Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh doanh ở các daonh nghiệp nhà nước sau khi chuyển thành các Công ty Cổ phần

Hiện nay, nếu tính đủ yếu tố đất sẽ kéo giá trị của doanh nghiệp lên rất cao, khó bán được cổ phiếu. Ví dụ : CTCP Cơ điện lạnh (REE) tại TP Hồ Chí Minh nếu tính theo bản giá đất mới, với diện tích 40.000m2 sẽ có giá trị 35 tỷ đồng thay vì 3,2 tỷ đồng như hiện nay ( trong tổng giá trị doanh nghiệp được xác định là 16 tỷ đồng) Vậy cách tốt nhất là các doanh nghiệp nên thuê quyền sử dụng đất của Nhà nước và khấu hao trả dần. Có thể có hai cách tính giá trị đất như sau: Giá trị đất được tính vào giá trị doanh nghiệp là coi như góp vốn của nhà nước vào công ty cổ phần. Giá trị này được điều chỉnh theo thời giá cứ 5 năm 1 lần nhằm đảm bảo hai điều kiện: một là, giá trị đất phải là một bộ phận của giá trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế; hai là, không thay đổi quyền sở hữu đất( theo luật định). Có xác định giá trị đất nhưng không gộp vào giá trị của doanh nghiệp để CPH, coi như Nhà nước cho thuê. Gía trị được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tính khấu hao trả dần hàng năm.

doc56 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh doanh ở các daonh nghiệp nhà nước sau khi chuyển thành các Công ty Cổ phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp chế biến hàng xuất khẩu Long An, xí nghiệp sửa chữa và đóng mới tàu thuyền Bình Định... Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức CTCP thì sản xuất kinh doanh phát triển, có tiến bộ về mọi mặt. Nhà nước và doanh nghiệp cũng như người lao động đều có lợi: Đối với các doanh nghiệp ( Số liệu của 18 doanh nghiệp) Vốn bình quân tăng 45,0%/năm Doanh thu bình quân tăng 56,9%/ năm Lợi nhuận tăng bình quân 70,2%/năm Nộp ngân sách tăng bình quân 98,0%/năm Thu nhập của người LĐ tăng bình quân 20,0%/năm Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 19,1%/năm Tỷ suất lợi nhuận trên Vốn 74,6%/ năm Đối với Nhà nước Do sản xuất phát triển, doanh thu tăng, lợi nhuận tăng nên tiền thuế của các CTCP nộp cao hơn khi còn là DNNN . Ngoài ra, Nhà nước còn thu được 37.724 triệu đồng từ các nguồn sau: Tiền thu về bán cổ phần: 30.207 triệu đồng Phần lợi tức từ cổ phần : 6.995 triệu đồng Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của CBCNV 552 triệu đồng ( đó là chưa kể số tiền CBCNV trong các CTCP mua chịu cổ phiếu là 14.794 triệu đồng sau 5 năm phải trả Nhà nước) Đối với người lao động và xã hội Thu nhập của người lao động cao hơn khi còn là quốc doanh từ 1,5 đến 2 lần chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần khoảng 22-24%/năm ( trong khi đó số tiền mua cổ phần mà gửi tiết kiệm cũng chỉ có lãi suất tối đa là 12%/năm ) Ngoài số lao động cũ, các CTCP đã thu hút thêm hơn 1000 lao động ngoài xã hội vào làm việc. Do hoạt động của các CTCP có hiệu quả nên tốc độ tích luỹ vốn của doanh nghiệp cũng khá nhanh, giá trị cổ phiếu tăng từ 1,5 đến 2 lần sau 1 đến 2 năm hoạt động. Chẳng hạn như : - CTCP Đại lý liên hiệp vận chuyển tăng giá cổ phiếu lên 7 lần sau 4 năm hoạt động - CTCP Cơ điện lạnh tăng giá cổ phiếu lên 6 lần cũng sáu 4 năm hoạt động. 2.Hiệu quả kinh tế ở một số công ty điển hình Để rõ hơn có thể lấy số liệu hoạt động kinh doanh cụ thể của một số CTCP ở giai đoạn này như sau: 2.1/Công ty VIFICO: Công ty cổ phần Việt Phong (VIFICO) có nguồn gốc từ nhà máy thực phẩm gia súc Vifico của tập đoàn mại bản. Khi chuyển sang cơ chế thị trường xí nghiệp gặp rất nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu, thị trường... Được Bộ NN & phát triển nông thôn và Bộ Tài chính đồng ý tháng 7/1995 xí nghiệp đã chuyển thành CTCP Vifico như hiện nay với tỷ lệ cổ phần là: cổ phần Nhà nước giữ lại 30%, bán cho CBCNV 50%, bán cho nhân dân 20%. Sau một năm CPH, công ty đã đạt hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn trước khi CPH thể hiện qua các chỉ tiêu: Doanh thu 62 tỷ đồng tăng 122,9% Lãi 6,5tỷ đồng tăng 153 % Nộp ngân sách 3,5 tỷ đồng tăng 118 % ( Ngoài ra Nhà nước còn thu được cổ tức là 469.992 triệu đồng) Lao động tăng lên153 người ( Trong đó 90 là thuộc diện biên chế chính thức, còn lại là hợp đồng) Thu nhập bình quân trên 1 triệu đồng/tháng Cổ tức 3,3% cổ phần/tháng 2.2/Xí nghiệp cơ điện lạnh Xí nghiệp cơ điện lạnh được thành lập và phát triển trên cơ sở của xí nghiệp liên hiệp thiết bị lạnh trực thuộc Sở công nghiệp TP Hồ Chí Minh. Trong tình hình đổi mới ở nước ta, Ban giám đốc và tập thể người lao động đã mạnh dạn hưởng ứng làm thí điểm CPH DNNN . Theo quyết định chính thức số 615/TC/QĐ/CPH ngày 27/8/1993 xí nghiệp đã trở thành CTCP với tổng giá trị doanh nghiệp là 16.017.913.986 đồng. Đến ngày 10/10/1993 công ty đã phát hành hết 160.000 cổ phiếu với mệnh giá 100.000 đồngVN . Kết quả bước đầu đáng phấn khởi : - Doanh thu tăng từ 46.597 triệu đồng lên 307.095 triệu đồng trong vòng 4 năm kể từ năm 1993 đến năm 1996 , tăng 6,59 lần. - Huy động thêm nhiều vốn kinh doanh để phát triển công ty: từ năm 1993 đến năm 1996 vốn kinh doanh tăng từ 16.295 triệu lên 49.921 triệu đồng ( gấp 3 lần ) chủ yếu là do bán cổ phiếu và trích lợi nhuận để đầu tư. - CTCP Cơ điện lạnh đã chia lãi cho cổ đông với tỷ lệ lãi trên vốn khoảng 30%/năm, tỷ lệ này cao hơn nhiều so với lãi gửi tiết kiệm và lãi cho vay của ngân hàng thương mại quốc doanh . 2.3/Xí nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuyền Bình Định Tiền thân là xí nghiệp cơ khí tàu thuyền, là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập trực thuộc Sở thuỷ sản với nhiệm vụ đóng mới và sửa chữa các loại tàu đánh cá bằng vỏ gỗ. Sau khi việc thẩm định và công nhận giá trị tài sản của DN là 1.150.000.000 đồng thì CTCP đã chính thức đi vào hoạt động ngày 1/7/1996 với số lượng cổ phiếu bán ra theo điều lệ là 11.500 tương ứng với số cổ đông là 82 người. Trong đó :CBCNV là 26 cổ đông chiếm 11,16% vốn; Nhà nước nắm 51% số phiếu; ngoài công ty là 38% số phiếu. Sau một năm hoạt động doanh thu đạt được là 3 tỷ đồng, so với trước khi cổ phần hoá thì có nhiều tiến bộ . 3. Một số kết quả khác Tại TP Hồ Chí Minh trong năm 1997 cũng đã hoàn thành chuyển 4 DNNN sang CTCP, đó là : khách sạn Sài Gòn; Trung tâm nghiên cứu và sản xuất hoá mỹ phẩm; Xí nghiệp sơn Bạch Tuyết; Công ty bông Bạch Tuyết. Hầu hết, các DNNN đã cổ phần hoá ở TP HCM đều đạt được kết quả khá tích cực, hiệu quả kinh doanh cao hơn nhiều so với giai đoạn trước khi CPH . Đây là một kêt quả đáng khích lệ. Nhìn chung, cổ phần hoá DNNN là một chủ trương đổi mới hết sức hợp lí của Đảng và Nhà nước ta. Một số doanh nghiệp làm ăn khá phát triển như: Công ty sứ Bát tràng; Công ty giày Hà Nội; Công ty xuất nhập khẩu Namsimex. Có những doanh nghiệp trước CPH gặp nhiều khó khăn, làm ăn thua lỗ thì sau một năm CPH đã có đủ việc làm ổn định, các thành viên trong doanh nghiệp tin tưởng hơn, kết quả kinh doanh khá hơn truớc. Đó là: Công ty xe khách Hải Phòng; công ty tàu thuyền Bình Định, công ty giày Hiệp An; công ty đồ mộc Hà Nội. Gần đây, một số công ty lớn ( doanh nghiệp 90,91 ) cũng có những chuyển động mới như: phân xưởng may vỏ bao xi măng của công ty xi măng Bỉm Sơn đã trở thành CTCP bao bì Bỉm Sơn và hoạt động có hiệu quả. Sang đến năm 2000, theo Bộ kế hoạch và đầu tư, đã có 11 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tiến hành CPH ( trong đó có 3 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) . Các doanh nghiệp này đều hoạt động kinh doanh khách sạn, dịch vụ và sản xuất công nghiệp và đều kinh doanh có lãi cao. 4. Phân tích một ví dụ cụ thể Tuy không thể thống kê các con số cụ thể về hiệu quả kinh doanh của các CTCP nhưng cũng có thể lấy kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một CTCP ở Hà Nội trong 6 tháng đầu năm 2001 làm ví dụ cho thấy những chỉ tiêu kinh tế đáng khích lệ. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Từ ngày 01/04/2001 đến ngày 30/06/2001 ( đơn vị : đồng) Chỉ tiêu Đầu kỳ Trong kỳ Cuối kỳ Tổng doanh thu 7.721.607.276 11.673.180.854 19.394.788.180 Các khoản giảm trừ 6.900.000 6.900.000 Doanh thu thuần 7.714.707.276 11.673.180.854 19.387.888.130 Giá vốn hàng bán 7.377.885.305 11.220.517.116 18.598.402.421 Lợi tức gộp 336.821.971 452.663.738 789.485.709 Chi phí bán hàng Chi phí quản lý DN 322.244.963 358.730.145 680.975.108 Lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh 14.577.008 93.933.593 108.510.601 Lợi tức từ hoạt động tài chính 63.423.000 121.666.479 185.089.479 Lợi tức bất thưòng 63.100.000 42.430.383 105.530.383 Tổng lợi tức trước thuế 14.254.008 14.697.497 28.915.505 Nguồn: Chi cục quản lý doanh nghiệp Hà Nội. Trong bảng cân đối kế toán: Tổng tài sản cuối kỳ = Tổng nguồn vốn cuối kỳ = 44.470.045.858 Như vậy, so với đầu kỳ tăng 13.295.455.710 Trong đó vốn tự có = 2.916.827.025, vốn vay = 41.553.218.833 Từ đó, có thể tính một số hiệu quả kinh doanh như sau: Doanh lợi vốn kinh doanh: Doanh lợi = Mức lãi ròng = 0,7% VKD Tổng VKD chỉ tiêu này cho thấy 1 đồng vốn bỏ ra kinh doanh doanh nghiệp thu được 0,007 đồng lợi nhuận. Số vòng quay của vốn kinh doanh: Số vòng quay = Tổng doanh thu = 0.44 ( vòng) của VKD Tổng VKD chỉ tiêu này cho thấy vốn kinh doanh của doanh nghiệp lưu chuyển khá nhanh. Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp kinh doanh khá linh hoạt và hiệu quả trên thị trường. Hiệu quả kinh doanh theo chi phí kinh doanh: Hiệu quả kinh doanh = Tổng doanh thu = 100,6% tính theo chi phí KD Tổng chi phí chỉ tiêu này cho thấy doanh nghiệp kinh doanh là có lãi vì 1 đồng chi phí bỏ ra cho 1 sản phẩm thì thu về được hơn 1 đồng. Tổng số thuế phải nộp cho Nhà nước là 774.801.276 kể từ đầu năm . Tuy những số liệu chưa tính được một số chỉ tiêu đặc thù của CTCP như doanh lợi vốn cổ phần; tỷ suất lợi nhuận cổ phiếu... nhưng nó đã phản ánh phần nào hiệu quả kinh doanh là khá tốt thông qua chỉ tiêu doanh thu , lợi nhuận trước thuế, doanh lợi vốn kinh doanh, số vòng quay của vốn... 5.Một số nhận định bước đầu. Như vậy, từ thực tế và kết quả hoạt động của các DNNN được CPH có thể rút ra nhận định sau: * Kết quả kinh doanh ở các CTCP là cơ sở để khẳng định rằng, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển hình thức CTCP và CPH một số bộ phận DNNN là đúng đắn, những mục tiêu đặt ra khi cổ phần là thích hợp và có thể thực hiện được. * Khi thực hiện cổ phần hoá, ngoài vốn của Nhà nước( thường chiếm 30% tổng giá trị) , vốn còn được huy động nhờ vào việc bán cổ phần cho các đối tượng trong và ngoài công ty. Nhờ vậy mà việc đầu tư vào chiều sâu, đổi mới công nghệ được thực hiện góp phần nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh tạo thêm nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. * Giải quyết một phần nào khâu thiếu vốn, doanh nghiệp đã phần nào mạnh dạn đầu tư nhằm nâng cao trình độ kĩ thuật công nghệ , có chiến lược phát triển rõ ràng từ đó làm nâng cao hiệu quả đồng vốn kinh doanh, cũng như nâng cao năng lực sản xuất hay nói đúng hơn là nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm đem lại lợi ích cho người tiêu dùng và cũng là đem lại doanh thu cũng như uy tín cho doanh nghiệp * Quyền lợi của người lao động đồng thời là cổ đông gắn với quyền lợi của công ty,người lao động một mặt làm việc với tinh thần trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình, mặt khác cũng yêu cầu HĐQT, Giám đốc điều hành phải chỉ đạo và lãnh đạo công ty hoạt động có hiệu quả để lợi nhuận được cao hơn. * Quản trị doanh nghiệp trong CTCP với vai trò Đại hội cổ đông của HĐQT là một phương pháp quản lý dân chủ, thể hiện được quyền làm chủ trực tiếp của người lao động và người chủ sở hữu với doanh nghiệp. Với cách quản trị công khai tài chính đầy đủ sẽ hạn chế những tiêu cực, tạo được lòng tin và thuận lợi cũng như phát huy hết khả năng của giám đốc, CBCNV. * CPH là chuyển sở hữu DNNN sang sở hữu của nhiều cổ đông, tạo điều kiện bảo toàn vốn của Nhà nước thêm vào đó còn làm tăng tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn khá cao. Từ đó, Nhà nước có thêm được vốn để đầu tư cũng như tích luỹ được một phần nào. Tóm lại Đa số các CTCP mới chỉ hoạt động trong phạm vi địa phương. Các hình thức đặt chi nhánh, văn phòng đại diện ở các địa phương khác hoặc mở rộng ra nước ngoài chưa phát triển. Ước tính có khoảng 8,9% công ty có văn phòng đại diện ở nước ngoài, chưa có công ty nào có chi nhánh tại nước ngoài. Quy mô lao động trung bình của một CTCP là 130 người . Tỷ lệ lao động thường xuyên của các công ty là 86,9%, trong đó số lao động quản lý chiếm 12,2% tổng số lao động của công ty. Đặc biệt, phải kể đến trình độ lao động ở các công ty cổ phần là khá cao: 41,8% là công nhân kỹ thuật được đào tạo chuyên môn ở các cấp đại học, cấp trung học và cả trên đại học. Thu nhập bình quân của một lao động trực tiếp thường là 600.000 đồng/ tháng, của một cán bộ quản lý là 700.000 đồng/tháng. Trong số các công ty hoạt động trong các ngành sản xuất, đa số đều kết hợp cả công nghệ hiện đại và công nghệ cổ truyền. Đó là nhờ có vốn kinh doanh được huy động rộng rãi nên công ty mở rộng được năng lực sản xuất từ đó làm hiệu quả kinh doanh ngày càng tốt. 6.Những mặt còn hạn chế: Tuy nhiên, các công ty cổ phần có chỉ số hiệu quả kinh doanh cao như vậy là không có nghĩa công ty không có những mặt hạn chế . Có nhiều lý do khác nhau để nói lên sự hạn chế trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Theo như số liệu điều tra của Viện nghiên cứu Quản trị kinh doanh Hà Nội thì các nguyên nhân chủ yếu tập trung : Nguyên nhân CTCP chưa mở rộng năng lực sản xuất. Nguyên nhân Tỷ lệ ý kiến(%) 1. Thiếu nguyên vật liệu trong nước 12.2 2. Thiếu nguyên vật liệu nhập khẩu 2,4 3. Thiếu vốn 31,7 4. Thị trường trong nước hạn chế 31,7 5. Thị trường nước ngoài còn chưa có hoặc rất hạn chế 17,1 6. Giá thành sản phẩm cao 7,3 7. Năng lực công ty còn hạn chế 9.8 8. Chính sách, luật pháp chưa thật sự phù hợp, chưa khuyến khích phát triển 36,6 9. Các nguyên nhân khác 7,3 Nguồn: Viện nghiên cứu QTKD Hà Nội. Các nguyên nhân này đã ít nhiều ảnh hưởng tới hiệu quả của doanh nghiệp. Thị trường hạn chế khiến doanh nghiệp khó mở rộng quy mô, cũng như vấn đề về đầu vào làm cho doanh nghiệp phải tốn những chi phí đáng lẽ ra không cần thiết. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm gặp nhiều khó khăn do giá thành sản phẩm còn quá cao nên giá bán chưa phù hợp với người tiêu dùng khiến doanh thu không cao. Như vậy, không cần phải bình luận nhiều về các nguyên nhân gây cản trở CTCP phát triển. Nhưng vấn đề nổi cộm lên vẫn là: Chính sách pháp luật chưa thật sự phù hợp và chưa khuyến khích nên các CTCP còn dè chừng trong việc kinh doanh, vì là những công ty mới được thành lập mọi trang thiết bị cũng như các vấn đề khác còn thiếu thốn, quy mô chưa dám mở rộng, chưa thật sự có phương án chiến lược lâu dài. Công tác đầu vào cũng như đầu ra khó xác định trước một thị trường được mở rộng, cũng như vấn đề cạnh tranh gay gắt vẫn còn bỡ ngỡ đối với nhiều doanh nghiệp.Thêm vào đó là vấn đề cổ phần còn nhiều tranh cãi vì tỷ lệ cổ phần mà Nhà nước đưa ra chưa đáp ứng được nhu cầu mua cổ phiếu của người lao động cũng như các nhà đầu tư khiến lượng vốn huy động tưởng như nhiều mà không nhiều. Chính vì vậy, khi được hỏi ý kiến, các cổ đông trong các CTCP họ đều mong muốn Đảng & Nhà nước ta có những chính sách thật sự ổn định để họ thật sự yên tâm phát triển mở rộng kinh doanh nhằm đem lại lợi ích chung cho doanh nghiệp, CBCNV, cũng như làm giàu cho xã hội. Phần III: Giải pháp và một số kiến nghị nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả kinh doanh ở các công ty cổ phần. Trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, Việt Nam đang đứng trước xu thế hội nhập kinh tế, vì vậy vấn đề đổi mới cơ cấu doanh nghiệp càng phải được thực hiện nhanh chóng nhằm thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đất nước. Tuy rằng tiến độ cổ phần hoá ở nước ta diễn ra trong 10 năm qua có những kết quả đáng khả quan nhưng nó vẫn không tránh khỏi những mặt hạn chế ở một số khâu trong quá trình thực hiện cũng như vấn đề làm thế nào để phát huy hết khả năng kinh tế của các CTCP . Từ những nhìn nhận đó, qua nghiên cứu em xin được đưa ra một số giải pháp cũng như là một số kiến nghị để : Thứ nhất , đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá DNNN. Thứ hai , nâng cao hiệu quả kinh tế ở các CTCP trong thời gian tới. I : Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá DNNN. 1.Cần tạo sự thống nhất về nhận thức, quan điểm về chủ trương cổ phần hoá một bộ phận DNNN từ Trung ương đến cơ sở. Phải có sự quan tâm, lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền mới đẩy nhanh được tiến độ cổ phần hoá. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải quán triệt, tuyên truyền, giải thích trong nhân dân chủ trương, chính sách của Đảng về cổ phần hoá DNNN. Đó là CPH xuất phát từ yêu cầu phát triển của DNNN nhằm huy động vốn bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để đầu tư mở rộng ngành nghề, tạo thêm việc làm, phân công lại lao động, phát triển sản xuất, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách và thu nhập của người lao động. Tổ chức Đảng và chính quyền tại doanh nghiệp được CPH phải nắm vững chủ trương cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước, tránh tình trạng không hiểu sâu dẫn đến những lo ngại CPH sẽ làm mất chủ quyền của Nhà nước, làm mất vai trò của nền kinh tế quốc doanh... Việc thực hiện CPH là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà nước. Nó không phải là một giải pháp tình thế mà là một phương thức đổi mới cơ chế quản lí cho thích nghi với sự vận động của cơ chế thị trường. Do đó chủ trương CPH phải được chủ động giải quyết từ phía Nhà nước, không thể chỉ dựa vào sự tự nguyện của các doanh nghiệp. Phải tuyên truyền chủ trương CPH sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng, giải mắc những thắc mắc dù nhỏ của người lao động tại doanh nghiệp. Không chỉ tuyên truyền chung mà còn phải xuống tận cơ sở, tiếp xúc với người lao động và cả giám đốc của họ. Khi người lao động nhận thức được và lãnh đạo doanh nghiệp quyết tâm thì tiến độ CPH sẽ nhanh. 2.Tạo môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ về CPH. Cổ phần hoá DNNN cũng có nghĩa là bán đi một phần tài sản Nhà nước có giá trị lớn hàng chục ngàn tỷ đồng. Vậy liệu Nghị định 44/1998/NĐ và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính, của ban đổi mới doanh nghiệp TW có đủ tầm cỡ và sức mạnh pháp lí để điêu chỉnh hay phải có văn bản pháp luật cao hơn ( chẳng hạn như Luật kinh tế cổ phần ) ? Hiện khi chưa có luật, Nhà nước giao nhiệm vụ cho Ban chỉ đạo cổ phần hóa TW tập trung chỉ đạo các tỉnh, thành phố và các bộ thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình, giúp các doanh nghiệp tiến hành CPH và hoạt động thuận lợi. Tiến hành bổ sung, sửa đổi các văn bản luật có liên quan. Thành lập uỷ ban quốc gia về cổ phần hoá DNNN do một phó Thủ tướng làm chủ tịch, Bộ tài chính làm phó chủ tịch thường trực, các bộ liên ngành làm uỷ viên. Uỷ ban quốc gia CPH được quyền và nghĩa vụ giải quyết mọi vấn đề liên quan đến CPH theo luật . Từ Ban đổi thành Uỷ ban đồng nghĩa với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy... để tương ứng với hai nhiệm vụ cơ bản là: - Tổ chức thực hiện các Nghị định trên cơ sở luật CPH; - Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung kịp thời các chính sách chế độ liên quan đến CPH. - Uỷ ban sẽ tự giải thể khi hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của nó. - Coi trọng thực tiễn Việt Nam, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, là một yếu tố rất quan trọng để cho CPH được đẩy nhanh.Sự đổi mới trong tư tưởng theo nguyên tắc: “ Điều gì không cấm thì doanh nghiệp được làm” khác hẳn trước đây cái gì cho làm mới được làm nên nó tạo nên trở ngại lớn khi luật vận hành trong cuộc sống. 3. Xác định giá trị doanh nghiệp để thực hiện CPH Do ở nước ta phần lớn các doanh nghiệp được hình thành từ quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư nhân nên hầu như không có chi phí đất trong cơ cấu vốn đầu tư.Do đó khi tính giá trị doanh nghiệp để CPH hầu như bỏ qua phần giá trị sử dụng đất. Giá trị doanh nghiệp gồm hai phần: a.Giá trị thực của doanh nghiệp Xác định đúng giá trị của doanh nghiệp để CPH là một vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp, là một trong những nguyên nhân khiến cho tiến độ CPH chậm. Việc xác định giá trị doanh nghiệp đã gặp một số khó khăn như thiết bị nhà xưởng thời bao cấp tính quá rẻ, giá trị đất không tính vào giá trị doanh nghiệp, giá trị còn lại của thiết bị , giá trị thị trường của tài sản thì dựa vào căn cứ nào để tính? Theo thông tư số 104/1998/TT-BTV của Bộ tài chính ngày 18/07/1998 đã hướng dẫn phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp như sau: G = ồGi*T Trong đó: G: Tổng giá trị nội tại của doanh nghiệp Gi: Tổng giá thị trường của từng loại tài sản tại thời điểm CPH ( i = 1,2,3,...,n ) T: Giá trị sử dụng còn lại của tài sản (%) Đối với tài sản là vốn bằng tiền tính theo số dư bằng tiền đã kiểm quỹ, đã đối chiếu tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Đối với nợ phải thulà các khoản nợ đã được đối chiếu xác nhận; đối với các khoản chi phí dở dang thì tính theo số dư chi phí thực tế trên sổ kế toán; đối với tài sản ký quỹ, ký cược ngắn hạn và dài hạn thì tính theo số dư thực tế trên sổ kế toán đã được đối chiếu, xác nhận tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp... Một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả khi mọi khả năng sinh lợi đều được tính bằng tiền và được biểu hiện một cách tổng quát bằng lợi nhuận hoặc thu nhập. Trong cơ chế thị trường, khi quyết định đầu tư người ta thường so sánh lãi suất sẽ nhận được với lãi suất gửi tiết kiệm, tỷ lệ lạm phát , tức là: Lãi suất cổ phiếu > = Lãi suất tiết kiệm + tỷ lệ lạm phát Khi mà CPH Nhà nước sẽ bị giảm vốn thì nên chọn phương án khác như giải thể, bán, cho thuê, sát nhập... b. Giá trị sử dụng đất Hiện nay, nếu tính đủ yếu tố đất sẽ kéo giá trị của doanh nghiệp lên rất cao, khó bán được cổ phiếu. Ví dụ : CTCP Cơ điện lạnh (REE) tại TP Hồ Chí Minh nếu tính theo bản giá đất mới, với diện tích 40.000m2 sẽ có giá trị 35 tỷ đồng thay vì 3,2 tỷ đồng như hiện nay ( trong tổng giá trị doanh nghiệp được xác định là 16 tỷ đồng) Vậy cách tốt nhất là các doanh nghiệp nên thuê quyền sử dụng đất của Nhà nước và khấu hao trả dần. Có thể có hai cách tính giá trị đất như sau: Giá trị đất được tính vào giá trị doanh nghiệp là coi như góp vốn của nhà nước vào công ty cổ phần. Giá trị này được điều chỉnh theo thời giá cứ 5 năm 1 lần nhằm đảm bảo hai điều kiện: một là, giá trị đất phải là một bộ phận của giá trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế; hai là, không thay đổi quyền sở hữu đất( theo luật định). Có xác định giá trị đất nhưng không gộp vào giá trị của doanh nghiệp để CPH, coi như Nhà nước cho thuê. Gía trị được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tính khấu hao trả dần hàng năm. 4.Mệnh giá cổ phiếu và đối tượng mua cổ phiếu Mệnh giá cổ phiếu được đem bán sẽ quyết định khả năng thu hồi phần vốn của Nhà nước. Việc xác định mệnh giá và số lượng cổ phiếu đem bán có quan hệ mật thiết với giá trị doanh nghiệp, đến các yếu tố lợi thế và liên quan đến tương lai của doanh nghiệp được CPH. Xác định giá cổ phiếu phải tương đối hấp dẫn với cổ đông và không làm thiệt hại đến doanh nghiệp. Đó là những vấn đề phức tạp và tế nhị. Giá trị doanh nghiệp đem bán Mệnh giá cổ phiếu = ----------------------------------------- Số cổ phiếu phát hành Trong thực tế, việc xác định số lượng cổ phiếu phát hành còn khó hơn xác định mệnh giá cổ phiếu. Do đó, ta tính theo công thức sau: Giá trị doanh nghiệp đem bán Số cổ phiếu = --------------------------------------- Mệnh giá cổ phiếu Việc bán cổ phiếu cho ai cũng là vấn đề có nhiều ý kiến. Vì phải đạt cả 3 mục tiêu : chuyển đổi sở hữu ; thu hồi vốn; tạo điều kiện cho người lao động làm chủ thực sự , nên có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Theo ý kiến của riêng em :Trước hết nên bán cho CBCNV trong doanh nghiệp và cũng nên dành một tỷ lệ nhất định để bán ra bên ngoài nhằm thu hút những tài năng kinh doanh mới, đổi mới cơ chế quản lí, tạo sức mạnh cạnh tranh, phát huy các ưu điểm của CTCP. Chính việc bán cổ phiếu cho CBCNV là tạo ra sự ưu đãi cho người lao động, mức ưu đãi được quy định theo Nghị định 44/1998/NĐ. Đặc biệt người lao động nghèo cũng được mua cổ phần theo giá ưu đãi, nếu cổ phần hoá mà mất việc sẽ được giải quyết theo những quy định hiện hành của Chính phủ. Tuy nhiên, theo em, khi doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh sẽ tăng thêm việc làm cũng như thu nhập cho người lao động. Lợi ích đó mới là cơ bản, lâu dài chứ không phải người lao động được hưởng ưu đãi nhiều hay ít. Còn đối với “ giám đốc, phó giám đốc doanh nghiệp cổ phần hoá được mua cổ phiếu ưu đãi không vượt quá mức cổ phần bình quân của các cổ đông trong doanh nghiệp” ( khoản 5, điều 8, nghị định 28/CP), chính đều này làm giảm nhẹ lòng nhiệt tình của ban giám đốc doanh nghiệp và tước bỏ những quyền lợi chính đáng mà họ được hưởng như những ngươi lao động bình thường. Vì vậy đề nghị bỏ quy định này và nên có chính sách đãi ngộ đối với ban quản lí, nhất là ở những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. 5. Phát triển hệ thống ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, đẩy nhanh sự phát triển của thị trường chứng khoán, đó là những công cụ đắc lực giúp tiến độ cổ phần hoá DNNN nhanh hơn. Chủ trương hình thành và đưa hoạt động thị trường chứng khoán (TTCK) ở nước ta đã có từ năm 1996. Đến việc ra đời của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước tiếp theo là sự ra đời của Trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiệp vụ về chứng khoán và TTCK, cuối cùng đến năm 2000 , Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên đã đi vào hoạt động từ đó tạo lòng tin của cổ đông vào các doanh nghiệp cổ phần hoá. Bởi vì khi cổ phiếu của công ty được niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán thì khi cần tiền mặt hoặc giảm lòng tin đối với công ty mà mình mua cổ phần, cổ đông có thể bán ngay cổ phần mà mình có tại TTCK. CTCP và TTCK là “ hai người bạn đồng hành” vốn có quan hệ nhân quả với nhau. Cái nọ là tiền đề để cái kia tồn tại và phát triển, tạo nên thị trường vốn. Điều này giúp làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia và là một biểu hiện cụ thể “ sức khoẻ” của nền kinh tế. Khi thị trường có chứng khoán, vốn nhàn rỗi của xã hội sẽ được thu hút vào đầu tư. Thế nhưng tính đến cuối năm 2000 cả nước có gần 400 CTCP mà chỉ có 4 công ty có cổ phiếu niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán. Phải chăng là quá ít? Vậy làm thế nào để thúc đẩy sự sôi động tại TTCK? Hiện nay Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đang gấp rút xây dựng một thị trường phi tập trung ( OTC ) có nghĩa là thị trường không tập trung một trung tâm nào mà giao dịch thẳng với nhau, giữa các công ty chứng khoán với nhau và giao dịch mua bán các loại chứng khoán. Nó có tính tích cực vì tạo ra cho người đầu tư cơ hội mua bán cổ phiếu của mình và tạo sự thông thoáng của vốn đầu tư. Tuy nhiên, quy định chỉ được bán cổ phiếu DNNN cổ phần hóa theo đúng mệnh giá đã làm cản trở sôi động của TTCK . Bởi vì người mua thì nhiều mà người bán không muốn bán do còn chờ ngang giá, mà để ngang giá được thì giá cổ phiếu của họ phải tăng gấp 4 lần ( đối với cổ phiếu được chia cổ tức 2%/tháng) vì khi tăng 2 lần thì số tiền bán được nếu đem gửi ngân hàng mới chỉ được 1/ 2 số cổ tức được chia ( nếu lãi suất ngân hàng là 0,6%/tháng). Sự ra đời của Trung tâm giao dịch chứng khoán tạo nên sự bất công là công ty ngoài quốc doanh được bán theo giá thị trường cao hơn nếu họ có uy tín và đã từng chia cổ tức cao, còn DNNN cổ phần hoá vẫn bị ràng buộc không được bán theo giá thị trường mặc dù có uy tín cao và hoạt động tốt. Vậy mong rằng quy định chỉ bán cổ phiếu DNNN cổ phần hoá theo đúng mệnh giá sẽ được điều chỉnh lại theo quy luật thị trường để khỏi mất đi vốn cổ phần dôi ra do uy tín của họ tạo nên. 6. Về quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp được cổ phần hoá. Nhằm bảo đảm sau khi CPH các doanh nghiệp thực thi “ cơ chế quản lí Nhà nước “ theo đúng luật công ty, ngoại trừ các DNNN nắm cổ phần đặc biệt, Nhà nước chỉ giữ 2 cổ đông làm đại diện: - Một là, đại diện của cục quản lí vốn nay là cục quản lí doanh nghiệp ( công ty tài chính) - Hai là, đại diện cơ quan chủ quản. Khi tiến hành Đại hội cổ đông để bầu HĐQT, hoặc giám đốc ( tổng giám đốc) doanh nghiệp, đại diện Nhà nước chỉ bỏ 2 phiếu không tuỳ thuộc vào số vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp nhiều hay ít . Như vậy, loại trừ khả năng Nhà nước dùng quyền khống chế để cử người vào HĐQT hay giám đốc theo ý đồ riêng, thì việc tiến hành như vậy bảo đảm quyền dân chủ rộng rãi trong bầu cử. Đề nghị Nhà nước nhanh chóng chấm dứt cơ quan chủ quản, để doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp số 13/1999/QH 10. Khi đó, đại diện vốn của Nhà nước chỉ còn một của Bộ tài chính. 7.Về chính sách hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp được cổ phần hoá Căn cứ nghị định 44/1998/NĐ-CP thì doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa được hưởng hai nội dung ưu đãi: Thứ nhất, là miễn thuế trước bạ khi chuyển sở hữu từ DNNN sang CTCP ; Thứ hai, là giảm 50% thuế lợi tức 2 năm liên tiếp sau khi chuyển sang hoạt động theo Luật công ty. Những nội dung còn lại về thực chất không có gì đáng gọi là ưu đãi. Nhà nước nên có những chính sách thật sự ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp cổ phần như: * Giảm mức thuế thu nhậpCTCP thấp hơn các loại hình doanh nghiệp khác . * Miễn thuế thu nhập cho phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư. * Khi xác định giá trị doanh nghiệp để CPH nên theo giá “ thuận mua vừa bán”, không nên quá nặng về bên nào. * Không nên hạn chế số lượng cổ phần bán cho công nhân viên ( trừ giới lãnh đạo doanh nghiệp) và cho các nhà đầu tư nước ngoài. Số tiền thu được do bán cổ phiếu nên ưu tiên đầu tư lại cho doanh nghiệp cổ phần hoá. Trên đây là một số giải pháp cũng như vài kiến nghị nhỏ nhằm thúc đẩy hay đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các DNNN và khắc phục phần nào những bức xúc trong quá trình triển khai. II: Các biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh ở các CTCP Hiệu quả kinh doanh là một công cụ để đưa ra việc lựa chọn các phương án kinh doanh tối ưu; đánh giá được mức độ thực hiện các mục tiêu đã đề ra từ đó nhận rõ được các ưu nhược điểm của doanh nghiệp;đồng thời đánh giá được trình độ làm việc của CBCNV. Như vậy, tìm ra những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế là một vấn đề cần thiết của doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng sử dụng các nguồn lực cũng như nâng cao hiệu quả xã hội hay là đem lại lợi ích nhiều hơn cho cả doanh nghiệp, Nhà nước, người lao động và xã hội. Qua quá trình nghiên cứu, đã có rất nhiều tài liệu nêu lên các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, các giải pháp đó chủ yếu gồm: 1. Tăng cường quản trị chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế thị trường mở cửa và ngày càng hội nhập với khu vực và Quốc tế vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, vừa làm cho tính biến động của môi trường ngày càng lớn hơn. Đặc biệt khi mà các hiệp định thương mại quốc tế được ký kết giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới ngày càng xoá đi các rào cản thuế quan đối với các hoạt động sản xuất, nhập khẩu. Điều này đòi hỏi , trong khi quyết định và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, công tác hoạch định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, nhằm định hướng các mục tiêu kinh doanh, đảm bảo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phát triển đúng hướng và có hiệu quả trong môi trường kinh doanh đầy biến động. 1.1/ Hoạch định chiến lược kinh doanh Công tác hoạch định chiến lược kinh doanh phải được thiết lập một cách hoàn chỉnh theo quy trình 8 bước : 1.1.1 / Xác định nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược hiện tại. Công tác này đòi hỏi doanh nghiệp phải biết rõ năng lực của mình hay nói cách khác là phải biết mình là ai? mình đang ở đâu hay là đang kinh doanh trong điều kiện môi trường như thế nào? Từ đó thiết lập mục tiêu thật cụ thể rõ ràng, các mục tiêu đó có tính khả thi được HĐQT thông qua và chấp nhận. 1.1.2/ Phân tích các nguồn lực. Các doanh nghiệp trước khi thực hiện các mục tiêu cần phải đánh giá lại các nguồn lực mà mình đang sử dụng hầu hết các nguồn lực đó là: - nguồn nhân lực; - nguồn lực về tài chính; - nguồn lực về trang thiết bị mà mình có ; - vấn đề công nghệ thông tin ngày nay cũng là một nguồn lực của doanh nghiệp. Ngoài ra, điều kiện cần để việc thực hiện chiến lược đó thành công là việc biết cách phối hợp các nguồn lực đó lại, thêm vào đó là việc duy trì các nguồn lực này trong hiện tại và phát triển trong tương lai. Hầu hết ở các doanh nghiệp nguồn lực được phân tích chủ yếu là vốn hay tài chính của doanh nghiệp. Do vậy để phân tích nguồn lực này có một công cụ rất hữu hiệu đó là ma trận BCG (Boston Consuting Group) .Đây là ma trận xác định các yêu cầu và đánh giá thực trạng tài chính của các doanh nghiệp thông qua vấn đề tăng trưởng thị phần. Ngoài ra nên kết hợp với việc phân tích chuỗi giá trị bởi đây là nguồn gốc để lựa chọn lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. 1.1.3/ Thăm dò môi trường. Việc thăm dò môi trường kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những bước khá quan trọng trong vấn đề hoạch định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi ở đây các doanh nghiệp mới thấy được hết những nguy cơ cũng như những cơ hội của mình trong môi trường kinh doanh như các vấn đề về: lạm phát ; lãi suất ; tăng trưởng kinh tế quốc dân; tỷ giá hối đoái ; chính trị luật pháp ; khoa học kĩ thuật công nghệ; văn hoá xã hội...Bên cạnh đó nghiên cứu được môi trường nội bộ bên trong cũng đáng phải quan tâm, vì đó là những cơ sở trực tiếp tạo nên hiệu quả kinh doanh. Môi trường nội bộ doanh nghiệp bao gồm các vấn đề sau để quan tâm: - Vấn đề quản lí vật tư đối với CTCP sản xuất - Phân tích về công tác nghiên cứu và phát triển doanh nghiệp gọi tắt là R&D - Hoạt động Marketing góp một phần không nhỏ vào vấn đề tăng doanh thu của doanh nghiệp. - Các vấn đề quản lí về nhân lực, cơ cấu tổ chức. - Đặc biệt là các vấn đề về tài chính vì ở đây CTCP có tài chính liên quan đến nhiều người nên công tác thăm dò tài chính rất quan trọng ... 1.1.4/Dự đoán các biến cố có thể xảy ra Từ việc thăm dò môi trường doanh nghiệp đã xác định được phần nào các cơ hội cũng như những điểm mạnh mà mình có . Do vậy việc dự đoán các biến cố là đương nhiên . Đối với các CTCP thì biến cố chủ yếu tập trung ở các vấn đề về cổ phần cổ tức và những biến động trên thị trường chứng khoán. Vì vậy CTCP cần phải theo dõi thường xuyên hoạt động của TTCK ở trong nước và cả quốc tế. Để dự báo các biến cố CTCP nên phân tích môi trường theo mô hình 5 lực lượng. Đối thủ tiềm năng Nhà cung cấp Các công ty cạnh tranh Khách hàng Sản phẩm thay thế Qua mô hình này , doanh nghiệp có thể phân tích được các mối đe doạ từ các đối thủ tiềm năng, nhà cung cấp , khách hàng, các sản phẩm thay thế và các công ty trong ngành. Cộng thêm đó là kết hợp ma trận SWOT để thiết lập các điểm mạnh với cơ hội , điểm mạnh với nguy cơ, điểm yếu với cơ hội, điểm yếu với nguy cơ. Từ đó phát triển những mặt tốt , hạn chế hay tháo bỏ những tồn tại và tìm ra cái may trong cái rủi , tìm bẫy trong những cái tưởng như rất tốt. 1.1.5/ Lựa chọn các chiến lược Đây là khâu trọng yếu,lựa chọn đúng chiến lược sẽ mang lại thành công hiệu quả cho doanh nghiệp và ngược lại nếu chọn sai sẽ dẫn đến thất bại . Công ty sẽ chọn chiến lược tăng trưởng, chiến lược ổn định hay chiến lược cắt giảm kinh doanh cho công ty mình hoàn toàn phải dựa vào những phân tích ở trên để quyết định. Với các CTCP còn vấn đề mở rộng vốn, huy động vốn thông qua bán cổ phiếu vì vậy số lượng cổ phiếu cần bán ra của công ty càng phải được cân nhắc kỹ lưỡng và phải được sự nhất trí thông qua của HĐQT. Với những công ty có mục tiêu tăng quy mô, tăng doanh thu, cũng như lợi nhuận thì nên mạnh dạn chọn chiến lược tăng trưởng. Còn hầu hết các công ty đều chọn chiến lược ổn định vì các CTCP này mới hoạt động nếu chọn chiến lược tăng trưởng thì tốn rất nhiều chi phí cho việc nghiên cứu thị trường... Đối với chiến lược cắt giảm thì các CTCP hiện nay chưa cần áp dụng vì chiến lược này chỉ dành cho các công ty ở vào vị trí “ tiến thoái lưỡng nan” 1.1.6/Xây dựng chiến lược thay thế. Trước môi trường thường xuyên biến động, thì chiến lược đã được lựa chọn chưa hẳn đã giúp được doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy phải có chiến lược dự phòng để có thể tận dụng cơ hội hoặc phòng tránh nguy cơ khi có những rủi ro bất thường xảy ra mặc dù điều này đã được dự báo trước. 1.1.7/Xác định các nhiệm vụ nhằm thực hiện các chiến lược đã chọn. Cần phải thiết lập các chương trình, chính sách cho việc thực hiện chiến lược được đồng bộ và hoàn chỉnh. Cái cần quan tâm lớn nhất ở đây là phải sắp xếp làm sao cho các phòng ban trong doanh nghiệp thực hiện chiến lược một cách thống nhất, nhịp nhàng, phối hợp ăn ý với nhau. Từ đó đòi hỏi các nhà quản trị cần phải có những quy định cụ thể, rõ ràng trong việc thực hiện các chiến lược đã đề ra. 1.1.8/ Xây dựng công tác kiểm tra và đánh giá. Trong công ty cổ phần thì việc kiểm tra là khá quan trọng, bởi mỗi hoạt động kinh doanh của công ty liên quan tới các cổ đông nên các cổ đông đòi hỏi phải có công tác kiểm tra trong việc lựa chọn chiến lược và công tác triển khai. Chính vì vậy việc xây dựng một hệ thống kiểm tra là rất xác đáng trong công tác hoạch định chiến lược của doanh nghiệp, đặc biệt là CTCP. 1.2/ Các chiến lược chính nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh Để tăng doanh thu thì phải giảm chi phí, phải khác biệt hoá sản phẩm để bán được nhiều và mở rộng thị phần . Từ những nét cơ bản như vậy đã hình thành nên các chiến lược: dẫn đầu về chi phí; khác biệt hoá sản phẩm và trọng tâm hoá. Mục tiêu của các chiến lược này được thể hiện ngay ở tên gọi của nó.Đặc điểm , ưu nhược điểm của các chiến lược nay được thể hiện như sau: Dẫn đầu về chi phí Khác biệt hoá sản phẩm Trọng tâm hoá Thị trường ít Nhiều ít Sự khác biệt hoá về sản phẩm Thấp Cao Hoặc cao hoặc thấp Năng lực đặc biệt cần chú trọng Quản trị sản xuất Quản trị NVL R&D Marketing Mọi năng lực Như vậy lựa chọn chiến lược nào thì tuỳ thuộc vào tình hình của doanh nghiệp ấy. 2. Quyết định mức sản xuất và xác định điểm hoà vốn. Mọi doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận.Các CTCP cũng không ngoại trừ như vậy ngoài việc làm thế nào để nâng cao tỷ lệ cổ tức và thu nhập cho mọi người . Công thức để tối đa hoá lợi nhuận ở các doanh nghiệp đều phổ biến MC = MR và điểm hoà vốn là điểm có: FC Q = --------------- P – AVC Trong đó MC là chi phí kinh doanh biên để sản xuất ra 1 đơn vị sản phẩm. MR là doanh thu biên thu được từ 1 đơn vị sản phẩm Q là lượng đơn vị sản phẩm tại điểm hoà vốn FC là chi phí kinh doanh cố định P là giá bán 1 đơn vị sản phẩm AVC là chi phí biến đổi bình quân để sản xuất 1 đơn vị sản phẩm. Từ quyết định mức sản xuất cho doanh nghiệp, chắc chắn doanh nghiệp sẽ không bị đi đến bị thừa hay thiếu sản phẩm sản xuất ra và ổn định lợi nhuận của mình. Tuy nhiên cần tính đến những loại hàng hoá mang tính mùa vụ, và mang tâm lí thị hiếu nhất thời mà doanh nghiệp cần tính toán thời cơ để đem lại lợi nhuận cao nhất. 3. Phát triển trình độ và tạo động lực cho đội ngũ lao động kết hợp với công tác quản lí và hệ thống thông tin. Lao động sáng tạo của con người là nhân tố quyết định hiệu quả kinh doanh. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp : * xây dựng cơ cấu lao động tối ưu, đảm bảo đủ việc làm trên cơ sở phân công và bố trí lao động hợp lí phù hợp với năng lực, sở trường và nguyện vọng của mỗi người. * Khi giao nhiệm vụ phải xác định rõ chức năng nhiệm vụ của mỗi người cũng như quyền hạn trách nhiệm. * Phải chú trọng đến công tác vệ sinh công nghiệp và các điều kiện về an toàn lao động cũng như tạo điều kiện làm việc lành mạnh cho họ. * Một mặt nữa là cần tạo động lực cho người lao động với các hình thức khen thưởng xác đáng, kịp thời cũng như kỷ luật nghiêm minh tạo môi trường công bằng cho mỗi thành viên. * Đối với CTCP người lao động ở đây cũng có thể là 1 cổ đông do vậy cần phải gắn trách nhiệm của họ với quyền lợi hay lợi tức mà họ sẽ được hưởng sau này. * Bộ máy quản trị của CTCP nhất thiết phải tránh tình trạng kồng kềnh nhiều ban bệ như trước. Với một bộ máy quản trị gọn nhẹ như vậy thì ngoài những người trong HĐQT thì những cán bộ quản lý phải được sắp xếp đúng vị trí phù hợp với trình độ chuyên môn ngay từ khi công ty tổ chức bộ máy quản trị nhằm bảo đảm tính linh hoạt, năng động trước những thay đổi của môi trường kinh doanh. * Cũng như người lao động, các cán bộ quản lý cũng được xác định rõ ràng chức năng nhiệm vụ của mình đồng thời cần làm rõ trách nhiệm và quyền hạn của mỗi cá nhân ở từng vị trí được quy định ở trong điều lệ của công ty. Tuy nhiên những quy định này không được làm cản trở sự sáng tạo mà phải có nguyên tắc phát huy tính chủ động của họ. * Thiết lập hệ thống thông tin là nhiệm vụ không thể thiếu để đảm bảo tính công bằng và sự đoàn kết trong công ty. Do vậy các thông tin cần phải được cung cấp thường xuyên đối với loại phổ biến và cung cấp đúng địa chỉ với loại thông tin nội bộ. Các thông tin phải luôn được cập nhật nhất là phải phù hợp với lĩnh vực công ty đang kinh doanh sao cho các thông tin vẫn bảo đảm được chi phí kinh doanh trong việc thu thập xử lý . 4. Phát triển công nghệ kỹ thuật Một lí do khiến cho các CTCP dẫn đến làm ăn kém hiệu quả là do công nghệ kỹ thuật lạc hậu cũ kỹ nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm không tốt... Sau khi chuyển đổi, do yêu cầu đòi hỏi bắt buộc các CTCP phải đầu tư đổi mới thiết bị, nâng cao trình độ công nghệ để phát triển lâu dài. Để quyết định đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ cần giải quyết các vấn đề: * Thứ nhất, phải dự đoán cung- cầu trên thị trường, tính cạnh tranh, nguồn lực cần thiết liên quan đến loại hàng hoá doanh nghiệp sẽ đầu tư. * Thứ hai, phải phân tích đánh giá và lựa chọn công nghệ phù hợp. Các trường hợp công nghệ lỗi thời, thiết bị bãi rác, gây ô nhiễm môi trường... đều đã ẩn chứa nguy cơ sử dụng không có hiệu quả của chúng trong tương lai. * Thứ ba, phải có giải pháp huy động và sử dụng vốn đúng đắn. Nếu dự án đổi mới thiết bị không được bảo đảm bởi các điều kiện huy động vốn và sử dụng vốn cũng đều chứa đựng những nguy cơ thất bại, không đem lại hiệu quả. Trong quá trình sản xuất kinh doanh hiện nay, các hướng chủ yếu nhằm đổi mới và phát triển kỹ thuật công nghệ là: - Nâng cao chất lượng quản lý công nghệ kỹ thuật, từng bước hoàn thiện quản trị đúng định hướng chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000. - Nghiên cứu,đánh giá để có thể chuyển giao công nghệ một cách có hiệu quả, tiến tới làm chủ công nghệ và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. - Nghiên cứu, đánh giá và nhập các loại thiết bị máy móc phù hợp với trình độ kỹ thuật, năng lực tài chính; từng bước quản trị và sử dụng có hiệu quả thiết bị máy móc hiện có. - Nghiên cứu sử dụng vật liệu mới và vật liệu thay thế theo nguyên tắc nguồn lực dễ kiếm hơn, rẻ tiền hơn và vẫn bảo đảm chất lượng sản phẩm. - Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin tin học trong mọi lĩnh vực quản lí kỹ thuật và mọi hoạt động quản trị sản xuất khác. 5. Tăng cường và mở rộng quan hệ cầu nối giữa các doanh nghiệp và xã hội. Cùng với sự phát triển và mở rộng thị trường, sự phụ thuộc giữa các doanh nghiệp với thị trường cũng như giữa các doanh nghiệp vơi nhau càng chặt chẽ. Doanh nghiệp nào biết khai thác tốt thị trường cũng như các quan hệ bạn hàng doanh nghiệp đó có cơ hội phát triển kinh doanh. Muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao, doanh nghiệp phải biết tận dụng cơ hội, hạn chế khó khăn, tránh các cạm bẫy... Muốn vậy doanh nghiệp cần phải: * Giải quyết tốt các mối quan hệ với khách hàng. Khách hàng là đối tượng duy nhất mà doanh nghiệp phải tận tuỵ phục vụ thông qua đó doanh nghiệp mới có cơ hội thu được lợi nhuận. * Tạo sự tín nhiệm, uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp trên thị trường. Chính uy tín, danh tiếng là cái “ không ai có thể mua được” nhưng lại là điều kiện đảm bảo lâu dài cho mọi doanh nghiệp. * Giải quyết tốt các mối quan hệ với các đơn vị tiêu thụ, cung ứng, các đơn vị kinh doanh có liên quan khác... Đây là điều kiện để doanh nghiệp có thể giảm được chi phí kinh doanh sử dụng các yếu tố đầu vào. * Giải quyết tốt mối quan hệ với các cơ quan quản lý vĩ mô vì chỉ trên cơ sở này mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới có thể thuận lợi , hiệu quả kinh doanh mới gắn chặt với hiệu quả xã hội. * Thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp là điều kiện không thể thiếu để phát triển kinh doanh bền vững. Trên đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng. Ngoài ra em xin nêu một số kiến nghị như sau: 1.Các CTCP trước hết phải nhanh chóng thống nhất và điều chỉnh hợp lý bộ máy quản trị, đồng thời bầu ra HĐQT là những người không chỉ có số lượng cổ phiếu cao mà còn phải là người có trình độ hiểu biết về các lĩnh vực kinh doanh,luật pháp... 2. CTCP ngoài những năng lực hiện có của mình như vốn, công nghệ kỹ thuật... còn phải biết nâng cao phát huy các năng lực ấy ngày càng phát triển. 3. CTCP phải hiểu rõ nắm bắt luật pháp để kinh doanh đúng luật . Cạnh đó cũng phải biết chỗ sơ hở của pháp luật mà luồn lách kinh doanh sao cho thu về khoản lợi nhuận tối đa. 4. Phải biết ứng dụng các nghệ thuật quản trị một cách khôn khéo như nghệ thuật dùng người, nghệ thuật ứng dụng các mẹo vặt vào trong sản xuất mà không làm thay đổi đến chất lượng sản phẩm và làm giảm các chi phí vô nghĩa. 5. Đặc biệt phải có những biện pháp giải trí, thi đua khích lệ tinh thần làm việc của người lao động vì họ có những sáng tạo mà công ty có thể sử dụng.Đồng thời dần dần đưa các công nghệ dây chuyền vào sản xuất nhằm nâng cao nâng suất lao động và phần nào giải phóng bớt sự nặng nhọc cho người lao động nhưng không có nghĩa là sa thải họ khi dây chuyền công nghệ được sử dụng. 6. Các CTCP phải dần dần đi vào các phương pháp quản trị mà được cả thế giới ứng dụng, đặc biệt phải áp dụng ISO 9000 và ISO 14000 để đảm bảo chất lượng sản phẩm từ đó mới mở rộng được thị trường quốc tế vì các chứng chỉ ISO là giấy phép thông hành cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường thế giới. 7. Các chiến lược được định ra thì phải nhất thiết thực hiện chúng một cách linh hoạt nhất, khéo léo nhất sao cho các chiến lược ấy phát huy hết công suất hay ưu điểm mà nó vốn có. 8. Một điểm cần nhấn mạnh nữa là cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Muốn vậy thì ngoài nâng cao các công nghệ kỹ thuật, hoạch định chiến lược rõ ràng thì cần phải : - Có chính sách giá cả hợp lý và do đó tìm mọi biện pháp giảm giá thành sản phẩm mà không làm giảm chất lượng sản phẩm. - Có chiến lược Marketing thật tốt để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, xúc tiến bán hàng và tìm ra lỗ trống trên thị trường để tiếp cận nó một cách nhanh chóng. - Tổ chức tốt dịch vụ sau bán hàng và linh hoạt trong phương thức thanh toán. - Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. 9.Phải không ngừng nâng cao uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, bạn hàng ở đây doanh nghiệp cần phải bảo đảm chữ Tín vì đó là một trong những điểm giúp cho doanh nghiệp kinh doanh thành công. 10. Và một điều cuối cùng em xin được kiến nghị là các CTCP cần thảo ra một bộ luật quản trị kinh doanh sao cho hợp với đạo đức. Vì ngày nay xu hướng trên thế giới luôn ủng hộ các doanh nghiệp kinh doanh hợp đạo lý con người, những chuẩn mực lẽ phải ngày càng được tôn vinh vì vậy nhất thiết doanh nghiệp phải có triết lý kinh doanh phù hợp với đạo đức xã hội, phù hợp với tôn giáo, phong tục tập quán địa phương văn hoá từng vùng . Thêm vào đó là vấn đề bảo vệ môi trường sống trong sạch. Kết luận Chủ trương cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước đã được và đang được tiếp tục thực hiện trong các năm qua bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định. Các kết quả ấy là một trong những dấu hiệu đổi mới của nền kinh tế nước ta khi có thêm bộ mặt của các công ty cổ phần. Trước những gì đã và đang làm được trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước thị chủ trương cổ phần hóa DNNN đã góp một phần nào đáng kể để chứng tỏ bước đi của Đảng và Nhà nước ta hoàn toàn là có tiến bộ, tuy rằng vẫn phải công nhận vẫn còn một số thiếu sót trong quá trình triển khai và còn những tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên hiệu quả đạt được không được như mong muốn. Nhưng những kết quả đó thật sự là những chuyển biến khắc phục các hậu quả của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp và là bàn đạp vững chắc cho các doanh nghiệp phát triển sự nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Trước ngưỡng cửa hoà nhập AFTA và WTO, Đảng và Nhà nước ta cần phải chủ động đối phó với mọi tình thế sao cho có lợi nhất đối với nền kinh tế nước nhà. Điều đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những chính sách đúng đắn phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Việc tham gia vào thị trường quốc tế là một thách thức cũng như một vận hội mới đối với Việt Nam Với đề tài nghiên cứu này em đã có bài học bổ ích cho việc nghiên cứu tiếp bài luận văn sau này và được hiểu rõ hơn các vấn đề kinh tế xung quanh em giúp em có kiến thức rộng và sâu hơn nữa khi trở thành nhà quản trị gia. Tài liệu tham khảo 1- Sách chuyên ngành QTKDTH 2- Sách hoạch dịnh chiến lược và phát triển kinh doanh doanh nghiệp 3- Sách luật kinh doanh 4- Sách đổi mới kinh tế Việt Nam - thực trạng và triển vọng của Đặng Đức Đạo 5- Sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (các văn bản hiện hành) của Viện Hành chính Quốc gia 6- Sách cổ phần hoá và chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phần của Đoàn Văn Hạnh 7- Các tạp chí thời báo - Thời báo kinh tế - Tạp chí tài chính - Tạp chí con người và sự kiện - v.v... Mục lục Lời mở đầu 1 Phần I: Những nét cơ bản về cổ phần hoá 3 I- Cổ phần hoá 3 1- Công ty cổ phần (CTCP) 3 2- Đặc điểm của CTCP 3 3- Cơ cấu tổ chức và điều hành CTCP 4 4- Việc phân chia lợi nhuận trong CTCP 4 II- Tại sao các doanh nghiệp phải cổ phần hoá 5 1- Thực trạng các doanh nghiệp Nhà nước trước khi cổ phần 5 2- Nguyên nhân của tình trạng này 6 III- Mục tiêu của Nhà nước khi tiến hành CPH 8 Phần II: Nhìn nhận của kết quả lao động của các CTCP 9 I- Nội dung cổ phần hoá 9 II- Quá trình triển khai cổ phần hoá 10 1- Giai đoạn thí điểm 1992 - 1995 11 2- Giai đoạn mở rọng từ năm 1996 đến nay 11 3- Những tồn tại trong quá trình triển khai công tác CPH 12 4- Một số biện pháp cơ lược để đẩy mạnh CPH DNNN 14 III: Một số hiệu quả kinh doanh bước đầu của các CTCP 14 1- Các kết quả bước đầu 15 2- Hiệu quả kinh tế ở một số Công ty điển hình 16 3- Một số hiệu quả khác 17 4- Phân tích một ví dụ cụ thể 17 5- Một số nhận định bước đầu 19 6- Những mặt còn hạn chế 20 Phần III: Giải pháp và một số kiến nghị nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả kinh doanh ở các Công ty cổ phần 22 I- Một số giải pháp nhằm đẩy nhan tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 22 1- Cần tạp sự thống nhất về nhận thức, quan điểm về chủ trương cổ phần hoá 22 2- Tạo môi trường pháp lý đầy đủ, đông bộ về CPH 23 3- Xác định giá trị doanh nghiệp để thực hiện CPH 23 4- Mệnh giá cổ phiếu và đối tượng mua cổ phiếu 25 5- Phát triển hệ thống ngân hàng thương mại, Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, đẩy nhanh sự phát triển của thị trường chứng khoán, đó là những công cụ đắc lực giúp tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nhanh hơn 26 6- Về quyền đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại doanh nghiệp được cổ phần hoá 27 7- Về chính sách hỗ trợ tài chính đôi với doanh nghiệp được cổ phần hoá 27 II- Các biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh ở các CTCP 28 1- Tăng cường quản trị chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp 28 2- Quyết định mức sản xuất và xác định điểm hào vốn 31 3- Phát triển trình độ và tạo đông lực cho đội ngũ lao động kết hợp với công tác quản lý và hệ thông thông tin 32 4- Phát triển công nghệ kỹ thuật 33 5- Tăng cường và mở rộng quan hệ cầu nối giữa các doanh nghiệp và xã hội 33 Một số kiến nghị 34 Kết luận 36 Tài liệu tham khảo 36

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0791.doc
Tài liệu liên quan