Đề tài Đánh giá hoạt động của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân ở Việt Nam

- Bước đầu đưa ra một số kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thông QTDND. Tuy chúng em đã rất cố gắng, nhưng do thời gian có hạn, đặc biệt là kiến thức chuyên môn và thực tiễn còn nhiều hạn chế nên chắc chắn bài viết của chúng em còn nhiều thiếu sót. Chúng em thực sự mong muốn nhận được sự góp ý của các thầy cô, các nhà khoa học để chúng em tiếp tục hoàn thiện công trình nghiên cứu này.

doc35 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1697 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hoạt động của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt cho vay, ỏp dụng bảo đảm tiền vay, kiểm tra việc sử dụng tiền vay, chấm dứt cho vay, xử lý nợ, điều chỉnh lói suất và lưu giữ hồ sơ cho vay của QTDND cơ sở thực hiện theo quy định của NHNN.  ăQTDND cơ sở thực hiện cỏc hoạt động tớn dụng khỏc theo quy định của NHNN. iii) Dịch vụ thanh toỏn và ngõn quỹ ăQTDND cơ sở được mở tài khoản tiền gửi tại NHNN, QTDND TW và cỏc tổ chức tớn dụng khỏc theo quy định của NHNN. ăQTDND cơ sở được thực hiện cỏc dịch vụ thanh toỏn và ngõn quỹ chủ yếu phục vụ cỏc thành viờn. iiii) Cỏc hoạt động khỏc ăQTDND cơ sở được dựng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để gúp vốn theo quy định của NHNN.   ăQTDND cơ sở được nhận ủy thỏc, làm đại lý và thực hiện cỏc nghiệp vụ khỏc trong lĩnh vực hoạt động tiền tệ khi được NHNN cho phộp. 1.2.2. Đối với QTDND TW i) Huy động vốn ăQTDND TW được nhận tiền gửi của tổ chức, cỏ nhõn và TCTD khỏc. ăQTDND TW được phỏt hành chứng chỉ tiền gửi, trỏi phiếu và giấy tờ cú giỏ khỏc để huy động vốn theo quy định của NHNN. ăQTDND TW được vay vốn trờn thị trường tiền tệ trong nước, vay vốn của cỏc tổ chức tớn dụng nước ngoài và NHNN theo quy định hiện hành.  ăQTDND TW được thực hiện cỏc hỡnh thức huy động vốn khỏc khi được Thống đốc NHNN cho phộp. ii) Hoạt động tớn dụng  ăQTDND TW cho vay vốn nhằm hỗ trợ, nõng cao hiệu quả hoạt động của cỏc QTDND cơ sở thành viờn; việc cho vay cỏc đối tượng khỏc thực hiện theo quy định của Điều lệ QTDND TW và khụng được vượt quỏ tỷ lệ tối đa do Thống đốc NHNN quy định. ăQTDND TW được thực hiện cỏc nghiệp vụ chiết khấu, tỏi chiết khấu thương phiếu và cỏc giấy tờ cú giỏ khỏc; bảo lónh ngõn hàng và cỏc hỡnh thức tớn dụng khỏc theo quy định của NHNN.   ăViệc lập hồ sơ và thủ tục cho vay, xột duyệt cho vay, ỏp dụng bảo đảm tiền vay, kiểm tra việc sử dụng tiền vay, chấm dứt cho vay, xử lý nợ, điều chỉnh lói suất và lưu giữ hồ sơ cho vay của QTDND TW thực hiện theo quy định của NHNN. iii) Cỏc hoạt động khỏc      ăQTDND TW được dựng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để gúp vốn theo quy định của NHNN. ăQTDND TW được tham gia thị trường tiền tệ do NHNN tổ chức, bao gồm thị trường đấu giỏ tớn phiếu kho bạc, thị trường nội tệ và ngoại tệ liờn ngõn hàng, thị trường giấy tờ cú giỏ khỏc; được kinh doanh ngoại hối khi được NHNN cho phộp; được quyền uỷ thỏc, nhận ủy thỏc, làm đại lý trong cỏc lĩnh vực liờn quan đến hoạt động ngõn hàng. ăQTDND TW được thực hiện dịch vụ tư vấn và cỏc dịch vụ khỏc liờn quan đến hoạt động ngõn hàng theo quy định của NHNN”. 1.3. Sản phẩm và dịch vụ : 1.3.1. Tiền gửi - Tiết kiệm khụng kỳ hạn  - Tiền gửi tiết kiệm cú kỳ hạn  - Tiền gửi thanh toỏn cỏ nhõn và tổ chức  - Tiền gửi bậc thang và tiết kiệm bậc thang  1.3.2. Cho vay - Cho vay sản xuất kinh doanh đối với khách hàng cá nhân và doanh nghiệp  - Cho vay tín dụng  - Cho vay đi làm việc nước ngoài  - Cho vay cầm cố thẻ tiết kiệm  - Cho vay nông nghiệp  + Thơì hạn vay đa dạng, phù hợp với mục đích của khách hàng - Vay ngắn hạn: 1 - 12 tháng; - Vay trung hạn: 12 - 60 tháng; - Vay dài hạn: > 60 tháng.  + Phương thức vay linh hoạt;  + Tài sản thế chấp đa dạng: động sản, bất động sản, giấy tờ có giá… 1.3.3. Các dịch vụ chuyển tiền Đại lý chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam (trong tương lai) 1.4. Vai trũ của QTDND : 1.4.1. Huy động vốn và cung cấp vốn cho nhân dân Tổng kết giai đoạn thí điểm cũng như nhìn nhận trong suốt giai đoạn chấn chỉnh củng cố, mô hình QTDND đã được đánh giá là đã và đang hỗ trợ rất đắc lực, hiệu quả cho đông đảo nhân dân. Đặc biệt là người dân khu vực nông ngiệp và nông thôn không chỉ được vay vốn để sản suất kinh doanh mà họ có điều kiện, cơ hội có thể tiếp cận với các dịch vụ tài chính ngân hàng mà trước hết có nơi an toàn và thuận tiện để đầu tư các khoản tiền nhàn rỗi, tiết kiệm của mình. Chính các nguồn vốn huy động tại chỗ này mới là nền tảng cơ sở căn bản và lâu dài để các QTDND từ đó có thể cho các thành viên của mình vay vốn, hay nói cách khác ý tưởng và nhu cầu thành lập một QTDND được xuất phát đồng thời từ cả hai nhu cầu của các thành viên : nhu cầu vay vốn khi cần và nhu cầu đầu tư các khoản tiền nhàn rỗi, khoản tiền tiết kiệm được. Và đây là điểm khác biệt quan trọng nhất giữa một QTDND và các tổ chức trung gian chính thức và không chính thức khác như các tổ đại diện cho vay, tổ vay vốn của NHNo&PTNT, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh hay thậm chí là UBND xã... tất cả các tổ chức này thực ra hoạt động chủ yếu là làm đại lý cho vay vốn, giải ngân cho NHNo&PTNT, hoặc dùng uy tín của mình đứng làm đại diện để vay vốn từ các chương trình tín dụng ưu đãi trong và ngoài nước cho người dân trên địa bàn với mục đích, phương thức hoạt động chủ yếu như vậy nên các tổ chức này nói chung, một mặt, hoạt động không chuyên nghiệp, không có hoặc hầu như không có cán bộ chuyên môn và về cơ bản, họ chỉ thực hiện cho vay hay giải ngân tín dụng chứ không thực hiện huy động vốn. Nếu có thì rất hạn chế, không thương xuyên, không chính thức vì về nguyên tắc thì cũng không được phép thực hiện. Việc huy động vốn tại chỗ ở khu vực nông nghiêp và nông thôn như vậy chủ yếu vẫn do các QTDND và các chi nhánh chính thức của NHNo&PTNT thực hiện trên thực tế, chỉ có một phần chi nhánh cấp 3 ( địa bàn huyện ) và các chi nhánh cấp 4 ( địa bàn liên xã ) của NHNo&PTNT mới thực sự gần người dân nông thôn và có thể huy động được vốn nhàn rỗi được nhiều từ khu vực này. Tuy nhiên, mật độ phân bổ chi nhánh cấp 3, cấp 4 của NHNo&PTNT vẫn không thể bao phủ tất cả mọi nơi mọi vùng. Cho đến nay, các NHTM và tổ chức TD lớn vẫn chưa có những chính sách kinh doanh thật sự chú trọng nhiều đến các nguồn vốn tại chỗ, đặc biệt các nguồn vốn tiết kiệm nhỏ, tạm thời nhàn rỗi của người dân nông thôn, một phần là do vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng đại bộ phận người dân nông thôn nghèo, thu nhập thấp, không có khả năng tiết kiệm, không có tiền nhàn rỗi để cho các tổ chức tín dụng huy động. Một phần khác, cũng có thể là do các NH, tổ chức TD ngại rủi ro chi phí lớn, không hiệu quả nên không đầu tư mở rộng mạng lưới chi nhánh của mình ở các khu vực nông nghiệp và nông thôn. Nhưng cũng chính trong bối cảnh đó mà hệ thống QTDND có một tiềm năng thị trường rất lớn, không chỉ đối với cho vay vốn mà là cả huy động vốn nhàn rỗi ở khu vực nông nghiệp và nông thôn và để thực hiện mục tiêu hỗ trợ thành viên của mình trước mắt cũng như cạnh tranh với hệ thống ngân hàng khác để tồn tại hỗ trợ thành viên lâu dài, hệ thống QTDND phải hoạt động trên nền tảng cơ sở huy động vốn tại chỗ là các nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời và nguồn vốn tiết kiệm đầu tư của người dân. Thực hiện huy động vốn tại chỗ, QTDND đã không chỉ đã hỗ trợ, tương trợ thành viên của mình trong việc tiết kiệm, sử dụng, đầu tư hiệu quả tối ưu vốn nhàn rỗi mà còn nâng cao dần uy tín của mình, không để phụ thuộc vào các nguồn vốn bên ngoài và từ đó có khả năng tồn tại, phát triển lâu dài để phục vụ thành viên như mục đích, mong muốn của họ. Với một chiến lược huy động vốn thông qua khai thác tối đa các tiềm năng vốn nhàn rỗi trên địa bàn, các QTDND sẽ còn góp phần hỗ trợ vốn cho các QTDND khác trong khu vực và trong cả nước thông qua điều hòa vốn của hệ thống. Khả năng hoạt động, sức mạnh tài chính và uy tín chung của cả hệ thống QTDND vì thế sẽ được củng cố và nâng cao đáng kể nhờ sự hợp tác chặt chẽ mang tính đoàn kết tương trợ lẫn nhau giữa các QTDND là những tổ chức kinh tế hợp tác xã có cùng một phương thức, mô hình kinh doanh, cùng những lợi thế và khó khăn kinh doanh như nhau nhưng lại hoạt động trên những địa bàn nhỏ, tương đối độc lập. 1.4.2. Xoá đói giảm nghèo, hạn chế tệ nạn tín dụng đen vùng nông nghiệp nông thôn Sự ra đời và hoạt động của QTDND đã góp phần tích cực trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo, hạn chế được tệ nạn cho vay nặng lãi và các hình thức biến tướng của nó ở nông thôn. Nhiều địa phương trước đây khi chưa có QTDND, nạn cho vay nặng lãi phát triển mạnh với lãi suất từ 10-15%/ tháng; hiện tượng bán lúa non, cây non của bà con nông dân gần như phổ biến. Đến nay tình trạng này hầu như đã giảm hẳn. Thông qua việc cho vay QTDND đã tạo điều kiện cho nhiều hộ nông dân thoát khỏi được đói nghèo, đời sống được cải thiện; nhiều hộ vươn lên giàu có, nhiều thành viên của QTDND đã trở thành những điển hình sản xuất kinh doanh giỏi. Hiện nay, cơ cấu tín dụng của các QTDND cũng đang từng bước được chuyển dịch, tăng dần cho vay trung hạn, dài hạn tạo điều kiện cho thành viên đầu tư cơ sở vật chất, cải tiến kĩ thuật, mở rộng sản xuất, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc phù hợp với chương trình kinh tế của địa phương. Thực tế đã chứng minh rằng, khi đời sống của nông dân và cư dân ở nông thôn được cải thiện thì niềm tin của người dân đối với Đảng, với Nhà nước cũng được tăng thêm. Bên cạnh đó, đồng vốn của QTDND đến với bà con nông dân một cách đầy đủ, kịp thời đã giúp cho Nhà nước có điều kiện tập trung vốn chuyển sang đầu tư cho các vùng trọng điểm khác của đất nước. 1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của QTDND 1.5.1. Các nhân tố chủ quan Yếu tố hình thức huy động và cho vay Việc đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của khách hàng trong huy động vốn và cho vay cũng là yếu tố ảnh hưởng đến thị phần của QTD. Mục đích của các QTD là phải huy động được càng nhiều khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế làm nguồn vốn cho vay, đồng thời tìm kiếm được khách hàng có nhu cầu vay vốn. Vì vậy nếu QTD đáp ứng được hầu hết nhu cầu của khách hàng như : linh hoạt trong huy động với nhiều kỳ hạn gửi tiền dưới nhiều hình thức huy động ( đảm bảo giá trị theo vàng, tiết kiệm tích luỹ hay tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm có thời hạn phù hợp với nhu cầu đa dạng của người gửi) thì sẽ thu hút được ngày càng nhiều vốn. Đối với các hình thức cho vay cũng vậy nếu QTDND có nhiều hình thức cho vay, nhiều loại cho vay với thời gian vay phong phú, đối tượng cho vay phục vụ được nhu cầu đa dạng của dân cả về sản xuất kinh doanh lẫn tiêu dùng (như mua nhà xây dựng sửa chữa nhà ở, phục vụ nhu cầu sinh hoạt khác) thì sẽ giải quyết được vấn đề đầu ra Chất lượng nhân sự QTDND phải có đủ cán bộ có năng lực, hiểu biết nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, nhất là những cán bộ có trách nhiệm quản lý và điều hành. Kinh doanh tiền tệ tín dụng là một loại hình kinh doanh phức tạp, đòi hỏi cán bộ làm công tác này phải thật năng động, nhạy bén với tình hình, tinh thông nghiệp vụ và có phẩm chất đạo đức tốt. ở những địa phương, xét thấy chưa đủ nguồn cán bộ theo tiêu chuẩn và chưa được đào tạo huấn luyện thì chưa thể xây dựng QTD. Kinh nghiệm đã cho thấy: cán bộ là nhân tố rất quan trọng, nếu không nói là quyết định. Không chú ý điều kiện này xây dựng một cách gò ép, hình thức, hay theo phong trào sẽ dẫn đến thất bại. Kinh doanh tiền tệ thường xuyên phải bảo đảm cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, vốn càng luân chuyển nhanh càng có lãi. Nó không những đảm bảo không bị đọng vốn mà còn phải đảm bảo khả năng thanh toán. Người điều hành QTD phải thật nhạy bén với cơ chế thị trường. Hàng hoá tiền tệ nó khác biệt với bất kỳ loại hàng hoá nào khác. QTD là nguồn đi vay để cho vay nên không thể không để tồn kho nhưng lúc nào cũng phải đủ khả năng thanh toán khi người cho QTD vay có yêu cầu rút tiền, cán bộ điều hành QTD không nắm được yêu cầu đó thì không thể nào đáp ứng yêu cầu. l Yếu tố trụ sở, phương tiện bảo quản tiền bạc, sổ sách chứng từ Là đơn vị kinh doanh tiền tệ, là người thủ quĩ của nhân dân nên QTD phải có trụ sở và phương tiện bảo quản tiền bạc, sổ sách, chứng từ. Đây là cơ sở để đảm bảo niềm tin trong nhân dân, dân có tin tưởng mới gửi tiền vào QTD. Trụ sở phải được đặt ở những nơi trung tâm, thuận tiện cho giao dịch, phù hợp với tâm lý đại đa số thành viên. Không chạy theo hình thức nhưng phải bảo đảm khang trang, chắc chắn, an toàn về tài sản. Trong thời gian đầu, bốn điều lệ của QTD còn thấp, các loại quỹ chưa hình thành thì có thể tận dụng trong hoàn cảnh cho phép, nhưng về lâu dài QTD phải xây dưng trụ sở có kho bảo quản tiền bạc, chứng từ, sổ sách. Địa bàn xây dựng QTD QTD chỉ nên xây dựng ở những địa phương kinh tế hàng hoá phát triển nghĩa là có khả năng huy đông vốn và có nhu cầu vay vốn. Một khi sản xuất hàng hóa đã phát triển, cơ cấu kinh tế đã thay đổi, các ngành nghề đều phát triển sẽ nảy sinh nhu cầu vay vốn thường xuyên và ngày càng nhiều. Và trong quá trình sản xuất kinh doanh sẽ nảy sinh có những người tạm thời thừa vốn và những người tạm thời thiếu vốn. QTD ra đời sẽ làm nhiệm vụ trung gian, huy động vốn của người thừa vốn cho người tạm thời thiếu vốn vay. Đó chính là điều kiện, tiền đề hình thành và sau khi ra đời, quỹ tín dụng mới có đủ điều kiện và phát triển. ở những địa phương sản xuất còn mang tính tự cung tự cấp, nhu cầu vay vốn rất ít khả năng vốn tạm thời nhàn rỗi cũng rất hạn chế. ở những địa phương này có hình thành QTD cũng không thể tồn tại và phát triển. Vì mức độ và phạm vi hoạt động bị hạn hẹp không bảo đảm cho QTD kinh doanh có lãi, thu nhập không đủ bù đắp chi phí thì không thể thực hiện được nguyên tắc hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính như cơ chế đã quy định. 1.5.2. Các nhân tố khách quan Thái độ và chính sách của Nhà nước Các tổ chức QTDND cũng là những tổ chức kinh tế, là một bộ phận của nền kinh tế nên chịu sự tác động của quan điểm và chính sách từ phía Nhà nước. Nếu Nhà nước nhận thấy lợi ích to lớn mà các QTD đem lại thì sẽ có thái độ ủng hộ, tạo môi trường hoạt động và có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các QTD. Ngược lại nếu các QTD được xem là một nguy cơ gây mất ổn định trong xã hội thì Nhà nước sẽ có thái độ khác và tìm cách kiểm soát chặt chẽ hạn chế và thậm chí cấm các QTDND hoạt động. Do vậy việc xem xét đánh giá đúng và khách quan về các QTD sẽ quyết định tới thái độ và chính sách của Nhà nước tới việc phát triển hay cấm các QTDND hoạt động. Đó là các chính sách về việc đưa ra các khung khổ pháp lý thuận lợi, tạo đất và các sân chơi cho các tổ chức TDHT phát triển, chính sách quản lý giám sát hỗ trợ nguồn vốn, điều kiện cơ sở vật chất và con người, các chính sách miễn giảm hay ưu đãi về thuế, công tác vận động, bảo hiểm, cạnh tranh...Thông qua các chính sách khuyến khích này mà các tổ chức TDHT có thể nhanh chóng phát triển cả về số lượng, chất lượng và qui mô. Như vậy để phát triển các tổ chức TDHT nhà nước có thể đóng vai trò là người khởi xướng việc xây dựng phát triển một hệ thống TDHT thông qua thái độ và chính sách vận động tuyên truyền hỗ trợ của nó. Quản lý vĩ mô của Nhà nước - Tạo dựng môi trường và khung khổ pháp lý Môi trường và khung khổ pháp lý tạo ra sân chơi và đất cho các tổ chức TDHT hoạt động và phát triển. Môi trường pháp lý có lành mạnh, minh bạch và việc thực thi pháp luật có được bảo đảm thì các chủ thể kinh tế mới có thể yên tâm làm ăn. Một sân chơi có bình đẳng, luật chơi có rõ ràng, trọng tài có khách quan mới thu hút được đông người tham gia. Đây thường là công việc của cơ quan lập pháp của các nước. Những lĩnh vực pháp lý chính tạo ra môi trường pháp lý cho các tổ chức TDHT là các qui định luật pháp như Luật hợp tác xã, Luật các tổ chức tín dụng, Luật thương mại. Hai luật quan trọng nhất trực tiếp qui định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức TDHT là Luật hợp tác xã và Luật các tổ chức tín dụng. Nó tạo ra khung khổ pháp lý chính cho các tổ chức TDHT. - Cấp và thu hồi giấy phép, thanh tra và giám sát. Khi cho phép mô hình TDHT hoạt động, ngoài việc tạo lập một khung khổ pháp lý và môi trường cho nó hoạt động, Nhà nước còn phải thức hiện việc cấp và thu hồi giấy phép hoạt động, tiến hành thanh tra và giám sát hoạt động của các tổ chức TDHT. Việc cấp và thu hồi giấy phép của Nhà nước thể hiện việc chính thức hoá hay xoá sổ hoạt động của các tổ chức TDHT và qui định luật áp dụng điều chỉnh tương ứng đối với các tổ chức này. Khi đi vào hoạt động, Nhà nước phải thường xuyên thanh tra giám sát hoạt động của các tổ chức TDHT nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động của các tổ chức TDHT. Các biện pháp giám sát từ phía Nhà nước mang tính phòng ngừa và bảo vệ này phải phù hợp với các nguyên tắc của thị trường và nguyên tắc hoạt động của tổ chức TDHT. Đây thường là công việc của cơ quan thanh tra các tổ chức tín dụng hay ngân hàng trung ương của các nước. Việc cấp và thu hồi giấy phép hay thanh tra giám sát của các cơ quan hữu trách nếu có phương pháp phù hợp, thực hiện tốt, hiệu quả không gây phiền nhiễu khó khăn cho các tổ chức TDHT sẽ tác động tích cực tới sự phát triển an toàn của từng tổ chức cũng như cả hệ thống các tổ chức TDHT. Vai trò của quốc tế Chúng ta ngày nay sống trong một thời kì mà quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ tại các quốc gia, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Mở cửa và hội nhập quốc tế là xu hướng phát triển chung, do vậy các tổ chức TDHT và sự phát triển của nó cũng chịu ảnh hưởng và tác động quốc tế không nhỏ. Đó là sự giao lưu, trao đổi thông tin, bài học kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng và phát triển các tổ chức TDHT hay việc mở rộng hoạt động ra thị trường quốc tế cũng như chịu sự cạnh tranh từ nước ngoài. Đó là sự kết nối, ra nhập các tổ chức quốc tế liên quan tới tổ chức TDHT như tổ chức liên minh hợp tác xã quốc tế ICA, Hội ngân hàng nhân dân quốc tế CICP, Liên minh Raiffeisen quốc tế IRU. Đó là sự hỗ trợ về kĩ thuật, vốn từ các tổ chức quốc tế, quốc gia khác trong việc xây dựng và phát triển các tổ chức TDHT. Những kinh nghiệm và sự hỗ trợ quốc tế có tác động rất tích cực tới việc xây dựng và phát triển tổ chức TDHT, đặc biệt là việc tránh được những thất bại, sự trả giá và rút ngắn được thời gian xây dựng. Tính rủi ro và ảnh hưởng dây truyền của hoạt động của QTDND. QTDND là loại hình TCTD hợp tác hoạt động chủ yếu là huy động vốn để cho vay đối với các thành viên của khu vực nông nghiệp, nông thôn là nơi mặt bằng kinh tế còn thấp sản suất, kinh doanh còn chứa đựng nhiều rủi ro (do phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan như thời vụ, thiên tai, giá cả ...) Trong khi đó qui mô hoạt động và năng lực tài chính của các QTD thường nhỏ bé, trình độ các bộ và nhân viên còn hạn chế. Vì vậy QTDND là loại hình TCTD thường xuyên phải đối mặt với nhiều rủi ro và cũng dễ xảy ra đổ vỡ nhất so với các loại hình TCTD khác. Không những thế do hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, TD và NH là lĩnh vực rất nhạy cảm, chịu tác động rất lớn bởi yếu tố tâm lý, thông tin và nhiều yếu tố ảnh hưởng khách quan, chủ quan khác nên khi đối mặt với những nguy cơ đổ vỡ, việc khắc phục đưa QTDND trở lại hoạt động bình thường gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa tuy các QTDND và các pháp nhân độc lập đồng thời thông qua các bộ phận tổ chức liên kết, phát triển hệ thống có chức năng đại diện bảo vệ quyền lợi định hướng phát triển, cung cấp các dịch vụ tư vấn thông tin thực hiện kiểm toán, quản lý quĩ an toan và đào tạo nguồn nhân lực cho toàn hệ thống QTDND . Trong cơ chế liên kết kinh tế QTDNDTW và các doanh nghiệp cần cung cấp dịch vụ tài chính hỗ trợ hoạt động theo nguyên tắc không cạnh tranh mà hỗ trợ cho các QTDND nâng cao hiệu quả hoạt động của mình nhằm phục vụ thành viên của các QTDND cơ sở ngày một tốt hơn qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển của từng QTDND cơ sở cũng như toàn hệ thống các QTDND cơ sở là chủ sở hữu và cũng là khách hàng của tổ chức nói trên; đồng thời QTDND cơ sở chính là nơi tạo ra nguồn thu nhập căn bản cho hệ thống QTDND, chính vì vậy mà chỉ khi các QTDND hoạt động tốt thì hệ thống QTDND mới phát triển tốt, trong khi đó bộ phận tổ chức liên kết phát triển hệ thống tuy không trực tiếp tiến hành các hoạt động kinh tế nhưng có chức năng hỗ trợ và đảm bảo cho các thành viên nhất là đối với QTDND cơ sở cũng như toàn bộ hệ thống phát triển an toàn và bền vững. Điều kiện về địa bàn thông tin liên lạc và giao thông vận tải QTD hoạt động kinh doanh trong một cơ chế thị trường, lại có nhiều tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này nên đòi hỏi phải nhạy bén, nắm bắt được thông tin liên lạc để có biện pháp xử lý phù hợp. Như việc xử lý về lãi suất, đối tượng cho vay, vấn đề thời vụ, lúc nào cần tung vốn ra, lúc nào cần thu hẹp vốn đầu tư ... nếu không có mạng lưới thông tin liên lạc làm sao những người quản trị điều hành nắm bắt được tình hình để xử lý, đề ra những chủ trương biện pháp hữu hiệu, đảm bảo cho việc kinh doanh được tiến hành thuận lợi hiệu qủa. Phương tiện thông tin liên lạc chủ yếu là điện thoại, vi tính, đường giao thông, phương tiện vận chuyển. Sự liên kết hệ thống QTDND Lịch sử phát triển mô hình QTDND đã cho thấy trong hệ thống QTDND, thì QTDND cơ sở là loại hình ra đời sớm nhất và cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động tiền tệ TDNH để hỗ trợ các thành viên (là chủ thể hoạt động kinh tế riêng biệt) nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của riêng họ đây chính là mục tiêu cơ bản và lâu dài mà các thành viên mong muốn khi cùng nhau góp vốn thành lập QTDND. Để có thể duy trì sự tồn tại và phát triển nhằm hỗ trợ lâu dài và bền vững cho các thành viên trong điều kiện kinh tế thị trường, các QTDND cơ sở (là những TCTD hoạt động độc lập có quy mô nhỏ với những yếu điểm vốn có như đã phân tích ở trên ) không còn con đường nào khác là phải cùng nhau thiết lập một cơ chế liên kết chặt chẽ nhằm vừa phát huy các ưu điểm, lợi thế vốn có của mình lại vừa khắc phục được các yếu điểm cố hữu mà mỗi QTDND không tự mình giải quyết được. Hệ thống liên kết này còn được vận hành một cách đông bộ và toàn diện thông qua cơ chế liên kết kinh tế giữa các đơn vị cấu thành của bộ phận trực tiếp hoạt động trung gian phục vụ thành viên là QTDND cơ sở, QTDND khu vực, QTDND TW và các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính hỗ trợ. Tóm lại hoạt động của QTD chịu tác động bởi rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, các yếu tố có thể tác động theo hướng tích cực và tiêu cực. Chúng ta cần phải tìm hiểu phân tích, đánh giá, các tác động của những nhân tố này để nâng cao hoạt động của hệ thống QTD. 1.6. Kinh nghiệm của các nước trong việc phát triển hệ thống QTDND 1.6.1 Kinh nghiệm về mặt lý luận Một là: Nhận thức đúng về loại hình tổ chức TDHT Những nhận thức lệch lạc thường hay gặp ở các nước là coi tổ chức TDHT như là một công cụ để thực thi các chính sách xã hội của Nhà nước hay coi là một tổ chức xã hội từ thiện dẫn đến mục tiêu của tổ chức TDHT sẽ bị đẩy ra phía sau làm cho lợi ích của các thành viên về lâu dài không được đảm bảo. Theo kinh nghiệm của các nước, họ luật hoá luôn mục tiêu và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của tổ chức TDHT và đảm bảo cho tính thực thi của luật này. Hai là : Có một khung khổ pháp lý ổn định Kinh nghiệm của các nước là chỉ qui định những đIều khoản chung nhất, mang tính bắt buộc không thể thiếu được, bất di bất dịch trong luật, còn để lại độ tự do, tự chủ cho các tổ chức TDHT tự quyết định thông qua tổ chức đại diện quyền lợi hay chính họ. Ba là : Có chế độ kiểm toán TDHT bắt buộc toàn diện và theo chỉ định. Xuất phát từ những yếu điểm mang tính đặc thù nội tại của loại hình TDHT như cơ chế giám sát dân chủ lơ là thì bắt buộc phải áp dụng một chế độ kiểm toán độc lập đối với các tổ chức TDHT. Theo kinh nghiệm các nước, chế độ kiểm toán bắt buộc này sẽ do Nhà nước qui định, thường dưới một qui chế kiểm toán. Nhà nước sẽ giao cho một tổ chức nào đó có đủ điều kiện và khả năng để thực hiện kiểm toán tại các tổ chức TDHT, theo đó Nhà nước thường trao quyền kiểm toán cho các tổ chức kiểm toán của hệ thống liên kết TDHT như cho hiệp hội Đức hay một công ty kiểm toán chuyên nghiệp thuộc Tổng liên đoàn (Canada). Bốn là: Có một hệ thống đào tạo hiệu quả Theo kinh nghiệm của các nước phát triển, chương trình đào tạo phải gắn và mang tính thực tiễn cao, dễ áp dụng triển khai. Một mặt các cán bộ, nhân viên phải tự có trách nhiệm tự học hỏi nâng cao trình độ, mặt khác phải mời những giảng viên có trình độ kinh nghiệm về giảng dạy. 1.6.2. Kinh nghiệm triển khai Một là: Hoạt động theo đúng các nguyên tắc TDHT cơ bản. - Nhà nước là người khởi xướng, vận động xây dựng các tổ chức TDHT nhưng không được phép ép buộc người dân gia nhập tổ chức TDHT . - Các tổ chức TDHT được xây dựng từ nhu cầu của thành viên dưới sự dẫn dắt của các thành viên sáng lập hay các tổ chức đại diện quyền lợi chứ không phải từ một ý chí chủ quan nào cả. - Nhà nước không dùng các biện pháp can thiệp hành chính, phi thị trường . - Nhà nước không can thiệp vào công việc nội bộ của tổ chức TDHT - Nhà nước khuyến khích sự phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, tính tự trợ giúp trong tổ chức TDHT Hai là : Xây dựng một hệ thống liên kết TDHT hoàn chỉnh . a. Khối tổ chức TDHT cơ sở - Xây dựng và phát triển ở cả đô thị và nông thôn. - Hoạt động như những NH đa năng, cung cấp mọi dịch vụ NH. - Hoạt động trên địa bàn khu vực đủ rộng lớn để có quy mô hoạt động đảm bảo tính kinh tế tối thiểu nhưng không quá lớn để đảm bảo sự kiểm soát, hạn chế rủi ro cho các tổ chức TDHT. - Thành viên của tổ chức TDHT bao gồm cả thể nhân và pháp nhân. - Có xu hướng sáp nhập lại với nhau để tạo thành các tổ chức TDHT mạnh hơn, có quy mô và địa bàn hoạt động lớn hơn. - Có sự phân công nhiệm vụ, chức năng rõ ràng với mức thẩm quyền và trách nhiệm tương ứng giữa các cơ quan của tổ chức TDHT - Nâng cao vốn tự có bằng việc trích lập thoả đáng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ hàng năm nhằm nâng cao năng lực tài chính của tổ chức TDHT để hoạt động và phòng ngừa rủi ro, đồng thời tạo nguồn vốn ổn định không phải trả lãi, tránh được sự bất ổn định về nguồn vốn khi có biến động về số lượng hay vốn góp của thành viên . - Khuyến khích nhiều thành viên góp ít vốn để tạo ra vốn điều lệ lành mạnh ổn định. b. Khối tổ chức hỗ trợ trực tiếp hoạt động kinh doanh Đa phần các nước đều học tập kinh nghiệm của Đức, thành lập ra các tổ chức TDHT đầu mối các cấp của riêng hệ thống. Các tổ chức TDHT đầu mối này do chính các tổ chức TDHT xây dựng ở khắp nơi để bảo đảm phục vụ, hỗ trợ kịp thời và thiết thực cho chính họ. Nó được tổ chức thành nhiều cấp và có sự phân công nhiệm vụ chức năng giữa các cấp để tránh chồng chéo và cạnh tranh trong nội bộ hệ thống. Nó được thành lập ở cấp khu vực/ tỉnh/ bang và cấp quốc gia / liên bang (Đức, Canada, Pháp, áo...) Tuỳ theo điều kiện về hạ tầng, cạnh tranh, giai đoạn, trình độ phát triển và việc áp dụng các công nghệ tin học hiện đại mà các tổ chức TDHT đầu mối ngày nay được sắp xếp lại cho phù hợp theo xu hướng giảm dần các tầng lớp trung gian ở cấp khu vực (Canada, Đức). Ngoài ra, hệ thống liên kết tổ chức TDHT của nhiều nước còn có nhiều doanh nghiệp đặc biệt chuyên doanh khác nữa (Đức, Canada) như các công ty bảo hiểm , công ty cho thuê tài chính, công ty thế chấp bất động sản, quỹ tiết kiệm xây dựng, liên minh đầu tư ... do chính các tổ chức TDHT thành lập để cung cấp chủ yếu cho riêng họ các dịch vụ chuyên doanh về tài chính, ngân hàng hay bảo hiểm … giúp cho các tổ chức TDHT tuy nhỏ bé nhưng vẫn có thể cung cấp mọi dịch vụ của một ngân hàng đa năng cho thành viên, khách hàng. c. Khối tổ chức hỗ trợ gián tiếp hoạt động kinh doanh Thứ nhất : Xây đựng tổ chức đại diện quyền lợi cho hệ thống TDHT Các tổ chức đại diện quyền thường đảm nhận ngoài chức năng đại diện quyền lợi cả các chức năng khác như tư vấn, thông tin, tuyên truyền, đào tạo, cho các tổ chức TDHT (Anh, Luxembua, Bỉ,...). ở nhiều nước nó cũng đảm nhận một số chức năng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ trực tiếp hoạt động kinh doanh cho các tổ chức TDHT của các tổ chức TDHT đầu mối (Thuỵ Sĩ, Bỉ ). Thứ hai: Mô hình tổ chức kiểm toán tổ chức TDHT Theo kinh nghiệm của các nước, các tổ chức TDHT đều phải được kiểm toán bắt buộc định kì hàng năm. Đối với các tổ chức TDHT nhỏ có thể tiến hành kiểm toán hai năm một lần. Nội dung kiểm toán ở đây là toàn diện, gắn với tư vấn cho các tổ chức TDHT. Việc thực kiểm toán thường được trao cho một tổ chức kiểm toán của hệ thống. Thứ ba: Mô hình tổ chức an toàn hệ thống Các nước có hệ thống các tổ chức TDHT phát triển thành công đều có các tổ chức an toàn hệ thống. ở CHLB Đức là quĩ bảo toàn, còn ở Canada là công ty an toàn. Thứ tư: Mô hình đào tạo Các nước có hệ thống QTDND phát triển như Canada và Đức đã có rất nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng mô hình đào tạo. Tuỳ theo điều kiện tài chính mà các tổ chức TDHT có thể cùng góp tiền để tự mời giảng viên về giảng dạy, tự tổ chức các khoá bồi dưỡng hay giao hẳn việc này cho tổ chức đại diện quyền lợi thức hiện. Khi điều kiện tài chính cho phép, họ cùng đóng góp để xây dựng các Học viện hoặc trung tâm đào tạo cán bộ cho riêng hệ thống. ở Đức có tới 18 học viện đào tạo cán bộ cho hệ thống NHHTX. Ba là : Nhà nước hậu thuẫn thông qua hệ thống chính sách, pháp luật và cơ quan quản lý. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, Nhà nước nào quan tâm tới lọai hình TDHT, ủng hộ, thừa nhận hoạt động tích cực của các tổ chức TDHT thì ở đó có một hệ thống chính sách và pháp luật nhất quán thuận lợi cho các tổ chức TDHT phát triển. Đó là các chính sách hỗ trợ ban đầu trên tinh thần giúp đỡ sẽ tự trợ giúp tức là nâng cao khả năng tự trợ giúp của các tổ chức TDHT trong việc xây dựng và phát triển mà không vi phạm các nguyên tắc TDHT cơ bản. Trong thời kỳ "vạn sự khởi đầu nan" này thì những chính sách như ưu đãi về thuế, hỗ trợ về nguồn vốn, cơ sở vật chất, con người... có ý nghĩa thiết thực. Tóm lại, các tổ chức TDHT là những tổ chức tự trợ giúp, tự phát huy nội lực của những người dân để tạo ra và cung cấp các dịch vụ tín dụng ngân hàng một cách nhanh chóng, kịp thời và thuận lợi cho họ nhằm phục vụ sản xuất, kinh doanh, cải thiện và nâng cao đời sống của thành viên. Đây là loại hình tổ chức HTX hoạt động trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng với những nguyên tắc TDHT nền tảng cơ bản và những cấu trúc đặc thù riêng. Chính bởi vậy để phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững thì các tổ chức TDHT đã phải xây dựng các tổ chức liên kết TDHT để hỗ trợ cho họ, tạo thành một hệ thống liên kết TDHT. Tổ chức TDHT đã tồn tại và phát triển thành công từ hơn 150 năm nay ở trên 100 các quốc gia có trình độ phát triển rất khác nhau trên thế giới dưới nhiều hình thức và tên gọi khác nhau với những hệ thống liên kết của chúng trong những môi trường, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội rất khác nhau nhưng về bản chất chúng đều giống nhau. Tổ chức TDHT đã, đang và sẽ đem lại lợi ích rất to lớn cho các thành viên, người dân và Nhà nước của các quốc gia nên đáng được trân trọng, khuyến khích và hỗ trợ phát triển Chương II thực trạng hoạt động của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân VIệT NAM 2.1. Khái quát quá trình hoạt động của hệ thống QTDND : Lúc đầu hệ thống QTDND được thành lập và hoạt động ở 3 cấp : QTDND cơ sở (hoạt động ở cấp xã), QTDND khu vực (ở cấp tỉnh, thành phố), QTDND Trung Ương (đầu mối cho cả nước). Điều kiện để thành lập QTDND cơ sở: + Phải nằm trên địa bàn của xã có môi trường kinh tế phát triển thuận lợi, giao thông thuận tiện, nhân dân tại xã đó phải có nhu cầu về việc gửi tiền, về vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Cấp uỷ Đảng và UBND xã sở tại đồng ý chấp thuận xin trên cho thành lập QTDND tại địa bàn xã. + Về con người: phải có phẩm chất đạo đức, có sự am hiểu và hiểu biết về kinh tế-tài chính, có kinh tế để góp cổ phần. Lúc đầu thành lập: phải có ít nhất 14 thành viên ở trong Ban trù bị (do UBND xã chấp thuận) và phải có vốn điều lệ tối thiểu là 100 triệu đồng, tiếp đó làm một số thủ tục cần thiết, mở Đại hội thành viên đầu tiên để bầu ra Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban điều hành, sau đó hội đủ các điều kiện trình NHNN tỉnh để xin cấp giấy phép hoạt động. NHNN tỉnh cấp giấy phép hoạt động và thành lập QTDND, chịu trách nhiệm đào tạo cán bộ quỹ , hướng dẫn về các mặt nghiệp vụ hoạt động của QTD. Quỹ TD phải chịu sự thanh tra, kiểm tra của NHNH (đến nay cán bộ phải có đủ trình độ theo quy định thì mới cho thành lập quỹ). 2.1.1. Giai đoạn 1988-1992 Các TCTD chưa nhiều, loại hình chưa đa dạng, mới chỉ có 4 NH Quốc doanh, một số NHTM cổ phần, 7100 HTXTD nông thôn và QTD đô thị. Khi nền kinh tế chuyển từ bao cấp sang cơ chế thị trường thì cơ chế tổ chức và hoạt động của các tổ chức này không còn phù hợp. Thêm vào đó là tình trạng lạm phát, cơ chế điều hành lãi suất và một số nguyên nhân khác đã làm cho hơn 7000 HTXTD và QTD đô thị trong toàn quốc bị đổ vỡ, mất khả năng thanh toán và phải thanh lý hàng loạt để lại một dấu ấn không tốt, làm mất lòng tin trong các cấp uỷ Đảng và nhân dân. 2.1.2. Giai đoạn từ cuối 1992-1995 Cuối năm 1992 chỉ còn hơn 100 HTX tín dụng tồn tại. Thực hiện nghị quyết 390/TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm thành lập một hệ thống QTD (theo hình thức HTX) có 3 cấp liên kết kinh tế với nhau hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng tồn tại phát triển (trên 900 quỹ được thành lập): QTDND cơ sở QTDND cơ sở QTDNDcơ sở QTDND Khu vực QTDND Khu vực QTDND Khu vực QTDND TW Sơ đồ mô hình TDND Sau giai đoạn thí điểm, mô hình QTDND đã được rút kinh nghiệm và triển khai rộng khắp ở các tỉnh-thành phố khác trong cả nước. 2.1.3. Giai đoạn 1/1/1996-7/2000 : Giai đoạn này, Luật HTX ra đời, theo sự chỉ đạo của NHNH, các QTDND cơ sở tiến hành làm đầy đủ các khâu, tổ chức Đại hội chuyển đổi sang đồng thời hoạt động theo Luật chuyên ngành. Do đó từ năm 1996 đến nay, trên thị trường tài chính nông thôn nước ta xuất hiện một tổ chức mới làm nhiệm vụ huy động vốn và cho vay vốn, vừa hoạt động theo Luật các TCTD, vừa hoạt động theo Luật HTX, ở dạng mô hình HTXTD, đó là hệ thống QTDND. Thời điểm cao nhất cả nước có 960 QTDND cơ sở, 21 QTDND khu vực, một số tỉnh có số lượng QTD lớn : Thái Bình(78 quỹ), Hà Tây(76 quỹ), Hải Dương(74 quỹ). Chất lượng hoạt động của các QTDND đã được cải thiện, trước hết là chất lượng tín dụng; một số QTDND yếu kém đã có nhiều nỗ lực vươn lên bước đầu trở lại hoạt động bình thường. 2.1.4. Giai đoạn 8/2000 đến nay Xuất phát từ yêu cầu phát triển hệ thống QTDND sau tổng kết thí điểm, Bộ Chính trị đã có chỉ thị số 57-CT/TW ngày 10/10/2000 : “ Về củng cố hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND “. Sau 1 năm thực hiện, chất lượng hoạt động của hệ thống QTDND đã được cải thiện một bước quan trọng (số liệu tính đén 30/9/2001) : 924 QTDND cơ sở (giảm 36 quỹ so với thời điểm Chỉ thị 57 được ban hành); trong đó 687 quỹ hoạt động bình thường (tăng 98 quỹ ~16,6%); 192 quỹ yếu kém (giảm 112 quỹ~36,9%); 42 quỹ có nguy cơ mất khả năng chi trả (tăng 3 quỹ~7,6%-số tăng này tập trung ở Kiên Giang). Nhiều QTDND đã được kiện toàn về mặt tổ chức cán bộ, xây dựng, hoàn thiện và làm việc theo quy chế, chấp hành đúng pháp luật, từ đó giúp cho hoạt động của các QTDND đã đi vào nề nếp, hoạt động nghiệp vụ đã có nhiều tiến bộ, chất lượng các mặt hoạt động được nâng lên, đặc biệt là công tác tín dụng. Tính đến đầu năm 2004, hệ thống QTDND cơ sở có 911.926 thành viên là các hộ gia đình góp vốn, bình quân 1.016 thành viên/quỹ. Hầu hết các QTDND cơ sở đều hoạt động có lãi và có tích luỹ, tạo nên sự đa dạng của hoạt động tài chính-tiền tệ ở nông thôn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu sang nền sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu và phân công lại lao động xã hội. Chúng ta thừa nhận một thực tế ở các nước kinh tế thị trường phát triển, như : Canada , Đức, bên cạnh các NH xuyên Quốc gia thì vẫn có mô hình QTD và NH hợp tác phục vụ nhu cầu vốn và các dịch vụ NH của các chủ trang trại, hộ nông dân, người làm ăn nhỏ ở nông thôn. Hệ thống QTDND ở nước ta đang tồn tại và phát triển sau quá trình củng cố hoàn thiện chỉ thị 57-CT/TW của Bộ Chính trị, đang chứng tỏ sức mạnh riêng có trong quá trình góp phần đưa nền kinh tế hội nhập với cộng đồng quốc tế. 2.2. Thực trạng hoạt động của hệ thống QTDND trong thời gian qua - Sau 4 năm củng cố, chấn chỉnh đến nay hệ thống QTDND có chuyển biến căn bản, đi vào hoạt động ổn định và có bứơc phát triển mạnh mẽ. Đối với các QTDND cơ sở NHNN đã tập trung chỉ đạo khắc phục mạnh mẽ những tồn tại yếu kém, Đối với các Quỹ không khắc phục chuyển đổi vươn lên đựơc thì kiên quyết cho rút giấy phép hoạt động. Cả nước hiện nay có 901 QTDND cơ sở, số QTDND hoạt động bình thường chiếm 98,2% chỉ còn 16 Quỹ (chiếm 1,8%) còn tồn tại một số yếu kém còn tồn tại đang được khắc phục. Một trong những kết quả rõ nhất là các chỉ tiêu hoạt động của QTDND cơ sở đã tăng lên đáng kể, như : + Tổng nguồn vốn của các QTDND cơ sở tính đến 31/12/2004 đạt 6.280 tỷ  đồng tăng 3.065 tỷ đồng (tăng tương đương 2,2 lần) so với 30/11/2000 (thời điểm có Chỉ thị 57-CT/TW của Bộ chính trị và Quyết định 135/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Trong đó :  - Vốn điều lệ 294 tỷ đồng tăng 122 tỷ đồng (tăng tương đương 1,7 lần) so với 30/11/2000;  - Vốn huy động 3.940 tỷ đồng tăng 2.206 tỷ đồng (tăng tương đương gấp 2,3 lần) so với 30/11/2000;  - Vốn vay 1.013 tỷ đồng (vay QTDTW và các TCTD) tăng 510 tỷ đồng (tăng tương đương 2 lần) so với 30/11/2000;  - Vốn khác 478 tỷ đồng.  + Tổng dư nợ cho vay (tính đến 31/12/2004): 5.400 tỷ đồng, tăng 2.641 triệu đồng (tăng tương đương gấp 2,1 lần) so với 30/11/ 2000; Trong đó :  - Nợ quá hạn: 36 tỷ đồng, = 0,7 % tổng dư nợ. Sau củng cố, chấn chỉnh QTDND cơ sở mới đã được thành lập là 23 Quỹ trong đó năm 2004 thành lập 11 Quỹ.   Với nhận thức cũng như trong thực tế thì nếu như xảy ra đổ vỡ của bất kì một QTDND nào nó sẽ có tác động đến hàng chục nghìn người gửi tiền và kéo theo sự đổ vỡ dây chuyền của cả hệ thống tổ chức tín dụng này, làm mất ổn định chính trị –kinh tế – xã hội. Bài học đổ vỡ hàng nghìn HTXTD ở nước ta cuối thập kỉ 80, đổ vỡ QTD ở Anbani giữa thập kỉ 90... đã cho thấy rõ vấn đề này. Quá trình tổ chức thực hiện Chỉ thị 57 của Bộ Chính trị, quyết định 135 của Thủ tướng Chính phủ, các phương án của NHNN... được các cấp trong hệ thống NHNN và các cấp khác có liên quan tiến hành bài bản, thận trọng, linh hoạt... Một mặt NHNN tạm dừng cấp phép thành lập mới, mặt khác khẩn trương tiến hành các bước củng cố những QTDND có thể khôi phục hoạt động được, kiên quyết thu hồi giấy phép và chấm dứt hoạt động của các QTDND quá yếu kém, trả đủ tiền gửi cho nhân dân và ổn định, phát triển của cả hệ thống. Với giải pháp triển khai phù hợp, đến hết tháng 3/2003 NHNN đã thu hồi giấy phép, cho ngừng hoạt động 112 QTDND, chiếm 13% tổng số QTD trong toàn quốc, thu hồi được 9.528 triệu đồng trong tổng số nợ phải thu là 38.065 triêụ đồng. Cho đến nay hệ thống QTDND chưa được thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và cũng chưa có tổ chức liên kết thành hệ thống. QTDTW với mạng lưới 24 chi nhánh cũng chưa gắn kết được các QTDND cơ sở. Do đó đây đang là một khó khăn lớn của tổ chức tín dụng này. Các QTDND cũng chưa được làm đại lý bán lẻ vốn cho hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. Một số cơ chế, quy chế khác cho hoạt động của hệ thống này đang trong quá trình hoàn thiện dự thảo. Thiết nghĩ những khó khăn cần sớm được khắc phục, đẩy nhanh tiến độ; đặc biệt cần tăng cường tính liên kết của cả hệ thống QTDND. 2.3.Đánh giá hoạt động của hệ thống QTDND : 2.3.1. Những mặt tích cực : 2.3.1.1. QTDND với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn Trong những năm qua, QTDND đã phát huy tinh thần tương trợ cộng đồng, khai thác triệt để mọi nguồn vốn nhàn rỗi tại chỗ để cho vay đáp ứng nhu cầu của thành viên; tạo điều kiện giúp đỡ họ phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, cải thiện đời sống, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo và hạn chế tệ nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. Đồng vốn của QTDND đã giúp cho thành viên và hộ nghèo trên địa bàn phát triển và mở rộng sản xuất, kinh doanh, trồng trọt, chăn nuôi, phát triển ngành nghề, cải thiện sinh hoạt, nâng cao đời sống, khơi dậy tiềm năng kinh tế của nhiều địa phương, góp phần làm cho bộ mặt nông thôn Việt Nam ngày càng đổi mới. Đặc biệt, sự ra đời và hoạt động của QTDND đã góp phần tích cực trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, hạn chế được tệ nạn cho vay nặng lãi và các hình thức biến tướng của nó ở nông thôn. Nhiều địa phương, trước đây khi chưa có QTDND, nạn cho vay nặng lãi phát triển mạnh với lãi suất từ 10 đến 15%/tháng; hiện tượng bán lúa non , cây non của bà con nông dân gần như phổ biến. Đến nay, tình trạng này hầu như đã giảm hẳn. Thực tế đã chứng minh rằng: khi đời sống của nông dân và cư dân ở nông thôn được cải thiện thì niềm tin của người dân đối với Đảng, với Nhà nước cũng được tăng thêm. Bên cạnh đó, đồng vốn của QTDND đến với bà con nông dân một cách đầy đủ, kịp thời đã giúp cho Nhà nước có điều kiên tập trung vốn chuyển sang đầu tư cho các vùng trọng điểm khác của đất nước. Qua 10 năm hình thành và phát triển, đến nay hệ thống QTDND đã và đang từng bước lớn mạnh và thực sự là một kênh dẫn vốn quan trọng góp phần tích cực trong việc cung ứng vốn phục vụ yêu cầu phát triển KT-XH trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn. Hoạt động của QTDND có ý nghĩa cả về kinh tế – chính trị – xã hội, đặc biệt thắt chặt thêm mối quan hệ tình làng nghĩa xóm của những người nông dân trong cộng đồng làng xã. Những kết quả đạt được đã khẳng định vai trò to lớn của QTDND trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn đông thời khẳng định chủ trương thành lập QTDND trong đIều kiện thực tiễn Việt Nam của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân. 2.3.3.2. Hệ thống QTDND đã đào tạo được đội ngũ cán bộ và tạo dựng được một phần cơ sở vật chất kỹ thuật, bước đầu đáp ứng yêu cầu hoạt động của kinh tế tập thể. Được sự quan tâm của NHNN, công tác đào tạo cán bộ được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Với nguồn kinh phí hàng chục tỷ đồng để bồi dưỡng và đào tạo cho hàng nghìn cán bộ trong các QTDND cơ sở có khả năng quản trị, điều hành, tác nghiệp. Có thể nói, đội ngũ cán bộ nhân viên cơ sở của hệ thống QTDND khá hơn, đồng đều hơn so với các cán bộ nhân viên của các cơ sở kinh tế tập thể khác, đặc biệt là về quản lý tài chính. Hầu hết các cơ sở có trụ sở làm việc ổn định, khang trang rộng rãi, trang bị máy tính phục vụ cho công tác quản lý điều hành. Đây là một trong những nhân tố góp phần quyết định vào việc xây dựng thành công mô hình QTDND . Hoạt động của các QTD đã được cấp uỷ và chính quyền ở các địa phương đánh giá là rất thiết thực và có hiệu quả, được các thành viên và các hộ nghèo tin cậy. Đến khảo sát ở các cơ sở, có một số ý kiến tâm sự của một số thành viên: “Từ ngày có QTD, dân khỏi phải vay nặng lãi“. Một số thành viên ở Cầu Diễn, Hà Nội đã nói “ từ ngày có quỹ, gia đình tôi đã thay đổi được cuộc sống“ Điều đó chứng tỏ: QTD đã đi vào thực tiễn cuộc sống, việc thành lập QTDND hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan trên địa bàn nông thôn, nông nghiệp nước ta . 2.3.2. Những mặt còn hạn chế. Thứ nhất: Việc chấp hành các cơ chế, quy chế của QTDND thiếu nghiêm túc. Một bộ phận QTD chưa bám sát mục tiêu hoạt động, vượt quá khả năng quản lí và kiểm soát, thậm chí còn vi phạm các qui định của pháp luật nên một số QTDND có nguy cơ mất an toàn. Thứ hai: Chất lượng TD còn yếu và chậm khắc phục: cho vay vượt tỉ lệ qui định so vơí vốn tự có, cho vay sai đối tượng, kết quả kinh doanh lỗ, nợ quá hạn cao dẫn đến mất khả năng thanh toán buộc phải thu hồi giấy phép. Đặc biệt nhiều QTD huy động được bao nhiêu cho vay bấy nhiêu dễ xảy ra khó khăn khi có nhu cầu về chi trả tiền gửi đột xuất, nhất là các khoản tiền gửi lớn. Việc gửi vốn và cho vay lẫn nhau giữa các QTD khi thừa hoặc thiếu vốn dễ gây ảnh hưởng dây chuyền khi có QTD rơi vào tình trạng khó khăn. Thứ ba: Công tác quản trị điều hành còn nhiều sai phạm, một số cán bộ lợi dụng tham ô, trục lợi làm thất thoát tài sản của QTD. Việc kiểm tra trong nội bộ QTD chưa được coi trọng nên chưa phát hiện và xử lí kịp thời những sai phạm. Một số địa phương còn cho rằng hoạt động QTD là trách nhiệm của NHNN nên đã không sâu sát trong việc kiểm tra và quản lí QTD. Thứ tư : Các QTD chưa tạo được mối liên kết hệ thống chặt chẽ để hỗ trợ nhau cùng tồn tại, ổn định và phát triển bền vững. Thực trạng hoạt động của QTD cơ sở gần 10 năm qua gần như theo phong cách “đèn nhà ai, nhà ấy rạng”, trong môi trường cạnh tranh giữa các TCTD, sự hỗ trợ của QTDTW kém hiệu quả. Thứ năm : Trình độ chuyên môn, năng lực quản trị điều hành của cán bộ và nhân viên tại các QTD còn thấp xa so với tiêu chuẩn và yêu cầu công việc. 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế. 2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan. Thứ nhất : Môi trường kinh doanh chưa ổn định Các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nứơc đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện do đó các chính sách này thường có sự điều chỉnh thường xuyên điều này làm cho QTDND gặp không ít khó khăn trong hoạt động của mình. Thứ hai: Khung pháp lý cho hoạt động QTD còn chưa hòan thiện Những bật cập có thể thấy rõ nhất trong các văn bản pháp lý của QTD còn chưa đồng bộ, chưa sát hợp với đặc thù của loại hình tổ chức TDHT. Một số nội dung của luật còn quy định qúa chung chung nên các đối tượng chịu tác động chi phối của luật rất khó thực hiện. Mặt khác nhiều nghị định, thông tư, các văn bản dưới luật làm xa dần thậm chí không đúng với nội dung luật. Thứ ba: Quản lý nhà nước đối với các QTDND còn nặng nề tính hành chính, chưa theo kịp yêu cầu đặt ra của sự phát triển mô hình này với các nguyên tắc của tổ chức tín dụng hợp tác là tự nguyền, tự chủ và tự chịu trách nghiệm cao. Thách thức lớn ở đây là phải làm sao giảm tối đa sự can thiệp mang tính hành chính trong quản lý nhà nước và phát huy tối đa tính tự chủ và tự chịu trách nghiệm của mô hình kinh tế hợp tác nhưng phải đảm bảo cho từng QTDND và cả hệ thống hoạt động an toàn và bền vững. Thứ tư: Những rủi ro trong sản xuất nông nghiệp, do ảnh hưởng của thiên tai, hạn hán, lũ lụt…gây nên tình trạng mất khả năng thanh toán chi trả của QTDND. Thực tế những năm 1995-2000 đã chứng minh khi thiên tai xảy ra liên tiếp giá lúa ở mức thấp ( 800-900đồng/ kg) dẫn đến những gia đình không có khả năng trả nơ, nợ quá hạn, cho vay nông nghiệp tăng cao. 2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan. Thứ nhất : Địa bàn hoạt động của QTD riêng lẻ, ở xa trung tâm. Đa số có quy mô nhỏ, tiềm lực tài chính hạn chế nhất là vốn tự có (Bình quân dưới 200 tr đ/ quỹ), khả năng huy động vốn khó khăn vì hoạt động ở vùng nông thôn dân cư nghèo, chưa có tập quán giao dịch NH, uy tín của NH bị hạn chế do ảnh hưởng đổ vỡ của HTXTD cũ. Hơn nữa QTD không có nguồn bổ trợ khác, chi phí lại lớn vì vậy thường phải huy động vốn với lãi cao, đây là thách thức lớn đối với các QTD khi thực hiện mục tiêu tương trợ thành viên nhưng lại phải đảm bảo kinh doanh có lãi để có tích luỹ phục vụ cho việc phát triển trong môi trường ngày càng nhiều TCTD cùng cạnh tranh. Thứ hai : Hoạt động của QTD chưa thực sự an toàn, tiềm ẩn nhiều rủi ro Rủi ro về khả năng thanh toán, về lãi suất, tài sản. Cho vay chủ yếu dưới hình thức tín chấp. Đối tượng cho vay thường là các nhu cầu vốn phục vụ cho sản suất nông nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của thiên nhiên chứa đựng nhiều khả năng rủi ro do nguyên nhân bất khả kháng. Vì vậy khi QTD gặp khó khăn về thanh toán nếu không có nguồn hỗ trợ kịp thời, đồng bộ sẽ có nguy cơ dẫn đến giải thể hoặc phá sản. Sự đổ vỡ của một hoặc vài QTD sẽ có nguy cơ phản ứng dây chuyền đến cả hệ thống QTD và hệ thống NH Thứ ba: Mô hình QTD chưa hoàn thiện nhất là mô hình liên kết phát triển hệ thống chậm hình thành đã làm hạn chế sự liên kết và hỗ trợ lẫn nhau giảm sức mạnh hệ thống. Sự hỗ trợ của QTD TW kém hiệu quả. QTD TW nhận tiền gửi và cho vay các QTD cơ sở lâu nay gọi là điều hoà vốn cũng tương tự như việc và vay tiền của các TCTD khác được gọi là dịch vụ sinh lời. Thách thức lớn nhất đối với các QTD là phải phát huy tính độc lập tự chủ nhưng phải có sự liên kết chặt chẽ để xây dựng thiết chế an toàn hệ thống . Thứ tư : Trình độ và năng lực chuyên môn của cán bộ nhân viên còn nhiều bất cập. Trình độ nghiệp vụ cũng như kiến thức điều hành quản trị hầu như không có, chưa được làm quen, chưa qua đào tạo cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn cách thức vận hành hoạt động của QTDND. Một số cán bộ, nhân viên thiếu hiểu biết về luật pháp, thiếu kiến thức về kinh tế thị trường, dễ bị cám dỗ về lợi nhuận dẫn đến các vi phạm pháp luật. Kết luận Quĩ tín dụng nhân dân đã ra đời và hoạt động trên thế giới từ rất lâu. Hàng năm trên thế giới một khối lượng vốn khổng lồ được luân chuyển qua hệ thống QTDND và đưa lại nhiều lợi ích to lớn cho các quốc gia. Tuy nhiên mô hình quĩ tín dụng nhân dân là một vấn đề vẫn còn khá mới ở Viêt Nam hiện nay, không chỉ về lí luận mà cả thực tiễn. Mặc dù vậy chúng em đã cố gắng hết sức tìm tòi, học hỏi để hoàn thành công trình của mình. Công trình đã giải quyết được một số nội dung chủ yếu sau đây: - Làm rõ thêm lí luận về hoạt động của QTDND. - Phân tích và làm rõ thực trạng hoạt động của hệ thống QTDND trong những năm vừa qua. Trên cơ sở đó rút ra những kết quả đạt được và những hạn chế cần được khắc phục trong hoạt động của hệ thống QTDND hiện nay. - Bước đầu đưa ra một số kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thông QTDND. Tuy chúng em đã rất cố gắng, nhưng do thời gian có hạn, đặc biệt là kiến thức chuyên môn và thực tiễn còn nhiều hạn chế nên chắc chắn bài viết của chúng em còn nhiều thiếu sót. Chúng em thực sự mong muốn nhận được sự góp ý của các thầy cô, các nhà khoa học để chúng em tiếp tục hoàn thiện công trình nghiên cứu này. Danh mục tài liệu tham khảo 1- Luật các tổ chức tín dụng 2- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần IX – NXB Chính trị quốc gia 3-Giáo trình “Lí thuyết tài chính tiền tệ “-TS Nguyễn Hữu Tài –NXB Thông Kê 2002 4- “Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính”-Frederic S. Mankiw-NXB Khoa học và kỹ thuật 1999. 5- Ngân hàng thương mại – Quản trị và nghiệp vụ – TS. Phan Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo – NXB Thống kê 2002 6- Những vấn đề cơ bản về hệ thống QTDND – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1998 7-Tạp chí Ngân hàng số 10,11,12,13,15 năm 2003 8- Tạp chí Ngân hàng số chuyên đề năm 2004 9- Tạp chí Ngân hàng số 4, 7 ,9, 10 năm 2004 10- Tạp chí Ngân hàng số 1 năm 2005 11- Thị trường tài chính tiền tệ 10/2003, 11/2004, 1/2005 các kí tự viết tắt trong bài QTD Quỹ tín dụng QTDND Quỹ tín dụng nhân dân QTDNDTW Quĩ tín dụng nhân dân Trung Ương TCTD Tổ chức tín dụng TDHT Tín dụng hợp tác NH Ngân hàng NHNN Ngân hàng nhà nước NHNNo&PTNT Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn NHTM Ngân hàng thương mại HTX Hợp tác xã HTXTD Hợp tác xã tín dụng TGTC Trung gian tài chính TD Tín dụng CNH-HĐH Công nghiệp hoá hiện đại hoá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0853.doc