Thuế đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế hiện nay. Thuế là công cụ chủ yếu để tập hợp và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc đân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thuế được thu dựa trên cơ sở thu nhập xã hội nên nền kinh tế phát triển ổn định thì nguồn thu cũng ổn định. Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thuế phải bao quát hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội để đảm bảo thu đầy đủ và hợp lý.
Như vậy, để đảm bảo thuế là nguồn thu chủ yếu, ổn định của ngân sách Nhà nước thì cần có chính sách, hệ thống thuế phù hợp với khả năng của nền kinh tế, với sức đóng góp của nhân dân và giúp thực hiện mục tiêu kinh tế tăng trưởng cao và ổn định.
9 Điểm giống nhau và khác nhau giữa thuế, phí và lệ phí:
Thuế, phí và lệ phí giống nhau ở chỗ đều là khoản thu của ngân sách Nhà nước ; đều là một phần thu nhập của tổ chức, cá nhân đóng góp cho Nhà nước; đều chứa đựng tính quyền lực của Nhà nước
Ngoài ra, thuế và phí, lệ phí về mặt kinh tế còn khác nhau về mục đích sử dụng số tiền thu được và tính hoàn trả cho người nộp: mọi khoản thuế thu được đều tập trung vào ngân sách Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung của Nhà nước, nguồn thu cho mọi loại thuế không gắn với một mục đích chi nhất định. Trong khi phí, lệ phí thường gắn với một mục tiêu chi cụ thể cho một hoạt động cụ thể của Nhà nước. Mặt khác thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp và ngang giá như phí, lệ phí, chỉ khi được hưởng lợi ích hay dịch vụ công cộng mới phải nộp phí, lệ phí và khi phát sinh nhu cầu thì mới thu.
65 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 942 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả quản lý thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục thuế huyện Tân Châu, tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặc biệt, GDP trong ngành này năm 2001 tăng trưởng âm mà bây giờ lại đạt hơn 5%, tăng đến 16%. Nhờ đó khu vực thương mại dịch vụ cũng được vực dậy và sôi động trong cả năm, tăng 11,12% so năm trước với cơ cấu chiếm gần 45%. Ngành công nghiệp- xây dựng có giảm nhưng vẫn đạt mức
18,53%. Như vậy, xét về khía cạnh kinh tế thì thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp được thu tăng là điều tất yếu. Song, để có được mức tăng cao như thế thì phải kể đến đóng góp của công tác quản lý. Những nguyên nhân thúc đẩy tăng nguồn thu như là: công tác quản lý đối tượng nộp thuế được tăng cường hơn, Chi cục quan tâm khai thác triệt để nguồn thu trên cơ sở thực hiện đúng luật; công tác quản lý doanh số thuế đối với các doanh nghiệp, hộ cá thể được nâng chất lượng; thực hiện chế độ số sách kế toán hoá đơn, chứng từ ngày càng chuyên nghiệp, bài bản hơn; mở rộng diện hộ cá thể nộp thuế theo phương pháp khấu trừBên cạnh đó, từ đầu năm Chi cục thuế tiếp nhận trên 46 doanh nghiệp từ Cục chuyển về để tiếp tục quản lý sát hơn và tăng thu.
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại chủ yếu như: tính chuyên nghiệp của các cơ sở kinh doanh chưa cao; chủ yếu là buôn bán nhỏ, lẻ; không thực hiện đúng chế độ số sách kế toán do nhiều nguyên nhân như trình độ thấp nên ít hiểu biết về luật để tuân thủ cho đúng, cố tình làm sai để gian lận hay đơn giản hoá các thủ tục để việc mua bán được tiến hành nhanh chóng vì thực hiện trình tự theo luật định đôi khi đòi hỏi nhiều thời gianNhững gian lận thường thấy là lợi dụng quy trình tự tính thuế, tự kê khai thuế một số doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm trong kê khai nhằm mục đích trốn thuế như lập bảng kê khấu trừ đầu vào
khống, ghi giá mua cao hơn giá thực tế hoặc xuất hoá đơn thấp hơn giá thanh toán trong khi Chi cục thuế chỉ thu theo kê khai của doanh nghiệp, chỉ khi nhận thấy có biểu hiện trốn thuế mới tập trung kiểm tra, xử lý. Về phía cán bộ thuế đã có nhiều cố gắng nhưng ở khâu kiểm soát hộ và doanh số thuế, thanh tra, kiểm tra vẫn còn những tồn đọng, đáng chú ý là ở một số cán bộ thuế tinh thần trách nhiệm chưa cao.
3.1.3 Năm 2003:
Tổng thu ngân sách trên địa bàn là 47.374 triệu vượt 14,29% so dự toán pháp lệnh, vượt 8,16% so dự toán phấn đấu và tăng 42,44% so cùng kỳ 2002. Đây là năm thứ 3 của kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm (2001- 2005), ngành thuế liên tục hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn, số thu năm sau cao hơn năm trước, năm 2003 có số thu tăng hơn 2002 là 11.605 triệu đồng.
Tình hình thu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2003 như sau:
Bảng 5 : Tình hình thu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp
năm 2003:
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
pháp
Khoản mục
Chỉ tiêu
phấn
Thực
Chênh lệch thực thu so
Tỷ lệ đạt (%)
lệnh
đấu
thu
So So
So So
(CTPL)
(CTPĐ)
CTPL CTPĐ
CTPL CTPĐ
Thuế giá trị gia 16.025
16.560
16.828
803 268
105,01 101,62
tăng
Thuế thu nhập doanh nghiệp
4.575
4.575
5.208
633
633
113,84
113,84
Tổng cộng
20.600
21.135
22.036
1.436
901
106,97
104,26
Nguồn: Chi cục thuế huyện Tân Châu
Qua bảng ta thấy, thuế giá trị gia tăng có tăng nhưng không cao chỉ vượt
5,01% so chỉ tiêu pháp lệnh và hầu như bằng chỉ tiêu phấn đấu. Còn thuế thu
nhập doanh nghiệp có mức tăng cao hơn, vượt 13,84% so chỉ tiêu đề ra. Tính chung cả hai loại thuế thì tăng 6,97% so chỉ tiêu pháp lệnh, tăng 4,26% so chỉ tiêu phấn đấu với số tuyệt đối tương ứng là 1.436 triệu đồng và 901 triệu đồng. Qua đó cho thấy, mức đạt kế hoạch đề ra thấp hơn rất nhiều so năm trước. Điều này có thể được hiểu là tình hình thu thuế năm 2001 rất xấu nên khi nền kinh tế được vực dậy cộng thêm nhiều thay đổi tích cực trong cung cách quản lý giúp nguồn thu năm 2002 tăng đột biến so kế hoạch. Sang năm 2003, tình hình đi vào ổn định về mọi mặt nên kế hoạch đặt ra rất sát thực tế do vậy không vượt xa kế hoạch là điều dễ hiểu.
Cũng có thể lý giải thực trạng thu bằng hoàn cảnh lúc bấy giờ. Về kinh tế năm 2003, nền kinh tế đi vào ổn định và tiếp tục đà tăng trưởng của năm 2002 với mức tăng GDP đạt 10,6%, tương đương năm trước tuy có hơi chững lại. Ngành thương mại dịch vụ mỗi năm một chứng tỏ vai trò chủ đạo với cơ cấu mỗi năm mỗi tăng và hiện thời là 46,16%, đạt mức tăng trưởng là 14,03%. Có thể nói ngành thương mại dịch vụ là đầu tàu kéo cả con tàu kinh tế Tân Châu tiến trên con đường phát triển. Ngành này có bước tiến ngày càng vững chắc cũng một phần do ngành nông nghiệp từ 2002 đến nay tương đối ổn định, chính quyền có nhiều biện pháp giúp bình ổn ngành này cũng từ đó giúp đời sống nhân dân tiến bộ một bước cả về vật chất lẫn tinh thần. Khu vực công nghiệp- xây dựng đến nay vẫn giũ mức tăng trưởng đều đặn, tỷ trọng tiếp tục tăng đến 20,77% với tốc độ phát triển là 13,18%. Nhìn chung, những bước tiến đó giúp việc thu thuế diễn ra dễ dàng và có hiệu quả hơn.
Ngoài kinh tế, còn có những nguyên nhân như: công tác quản lý hộ được tăng cường, đặc biệt là hộ sổ sách kế toán; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế, hoàn thuếđể chống thất thu thuế; công tác phối hợp giữa Chi cục thuế và các cơ quan ban ngành phát huy hiệu quả rõ rệt; Chi cục thuế đặt ra chỉ tiêu từ đầu năm và quyết tâm thu vượt kế hoạch. Còn với các doanh nghiệp công tác quản lý hộ, doanh số có nhiều tiến bộ. Trái với những viễn cảnh tươi đẹp trên thì vẫn còn đó những tồn tại, đó là: các doanh nghiệp, hộ mở số sách kế toán chưa kê khai trung thực kết quả kinh doanh, vẫn còn tình trạng hộ lớn có mức thuế thấp hơn hộ nhỏ; công tác quyết toán và
kiểm tra quyết toán thuế đối với các tổ chức và hộ cá thể sản xuất kinh doanh cũng mới chỉ đạt kết quả bước đầu, mức độ phát hiện vi phạm chưa sâu, tỷ suất lợi nhuận đạt được còn thấp
3.1.4 Qua 3 năm:
Để có được cách nhìn tổng quan hơn về sự phát triển trong hiệu quả công tác thu thuế, ngoài đánh giá kết quả đạt được so chỉ tiêu thì cần đặt chúng trong mối liên hệ theo thời gian, tức là qua các năm, cụ thể là qua 3 năm gần đây, từ 2001 đến 2003.
Bảng 6: Tình hình thu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp qua 3 năm (2001- 2003)
ĐVT: triệu đồng
Thực thu Chênh lệch Tỷ lệ đạt (%)
Khoản mục
2001 2002 2003
2002 so
2001
2003 so
2002
2002 so
2001
2003 so
2002
Thuê giá trị gia tăng 6.875 12.252 16.828 9.953 4.576 178,18 137,35
Thuế thu nhập doanh
nghiệp
5.437 5.375 5.208 -229 -176 98,86 96,89
Tổng cộng 12.312 17.627 22.036 9.724 4.400 143,17 125,01
Nguồn: Chi cục thuế huyện Tân Châu
Biểu đồ1: Tình hình thu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp
qua 3 năm
Triệ u đồng
18.000
16.000
14.000
12.000
10.000
12.252
16.882
Thuế giá trị
gia tăng
8.000
6.000
4.000
2.000
0
6.875
5.437
5.375
5.208
Thuế thu nhập doanh nghiệp
2001 2002 2003 Năm
Qua bảng ta thấy, tổng thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp có xu hướng tăng mạnh, mức tăng năm 2002 so năm 2001 lên đến
43,17%, cao hơn 4 lần tốc độ tăng GDP 2002 của huyện. Mức tăng tổng thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 so 2002 có giảm nhiều nhưng vẫn còn rất cao, đến 25,01%. Xét chung là như thế nhưng thật ra chỉ có thuế giá trị gia tăng là tăng cực kỳ cao còn thuế thu nhập doanh nghiệp có xu hướng giảm nhẹ. Trong khi thuế giá trị gia tăng tăng tăng đến 78,18% thì thuế thu nhập doanh nghiệp giảm 1,14% kéo theo tổng cộng chỉ tăng 43,17% đối với cả 2 loại khi so sánh giữa 2002 và 2001. Tương tự như thế, khi so giữa
2003 và 2002, thuế giá trị gia tăng tiếp tục tăng cao, đạt 37,35% và thuế thu nhập doanh nghiệp tiếp tục giảm là 3,11%. Nguồn thu chẳng những tăng vượt chỉ tiêu hằng năm lại còn tăng đều và tăng cao qua 3 năm. Điều này là tín hiệu tốt cho công tác thu thuế năm sau đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi toàn Chi cục phải phấn đấu nhiều, nhiều hơn nữa để giữ đà tăng như hiện nay để cho mũi tên chỉ xu hướng phát triển chỉ có hướng lên chứ không dốc
xuống.
Để đạt được thành quả đáng tự hào như thế thì không thể không kể đến sự quan tâm chỉ đạo sâu sát kịp thời, có hiệu quả của Cục thuế tỷnh An Giang, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện cùng nhiều ban ngành có liên quan, tinh thần làm việc hết mình của các cán bộ thuế cùng với một bộ phận không nhỏ
các cơ sở kinh doanh làm giàu chân chính- họ kinh doanh có hiệu quả đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ công dân của mình là nộp thuế đầy đủ, đúng kỳ.
Tóm lại, thành công ở trên không của riêng ai, riêng cơ quan nào mà là sự phối hợp hợp lý cùng vì lợi ích chung của mọi người, mọi tổ chức trong môi trường kinh doanh thông thoáng, ổn định nhờ các quy định, chính sách của Nhà nước ngày càng thiết thực. Có thể nói nôm na bằng câu nói của ông bà ta là: “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, không hẳn 3 yếu tố đó đã được thể hiện một cách trọn vẹn nhưng ở chừng mực nào đó cũng là quá tốt trong điều kiện chúng ta chưa thật sự “vững bước” trong nền kinh tế thị trường.
3.2 Phân tích tình hình thanh tra- kiểm tra:
Công tác thanh tra, kiểm tra là khâu không thể thiếu trong chu trình quản lý thuế. Đây là công tác giúp rà soát lại những điểm đạt và chưa đạt để có hướng phát huy, khắc phục.
3.2.1 Tình hình thanh tra- kiểm tra quyết toán thuế:
Việc quyết toán thuế do doanh nghiệp tiến hành hằng năm với cơ quan thuế, cơ sở kinh doanh có nhiệm vụ nộp báo cáo quyết toán đúng hạn, kê khai đúng, đủ số thuế phải nộptheo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặc dù có luật định nhưng vẫn có nhiều hộ kinh doanh vi phạm, điển hình là những sai phạm như: sử dụng hoá đơn không đúng qui định, ghi không đầy đủ các khoản mục; việc ghi chép sổ sách kế toán không kịp thời; bán hàng không lập hoá đơn; vận chuyển hàng hoá không hoá đơn chứng từ.
Trong khi đó công tác quản lý còn bộc lộ nhiều yếu kém cả về khách quan lẫn chủ quan. Bởi không dễ dàng gì để quản lý thật sát hơn 1.000 hộ kinh doanh trên cả địa bàn huyện rộng lớn mà không mắc phải sai sót. Và Chi cục thuế có hàng trăm nhân viên làm nhiệm vụ. Để đảm bảo phát hiện kịp thời cho khắc phục và xử lý thì công tác thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế là rất quan trọng.
Bảng 7: Tình hình thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế 3 năm vừa qua:
Năm
2001
2002
2003
Số hộ kiểm tra
49
29
45
Số hộ vi phạm
36
29
26
Số tiền vi phạm
(triệu đồng)
22
35
225
Nguồn: Chi cục thuế huyện Tân Châu
Qua bảng nhận thấy, số hộ vi phạm có giảm qua 3 năm nhưng số tiền vi phạm lại tăng lên nhiều lần. Năm 2003, số tiền vi phạm tăng hơn 10 lần 2001, trong 225 triệu đồng vi phạm có truy thu 149 triệu, phạt thuế 53 triệu, phạt hành chính 23 triệu và số đã thu là 102 triệu, còn phải thu 123 triệu. Trong khi số tiền vi phạm của 2 năm trước đều được thu đủ nộp vào ngân sách thì trong năm
2003 còn tồn hơn 100 triệu. Điều này cho thấy số thu thuế bị gian lận, trốn thuế cũng lớn dần theo sự lớn mạnh của các cơ sở kinh doanh. Các công ty, doanh nghiệp tồn tại càng lâu năm trên thị trường thì thường càng có nhiều mánh khóe để trốn thuế. Nhưng trái lại, công tác quản lý cũng như thanh tra, kiểm tra bộc lộ nhiều sơ hở vô hình chung tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho các cơ sở kinh doanh làm sai. Số tiền vi phạm phát hiện được ví như bề nổi của tảng băng trôi, còn mặt chìm thì không thể tính toán được do số hộ kiểm tra còn quá thấp. Kế hoạch đặt ra cho năm 2001 là có 113 hộ được thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế nhưng thực tế chỉ có 49 hộ, kế hoạch cho năm 2002, 2003 cũng hơn 100 hộ nhưng cũng chỉ có 29 hộ cho năm 2002, 45 hộ cho năm 2003. Số hộ được kiểm tra quá thấp khó thể phản ảnh được tình trạng quyết toán thuế của các doanh nghiệp ra sao. Nhưng chắc chắn rằng nó thể hiện được công tác thanh tra, kiểm tra còn khá sơ sài, qua loa.
Biểu đồ 2: Tình hình thanh tra, kiểm tra quyết toán theo hộ
Hộ
60 49
50
40 36
30
20
10
0
45
29 29 26
Số hộ kiểm tra
Số hộ vi phạm
2001 2002 2003
Năm
Đây là vấn đề nghiêm trọng đặt ra cần được giải quyết triệt để.Với thực trạng như các năm qua, tình trạng thất thu sẽ tiếp diễn và càng trầm trọng hơn.
3.2.2 Tình hình thanh tra, kiểm tra hoàn thuế giá trị gia tăng:
Trong 3 năm vừa qua, trên địa bàn huyện có rất ít hộ được hoàn thuế do số tiền được hoàn thấp nên các hộ thường để trừ dần vào các lần nộp thuế sau.
Bảng 8: Tình hình thanh tra, kiểm tra hoàn thuế (2001-2003)
Năm
2001
2002
2003
Số hộ kiểm tra
8
7
6
Số hộ vi phạm
6
7
6
Số tiền vi phạm
(ngàn đồng)
7,298
15
18
Nguồn: Chi cục thuế huyện Tân Châu
Năm 2001, tổng số thuế giá trị gia tăng phải hoàn cả năm là 1.283 triệu cho 34 hộ, có 4 hộ được hoàn với số tiền 616 triệu còn lại 30 hộ chưa được hoàn. Năm 2002, số tiền hoàn thuế chỉ còn 15 triệu đồng cho 7 lượt doanh nghiệp. Sang năm 2003, hoàn thuế cho chỉ còn 6 doanh nghiệp với số tiền là
18 triệu đồng. Như vậy, ưu điểm của thuế giá trị gia tăng ở khâu hoàn thuế đã không phát huy tốt trong thực tế huyện Tân Châu.
Tuy số hộ và số tiền hoàn thuế thấp nhưng theo nguyên tắc thì công tác thanh tra, kiểm tra hoàn thuế vẫn được tiến hành.
Biểu đồ 3: Tình hình vi phạm hoàn thuế
Triệu đồng
20
15
10
18
15
7,298
5
0
2001 2002 2003 Năm
Theo bảng, tỷ lệ vi phạm là rất cao, hầu như là 100% số hộ vi phạm qua các năm. Vi phạm ở đây chủ yếu là do chủ các cơ sở kinh doanh có trình độ hiểu biết thấp, áp dụng không đúng chế độ sổ sách kế toán, thực hiện không đúng Luật thuế giá trị gia tăng về hoàn thuế nên vi phạm. Cũng có trường hợp do gian lận trong hoá đơn, chứng từ nhằm giảm thiểu số thuế giá trị gia tăng phải nộp đến mức thuế đầu vào lớn hơn thuế đầu ra trong nhiều tháng liên tiếp nên được hoàn thuế. Khi được hoàn thuế, các hộ này bị thanh tra, kiểm tra nên bị phát hiện là gian lận
3.2.3 Tình hình thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành:
Ngoài thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế, hoàn thuế thì Chi cục thuế rất quan tâm đến công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành. Chi cục thuế có hơn
100 nhân sự đảm trách nhiều công việc mang tính nghiệp vụ cao, được bố trí ở nhiều địa bàn, nắm giữ nhiều quyền và có nhiều nhiệm vụ. Vì vậy, rất cần công tác thanh tra, kiểm tra các cán bộ để đảm bảo họ hoàn thành tốt nhiệm vụ và không làm điều sai trái, nếu có thì phát hiện kịp thời để xử lý đúng người, đúng luật. Cụ thể như: thông qua công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành nhằm thực hiện đúng các quy trình nghiệp vụ do ngành hướng dẫn, chấn chỉnh kịp
thời những vụ việc sai phạm, chưa hợp lý trong công tác quản lý thu thuế; phát hiện ngăn chặn kịp thời những vi phạm của cán bộ thuế trong công tác quản lý thu thuế như lợi dụng quyền hạn gây khó khăn sách nhiễu, giải quyết vụ việc sai luật thuếChấn chỉnh kịp thời việc cán bộ thuế vi phạm 10 điều kỉ luật của ngành về thái độ, tác phong, ngôn phong khi làm việc hay tiếp xúc với đối tượng nộp thuế
Công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ thể hiện ở những công tác như: kiểm tra công tác quản lý biên lai, ấn chỉ thuế; kiểm tra quy trình quản lý thuếQua kiểm tra, nhận thấy công tác quản lý cấp phát, sử dụng, thanh toán biên lai, ấn chỉ thuế được thực hiện đúng theo quy trình hướng dẫn của ngành nhưng vẫn còn một vài trường hợp vi phạm trong thanh quyết toán biên lai là thanh toán biên lai chậm so quy định, phát hiện một số trường hợp chiếm dụng xâm tiêu tiền thuế, đã được xử lý và thu hồi nộp ngân sách Nhà nước. Đối với quy trình quản lý thuế, qua kiểm tra nhìn chung hầu hết các đội thuế đều thực hiện tốt. Tuy nhiên, vẫn còn những khâu chưa tốt như quản lý sót hộ, niêm yết mức thuế, danh sách miễn, giảm thuế chưa thường xuyên, kịp thời; còn để nợ đọng quá cao Mỗi năm đều có một số cán bộ vi phạm và bị xử lý kỉ luật, trung bình khoảng 6 đến 7 người, tuỳ mức độ vi phạm mà áp dụng hình thức kỉ luật từ khiển trách đến cảnh cáo, thậm chí là cách chức, miễn nhiệm, điển hình là năm
2002 có 2 cán bộ bị cách chức.
Do vậy, công tác này cần được thường xuyên quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo Chi cục thuế; công tác thanh tra, kiểm tra cần đúng đối tượng, có nghiên cứu và xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn; công tác kiểm tra nội bộ ngành phải phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm của cán bô thuế để xử lý ngay; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hộ kinh doanh để từ đó giảm thất thu thuế.
Ngoài những công tác chủ yếu được thanh tra, kiểm tra thường xuyên thì thanh tra, kiểm tra còn thể hiện ở tất cả các khâu của quá trình thu và quản lý thuế, ở bất cứ khâu nào có thể xảy ra sai phạm thì có công tác thanh tra, kiểm tra giám sát. Tóm lại sai phạm có thể xảy ra ở bất cứ ai, bất cứ khi nào bởi vì có quá nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan, quá dễ để sai
phạm nhưng để làm đúng, làm tốt thì không dễ dàng gì. Trong 3 năm qua, công tác thanh tra, kiểm tra đã được hoàn thiện nhiều và có những bước tiến rõ rệt. Song như thế vẫn chưa đủ để đối phó với mức độ sai phạm ngày một hết sức tinh vi, đa dạng.
CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG, THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP TẠI CHI CỤC THUẾ HUYỆN TÂN CHÂU TỈNH AN GIANG
Thuế là nguồn thu quan trọng trong tổng thu từ kinh tế trên địa bàn huyện Tân Châu. Nguồn thu từ thuế đóng vai trò lớn trong việc giúp phát triển kinh tế xã hội. Quản lý thuế có hiệu quả cũng tức là tăng nguồn thu thuế từ đó phục vụ cho nhu cầu chi cho xây dựng, phát triển tốt hơn.
Chi cục thuế hoạt động có hiệu quả hay không được đánh giá dựa vào các công tác quản lý. Trong những năm vừa qua cơ quan đã đạt được nhiều thành quả đáng kể.
4.1 NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ TRONG 3 NĂM VỪA QUA:
Đến nay, Chi cục thuế có bề dày hoạt động gần 15 năm. Trong khoảng thời gian đó, Chi cục đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ chiến lược và luôn thu vượt mức chỉ tiêu được giao.
Để đạt được những thành quả như vừa qua là nhờ sự chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền các cấp, sự phối hợp của các ngành có liên quan, nhất là giữa các cơ quan tài chính địa phương tập trung quản lý tốt những nguồn thu còn nhiều tiềm năng để khai thác tăng thu cho ngân sách Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho Chi cục hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Bảng 9 : Tình hình thu từ kinh tế địa bàn từ năm 1991 đến 2003:
ĐVT: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
Thực thu
% đạt chỉ tiêu
1991
10.814
12.407
114,73%
1992
9.969
11.250
112,85%
1993
14.048
14.887
105,97%
1994
13.774
13.898
100,90%
1995
14.407
19.738
137,00%
1996
24785
24.787
100,01%
1997
25.611
34.417
134,38%
1998
28.235
30.313
107,36%
1999
27.683
34.956
126,26%
2000
34.697
37.716
108,70%
2001
31.923
34.648
108,54%
2002
34.000
35.769
105,20%
2003
43.800
47.374
108,16%
Nguồn: Chi cục thuế huyện Tân Châu
Biểu đồ 4: Tình hình thu thuế từ kinh tế địa bàn (1991-2003)
100000
Triệu đồng
90000
80000
70000
60000
50000
40000
Thực thu
Chỉ tiêu
30000
20000
10000
0
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Năm
Nhìn chung, trong những năm qua công tác quản lý thuế đạt được nhiều thành quả. Công tác quản lý thuế được chuyển từ chế độ chuyên quản khép kín sang chế độ người nộp thuế tự kê khai, tính thuế và nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế đã đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của người nộp thuế. Cơ quan thuế thực hiện chức năng tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn, đôn đốc thu nộp kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm về thuế đã có những cải tiến như: thủ tục về đăng ký, kê khai nộp thuế, miễn giảm thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế theo hướng đơn giản rõ ràng hơn; xây dựng lại quy trình quản lý thuế đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, quy trình nộp thuế, quy trình thanh tra, kiểm tra
Tổ chức quản lý thuế hiện nay được tách thành 3 bộ phận độc lập: bộ phận cấp đăng ký mã số thuế, nhận và kiểm tra tờ khai thuế; bộ phận tính thuế, thông báo nộp thuế và đôn đốc thu nộp thuế; bộ phận thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm về thuế đã hạn chế được những tiêu cực trong quản lý theo kiểu “khép kín” trước đây.
Việc cấp mã số thuế cho đối tượng nộp thuế là một bước tiến đáng kể trong việc quản lý thuế, phù hợp với yêu cầu quản lý thuế hiện đại, đảm bảo được quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế.
Những thành quả của đơn vị thường được đánh giá qua những con số nhưng ở đây thật thiếu sót khi không kể đến cái hồn của những con số khô khan đó_những người tạo nên chúng. Họ là đội ngũ cán bộ- công nhân viên thuế và cả những đơn vị hỗ trợ, hợp tác đã đóng góp nhiều công sức, tâm huyết để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra mỗi năm một nặng nề hơn. Trong 3 năm qua, ngoài công tác thu được ghi nhận là đạt hiệu quả thì tất cả công tác khác đều có những bước tiến riêng. Để có được thành công của cả đơn vị thì mỗi bộ phận đều có đóng góp. Sự đóng góp đó thể hiện cụ thể qua:
4.1.1 Tổ chức bộ máy quản lý:
Tổ chức cán bộ là khâu quyết định thành công trong công tác thuế, do vậy tập trung sức xây dựng cơ quan thuế thành những tổ chức trong sạch vững mạnh với đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có nghiệp vụ chuyên môn cao là công việc được thực hiện hàng ngày, hàng giờ. Để làm được việc này thì công tác tổ chức cán bộ phải được thực hiện tốt, như: công tác bổ nhiệm lại.
Đây là một trong những công tác có tầm quan trọng, nhờ đó chất lượng đội ngũ cán bộ thuế được nâng một bậc. Qua công tác bổ nhiệm lại, lãnh đạo cơ quan thuế đã xem xét lại toàn bộ đội ngũ cán bộ thuế để có kế hoạch sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Những người được bổ nhiệm lại từ đó cũng thấy được ưu điểm để phát huy và nhược điểm để khắc phục. Những người chưa được bổ nhiệm lại cũng cố gắng phấn đấu, rèn luyện để được bổ nhiệm lại. Do vậy, toàn bộ cán bộ lãnh đạo đều phải tự đổi mới và hoàn thiện mình. Việc bổ nhiệm lại cán bộ đã bắt đầu khắc phục được sự trì trệ trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, làm cho công tác cán bộ nói chung, công tác cán bộ lãnh đạo nói riêng năng động hơn.
Thêm nữa, công tác xử lý cán bộ cũng được quan tâm sâu sát. Với đội ngũ cán bộ- công nhân viên đông đảo thì khâu kiểm tra, giám sát và xử lý khi có sai phạm là tối quan trọng. Công tác này có mạnh có nghiêm thì mới tăng cường kỉ cương, phép tắc giúp hạn chế tối đa những cán bộ thoái hoá, biến chất. Còn những người đã tốt, trong sạch thì có được môi trường “trong lành” để phát huy.
Tóm lại, công tác tổ chức đang từng bước được cải thiện theo hướng: sắp xếp cán bộ thuế theo quy định mới của Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục thuế đảm bảo tinh gọn, hiệu quả để nâng cao trách nhiệm, hiệu năng của bộ máy hành thu; phân công đúng người, đúng việc giúp vận hành thông suốt, đặc biệt là đối với cán bộ quản lý thu, thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế, bộ phận tin học.
4.1.2 Công tác thanh tra, kiểm tra:
Trong quá trình quản lý thuế thường gồm 3 khâu: lập kế hoạch, thực hiện, kiểm soát. Công việc kiểm soát được thực hiện xuyên suốt từ khi lập kế hoạch đến khi hoàn thành nhằm đảm bảo mọi việc diễn ra đúng hướng và đạt kết quả mong muốn. Như vậy, kiểm soát có hiệu quả cũng tức là hoạt động của Chi cục có hiệu quả. Những năm qua, công tác thanh tra, kiểm tra đã làm được nhiều việc như:
Những đối tượng có số hoàn thuế lớn, có số thuế âm liên tục, hoạt động xuất khẩu, xây dựng cơ bản, những đơn vị báo cáo kinh doanh thua lỗ, chi phí không hợp lý, hợp lệ, có dấu hiệu trốn thuếđược chọn để kiểm tra.
Công tác thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế được thực hiện thường
xuyên.
Đẩy mạnh công tác kiểm tra hoàn thuế giá trị gia tăng, thực hiện tốt phân
loại doanh nghiệp để kiểm tra trước hoặc sau hoàn thuế.
Tăng cường kiểm tra thực hiện chế độ sử dụng hoá đơn chứng từ, hoá
đơn thuế giá trị gia tăng.
Kiểm tra nội bộ ngành thuế: đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành, chú trọng việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật. Kiểm tra quy trình nghiệp vụ trong công tác quản lý thuế, của cán bộ công chức ngành thuế phát huy hiệu quả của chính sách thuế tạo nguồn lực ngày càng lớn cho ngân sách.
Lập kế hoạch kiện toàn lại bộ máy làm công tác thanh tra, kiểm tra theo hướng tăng cường cán bộ cho bộ phận làm công tác thanh tra, kiểm tra. Các cán bộ này được chọn lọc kĩ càng, là cán bộ lâu năm có kinh nghiệm, có trình độ nghiệp vụ
Mặc dù đạt được những kết quả như thế nhưng công tác thanh tra, kiểm tra vẫn là khâu yếu nhất trong Chi cục do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan cần chấn chỉnh nhiều mặt để hiệu quả thu phản ánh đúng năng lực thực của Chi cục chứ không còn tình trạng đánh giá sai lệch qua “lăng kính màu hồng”.
4.2 NHỮNG TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG, THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP TRONG 3 NĂM QUA:
Một nguyên nhân tạo ra nhiều kết quả và một kết quả cũng có thể được tạo ra nhiều nguyên nhân, vì vậy thực trạng hoạt động ở Chi cục thuế là do những nguyên nhân đan xen tác động và tạo ra những hệ quả tương quan, có tốt và cả không tốt. Để hai mặt đối lập ưu và khuyết có ưu điểm trội hơn thì cần tìm ra những nguyên nhân của khuyết điểm để khắc phục, triệt tiêu chúng.
4.2.1 Những tồn tại và nguyên nhân trong công tác thu thuế
giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp:
Với những con số ở bảng 4, vấn đề được đặt ngược lại: với mức thuế thu được tăng cao như thếthì có phải là hoàn toàn hợp lý, dễ hiểu hay không ? Nhìn từ góc độ khác những tín hiệu trên không đáng mừng mà trái lại, nó là những cảnh báo. Đó là dấu hiệu của thất thu chứ không đơn thuần là thu vượt.
Với tình hình phát triển kinh tế hiện nay, dù không thể cho là quá tốt đẹp, quá ổn định nhưng chúng ta cũng yên tâm rằng nó cũng đi vào quỹ đạo, đang con đường đi đến sự phát triển. Như vậy, nếu có thất thu thì nguyên nhân từ sự tụt giảm nền kinh tế là rất thấp mà chủ yếu là do nguyên nhân từ công tác quản
lý.
Hiện nay, có rất nhiều ý kiến cho rằng thất thu là hoàn toàn khách quan. Như vậy, thất thu là do đâu?
Xét tại Chi cục thuế huyện Tân Châu tình hình thất thu thuế do những nguyên nhân chủ yếu sau:
¾ Khách quan:
Đặc điểm huyện biên giới Tân Châu :
Tân Châu là huyện biên giới, tiếp giáp Campuchia, có cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương. Tân Châu cũng giáp ranh với huyện Tịnh Biên, An Phú cũng là những huyện biên giới có hàng lậu tràn ngập thị trường. Hàng hoá nhập lậu là nguồn thất thu thuế lớn cho huyện nhà vì những mặt hàng đó không thể đánh thuế như hàng sản xuất trong nước vì đơn giản chúng là hàng trốn thuế, hàng lưu thông ngoài tầm kiểm soát. Đồng thời, những hàng hoá này có chất lượng tương đối nhưng giá lại rất thấp, trái ngược với hàng trong nước nên hàng chúng ta thua tại sân nhà và từ đó sản xuất tụt giảm làm mất đi nguồn thu thuế lớn.
Về phía cơ sở kinh doanh:
Tình trạng trốn lậu thuế, nợ đọng thuế còn khá phổ biến ở nhiều khoản thu vừa làm thất thu cho ngân sách Nhà nước vừa không đảm bảo công bằng xã hội và đưa quản lý thuế vào nề nếp. Đa số các cơ sở kinh doanh chưa có ý thức chấp hành tốt Luật thuế, nhận thức việc đóng thuế có nhiều sai lệch nên
cố tình vi phạm, khai man, trốn thuế với nhiều hình thức: thực hiện chế độ sổ sách kế toán không nghiêm túc hoặc chỉ làm qua loa nhằm cố tình dây dưa chậm nộp thuế; xuất hoá đơn thấp hơn thực tế, số ghi thấp hơn giá thanh toán thực tế; mua bán hàng không ghi vào sổ sách; chứng từ kế toán lập không đúng nguyên tắc nhất là các chứng từ thanh toán trong quan hệ mua, bán, cung ứng dịch vụ; hạch toán các khoản chi phí không hợp lý, hợp lệ kể cả không có chứng từ vẫn đưa vào hạch toán; lập bảng kê khống tăng giá mua để gian lận thuế giá trị gia tăng được khấu trừ đầu vào và tăng chi phí vốn hàng hoá nhằm giảm thu nhập chịu thuế để trốn thuế thu nhập doanh nghiệp; kê khai không trung thực, không đúng thực tế với mục đích né tránh nộp thuế Trình độ quản lý thuế chưa theo kịp trình độ gian lận nên rất khó phát hiện để xử lý, đòi hỏi thời gian xử lý kéo dài do nhiều vấn đề phức tạp, khó giải quyết.
Về cơ chế quản lý và tổ chức thực hiện:
Một số thể chế quản lý kinh tế xã hội, môi trường pháp lý liên quan đến quản lý thuế chưa được cải cách đồng bộ. Các cơ quan chức năng, các tổ chức cá nhân chưa đề cao trách nhiệm pháp luật trong việc cung cấp thông tin và phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế trong công tác quản lý thuế.
Quy trình đăng ký và cấp phép kinh doanh hiện nay chưa được chặt chẽ và thiếu kết hợp, không quản lý được dẫn đến tình trạng sót bộ thuế. Việc quy định ký kết hợp đồng kinh tế vẫn chưa được chặt chẽ, không thông qua một cơ quan quản lý nào của Nhà nước, nên nhiều hợp đồng mua bán không được ghi sổ sách đầy đủ do đó cơ quan thuế rất khó quản lý để thu thuế. Do hộ cá thể thực hiện chế độ sổ sách chứng từ không hiệu quả nên đa số hộ cá thể còn thu dưới hình thức ấn định dẫn đến thất thu lớn.
Năng lực, trình độ, trách nhiệm qaurn lý thuế của cơ quan thuế chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý mới, chưa phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường; chưa vận dụng được các thành tựu quản lý thuế quốc tế.
Chế tài xử phạt vi phạm về thuế chưa được quy định rõ ràng, các hình thức xử phạt vi phạm về thuế còn quá nhẹ, chưa đủ mức răn, đe ngăn chặn
các hành vi gian lận về thuế. Các biện pháp cưỡng chế, xử phạt về thuế chưa nghiêm minh.
Về hệ thống thuế:
Hệ thống thuế hiện nay đã có nhiều sửa đổi, cải tiến nhưng vẫn chứa
đựng nhiều tồn tại:
Hệ thống chính sách thuế chưa bao quát hết đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế. Trong quá trình thực hiện chưa sâu sát thực tế, chưa phát hiện và đề xuất kịp thời các biện pháp để thu các khoản thu nhập mới phát sinh.
Hệ thống chính sách còn chứa nhiều mức thuế suất nên chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyên môn hóa và hợp tác hóa trong kinh doanh.
Hệ thống chính sách thuế vẫn còn lồng ghép nhiều chính sách xã hội, có nhiều mức miễn giảm thuế làm hạn chế tính trung lập, không đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế, dễ phát sinh tiêu cực làm phức tạp công tác quản lý thuế.
Mức thuế suất còn cao, thuế suất cao chẳng những không thúc đẩy sản xuất phát triển mà còn làm tăng động cơ trốn thuế.
Riêng đối với thuế giá trị gia tăng: có quá nhiều đối tượng không thuộc diện chịu thuế (gồm 26 nhóm hàng hóa, dịch vụ) vừa không khai thác hết nguồn thu ngân sách vừa làm cho việc tính thuế, khấu trừ thuế không được liên hoàn giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng nên không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào, gây khó khăn cho cơ sở kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ này, một số dịch vụ xuất khẩu thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng nên không được hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào làm giảm khả năng cạnh tranh của các loại dịch vụ này. Về thuế suất, vẫn còn 3 mức thuế suất: thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, thuế suất 5%, 10% áp dụng đối với từng nhóm sản phẩm hàng hóa, dich vụ lưu thông và tiêu dùng nội địa do đó chưa thúc đẩy sản xuất và gây phức tạp trong công tác quản lý thuế. Qui định khấu trừ thuế theo tỷ lệ % cho hàng hóa, dịch vụ là sản phẩm nông, lâm,
thuỷ sản cơ sở chế biến mua trực tiếp của người sản xuất không có hóa đơn (chỉ có bản kê) là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất nhưng đã bị một số doanh nghiệp lợi dụng để khai khống hàng hóa đầu vào, khai khống hàng hóa xuất khẩu để chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng của Nhà nước.
Riêng đối với thuế thu nhập doanh nghiệp có những nhược điểm như sau: các quy định về xác định doanh thu, các khoản chi phí hợp lý được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế có những điểm chưa phù hợp với thực tế kinh doanh, chưa khuyến khích doanh nghiệp khấu hao nhanh nhằm đổi thiết bị, công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp còn cao chưa tạo điều kiện tối đa cho cơ sở kinh doanh tích lũy vốn tái sản xuất mở rộng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế cho các đối tượng nộp thuế.
¾ Chủ quan:
Về quản lý hộ:
Công tác quản lý hộ còn hết sức lỏng lẽo, bỏ sót nhiều hộ chưa đưa vào diện quản lý:
Bảng 10 : Tình hình quản lý hộ từ 2001 đến 2003:
Năm
2001
2002
2003
Hộ số sách kế toán
270
421
747
Hộ ấn định thuế
1.035
1.319
734
Hộ thời vụ
558
118
1.587
Tổng cộng
1.863
1.858
3.068
Nguồn: Chi Cục thuế huyện Tân Châu
Với mức tăng vọt về số hộ quản lý năm 2003 như bảng trên thì không thể giải thích là do số lượng cơ sở kinh doanh tăng trên địa bàn huyện mà lý do chủ yếu ở đây là số hộ được quản lý còn sót nhiều, hộ buôn chuyến khi được chuyển một số sang hộ thời vụ trong năm 2003 đã làm tăng hàng ngàn hộ như trên chứng tỏ trước đây số thuế bị thất thoát nhiều. Số hộ được quản lý tại Chi cục tăng giảm thất thường trong khi theo thống kê của Phòng Thống kê huyện thì số hộ đăng ký kinh doanh mới hay nghỉ, tạm nghỉ thì có số lượng ổn định. Công tác khảo sát, điều tra hộ để đưa vào diện quản lý thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp còn khá sơ sài, thiếu sâu sát. Điển hình như trong năm 2002 số hộ chịu thuế giá trị gia tăng chỉ đạt 88,23% so bộ thuế môn bài, không kể số nhỏ có hộ môn bài bậc 5-6, một số hộ thời vụ, vãng lai, buôn chuyến nhỏSố còn lại trên 200 hộ có khả năng đưa vào quản lý nhưng đã bị bỏ qua. Qua những thống kê đó thì con số thất thu thuế là rất lớn.
Biểu đồ 5: Tình hình quản lý hộ (2001-2003)
Hộ
3500
3000
2500
2000
1500
1000
500
0
Hộ thời vụ
Hộ ấn định thuế
Hộ số sách kế toán
2001 2002 2003 Năm
Về quản lý doanh số:
Thực trạng gian lận của các hộ kinh doanh đã quá phổ biến và đa dạng thì kéo theo căn cứ để tính thuế bị bóp méo là điều tất nhiên. Tình trạng thất thoát doanh số quản lý là rất phổ biến, đặc biệt nghiêm trọng là đối với thu nhập tính thuế của thuế thu nhập doanh nghiệp. Thu nhập của doanh nghiệp dùng tính thuế được tính bằng doanh thu trừ cho chi phí hợp lý, vì vậy để giảm thu nhập chịu thuế thì các cơ sở kinh doanh tìm mọi cách để giảm doanh thu, tăng chi phí hợp lý hoặc cả hai. Từ đó thu nhập chịu thuế còn rất thấp và mỗi năm thuế thu nhập doanh nghiệp đều giảm, tuy không nhiều nhưng bất hợp lý vì kinh tế ngày càng phát triển. Những gian lận thường thấy là: do chủ sản xuất kinh doanh, tự kê khai thuế trong khi các cán bộ thuế thiếu kiểm tra, giám sát nên dễ dẫn đến kê khai tùy tiện, thấp nhiều so thu nhập thực tế; điều chỉnh giá mua, giá bán sai lệch so thực tế trong khi cơ quan thuế không nắm rõ tình hình thị trường thì các sai phạm hầu như không bị phát hiện. Như vậy, bên cạnh ý thức chấp hành pháp luật, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế ngày càng được nâng cao thì vẫn còn có một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp, hộ cá thể kinh doanh chưa ý thức tốt về quyền lợi và nghĩa vụ nộp thuế của mình, chỉ tìm mọi cách để có thu nhập thật nhiều nên đã cố ý lợi dụng khe hở của Pháp luật, lợi dụng sơ suất hay một số cán bộ thoái hoá để khai thác bằng mọi thủ đoạn tinh vi để đạt lợi nhuận cao nhất có thể. Tuy nhiên, không thể hoàn toàn đổ lỗi cho các cơ sở kinh doanh bởi vì trách nhiệm của các cán bộ thuế là rất lớn khi để cho doanh số thất thoát quá lớn, điển hình như chỉ số về tỷ suất lợi nhuận tính toán trên các cơ sở kinh doanh thực quản lý tại Chi cục còn quá thấp: doanh nghiệp thực hiện phương pháp khấu trừ chỉ đạt
0,73%, hộ cá thể 1,78%. Những con số này chứng tỏ được rằng tình trạng gian lận thuế đã đến mức báo động.
Việc để nợ đọng quá cao:
Nợ đọng cao, đặc biệt là nợ khó đòi được xem như là khoản thất thu thuế bởi vì để thu được những khoản này đòi hỏi thời gian kéo dài và hết sức khó khăn.
Tình trạng nợ đọng qua các năm không giảm mà có xu hướng tăng cao là do: hầu hết các đội thuế chưa kiên quyết thu dứt điểm trong tháng mà để gối đầu sang tháng sau thu cho tháng trước do vậy nợ cứ bị đọng từ tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác lâu dần tồn lại đến hàng tỷ đồng. Đối với hộ nợ nhiều tháng, các đội thuế không lập thủ tục pháp lý báo cáo hội đồng tư vấn thuế để Chi cục thuế phạt vi phạm hành chính, cưỡng chế theo qui định. Nguyên nhân có thể do có một số cán bộ tắc trách hoặc bị các cơ sở kinh doanh mua chuộc mà lơ là, bỏ qua không quyết tâm thu dứt điểm làm thất thu số tiền không nhỏ cho nguồn thu ngân sách.
Tóm lại, những nguyên nhân về thất thu thực chất là những yếu kém trong khâu quản lý ngày càng được bộc lộ rõ.
4.2.2 Những tồn tại trong công tác kiểm soát thuế giá trị
gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp:
Trong tình hình kinh tế phát triển ngày càng đa dạng, phong phú về loại hình, về quy mô hoạt động, việc tổ chức quản lý thu như hiện nay bắt đầu bộc lộ những nhược điểm:
Khối lượng quản lý công việc ngày càng tăng do đối tượng quản lý tăng, cách thức và quy mô hoạt động của các đối tượng kinh doanh đa dạng hơn. Công tác quản lý thuế ngày càng đòi hỏi cơ quan thuế cũng như cán bộ quản lý thuế phải thực hiện nhiều loại công việc mang tính nghiệp vụ cao, phải đảm bảo công tác quản lý chặt chẽ đúng pháp luật, trong khi đó phần lớn công việc hành chính trên giấy tờ chiếm hầu hết trong thời gian quản lý làm cho công tác kiểm tra thường xuyên khó tiến hành.
Việc quyết toán cuối năm không thực hiện kịp thời vì phải kiểm tra lại 12 tháng làm cho tiền thuế chậm nộp vào ngân sách. Việc phân công cán bộ thuế ở quá lâu trên một địa bàn dễ tạo ra các mối quan hệ ảnh hưởng xấu đến kết quả thu.
Những thiếu sót của các cơ sở kinh doanh chưa được nhắc nhở, xử lý kịp thời tạo thành thói quen “xem thường” pháp luật, việc kê khai nộp thuế ở nhiều cơ sở chưa thực hiện nghiêm túc, thời gian thường kéo dài quá hạn nộp quy định do các biện pháp chưa đủ sức răn đe.
Tác phong làm việc của một số cán bộ thuế chưa tốt, nhất là các nhân viên, còn quá rề rà, thiếu tinh thần trách nhiệm, lợi dụng quyền hạn để trục lợi, làm khó cho nhiều cơ sở kinh doanh thiếu “quan hệ”.
Bấy nhiêu đó nhược điểm cũng đủ để thấy công tác kiểm tra, thanh tra là thật sự cần thiết. Tuy nhiên, công tác thanh tra, kiểm tra bản thân nó lại bộc lộ nhiều nhược điểm như: giữa tổ Thanh tra, kiểm tra thiếu sự phối hợp chặt chẽ với các tổ, đội thu thuế dẫn đến kiểm tra trùng lắp các cơ sở kinh doanh tạo dư luận không tốt và gây khó khăn cho người kinh doanh; mặc dù theo quy trình mới đã giảm bớt phần lớn trách nhiệm của cán bộ quản lý trong công tác tính thuế nhưng trên thực tế thì trách nhiệm ở các khâu khác lại tăng thêm nên phải đảm nhận một khối lượng công việc lớn. Hơn nữa, một số cán bộ làm công tác kiểm soát làm việc tinh thần trách nhiệm chưa cao, làm việc lấy lệ nên khâu kiểm soát kém hiệu quả. Bản thân những cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra hiếm khi bị kiểm soát nên rất dễ dẫn đến tình trạng ỷ lại, cửa quyền, móc nối bên ngoài
Tóm lại, công tác kiểm soát vẫn còn rất mới mẻ, đội ngũ kiểm soát chưa có kinh nghiệm nên hiệu quả còn thấp. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua công tác này cũng đã phát huy tác dụng. Nhờ qua kiểm soát phát hiện được công tác quản lý yếu kém ở khâu nào, mức độ ra sao để còn khắc phục. Tăng cường kiểm soát phải đi đôi đổi mới quản lý thì hiệu quả mới cao.
4.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TĂNG, THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
Tìm ra nguyên nhân là để tìm ra biện pháp khắc phục. Những hạn chế hiện nay là hệ quả của nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu có tác động lớn nhất là những yếu kém trong công tác thanh tra, kiểm tra. Do vậy cần: tăng cường công tác thanh tra- kiểm tra về thuế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chi cục thuế hiện nay nhằn ngăn ngừa, phát hiện kịp thời và xử lý những vi phạm về thuế như cần phân loại đối tượng để thanh tra, kiểm tra; tập trung thanh tra, kiểm tra những đối tượng có rủi ro về thuế, hoặc thiếu độ tín nhiệm, thường xuyên gian lận về thuế; việc thanh tra, kiểm tra phải căn cứ vào sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ; xây dựng quy trình kiểm tra hoàn
thuế, quyết toàn thuế; xây dựng chương trình hỗ trợ của máy tính phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Để công tác quản lý thuế có hiệu quả hơn nữa thì cần có thêm một số biện pháp như:
4.3.1 Biện pháp chống sót bộ:
Phải tiến hành thường xuyên các công tác: thống kê đối tượng đăng ký kinh doanh, kiểm tra tình hình hoạt động kinh doanh của các cơ sở kinh doanh ở địa phương để đưa vào diện quản lý thu; kiểm tra đăng ký thuế của các đối tượng kinh doanh.
Chi cục thuế cần kết hợp với Phòng Thống kê huyện, Phòng Kế hoạch đầu tư để nắm chính xác lại số hộ kinh doanh. Bên cạnh đó, từng đội thuế xã, thị trấn phải điều tra thực tế số hộ thực sự kinh doanh chịu thuế hàng tháng và số hộ nhỏ có thu nhập thấp được xét miễn giảm thuế.
4.3.2 Biện pháp kiểm tra doanh số:
Thường xuyên theo dõi tình hình sản xuất kinh doanh để đề xuất phân loại hộ kinh doanh theo đúng quy định của Luật thuế và thường xuyên kiểm tra để phân loại lại khi có sự thay đổi. Riêng đối với hộ kê khai, cần phổ biến thực hiện ghi chép sổ sách và thông báo việc kiểm tra sổ sách, kiểm tra việc sử dụng hoá đơn để đối chiếu với số thực tế từ đó xác định đúng doanh thu chịu
thuế.
Doanh thu cần được quản lý hai đầu, giá bán và giá mua. Quản lý tốt giá bán, giá mua để tránh ghi sai lệch so thực tế bằng cách thường xuyên cập nhật thông tin thị trường, buộc các cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán từng mặt hàng cụ thể trong sổ sách dù là hộ kinh doanh nhỏ hoặc niêm yết giá cả tại nơi dễ trông thấy nhất trong cửa hiệu, cửa hàng, doanh nghiệp
Cần giao cho những cán bộ có trình độ chuyên môn tương đối đối với ngành nghề họ quản lý, nhất là các ngành sản xuất thì phải cần có những hiểu biết như: quy trình sản xuất, quy trình công nghệ, định mức tiêu hao nguyên vật liệu, các chi phí phát sinh trong kỳđể từ đó xác định chính xác doanh số, ít bị gian lận. Bởi vì chi phí kinh doanh tuy quy định khá cụ thể bằng tỷ lệ phần trăm của một số chi phí nhưng với chi phí khấu hao tài sản cố định thường không xác định được giá trị tài sản, số đã khấu hao nên loại chi phí này thường xuyên
bị khai khống. Tuy nhiên, mức chính xác về doanh số chỉ mang tính tương đối, để xác định cho hợp lý đòi hỏi có sự hợp tác của cơ sở kinh doanh với việc ghi sổ sách rõ ràng, hợp lệ để tốn nhiều thời gian công sức của cán bộ kiểm tra trong khi công việc của họ không chỉ là kiểm tra doanh số, lại cần sự phối hợp của các ngành quản lý có liên quan để khi tiêu cực xảy ra ở khâu nào thì việc xác định doanh số có nhiều sai lệch. Do vậy, để đảm bảo tính công bằng, hợp lý đòi hỏi mọi người làm đúng và phải có “cái tâm” trong chuyên môn của mình, không lợi dụng kẻ hở để trục lợi.
Qua thực tiễn cho thấy, đối tượng nộp thuế còn sót nhiều hộ chưa đưa vào quản lý, số hộ đã quản lý có doanh thu tính thuế rất thấp. Hai vấn đề này cần được thực hiện song song nhau, rà soát lại hộ kinh doanh, nếu thấy thiếu sót thì đưa vào đồng thời ấn định doanh thu tăng nếu kiểm tra thấy sai phạm, thực hiện đồng loạt trên diện rộng đòi hỏi có mức thuế tương xứng giữa các hộ, giữa xã này với xã khác, nơi nay với nơi khác có điểm tương đồng.
4.3.2 Biện pháp giảm nợ đọng:
Thời gian qua, Chi cục thuế đã làm nhiều việc để nâng cao ý thức người dân trong việc nộp thuế song song đó cũng có nhiều biện pháp quản lý cán bộ, thúc đẩy họ làm việc hiệu quả hơn. Tóm lại, khi phát hiện những nguyên nhân dẫn đến nợ đọng, Chi cục đã tìm cách khắc phục. Tuy nhiên, cần phối hợp nhiều hơn nữa với Uỷ ban nhân dân, hội đồng tư vấn thuế và các ngành liên quan vận động nhân dân thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế, cương quyết xử lý nghiêm các trường hợp dây dưa chậm nộp, trốn thuế có thể tiến hành cưỡng chế nếu thấy cần thiết. Đồng thời, đối với cán bộ vi phạm vẫn phải áp dụng các xử lý mang tính răn đe cao, tuyên dương khen thưởng những bộ làm tốt tạo động lực cho họ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ vượt chỉ tiêu.
Đội ngũ cán bộ là chìa khóa của thành công trong công tác quản lý do vậy cần: quy định rõ trách nhiệm của từng loại cán bộ trên từng vị trí công tác. Cán bộ cần được thanh tra theo tiêu chí: kết quả công tác, số lượng và chất lượng công việc được giao; coi trọng phẩm chất đạo đức, chính trị; cần phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Cần tăng cường hơn
nữa việc giáo dục nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức, nghề nghiệp thuế, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ thuế.
Tóm lại, một người độc tấu vĩ cầm thì tự mình điều khiển lấy mình còn một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng. Chi cục thuế là một tổ chức nên việc đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt mục đích chung là tối quan trọng, và phối hợp như thế nào thì lại phụ thuộc vào nghệ thuật của các nhà quản lý, mà quản lý ở đây là quản lý Nhà nước. Do vậy, tuy trong khuôn khổ nhiều quy định cần tuân thủ nhưng lãnh đạo Chi cục thuế cần phát huy tính sáng tạo, năng động trong toàn cơ quan. Môi trường làm việc phù hợp, có cơ hội phát triển sẽ giúp cho mọi người làm việc tốt hơn, hiệu quả hơn, họ sẽ làm việc hết năng lực và toàn tâm khi được trọng dụng. Phong cách quản lý hiện đại trong các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hiện nay là mô hình tốt cho các cơ quan quản lý hành chính của Nhà nước cần học hỏi, họ biết rõ quản lý tức là quản lý con người, vì vậy hiểu rõ yếu tố con người là nắm giữ chìa khoá thành công của công tác quản lý. Đối với cơ quan thuế, yếu tố con người là lực lượng nhân sự trong cơ quan và cả đối tượng nộp thuế vì đó là những đối tượng mà tổ chức trực tiếp quản lý.
4.4 KIẾN NGHỊ:
Để khắc phục tồn tại, nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách thuế đảm bảo phù hợp với kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Cần sửa đổi, bổ sung luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng bao quát mọi nguồn thu, giảm nhẹ nghĩa vụ đóng góp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy sản xuất. Cụ thể là:
Đối với thuế giá trị gia tăng:
Mở rộng đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng để thực hiện thống nhất, bao quát của thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ.
Điều chính thuế suất thuế giá trị gia tăng nhằm giảm mức thuế suất xuống còn một mức hoặc hai mức thuế suất, mở rộng diện áp dụng thuế suất
0% đối với toàn bộ hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu.
Quy định rõ ràng, thống nhất nguyên tắc tính thuế, khấu trừ thuế theo hóa đơn giá trị gia tăng.
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp:
Áp dụng thống nhất thuế thu nhập doanh nghiệp giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam.
Mở rộng sự điều chỉnh về loại thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, đối với các loại thu nhập từ hoạt động kinh doanh hiện đang tạm thời chưa thu hoặc chưa phát sinh phổ biến.
Quy định rõ ràng cụ thể căn cứ xác định thu nhập chịu thuế từ doanh thu, chi phí và các khoản thu nhập khác.
Xây dựng mức thuế suất phù hợp, cần giảm hơn nữa so hiện hành, tạo điều kiện để doanh nghiệp tăng phần lợi nhuận để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Hệ thống và thống nhất các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp vào
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ngoài ra, cần có các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục quốc gia phải có trách nhiệm đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục và hướng dẫn các chính sách thuế để mọi tổ chức, cá nhân hiểu rõ và tự giác chấp hành nghiêm về thuế theo quy định của pháp luật. Tôn vinh kịp thời các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, đồng thời lên án mạnh mẽ và kiên quyết các hành vi gian lận thuế.
Hệ thống quản lý kinh tế xã hội phải được cải cách đồng bộ tạo cơ sở cho việc quản lý thuế như: quản lý đất đai, quản lý hệ thống thanh toán qua ngân hàng, quản lý đăng ký kinh doanh, quản lý xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh
Hệ thống pháp luật cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng quy định rõ trách nhiệm của cơ sở sản xuất kinh doanh trong việc thực hiện Luật thuế và các Luật khác có điều chỉnh các cơ sở kinh doanh.
Khuyến khích, mở rộng và đẩy mạnh hoạt động tư vấn, cung cấp dịch vụ về thuế, về kế toán giúp cho tổ chức, cá nhân nộp thuế hiểu rõ quy định của các luật thuế, làm tốt công tác kế toán để thực hiện được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình.
Qua 5 năm thực hiện các Luật thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp đã đạt được những kết quả tích cực. Hệ thống chính sách thuế đã trở thành công cụ quản lý vĩ mô có hiệu lực của Nhà nước, góp phần ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. Đảm bảo ổn định và tăng trưởng nguồn thu nhân sách Nhà nước, đáp ứng được nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng của đất nước. Thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp đã trở thành nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước và có tốc độ tăng trưởng cao, nguồn thu thuế mỗi năm mỗi tăng, luôn thu vượt chỉ tiêu được giao. Đã từng bước đơn giản, bình đẳng và công bằng xã hội. Thúc đẩy các cơ sở sản xuất tăng cường hạch toán kinh tế, củng cố công tác kế toán hóa đơn chứng từ, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao ý thức chấp hành luật thuế. Đó là những thành quả chung trong cả nước và cũng là thành tựu tại huyện Tân Châu.
Tuy nhiên, trước sự phát triển kinh tế xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, công tác quản lý thuế vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại và vướng mắc phát sinh. Trong quá trình nghiên cứu về công tác quản lý thuế tại Chi cục đã phát hiện những điểm mạnh và cả những vướng mắc. Để quản lý thu đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở huyện Tân Châu đạt hiệu quả là nhiệm vụ khó khăn do phải quản lý một khu vực hoạt động nhiều ngành nghề, đa dạng về loại hình cùng với số lượng lớn các cơ sở kinh doanh đòi hỏi nhiều ở sự cố gắng, quyết tâm hoàn thành nghĩa vụ của cả tổ chức. Công tác quản lý cán bộ, tổ chức bộ máy phải hợp lý mới giúp tăng cao hiệu quả thu thuế trên cả địa bàn huyện. Vẫn còn đó tình trạng nợ tồn đọng, quản lý hộ, quản lý doanh số chưa đạt hiệu quả cao; công tác thanh tra, kiểm tra là khâu yếu nhất trong công tác quản lý. Do vậy, cần phát huy điểm mạnh từ những thành tựu đạt được đồng thời cần khắc phục kiên quyết, triệt để những tồn tại, hạn chế. Từ đó kiện toàn bộ máy để có đủ năng lực thực hiện thu thuế theo cơ chế doanh nghiệp tự kê khai, tự tính thuế, tự nộp thuế mà hiện nay trong giai đoạn thí điểm và trong tương lai sẽ đưa vào thực hiện trong cả nước. Để thực hiện tốt cơ chế này đòi hỏi công tác thanh tra, kiểm tra phải thật sự có hiệu lực vì khi đó cơ quan thuế chỉ làm nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra. Vì vậy, ngay từ thời điểm này đòi hỏi công tác thanh tra, kiểm tra tại Chi cục cần có những bước tiến mạnh, hiệu quả; song song đó đòi hỏi mọi mặt trong công tác quản lý có những cải cách chiến
lược cho tương thích với những thay đổi mạnh mẽ trong cải cách hệ thống thuế
giai đoạn 2001-2010 mà hiện nay là giai đoạn nước rút.
Từ ngày 01- 01- 2004 bắt đầu áp dụng Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung hứa hẹn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Chi cục thuế hoàn thành nhiệm vụ tốt ngày càng tốt hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8032.doc