vốn trong nước khoảng 3-5% GDP và vay nước ngoài 1-1,5% GDP. Phân phối nguồn lực tài chính phù hợp với những ưu tiên chiến lược về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo; đảm bảo công bằng phù hợp với thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao tính trách nhiệm, minh bạch, dân chủ trong chi tiêu công; đảm bảo tính hiệu quả và hiệu lực của những chương trình và cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cho xã hội; chi tiêu công thực sự trở thành thước đo năng lực, hiệu lực quản lý kinh tế xã hội của nhà nước. 3.3 Kiến nghị đối với CSTK Tạo dựng hệ thống quản lý tài chính quốc gia hiệu quả nhằm đảm bảo cân bằng vĩ mô chung của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách tài khoá thông qua các khoản thu ngân sách nhằm đảm bảo tính hiệu quả của hệ thống thuế, mở rộng nguồn thu cho ngân sách nhà nước và kích thích hoạt động kinh doanh của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách để kích thích tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sử dụng tối ưu nguồn chi ngân sách; cần tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện mở rộng hoạt động đầu tư, hình thành các tiền đề cho sự phát triển bền vững. Nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nợ Chính phủ nhằm hỗ trợ kịp thời cho nguồn chi của chính sách tài khoá, vừa duy trì được mức độ nợ ở giới hạn an toàn, hạn chế tối đa chi phí vay và sử dụng nợ, đồng thời đảm bảo các khoản vay được sử dụng một cách hiệu quả nhất. Hoàn thiện quy trình thủ tục và quan hệ ngân sách giữa các cấp trong hoạt động ngân sách dựa trên nền tảng phát huy tối đa nguồn thu từ thuế và các nguồn thu khác phù hợp với từng địa phương. 3.3.1 Kiến nghị cụ thể đối với hệ thống thuế Một là, tiếp tục cải cách, hoàn thiện các sắc luật về thuế theo các tiêu chuẩn cơ bản theo hướng: hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu với mức thuế suất vừa phải và đơn giản (thuế suất cao và thấp quá sẽ mất tác dụng của thuế); xác định và lựa chọn đúng mục tiêu của thuế; thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, tránh tình trạng trùng lập trong thuế; đơn giản hóa chính sách thuế; chính sách thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài; chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng kiểm soát được: kiểm soát của người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thu thuế…nhằm hạn chế tối đa thất thu thuế. Hai là, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, thường xuyên trong mọi tổ chức và dân cư về các luật thuế và các văn bản dưới luật để họ hiểu rõ, nhận thức trách nhiệm, nghĩa vụ của người nộp thuế và tổ chức thực hiện tốt. Tạo điều kiện cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra để chống trốn thuế, lậu thuế … Ba là, tổ chức chỉ đạo công tác kê khai, đăng ký, xét duyệt đăng ký sản xuất kinh doanh làm cơ sở, làm căn cứ pháp lý để thu thuế. Bốn là, lập sổ thuế cho từng doanh nghiệp và hộ sản xuất, kinh doanh tại xã, phường, thị trấn. Sổ thuế được lập một lần và sử dụng trong nhiều năm; hàng năm nếu có thay đổi về chính sách thuế, căn cứ tính thuế, thì các doanh nghiệp và hộ sản xuất, kinh doanh phải kê khai để điều chỉnh lại. Năm là, chỉ đạo tổ chức thu thuế và nộp thuế, Chính phủ tổ chức thực hiện các luật thuế. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan đến các luật thuế, phối hợp với Bộ Tài chính ra các văn bản hướng dẫn thi hành hoặc trình Chính phủ ban hành các văn bản cần thiết thuộc thẩm quyền của Chính phủ để chỉ đạo thi hành các luật thuế. Sáu là, tổ chức kiểm tra thực hiện các luật thuế, hệ thống thanh tra nhà nước, thanh tra tài chính, thanh tra thuế có quyền và có trách nhiệm tổ chức công tác thanh tra về thuế. Các cấp chính quyền có trách nhiệm và quyền kiểm tra việc thi hành luật thuế trên cả 2 mặt: kiểm tra những người nộp thuế thi hành nghĩa vụ nộp thuế và kiểm tra các tổ chức thu thuế và cán bộ thuế thi hành luật thuế. Bảy là, củng cố và tăng cường cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin và lực lượng cán bộ thuế, tổ chức đào tạo và đào tạo lại cán bộ thuế, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ thuế. 3.3.2 Kiến nghị cụ thể đối với chi tiêu công Để nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu công, phù hợp với bối cảnh của một nền kinh tế đang chuyển đổi, trong thời gian tới sự cải cách chi tiêu công của Việt Nam cần dựa trên các quan điểm cơ bản sau: Thứ nhất, Cải cách quản lý chi tiêu công phải đặt trong bối cảnh cải cách hành chính công tổng thể và nâng cao năng lực quản lý của Chính phủ. Với quan điểm này, yêu cầu Nhà nước phải làm cho vai trò quản lý của mình phù hợp với năng lực đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, cụ thể là phải xây dựng các thể chế nhằm tạo ra một khu vực công năng động, bao gồm tăng cường xây dựng các thể chế về chính sách; chính quyền có khả năng xây dựng và phối hợp chính sách trong việc lựa chọn mục tiêu chiến lược; phân bổ nguồn lực gắn kết với kế hoạch và chính sách; thực hiện, kiểm soát và đánh giá kết quả các hoạt động; công chức phải có động cơ và năng lực quản lý tốt; ngăn chặn nạn tham nhũng ... Hai là, quản lý chi tiêu công cần dựa trên hệ thống các nguyên tắc lập ngân sách và quản lý tài chính tốt. Tính tổng thể và tính kỷ luật, tính linh hoạt, tính tiên liệu, tính trung thực, tính minh bạch và tính trách nhiệm. Ba là, quản lý chi tiêu công cần đặt trong khuôn khổ chi tiêu trung hạn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu công Tăng cường năng lực của Chính phủ trong soạn lập ngân sách, đặc biệt là khả năng dự báo khi phân bổ ngân sách. Tăng cường kỷ luật ngân sách và tính minh bạch cũng như trách nhiệm giải trình trong sử dụng nguồn lực công. Tăng cường chất lượng những thông tin ngân sách, tính rõ ràng của các mục tiêu chính sách. - Hướng sự tập trung của các quan chức chính phủ vào thời kỳ trung hạn chứ không chỉ một năm ngân sách hiện hành. - Cho phép Chính phủ tập trung nhiều hơn vào những ưu tiên mang tính chiến lược mà vẫn làm cho quy trình ngân sách toàn diện hơn. Bốn là xây dựng hệ thống định mức làm cơ sở phân bổ ngân sách như: xác lập tổng trần chi tiêu cho các lĩnh vực và cho từng ngành (vd tổng chi tiêu cho 03 năm 2009-2011 là không quá 32% GDP, trong đó chi trả nợ vốn gốc và lãi không quá 18%, chi quản lý hành chính không quá 30% tổng chi NSNN,…); xác lập các khoản chi bắt buộc hay sàn chi tiêu và các khoản chi không bắt buộc (ví dụ chi bảo đảm xã hội tối thiểu phải đạt 22% tổng chi NSNN hay 60% chi thường xuyên,…) 3.3.3 Kiến nghị cụ thể đối với vấn đề bù đắp thâm hụt và quản lý nợ công - Dựa vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2005-2010, quy định mức chi NSNN/GDP trong giai đoạn 2005-2010 khoảng 26-27% (2001-2005 là 23-24%); mức bội chi NSNN dưới 5%GDP - Việc NHNN bù đắp thâm hụt NSNN tạm thời phải được hoàn trả trong năm theo đúng luật định. - Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá an toàn nợ như: mức vay nợ phải phù hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế (hệ số ICOR, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, dự trữ ngoại tệ quốc gia); khả năng hấp thụ vốn vay và khả năng trả nợ nước ngoài. - Xây dựng khuôn khổ quản lý nợ công: xác định rõ cơ quan có thẩm quyền vay nợ, phát hành nợ mới và đảm trách các giao dịch vay nợ; quy định rõ mối quan hệ hợp tác và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan chức năng. - Xây dựng chiến lược quản lý rủi ro và chi phí trong cấu trúc nợ công. Phụ lục 1: Nội dung cơ bản của cam kết gia nhập WTO của Việt Nam 1. Cắt giảm thuế quan, phi thuế quan + Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành, gồm 10.600 dòng thuế. Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4% xuống còn 13,4%). Thời gian thực hiện là sau 5 - 7 năm. + Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc theo mức thuế trần – cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hoá chất, một số phương tiện vận tải. + Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm thuế ngay khi gia nhập. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may (63%), cá và sản phẩm cá (38%), gỗ và giấy (33%), hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử (24%). + Đối với lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào thời điểm gia nhập và 21,0% sẽ là mức cắt giảm cuối cùng. So sánh với mức thuế MFN bình quân đối với lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là 23,5% thì mức cắt giảm đi sẽ là 10%. + Trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam sẽ được áp dụng cơ chế hạn ngạch thuế quan đối với 4 mặt hàng, gồm: trứng, đường, thuốc lá lá, muối, với mức thuế trong hạn ngạch là tương đương mức thuế MFN hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 50-60%, thuốc lá lá: 30%, muối ăn 30%), thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn ngạch. + Đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm gia nhập là 16,1%, và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 12,6%. So sánh với mức thuế MFN bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là 16,6% thì mức cắt giảm đi sẽ là 23,9%. + Việt Nam cũng cam kết tham gia vào một số hiệp định tự do hoá theo ngành. Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam tham gia một phần là thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời gian để thực hiện cam kết giảm thuế là từ 3 - 5 năm. + Trong các hiệp định trên, khoảng 330 dòng thuế thuộc diện công nghệ thông tin như các sản phẩm điện tử như máy tính, điện thoại di động; máy ghi hình, máy - ảnh kỹ thuật số… ) sẽ có thuế suất nhập khẩu 0% sau 3 - 5 năm, tối đa là sau 7 năm. + Việc tham gia hiệp định dệt may (thực hiện đa phương hoá mức thuế đã cam kết theo các hiệp định dệt may với EU, Hoa kỳ) cũng dẫn đến giảm thuế đối với các mặt hàng này: vải từ 40% xuống 12%, quần áo từ 50% xuống 20%, sợi từ 20% xuống 5%. 2. Đối với thuế xuất khẩu: WTO không có nội dung nào yêu cầu cam kết về thuế xuất khẩu, tuy nhiên một số quốc gia thành viên yêu cầu cắt giảm tất cả thuế xuất khẩu với lý do là một hình thức hạn chế thương mại. Cam kết của Việt Nam hiện nya là sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen từ 35% xuống 17% trong 5 năm; kim loại màu từ 45% xuống 22% trong 5 năm; không cam kết ràng buộc về thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng khác. Phụ lục 2: Dự báo tình hình cân đối NSNN từ 2007-2010 2001-2006 2007-2010 Tổng thu NSNN/GDP 22,8% 21-22% Trong đó thu thuế, phí và lệ phí (%GDP) 19-20% Tổng chi NSNN/GDP 27,7% 26-27% Chi ĐTPT (gồm TPCP)/Tổng chi NSNN 30-31% Chi ĐTPT/GDP 8,4% 7,8-8,3% Chi GDĐT và dạy nghề/Tổng chi NSNN 20% Chi KHCN/Tổng chi NSNN 2% Chi bảo vệ môi trường/tổng chi NSNN 1% Bội chi NSNN/GDP 4,9% 5%

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCSTK trong kiem che LP.doc
Tài liệu liên quan