Giải quyết các vấn đề về đầu tư theo BOT không chỉ dừng lại ở giải quyết cơ chế thuế hay quy trình cấp phép mà còn là vấn đề về tài trợ dự án. Hiện nay các công ty nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn trong tìm tài trợ cho dự án BOT do: Các công ty nước ngoài không vay được các ngân hàng trong nước vì họ không có tài sản thế chấp (thế chấp theo kiểu tài trợ dự án hiện còn nhiều hạn chế); các ngân hàng nước ngoài lại không có quyền nhận thế chấp để cho các công ty nước ngoài vay. Vì vậy, nên cho phép các công ty BOT được quyền huy động vốn bằng nhiều cách khác nhau như thông qua phát hành trái phiếu công ty hay bán cổ phần.
Nghị định BOT nên quy định rõ nhà nước có thể sử dụng những loại hình thức nào để bảo lãnh nghĩa vụ thực hiện hợp đồng - đây là một cấu phần quan trọng trong nghiên cứu khả thi của một dự án BOT; Hay nên cho phép một số trường hợp nhà đầu tư và các cơ quan nhà nước có thể đàm phán một mức vốn sở hữu tối thiểu thấp hơn so với mức 20% và 30% tương ứng như trong Nghị định hiện nay.
Việt Nam nên cần học hỏi kinh nghiệm từ các nước cũng như các tổ chức để xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp luật, khuyến khích sự hợp tác của khu vực tư nhân với Nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng.
37 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hoạt động thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng nước ta trong những năm qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v + m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là:
(v + m)I > cII
Hay nói cách khác:
(c + v + m)I > cII + cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)2
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tư liệu tiêu dùng ở cả hai khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C.Mác, con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở trong sản xuất và tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, Jonh Maynard Keynes đã chứng minh được rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không được chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng.
Tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
(I) (S)
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải được bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là đầu tư.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt … nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình.
Khái niệm và đặc điểm của cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Khái niệm
Cơ sở hạ tầng là tổ hợp các công trình vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp dịch vụ sn xuất đời sống của dân cư, được bố trí trên một phạm vi lãnh thổ nhất định.
Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển quá trình tiến hành các hoạt động chỉ là sự kết hợp giản đơn giữa 3 yếu tố đó là lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động chưa có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Nhưng khi lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ cao thì để sản xuất có hiệu quả cần có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật được phát triển mạnh mẽ gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Bên cạnh đó, chính vì sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng kỹ thuật mà nó thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành phát triển cơ sở hạ tầng ở giai đoạn 3. Giai đoạn vừa phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật vừa phát triển cơ sở hạ tầng xã hội. Như vậy, khi khoa học kỹ thuật ngày càng được nâng cao thì cơ sở hạ tầng càng phát triển.
Phân loại
Căn cứ vào chức năng, tính chất và đặc điểm người ta chia các công trình cơ sở hạ tầng thành 3 loại
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
- Cơ sở hạ tầng xã hội.
- Cơ sở hạ tầng môi trường
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là các công trình phục vụ cho sản xuất và đời sống bao gồm: các công trình thiết bị chuyển tiếp và cung cấp năng lượng, mạng lưới giao thông, cấp thoát nước, thông tin liên lạc.
Cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm các cồn trình phục vụ cho các địa điểm dân cư như nhà văn hoá, bệnh viện, trường học, nhà ở và các hoạt động dịch vụ công cộng khác. Các công trình này thường gắn với các địa điểm dân cư làm cơ sở góp phần ổn định, nâng cao đời sống dân cư trên vùng lãnh thổ.
Cơ sở hạ tầng môi trường là toàn bộ hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc bảo về, giữ gìn và bo vệ môi trường sinh thái của đất nước và môi trường sống của con người. Hệ thống này bao gồm các công trình phòng chống thiên tai, các công trình bảo vệ đất đai, vùng biển và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Đặc điểm
Hệ thống cơ sở hạ tầng có nhiều đặc điểm riêng biệt khác với hệ thống kinh tế xã hội khác. Đứng dưới góc độ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cần xem xét các đặc điểm sau:
- Bản thân hệ thống cơ sở hạ tầng là một tập hợp các cồn trình xây dựng có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài thường là thông qua các hoạt động kinh tế khác để thu hồi vốn. Trong cơ chế thị trường hiện nay, đồng vốn luôn vận động một cách năng động và chịu sự chi phối của lợi nhuận, nơi nào có lợi nhuận cao, thời gian thu hồi vốn nhanh thì sẽ được đầu tư nhiều và ngược lại. Vì thế, lĩnh vực kinh doanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật thường được các nhà đầu tư ít quan tâm hơn là dịch vụ kinh doanh buôn bán khác.
- Các công trình cơ sở hạ tầng mang tính xã hội hoá cao, có nhiều đặc tính của hàng hoá công cộng. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng thì không chỉ có sự tham gia của chính phủ mà còn có sự đóng góp của khu vực tư nhân, còn hàng hoá công cộng về cơ bản do chính phủ cấp, chính phủ là người đứng ra bỏ vốn đầu tư xây dựng mà chủ yếu là vốn từ ngân sách, tư nhân thì rất ít, đầu tư thì các công trình này thường có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, thậm trí rất khó thu hồi vốn.
- Hệ thống các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật mang tính kỹ thuật cao, quy mô lớn nó không chỉ đáp ứng nhu cầu cuộc sống, sản xuất, dịch vụ, đời sống con người... trong hiện tại và cả trong tương lai. Mặt khác thời gian tồn tại của các công trình cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ là rất lâu dài. Vì thế những sai lầm trong bố trí địa điểm, áp dụng công nghệ sẽ đều phải trả giá rất đắt. Do đó, yêu cầu khi xây dựng cơ sở hạ tầng bên cạnh việc áp dụng những thành tựu tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phải căn cứ vào quy hoạch phát triển vùng và dự kiến được những biến động trong tương lai.
- Các công trình cơ sở hạ tầng trên phạm vị lãnh thổ có chức năng phục vụ sản xuất và đời sống. Tuy vậy, nếu xét về bản chất kết quả hoạt động của các cơ sở hạ tầng lại là từ dịch vụ chứ không phải là sản xuất vật chất cụ thể chẳng hạn dịch vụ bưu chính viễn thông, giáo dục đào tạo đây chính là điểm điểm phân biệt giữa cơ cở hạ tầng với các ngành sản xuất vật chất khác.
Vai trò của cơ sở hạ tầng đối với tăng trưởng & phát triển kinh tế
Một nền kinh tế phát triển và bền vững đòi hỏi phải có một kết cấu hạ tầng mạnh và hiện đại. Cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước để tạo tiền đề, làm động lực phát triển kinh tế xã hội và an ninh – quốc phòng, nhất là mạng lưới giao thông đường bộ.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu, mà trước hết là xây dựng đường giao thông, thực hiện phương châm “giao thông đi trước một bước”. Cần xây dựng hệ thống đường giao thông liên hoàn, kết nối các hệ thống hương lộ, huyện lộ, tỉnh lộ với các trục quốc lộ đi qua khu vực dân cư nghèo. Đây là những kinh nghiệm, bài học được rút ra từ những thành công của công tác XĐGN ở các nước đang phát triển trong khu vực cũng như ở những nước phát triển trên thế giới trong nhiều năm qua. Có hệ thống giao thông đồng bộ, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu kinh tế, thương mại, trao đổi hàng hoá giữa cộng đồng dân cư vùng nghèo nông thôn miền núi với dân cư vùng giàu thành thị. Từ đó cũng tạo điều kiện dễ dàng cung cấp các dịch vụ văn hoá, y tế, giáo dục, thông tin liên lạc đối với dân cư vùng nghèo, vùng khó khăn.
Tiếp theo việc đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông là đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng quan trọng khác như: cơ sở y tế khám chữa bệnh; cơ sở giáo dục dạy nghề; hệ thống cung cấp điện, nước sinh hoạt, các công trình thuỷ lợi, phục vụ sản xuất cho cộng đồng dân cư các vùng nghèo.
Cơ sở hạ tầng và công nghệ là những nhân tố quan trọng của sự PTBV và XĐGN. Những nghiên cứu ở cấp vĩ mô cho thấy cứ 1% tăng trưởng về cơ sở hạ tầng thì sẽ có được 1% tăng trưởng GDP.
Các cấp độ và chủng loại cơ sở hạ tầng khác nhau thì cũng có nhũng tác động khác nhau đến tăng trưởng kinh tế và XĐGN.
Đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng chỉ được coi là cần nhưng chưa đủ. Để XĐGN được một cách bền vững, thì ngoài đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, còn cần phải thực hiện và hỗ trợ cải cách để cho các cơ sở hạ tầng ở tất cả các cấp được quản lý tốt, phát huy tính hiệu quả cao.
Cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, nó là cầu nối liên kết giữa các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như các quốc gia với nhau. Sẽ không có một hoạt động kinh tế nào diễn ra thuân lợi và đạt hiệu quả cao nếu như hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém. Cụ thể như: Hệ thống giao thông đường bộ, hàng không, đường sông, đường biển yếu kém sẽ gây cản trở rất lớn đến việc vận chuyển nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, và cũng gây ảnh hưởng tương tự đối với việc buôn bán hàng hoá, chuyển giao công nghệ; Hệ thống thông tin liên lạc kém phát triển sẽ làm chậm trễ mọi hoạt động kinh tế.
Ngoài ra, một quốc gia có một hệ thống cơ sở hạ tầng mạnh và hiện đại sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ đối ngoại, giao lưu buôn bán với các quốc gia trên thế giới, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Có được hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại sẽ có tác dụng thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào các lĩnh vực kinh tế cửa đất nước cũng như vào chính bản thân cơ sở hạ tầng.
Từ những lý luận trên chúng ta có thể thấy rõ được vai trò, tầm quan trọng của hệ thống cơ sở hạ tầng tới tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy, việc đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng ngày càng hiện đại, đồng bộ là một nhiệm vụ hàng đầu trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước.
Sự cần thiết phải huy động nguồn vốn tư nhân cho hoạt động đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng
Như chúng ta đã biết, bất cứ một hoạt động đầu tư nào muốn tiến hành đều phải có vốn. Đặc biệt là hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thì khối lượng vốn cần cho nó lại càng lớn. Nhận biết được tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở hạ tầng nên Đảng và nhà nước ta đã dành những khoản đầu tư không nhỏ cho hoạt động đầu tư này. Chính vì dành nhiều nguồn lực cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng nên nguồn vốn dành cho các mục tiêu phát triển khác đã bị hạn chế. Vấn đề đặt ra ở đây là tìm những nguồn tài trợ mới tiếp sức cho ngân sách nhà nước thực hiện đầu tư vào lĩnh vực này.
Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong 20 năm đầu của thế kỷ 21, Việt Nam phải hoàn tất củng cố hệ thống cơ sở hạ tầng. Điều này yêu cầu một nguồn vốn khổng lồ, bao gồm quỹ Nhà nước và vốn từ các cá nhân cả trong nước và nước ngoài, cũng như sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước và cá nhân trong việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia nói chung và cơ sở hạ tầng giao thông nói riêng. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là lĩnh vực khó thu hồi vốn, quá trình thực hiện một dự án cơ sở hạ tầng lại phức tạp vô cùng. Chẳng hạn như khi quy hoạch tuyến đường giao thông được công bố, sẽ có một số nhà đầu tư khác "ăn theo", hay chuyện có nhiều người đổ xô mua đất dọc theo tuyến đường, gây khó khăn trong việc giải tỏa đền bù, làm nản lòng nhà đầu tư.
Ngoài nguồn vốn qua các kênh nhà nước như ngân sách, thu phí cầu đường, phụ thu xăng dầu, cần quan tâm thu hút nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước, bằng các hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu công trình, trái phiếu chính phủ, các hình thức đầu tư như BOT, BTO, BT; huy động tiền tiết kiệm và tích luỹ nội bộ trong nước để đầu tư xây dựng các tuyến đường bộ thông qua ngân hàng; nguồn vốn từ đổi đất lấy công trình hoặc sử dụng một phần vốn trong các dự án của các ngành để xây dựng các tuyến đường trong khu công nghiệp, chế xuất. Kêu gọi và thu hút nguồn vốn ODA...
Nguồn vốn nước ngoài cho hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng ở nước ta ngày càng có chiều hướng gia tăng. Đó là một thành công trong công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Đảng và nhà nước. Nhưng cũng chính Đảng và nhà nước cũng nhận định đây không phải là nguồn vốn thực sự tốt cho đầu tư phát triển nói chung và cho đầu tư cơ sở hạ tầng nói riêng nếu như chúng ta sử dụng nó một cách không hợp lý. Sử dụng một cách không hiệu quả nguồn vốn này không những bị thất thoát, lãng phí các nguồn lực mà còn để lại những khoản nợ khổng lồ cho những nền kinh tế, mà người gánh chịu không ai khác chính là các thế hệ nối tiếp của đất nước. Do đó cần tập chung khai thác, thu hút các nguồn vốn trong nước, đặc biệt là nguồn vốn từ khu vực tư nhân để đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Thành phần tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ giải phóng được một nguồn lực đáng kể để Nhà nước có đủ khả năng tập trung vào những lĩnh vực ưu tiên khác nhằm duy trì sự tăng trưởng kinh tế nói chung. Thu hút thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sẽ góp phần quan trọng trong việc quản lý hiệu quả nguồn vốn của các dự án đầu tư, hạn chế tối đa việc không đáp ứng được nhu cầu đầu tư của ngân sách Nhà nước, đồng thời hạn chế được nạn tham nhũng trong hoạt động đầu tư.
Khu vực kinh tế tư nhân, đặ biệt là các doanh nghiệp tư nhân thường có quy mô vừa và nhỏ. Nên ưu thế của chúng là hoạt động một cách linh hoạt, nhạy bén với sự biến động của môi trường xung quanh. Mặt khác, do vốn đầu tư là do chính cá nhân hay tổ chức mình bỏ ra đầu tư nên họ sẽ kiểm soát và sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả hơn nhiều lần so với các doanh nghiệp quốc doanh. Không có một nước nào, nhất là các nước chậm phát triển, ngân sách quốc gia có thể đáp ứng đủ để phát triển hạ tầng theo kịp sự phát triển kinh tế. Mô hình hợp tác nhà nước - tư nhân (PPP) đã ra đời và nhiều nước ứng dụng thành công trong hơn 20 năm qua. Việt Nam là một nước thiếu vốn trầm trọng cho phát triển hạ tầng thì việc áp dụng cơ chế này càng trở nên cần thiết.
Các hình thức đầu tư trực tiếp nên khuyến khích:
Hợp tác nhà nước - tư nhân (PPP) là việc nhà nước và tư nhân cùng thực hiện một dự án lợi ích công thông qua một thỏa thuận nhằm chia sẻ nhiệm vụ và rủi ro. Theo thỏa thuận này, nhà nước thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ, còn tư nhân được khuyến khích thực hiện các dịch vụ này bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ.
PPP cũng góp phần khắc phục những nhược điểm về đầu tư của Chính phủ như thiếu minh bạch trong đấu thầu, quá trình thực hiện dự án thường bị kéo dài, bảo dưỡng công trình không chuyên nghiệp, thiếu kinh phí dẫn đến mau xuống cấp, hiệu quả sử dụng thấp gây lãng phí cho ngân sách...
Trong khi đó, khi tham gia dự án, nhà đầu tư tư nhân sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn từ khâu thiết kế đến xây dựng, vận hành, bảo dưỡng công trình, đảm bảo việc sử dụng hiệu quả nhất. Hết hạn hợp đồng, công trình vẫn phải đảm bảo chất lượng tốt theo các điều khoản đã ký trước khi giao lại cho Chính phủ.
Chúng ta cũng nên khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân thông qua hình thức đầu tư BOT (xây dựng - sở hữu - chuyển giao) hoặc góp vốn trực tiếp. Với các nhà đầu tư tư nhân có năng lực tài chính nhỏ hơn có thể đầu tư vào hạ tầng cơ sở nông thôn. Việc đầu tư này cần quy hoạch cụ thể và mang tính dài hạn của nhà nước cũng như từng địa phương. BOT là viết tắt của Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao. Đây là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất dịnh; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng BTO là viết tắt của Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh. Đây là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ giành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
Hợp đồng BT là viết tắt của Hợp đồng kinh doanh - chuyển giao. Đây là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp đồng BT.
-----------------------------------*&*--------------------------------------
Trong những năm qua, công tác thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng được quan tâm. Và đã đạt được những thành công đáng ghi nhận, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại rất nhiều những bất hợp lý cần được khắc phục. Để thấy rõ được điều đó chúng ta tiếp tục nghiên cứu đến chương 2 của đề tài. Trong chương này đề cập đến thực trạng của hoạt động thu hút vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng và những đánh giá về những thực trạng đó.
Đánh giá hoạt động thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào CSHT tại Việt Nam trong những năm qua
Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp phần không nhỏ vào GDP
Khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Khu vực kinh tế tư nhân năm 2005 đã chiếm 38,5% GDP, cao gấp 5,4 lần tỷ trọng 7,11% của khu vực kinh tế tập thể, cao gấp hơn 2,5 lần tỷ trọng 15,17% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và đạt xấp xỉ với tỷ trọng 39,22% của khu vực kinh tế nhà nước.
Riêng tỷ trọng trong GDP của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung đã tăng lên qua các năm: nếu năm 2000 mới chiếm 7,31%, thì năm 2005 là 8,91%. Đáng lưu ý, tốc độ tăng trưởng GDP do các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân luôn luôn cao hơn gấp rưỡi, gấp đôi tốc độ tăng chung cũng như cao hơn tốc độ tăng của các khu vực khác.
Khu vực kinh tế tư nhân chiểm tỷ trọng cao trong tổng số lao động đang làm việc (88,8%), cao hơn rất nhiều so với tỷ trọng 9,7% của khu vực Nhà nước. Trong tổng số lao động làm việc ở khu vực doanh nghiệp (5175 nghìn lao động), thì doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm 42,9%, cao hơn tỷ trọng 39,9% của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Khu vực này cũng đã chiếm gần 1/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Không những thế, khu vực kinh tế tư nhân còn là nơi cung cấp nguồn vốn đầu tư rất lớn cho hoạt động đầu tư phát triển. Như phần lý luận trên đã đề cập, nguồn gốc của đầu tư chỉ có thể lấy ra từ tiết kiệm cho nên tiết kiệm tư nhân là một trong những nhân tố hết sức quan trọng trong việc tạo ra nguồn vốn cho hoạt động đầu tư phát triển. Vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế. Theo số liệu bảng sau:
Vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế
Năm
Tổng số
Chia ra
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế tư nhân
Khu vực có vốn ĐTNH
1995
72447
30447
20000
22000
1996
87394
42894
21800
22700
1997
108370
53570
24500
30300
1998
117134
65034
27800
24300
1999
131171
76958
31542
22671
2000
151183
89417
34594
27172
2001
170496
101973
38512
30011
2002
200145
114738
50612
34795
2003
239246
126558
74388
38300
2004
290927
139831
109754
41342
2005
343135
161635
130398
51102
2006
404712
185102
154006
65604
Sơ bộ 2007
521700
208100
184300
129300
Cơ cấu(%)
1995
100.0
42.0
27.6
30.4
1996
100.0
49.1
24.9
26.0
1997
100.0
49.4
22.6
28.0
1998
100.0
55.5
23.7
20.8
1999
100.0
58.7
24.0
17.3
2000
100.0
59.1
22.9
18.0
2001
100.0
59.8
22.6
17.6
2002
100.0
57.3
25.3
17.4
2003
100.0
52.9
31.1
16.0
2004
100.0
48.1
37.7
14.2
2005
100.0
47.1
38.0
14.9
2006
100.0
45.7
38.1
16.2
Sơ bộ 2007
100.0
39.9
35.3
24.8
(Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam)
Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy được nguồn vốn đầu tư tư nhấn chiếm tới 1/3 khối lượng vốn cho đầu tư phát triển. Và có xu hướng ngày càng gia tăng. Cũng trên số liệu trên chúng ta có thể khẳng định nguồn vốn của khu vực tư nhân ngày càng chiếm vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với khối lượng vốn đầu tư đạt 184300 tỷ đồng (năm 2007), chiếm tỷ trọng 35.3% so với tổng vốn đầu tư của nền kinh tế. Trong khi đó vốn đầu tư của kinh tế nhà nước và kinh tế có vốn nước ngoài lần lượt là 208100 tỷ đồng; 129300 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng lần lượt là 39.9% ; 24.8%.
Sự tiến bộ trong cơ chế, chính sách khuyến khích của nhà nước
Từ trước tới nay Việt Nam chủ yếu dựa vào nguồn vốn Nhà nước và một phần vốn ODA để phát triển hạ tầng. Những năm tới, nhu cầu phát triển đường xá, hạ tầng, cảng biển, sân bay… ngày càng tăng cao nếu chỉ dựa vào hai nguồn vốn này thì không đáp ứng đủ, thậm chí dẫn đến nợ nần nước ngoài. Chính vì thế, để phát triển hạ tầng rất cần sự hợp tác, chia sẻ từ phía các doanh nghiệp tư nhân. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần nâng cao nhận thức từ khu vực tư nhân, đồng thời xây dựng khung pháp lý phù hợp thông lệ, chuẩn mực quốc tế để giúp khu vực kinh tế này sẵn sàng hợp tác với nhà nước.
Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đã được nhìn nhận như động lực tăng trưởng kinh tế quan trọng của Việt Nam. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) hiện đang xây dựng kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2006-2010. Kế hoạch này sẽ là một bộ phận cấu thành của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 của Chính phủ Việt Nam. Trên cơ sở bản kế hoạch này, Cục Phát triển DNNVV của Bộ KH-ĐT sẽ xây dựng một kế hoạch hành động về phát triển DNNVV bao gồm các chương trình, biện pháp trợ giúp cho khối doanh nghiệp này, đưa ra một số đề xuất về chính sách nâng cao chất lượng phát triển của khu vực kinh tế này.
Việc đăng ký thành lập doanh nghiệp đã trở nên khá dễ dàng, giúp tăng nhanh số lượng doanh nghiệp thành lập mới
Luật Doanh nghiệp năm 1999 đánh dấu một mốc quan trọng trong những nỗ lực của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho khối kinh tế tư nhân phát triển. Với tinh thần chủ đạo là "doanh nghiệp được tự do kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm", chuyển từ "cấp phép kinh doanh" sang "đăng ký kinh doanh", Luật Doanh nghiệp 1999 đã giúp giảm đáng kể thời gian và chi phí đăng ký thành lập doanh nghiệp. Nhờ đó, mỗi năm có thêm hàng chục ngàn doanh nghiệp được chính thức thành lập. Theo số liệu của Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp (TTTTDN) của Bộ KH-ĐT, kể từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực vào đầu năm 2000, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới cho đến cuối năm 2003 nhiều gấp hơn hai lần số lượng doanh nghiệp thành lập trong vòng 10 năm trước đó, nâng tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam lên khoảng 128.000.
Hợp tác đầu tư nhà nước – tư nhân (PPP) là một khái niệm không mới trên thế giới và cũng đã hình thành ở Việt Nam được một thời gian khá lâu. Chúng ta đã có những dự án PPP của nhà đầu tư nước ngoài và dự án PPP trong nước. đã có một vài dự án PPP về thủy điện, hạ tầng có hiệu quả và mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, để phát triển mô hình đầu tư này, chủ trương của Chính phủ là luôn tạo điều kiện để kêu gọi nhà đầu tư tư nhân cùng tham gia vào những dự án có lợi cho xã hội và đất nước”.
Dự thảo mới nhất của Nghị định BOT đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực và chắc chắn sẽ góp phần thu hút thêm đầu tư tư nhân vào lĩnh vực hạ tầng. Cụ thể như:
Đối với các dự án do nhà đầu tư tự đề xuất, đã có quy định cụ thể là nhà đầu tư sẽ được thông báo sau 45 ngày kể từ ngày nộp đầy đủ hồ sơ theo quy định.
Các bên tham gia ký kết hợp đồng liên quan đến dự án BOT có thể được áp dụng luật nước ngoài trong trường hợp luật nước ngoài đó không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Quy định về đảm bảo thực hiện hợp đồng dự án cũng đã rõ ràng hơn, theo đó đảm bảo thực hiện dự án có giá trị bằng 1% tổng vốn đầu tư đối với dự án trên 1500 tỷ đồng và 3% đối với dự án dưới 1500 tỷ.
Doanh nghiệp dự án sẽ được miễn toàn bộ tiền thuê đất trong suốt thời gian thực hiện dự án.
Chính nhờ sự tiến bộ trong cơ chế, chính sách của nhà nước mà khối lượng các doanh nghiệp tư nhân ngày càng lớn mạnh. Để có thể nhận thấy rõ hơn sự phát triển của khu vực tư nhân chúng ta sẽ đi nghiên cứu phần dưới đây.
Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ
Một trong những thành tựu lớn của công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua ở nước ta là đã hình thành một nền kinh tế đa thành phần, với các khu vực kinh tế khác nhau ngày càng phát triển năng động. Trong số đó, khu vực trẻ trung và năng động là khu vực kinh tế tư nhân trong nước (KVKTTNTN). Trong bước đường phát triển vừa qua cũng như trong thời gian tới, khu vực kinh tế này còn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, trở ngại. Để có thể trở thành động lực tăng trưởng thực thụ và tham gia hội nhập quốc tế thành công, họ sẽ phải vượt qua những thách thức rất lớn.
Nói theo nghĩa rộng, khu vực này bao gồm tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh của người Việt Nam không thuộc sở hữu nhà nước (hoặc Nhà nước có góp vốn nhưng không giữ vai trò chi phối), không do nước ngoài đầu tư (hoặc nước ngoài có góp vốn nhưng không giữ vai trò chi phối), không thuộc thành phần kinh tế tập thể (các hợp tác xã). Theo nghĩa đó, KVKTTNTN ở nước ta bao gồm khoảng hơn 200.000 doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, hơn 2,6 triệu hộ kinh doanh cá thể, một bộ phận của gần 100.000 trang trại và hơn 10 triệu hộ nông dân có sản xuất nông sản hàng hóa không tham gia các hợp tác xã hoặc tổ hợp tác. Trong số này, 200.000 doanh nghiệp tư nhân (DNTN), với các hình thức tổ chức khác nhau (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân một chủ), có đầy đủ tư cách pháp nhân, thường được coi là khu vực doanh nghiệp tư nhân chính thức; số còn lại được tổ chức kinh doanh ở hình thức thấp hơn, chưa có tư cách pháp nhân và do đó thường được coi là khu vực tư nhân phi chính thức hoặc phi hình thức.
Từ khi Luật Doanh nghiệp được thi hành (1-1-2000), DNTN ở nước ta đã phát triển mạnh mẽ. Trước đó, trong thời gian 10 năm chúng ta đã hình thành được một đội ngũ khoảng 40.000 doanh nghiệp, nhưng với quyền kinh doanh rất hạn chế, bị trói buộc và kỳ thị nặng nề. DNTN của chúng ta vẫn chỉ là một lực lượng nhỏ yếu, bị xem nhẹ và đóng góp không đáng kể vào nền kinh tế. Trong suốt hơn một thập kỷ đầu cải cách, kinh tế nước ta tăng trưởng chủ yếu nhờ hai động lực xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, còn khu vực kinh tế tư nhân chưa trở thành động lực phát triển như ở các "con rồng châu á" và hầu hết các nước khác.
Từ năm 2000 trở lại đây, KVKTTNTN nói chung, DNTN nói riêng, đang phát triển mạnh, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đang ngày càng khẳng định vai trò động lực của mình.
Với việc thi hành Luật Doanh nghiệp và hàng loạt các biện pháp cải cách khác, môi trường kinh doanh ở nước ta trong mấy năm gần đây đã có những cải thiện quan trọng theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh của người dân trên nguyên tắc doanh nghiệp và người dân được tự do kinh doanh tất cả những lĩnh vực mà luật pháp không cấm, khuyến khích người dân làm ăn, kinh doanh làm giàu cho mình và cho đất nước, khuyến khích mọi doanh nghiệp tham gia các ngành xuất khẩu, chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa... Chính trong môi trường đó, KVKTTNTN và đặc biệt là DNTN đã nhanh chóng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước trên các mặt: tạo công ăn việc làm, tăng vốn đầu tư phát triển, mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy phát triển các thị trường, đổi mới kinh tế và hành chính...
KVKTTNTN phát triển nhanh chóng trong thời gian qua còn do tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, khởi đầu từ khi chúng ta đổi mới, và đặc biệt phát triển từ giữa thập kỷ 1990, khi nước ta lần lượt tham gia ASEAN, ASEM, APEC và không ngừng mở rộng quan hệ song phương với các nước khác trên thế giới. Thị trường các nước mở rộng dần cho các sản phẩm của Việt Nam đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam (DNVN), trong đó có KVKTTNTN phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm của mình trên các thị trường khu vực và quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thị trường trong nước còn hạn hẹp do tình trạng nước nghèo, mức thu nhập và khả năng tiêu dùng còn thấp, các DNVN rất thiếu "đầu ra". Các quan hệ thương mại và đầu tư rộng mở cũng tạo cho DNVN cơ hội có các đối tác làm ăn, cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ của họ, đào tạo nguồn nhân lực cho mình và trưởng thành dần qua hợp tác và cạnh tranh.
Khi nước ta tham gia WTO, các cơ hội này lại càng mở rộng, những rào cản sẽ được dỡ bỏ, các DNVN sẽ có vị trí bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trên thị trường các nước. Họ sẽ có quyền không chỉ xuất nhập khẩu, tiếp nhận đầu tư, mà còn mở rộng nhiều phương thức hợp tác khác và đầu tư ra các thị trường nước ngoài, khai thác tối đa những lợi thế cạnh tranh của mình và tận dụng sự phân công lao động quốc tế, tham gia mạng lưới kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu theo cách có lợi nhất cho mình. Tham gia WTO cũng thúc đẩy nước ta cải thiện mạnh mẽ môi trường pháp lý, chính sách cho kinh doanh, tạo thuận lợi cho cạnh tranh và phát triển của mọi doanh nghiệp.
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong giới tư nhân vẫn còn hạn chế
Theo báo cáo Phát triển Việt Nam 2007 của ngân hàng Thế giới, đầu tư hàng năm của Việt Nam vào cơ sở hạ tầng chiếm từ 9-10% GDP (tỉ lệ cao nhất so với tiêu chuẩn quốc tế). Tuy nhiên, cả Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á đều cho rằng, để duy trì tỉ lệ hiện tại, Việt Nam nên tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng đến 11%-12% trong tổng GDP.
Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp phát triển vào năm 2020, Việt Nam phải xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại và toàn diện. Giai đoạn 2007-2008, đất nước cần khoản 30 tỉ USD/năm để phát triển cơ sở hạ tầng. Hiện tại, gần 40% trong tổng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là được cung cấp từ nguồn vốn quốc tế, trong khi đó, chỉ 15% là từ tư nhân.
Đối với nhu cầu đầu tư vốn để nâng cao hệ thống giao thông cho đến năm 2020, mỗi năm Việt Nam cần 117.744 tỉ VND (gần 7,4 tỉ USD), trong khi hiện tại, khả năng đáp ứng nhu cầu trên chỉ ở mức 2-3 tỉ USD, chủ yếu từ ngân sách Nhà nước, ODA và trái phiếu Chính phủ. Theo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), con số này chỉ đáp ứng 20-30% tổng nhu cầu.
Việc khuyến khích tư nhân đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng sẽ được xem là có hiệu quả nhờ vào sự quản lý vốn chặt chẽ, linh hoạt hơn chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước. Sự tham gia của cá nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng sẽ góp phần kìm hãm tham nhũng và lãng phí.
Việt Nam có khung pháp lý hoàn chỉnh, các chính sách khuyến khích và các doanh nghiệp tư nhân sẽ có thể hoạt động tốt hơn trong việc cung cấp dịch vụ này, so với lĩnh vực Nhà nước. Khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thông qua mô hình Xây dựng – Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) hoặc góp vốn trực tiếp là việc làm cần thiết. Tuy nhiên, hình thức đầu tư này nên có kế hoạch lâu dài, và phải có sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước và tư nhân.
Thu hút đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng: Chính sách nhiều nhưng chưa tốt
Thu hút thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sẽ góp phần quan trọng trong việc quản lý hiệu quả nguồn vốn của các dự án đầu tư, hạn chế tối đa việc không đáp ứng được nhu cầu đầu tư của ngân sách Nhà nước.
72 tỷ USD là lượng vốn các chuyên gia kinh tế ước tính cần cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Việt Nam trong những năm tới. Đây là con số không nhỏ đối với nguồn ngân sách Nhà nước vốn đang còn hạn hẹp, trong khi, nếu đẩy mạnh thu hút vốn từ đầu tư nước ngoài và các thành phần kinh tế tư nhân sẽ giải quyết được nhiều vấn đề. Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước trong khu vực ASEAN thì Việt Nam vẫn còn đứng ở thứ hạng thấp, sau Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines trong việc thu hút đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng như điện, nước, giao thông và cảng biển. Còn theo đánh giá của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), trong 131 quốc gia được điều tra, Việt Nam đứng thứ 106 về mức đầu tư cảng biển, đứng thứ 99 về cung cấp điện, cao nhất là đầu tư đường điện thoại cũng chỉ đứng thứ 64, đây là những thứ hạng còn rất khiêm tốn. Việt Nam cần nhanh chóng bắt kịp các nước trong khu vực cũng như thế giới về đầu tư phát triển các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, cảng biển, điện, đường bộ... Thách thức với Việt Nam cũng như nhiều nước khác trong việc thu hút tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng chính là những mâu thuẫn giữa lợi nhuận và mục đích xã hội của Nhà nước. Năng lực tài chính của các nhà đầu tư tư nhân còn hạn chế trong khi đầu tư vào cơ sở hạ tầng lại phải bỏ vốn lớn, trong khi chưa lường hết được những rủi ro từ chính sách, thể chế.
Khi cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi quốc tế như ODA có xu hướng giảm thì việc đẩy mạnh thu hút đầu tư tư nhân đang ngày càng trở nên có vai trò quan trọng hơn. Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư từ khu vực tư nhân thường cao hơn so với khu vực Nhà nước do sự quản lý vốn của khu vực này thường chặt chẽ, nhạy cảm hơn với những chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư của Nhà nước. Đây có thể coi là những ưu điểm dễ nắm bắt để khai thác. Tuy nhiên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng thừa nhận, do các chính sách, cơ chế khuyến khích đối với thành phần kinh tế tư nhân nhiều nhưng lại chưa tốt nên lượng vốn đầu tư tư nhân vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng còn thấp, chưa tương xứng với nhu cầu và tiềm năng của đất nước.
Theo Bộ Kế hoạch & Đầu tư, giai đoạn 2006 - 2010 nhu cầu vốn cho toàn xã hội là 140 tỷ USD, bình quân mỗi năm là 28 tỷ USD. Nhu cầu vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng là 400 ngàn tỷ đồng (khoảng 25 tỷ USD). Thế nhưng, mỗi năm chúng ta mới chỉ thu hút được khoảng 50 - 60% nhu cầu.
Số liệu đến nay cho thấy, đã có khoảng 80 dự án PPP được triển khai dưới dạng BOT hay BT ở Việt Nam với tổng vốn đầu tư khoảng 90 ngàn tỷ đồng. Các dự án giao thông chiếm tới 95% tổng số vốn.
Vụ Hạ tầng kỹ thuật đô thị, Bộ Xây dựng đánh giá, trong khoảng 1 tỷ USD vốn đầu tư vào lĩnh vực cung cấp nước ở nước ta hiện nay thì vốn tư nhân chưa chiếm đến 1%. Về kinh nghiệm trong việc thu hút đầu tư tư nhân trong lĩnh vực cung cấp nước, cần đánh giá được các khoản thu từ đầu tư, như cước phí sử dụng nước sạch, chính sách tính giá… Nếu các vấn đề này không mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư tư nhân thì rất khó thu hút họ tham gia. Do đó, mọi chính sách, thông tin phải được minh bạch hoá. Hiện Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Ngân hàng Thế giới (WB) đã đưa ra một số công cụ tài chính phát triển giúp khu vực tư nhân tham gia đầu tư cung cấp nước như cung cấp nguồn vốn bằng đồng nội tệ của nước đó cho nhà đầu tư trong thời gian dài. Ngoài ra, có thể thu hút đầu tư tư nhân thông qua vốn từ các quỹ đầu tư tư nhân.
DNTN vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sau đăng ký
Các doanh nghiệp đang hoạt động chưa phát triển mạnh về chất do còn nhiều khó khăn trong hoạt động sau đăng ký.
Trong khi việc thành lập doanh nghiệp đã dễ dàng hơn nhiều, thì hoạt động kinh doanh cũng như cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất của doanh nghiệp tư nhân sau đăng ký vẫn còn bị nhiều cản trở. Tuy khối doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô đầu tư sản xuất nói chung còn tương đối nhỏ. Một doanh nghiệp tư nhân bình quân chỉ có 31 lao động, 4 tỷ đồng vốn - thấp hơn đáng kể so với con số 421 lao động và 167 tỷ đồng vốn của doanh nghiệp nhà nước và 299 lao động, 134 tỷ đồng vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quy mô vốn có hạn đã hạn chế khả năng trang bị công nghệ tiên tiến của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, với mức đầu tư trung bình cho tài sản cố định trên một lao động chỉ có 43 triệu đồng so với 137 triệu đồng đối với doanh nghiệp nhà nước và 247 triệu đồng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp tư nhân không thể tham gia vào những dự án lớn từ ngân sách Nhà nước cũng như khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế do quy mô quá nhỏ và năng lực hạn chế. Trong nhiều trường hợp, tốc độ phát triển của các công ty tư nhân bị hạn chế bởi một số yếu tố của môi trường kinh doanh. Đó là những cản trở trong việc tiếp cận các nguồn lực thiết yếu bên ngoài như đất đai, vốn đầu tư và các hạn chế do một số quy định có tính kiểm soát còn cứng nhắc, đặc biệt trong lĩnh vực thuế.
Hơn nữa, Nhà nước nên cho các ngân hàng nước ngoài quyền lớn hơn trong quản lý và chuyển nhượng các dự án BOT. Một khi lợi nhuận dự kiến của công ty BOT không đạt mức mà các ngân hàng mong đợi thì các ngân hàng cần có quyền tiếp nhận và bán cho bên thứ ba. Hiện nay, bên thứ ba này cần nhận được sự chấp thuận từ phía đối tác Việt Nam (Bộ ký hợp đồng BOT như Bộ GTVT, Bộ CN). Tuy nhiên các Bộ này chắc chắn sẽ không chấp thuận trước khi biết chính xác đối tác đầu tư mới là ai. Đây cũng đang là một cản trở cho vấn đề tài trợ dự án BOT.
Hầu hết các công ty BOT quan tâm nhiều nhất đến quyền được khai thác dịch vụ gia tăng - đây là vấn đề chưa được đề cập trong dự thảo nghị định BOT. Thay vì không chấp nhận các dịch vụ gia tăng này, Chính phủ có thể đàm phán để tìm mô hình cùng các nhà đầu tư khai thác các dịch vụ gia tăng đó. Hiện nay các cơ quan chức năng xem xét và duyệt từng dự án cụ thể; hậu quả là các nhà đầu tư phải xin phép nhiều cấp, nhiều tầng, rất mất thời gian và chi phí giao dịch.
Đàm phán hợp đồng BOT thực ra là việc đàm phán giữa lợi ích Nhà nước và lợi nhuận của tư nhân, vì vậy cần một đội ngũ chuyên gia giỏi và dày dạn kinh nghiệm trong việc đàm phán và soạn thảo hợp đồng BOT để đảm bảo vừa đáp ứng được các yêu cầu của các nhà đầu tư tư nhân vừa mang lại lợi ích cho quốc gia. Do đó, cần phân quyền cấp phép các dự án BOT xuống địa phương, tùy theo tính chất và quy mô của từng dự án để tiết kiệm thời gian và chi phí cấp phép cho nhà đầu tư.
--------------------------------*&*-------------------------------
Sau khi đi đánh giá hoạt động thu hút vốn đầu tư tư nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm qua, chúng ta đã thấy được sự thành công cũng như chưa thành công trong các cơ chế, chính sách mà nhà nước đã ban hành, cũng như những thiếu sót trong các cơ chế, chính sách đó. Đây cũng chính là lý do mà chúng ta phải nghiên cứu chương tiếp theo của đề tài. Chương tiếp theo này sẽ đưa ra, kiến nghị một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút vốn đầu tư tư nhân đầu tư xây dựng CSHT
Cần có những chính sách tập trung hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tăng trưởng về chất lượng
Có khá nhiều chính sách hỗ trợ và khuyến khích đầu tư cho doanh nghiệp thành lập mới nhưng ít có những chính sách hiệu quả để khuyến khích doanh nghiệp tăng trưởng về chất. Nhà nước cần tập trung mạnh hơn vào các chính sách và biện pháp giúp doanh nghiệp thực sự lớn mạnh và phát triển hơn nữa về chất lượng. Những ưu tiên hàng đầu về mặt chính sách trong các năm tới có thể là:
Cải cách hệ thống tính và thu thuế - những quy định quá thiên về mặt kiểm soát hơn là tạo điều kiện trong việc tính và thu thuế, bao gồm cả vấn đề hóa đơn VAT, sẽ là rào cản lớn đối với những doanh nghiệp tư nhân muốn kinh doanh minh bạch, công khai để tiếp cận được đầy đủ các nguồn lực cần thiết để phát triển.
Giải quyết có hiệu quả những hạn chế trong chính sách về đất sản xuất và văn phòng, giải pháp này có lẽ sẽ có tác động lớn nhất và có hiệu quả nhất trong mọi nỗ lực phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay.
Tạo cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân được cạnh tranh bình đẳng trong các lĩnh vực kinh doanh cho đến nay vẫn dành riêng cho khu vực doanh nghiệp nhà nước, như dầu khí, viễn thông, cơ sở hạ tầng v.v. Các chính sách phát triển kinh tế tư nhân chỉ phát huy tác dụng khi Nhà nước đồng thời đẩy mạnh việc giảm bớt sự độc quyền và trợ cấp kinh doanh cho các doanh nghiệp nhà nước.
Cải cách và tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng thực hiện các thủ tục về giải thể và phá sản, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp. Những chính sách khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục tăng trưởng cần đi liền với các chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự do thoát khỏi những lĩnh vực kinh doanh kém hiệu quả để thực sự năng động trong kinh doanh.
Cần nâng cao chất lượng trong công tác hoạch định chiến lược phát triển kinh tế cho từng vùng, địa phương
Các chuyên gia cũng nhìn nhận nhiều dự án cơ sở hạ tầng của Việt Nam bị chậm tiến độ, đội giá, và chất lượng kém. Trong nhiều trường hợp, dự án được lựa chọn mà không hề căn cứ vào những tiêu chí kinh tế thích hợp. Theo nhóm chuyên gia, nhiều kế hoạch hoành tráng đã được công bố hoặc đang được triển khai ở các tỉnh miền Trung rất thiếu cơ sở.
Ví dụ như Việt Nam đang đầu tư xây dựng mới rất nhiều cảng nước sâu dọc bờ biển miền Trung trong khi đó cơ sở hạ tầng ở Tp.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, và Bà Rịa - Vũng Tàu, nơi hấp thụ tới gần 60% lượng gia tăng dân số và lao động của cả nước, lại đang quá tải một cách trầm trọng nhưng không được đầu tư thỏa đáng. Theo nhóm chuyên gia, miền Đông Nam Bộ ở vị trí hết sức thuận lợi để khai thác các tuyến vận tải biển quốc tế quan trọng.
Với những bất cập nêu trên, có thể đưa ra một số kiến nghị chính sách cụ thể cho Việt nam nhằm khống chế những khó khăn này. Cụ thể, để đảm bảo tình trạng thiếu điện không ngày một xấu đi, Việt Nam cần nhanh chóng thực hiện ngay hai ưu tiên.
Thứ nhất, tăng đầu tư cho các nguồn năng lượng ngoài thủy điện và cải thiện hệ thống phân phối. Yêu cầu EVN chấm dứt việc đầu tư nguồn nhân lực và tài lực khan hiếm của mình vào các hoạt động có tính đầu cơ, không nằm trong nhiệm vụ kinh doanh chính như viễn thông và bất động sản.
Thứ hai, khuyến khích đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước, đồng thời xây dựng một môi trường điều tiết minh bạch và hiệu quả hơn để tạo động cơ và sự an tâm cho các nhà đầu tư tư nhân…..
Đẩy mạnh phát triển hình thức hợp tác nhà nước – tư nhân (PPP)
Trong mô hình PPP, nhà nước là người đại diện cho nhân dân đứng ra đàm phán để có thể mang về những dịch vụ tiện ích nhất với một mức giá thấp nhất. Còn ngược lại, phía nhà đầu tư với tư cách như một người bán hàng, mong muốn làm sao bán được với một mức giá càng cao càng tốt để lợi nhuận mang về là lớn nhất.
Chính vì vậy, làm sao để tìm được tiếng nói chung giữa nhà nước với tư nhân trong mô hình PPP chính là bài toán khó nhất hiện nay.
Tuy nhiên, hiện nay, chúng ta chưa có khung pháp lý cho lĩnh vực PPP mà thủ tục hành chính lại rườm rà nên khiến nhà đầu tư rất ngại. Ví dụ, lĩnh vực cảng biển của Việt Nam đang thiếu nhưng Nhà nước lại bắt buộc nhà đầu tư nước ngoài phải liên doanh với doanh nghiệp trong nước, đã khiến nhà đầu tư ngại. Nếu cho đầu tư 100% như các lĩnh vực khác thì dễ dàng hơn. Chúng ta quá đặt vấn đề an toàn.
Mặt khác, nếu chúng ta chấp nhận một cách dễ dãi để thoả mãn yêu cầu của nhà đầu tư thì có thể đến một thời điểm nào đấy chúng ta sẽ nhận thấy mình bị thua thiệt. Nếu mình dễ dãi cho bất cứ nhà đầu tư nào đăng ký đầu tư xây dựng thì chắc chắn chất lượng dịch vụ sẽ không đảm bảo.
Để có được nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư với hình thức PPP thì trước hết cần phải có một khung chính sách rõ ràng, minh bạch, công bằng cho các phía.
Và để đầu tư theo mô hình PPP hiệu quả hơn thì chúng ta cần phải có nhận thức và đồng thuận cao trong xã hội, trước hết là hai khu vực nhà nước và tư nhân. Đồng thời, chúng ta phải tìm ra một mô hình phù hợp với điều kiện của Việt Nam chứ không thể sao chép một cách cứng nhắc mô hình của bất kỳ một quốc gia nào.
Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta phải có năng lực thực hiện của tất cả các bên tham gia, như nhà đầu tư, nhà tư vấn , quản lý, thẩm định..., nếu không, thành công chỉ là viển vông.
Giải quyết toàn diện các vấn đề về đầu tư theo BOT
Giải quyết các vấn đề về đầu tư theo BOT không chỉ dừng lại ở giải quyết cơ chế thuế hay quy trình cấp phép mà còn là vấn đề về tài trợ dự án. Hiện nay các công ty nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn trong tìm tài trợ cho dự án BOT do: Các công ty nước ngoài không vay được các ngân hàng trong nước vì họ không có tài sản thế chấp (thế chấp theo kiểu tài trợ dự án hiện còn nhiều hạn chế); các ngân hàng nước ngoài lại không có quyền nhận thế chấp để cho các công ty nước ngoài vay. Vì vậy, nên cho phép các công ty BOT được quyền huy động vốn bằng nhiều cách khác nhau như thông qua phát hành trái phiếu công ty hay bán cổ phần.
Nghị định BOT nên quy định rõ nhà nước có thể sử dụng những loại hình thức nào để bảo lãnh nghĩa vụ thực hiện hợp đồng - đây là một cấu phần quan trọng trong nghiên cứu khả thi của một dự án BOT; Hay nên cho phép một số trường hợp nhà đầu tư và các cơ quan nhà nước có thể đàm phán một mức vốn sở hữu tối thiểu thấp hơn so với mức 20% và 30% tương ứng như trong Nghị định hiện nay.
Việt Nam nên cần học hỏi kinh nghiệm từ các nước cũng như các tổ chức để xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp luật, khuyến khích sự hợp tác của khu vực tư nhân với Nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng.
Việc tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng cũng sẽ góp phần vào việc chống tham nhũng lãng phí, bởi nguồn vốn của tư nhân luôn được quản lý chặt chẽ nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Nếu có cơ chế pháp luật tốt, các chính sách ưu đãi phù hợp, các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân sẽ làm tốt hơn các nhà cung cấp dịch vụ thuộc khu vực công. Các chuyên gia cũng gợi ý rằng, cần khuyến khích đầu tư tư nhân thông qua hình thức đầu tư BOT hoặc góp vốn trực tiếp. Với các nhà đầu tư tư nhân có năng lực tài chính nhỏ hơn thì có thể đầu tư vào hạ tầng cơ sở nông thôn. Đương nhiên, việc đầu tư này cần quy hoạch cụ thể và mang tính dài hạn của Nhà nước cũng như của từng địa phương. Đồng thời, cần thiết lập đầu mối liên kết giữa Nhà nước và tư nhân, và Bộ Kế hoạch và Đầu tư là thích hợp nhất với vai trò này.
Cần có những chính sách hỗ trợ phát triển một cách bền vững hệ thống DN vừa và nhỏ tại Việt Nam
Vai trò và sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung là rất quan trọng, các DNVVN thường chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo trên 50% việc làm, đóng góp cho việc phát triển kinh tế , góp phần xoá đói giảm nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội và bình ổn thị trường, tạo sự liên kết trong các chuỗi giá trị. Các DNVVN cũng đóng vai trò lớn trong việc liên kết với các doanh nghiệp lớn, bao gồm việc cung cấp các dịch vụ và sản phẩm phụ trợ, các sản phẩm đầu vào... Ngoài vấn đề vốn, một đặc điểm rõ nét của các DNVVN Việt Nam là thiếu năng lực và kiến thức quản trị doanh nghiệp bài bản. Để có thể hội nhập vào kinh tế thế giới một cách có hiệu quả thì quản trị doanh nghiệp đóng vai trò thiết yếu trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chính vì vậy công việc cấp bách cần phải làm là xây dựng một môi trường thuận lợi cho các DNVVN phát triển . Đây là nội dung quan trong trong sự nghiệp phát triển doanh nghiệp quốc gia nói chung và phát triển các DNVVN nói riêng. Việt Nam đặt kế hoạch có 500.000 doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm 2010 là một nhiệm vụ lớn, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp chiến lược phù hợp.
Trong hệ thống các giải pháp này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp và chính phủ trong việc hoạch định chính sách và thực hiện các chính sách đó. Các nội dung lớn phải kể ra bao gồm:
Xây dựng môi trường kinh doanh và định vị kinh tế Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu, bao gồm: quy hoạch phát triển doanh nghiệp, hạ tầng cơ sở, phát triển các loại hình thị trường (thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ...)
Phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế xã hội. Đây sẽ là nội dung then chốt trong việc duy trì phát triển và phát triển bền vững. Thực tế đã chứng minh rằng nhiều quốc gia với nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp, vị trí địa lý không thuận lợi nhưng đã phát triển nhanh chóng nhờ có chiến lược phát triển nguồn nhân lực đúng đắn.
------------------------------------*&*--------------------------------------
Kết Luận
Nghiên cứu đề tài này cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của hệ thống cơ sở hạ tầng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế đât nước. Đồng thời cũng thấy được vai trò của nguồn vốn từ khu vực tư nhân đối với công tác này.
Sau khi đi phân tích thực trạng về tình hình thu hút vốn đầu tư tư nhân cho hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm qua, chúng ta đã thấy được những thành công cũng như những mặt còn hạn chế trong công tác thu hút nguồn vốn đầu tư quan trọng này.
Tuy trong bài đã đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu hút vốn tư nhân cho hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam, và một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Nhưng với giới hạn trong đề án chuyên ngành thì không thể nói hết được những gì liên quan đến vấn đề này. Do đó, đề tài chỉ dừng lại nghiên cứu ở một số khía cạnh như đã trình bày. Chính vì vậy bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự bổ sung, đóng góp của các bạn độc giả.
- the end -
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24987.doc