Mục tiêu : phát triển xuất khẩu với tốc độ cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hang và sản phẩm dịch vụ có lợi thế cạnh tranh đồng thời tích cực phát triển các mặt hang khác có tiềm năng thành những mặt hang xuất khẩu chủ lực mới theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng xuất khẩu những mặt hang có giá trị gia tăng cao, tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu hang hóa đạt 68-69 tỷ USD vào năm 2010. Và 259 tỷ USD trong năm 2006-2010, gấp 2.3 lần so với 5 năm trước và tốc độ tăng 16%.
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, dự kiến khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu ( không kể dầu thô ) trong 5 năm tới 106,5 tỷ USD, tăng 22.3% / năm .
45 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 958 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá khả năng thực hiện kế hoạch 2009 - 2010 và một số giải pháp thực hiện cho những năm tiếp theo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
linh kiện khoảng 23%/năm, năm 2010 đạt kim ngạch 4 tỷ USD. Thị trường của mặt hàng này trên thế giới dự báo diễn biến thuận lợi với nhu cầu ngày càng tăng. Dự kiến kim ngach sản xuất, gia công phần mềm đạt trên 600 triệu USD vào năm 2010 .
Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ đạt khoảng 8 tỷ USD vào năm 2010 và khoảng 34-35 tỷ USD vào giai đoạn 2006-2010, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực dịch vụ có khả năng thu ngoại tệ như du lịch, sữa chữa tàu biển, xuất khẩu lao động và chuyên gia
2. Nhập khẩu:
Mục tiêu:
Kiềm chế được nhập siêu, phấn đấu tiến tới cân bằng hợp lý cán cân xuất – nhập khẩu, ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến, giữ thế chủ động trong nhập khẩu, tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn giảm nhanh và tiến tới hạn chế nhập thiế bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian hạn chế nhập khẩu hàng hóa vật tư thiết bị cũng như hàng tiêu dùng trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được .
Tốc độ tăng nhập khẩu đạt khoảng 14.7%/năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tăng từ 36.9 tỷ USD năm 2005 lên 73.5 tỷ USD năm 2010 và 286.5 tỷ USD trong cả 5 năm.
Định hướng các mặt hàng nhập khẩu:
Nhóm hàng máy móc thiết bị và phụ tùng gồm các loại như ô tô, linh kiện ô tô xe máy và các loại máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng phục vụ sản xuấ. cần ưu tiên nhập khẩu của các nước phát triển có nền công nghiệp chế tạo tiên tiến. Chú trọng dây truyền công nghệ vừa đáp ứng được chất lượng, giá cả,và điều kiện của Việt Nam. Dự kiến 5 năm tới kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 93.4 tỷ USD, tăng 15.2%/năm.
Nhóm nguyên , nhiên , vật liệu bao gồm xăng dầu , phân Urê, thép , thép thành phẩm và phôi thép , các mặt hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất như bong sợi , chất dẻo ,giấy , tân dược , hóa chất , nguyên phụ liệu may ,giày dép , vải Dự kiến kim ngạch nhập khẩu cả 5 năm đạt 174.2 tỷ USD , chiếm tỷ trọng trên 60.8%, tăng 14.4%/năm . Tập trung nhập khẩu các mặt hàng: xăng dầu tăng 5.1%/năm; phôi thép tăng 9.5%/năm; nguyên phụ liệu dệt , may, da tăng 12%/năm; bông so và sợi các loại tăng 13%/năm; chất dẻo tăng 20.6%/năm
Nhóm hàng tiêu dùng dự kiến kim ngạch nhập khẩu 5 năm là 18.9 tỷ USD, tăng 16.3%/năm.
Tổng số nhập siêu 5 năm là 27.8 tỷ USD, bằng 11 % tổng kim ngạch xuất khẩu (2001- 2005 nhập siêu là 17.4%).
II. Tình hình thực hiện kế hoạch thương mại quốc tế 2006-2008.
Đánh giá chung: Qua gần 3 năm thực hiện kế hoạch, chúng ta đã đạt được những thành tựu phấn khởi.
Dưới đây là bảng số liệu tổng hợp về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ 2006 – 2008
Mặt hàng xuất khẩu
Năm 2006
Năm 2007
Giá trị
%
Giá trị
%
Tổng số
39826,2
100
48560,0
Hàng CN nặng và khoáng sản
14428,6
36,23
16000,0
32,95
Hàng CN nhẹ và TTCN
16389,6
41,15
21598,0
44,48
Hàng nông, lâm, thuỷ sản
9008,0
22,6
10963,4
22,58
Bảng 1: Cơ cẩu các mặt hàng
Đơn vị :TriệuUSD
Thị trường
Năm 2006
Năm 2007
10 tháng đầu năm 2008
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
Tổng số
39826,2
100
48560,0
53300,0
Asean
6632,6
16.7
9200,0
EU
7094,0
17,8
8500,0
MỸ
7845,1
19,7
10089,1
20,7
9800,0
Trung Quốc
3242,8
8,1
3356,7
6,9
3800,0
Nhật Bản
5240,1
13,2
6069,8
12,5
Úc
3744,7
9,4
3556,9
7,3
3900,0
Bảng 2: Cơ cấu thị trường xuất khẩu
Mặt hàng
2005
2006
2007
Tổng số
48491,1
62680,0
Kim ngạch NK
36761,1
44891,1
62680,0
Máy móc thiết bị
5282
6630
10376
Hàng hoá tiêu dùng
2992,5
3508,4
5100,2
Hàng hóa trung gian
24483,3
30314,9
40232,0
Bảng 3: cơ cấu mặt hàng nhập khẩu
Thành phần kinh tế
2006
2007
Giá trị
%
Giá trị
%
Tổng số
48491,1
62680,0
100
Có vốn đầu tư nước ngoài
16489,4
21715,4
35,72
100% vốn trong nước
284401,7
40966,8
64,28
Bảng 4: Cơ cẩu nhập khẩu theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân TM
TH
KH
TH
KH
TH
KH
2006
39826,2
37750,0
44891,1
-5064,9
2007
48560,0
46760,0
62680,0
53760,0
-14120,0
-7000,0
9 tháng 2008
48600,0
65000,0
(KH cả năm)
64400,0
74000,0
(KH cả năm)
-15800,0
-9000,0
Nguồn: Tổng cục thống kê VN
Bảng 5: Bảng cân đối cán cân thương mại qua các năm
Sau đây, nhóm chúng em xin đi vào phân tích chi tiết tình hình của từng năm.
1. Thương mại quốc tế 2006
2006 được coi là năm thành công của hoạt động xuất nhập khẩu. Khi mà cả giá trị xuất và nhập khẩu đều có tốc độ tăng trưởng cao và vượt kế hoạch đặt ra. Đại xuất là tỉ lệ nhập siêu thấp hơn nhiều so với các năm trước đó, cụ thể:
a. Xuất khẩu.
Quy mô: Năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 39,8262 tỉ USD vượt kế hoạch đặt ra 2,0762 tỉ USD ( kế hoạch đặt ra là 37,750 tỉ USD ), tăng 22,7% so với năm 2005 ( tăng 7,163 tỉ USD về giá trị ), chiếm 65% GDP.
Cơ cấu:
Theo mặt hàng:
Hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm tỉ lệ cao nhất 41,15% đạt 16,3896 tỉ USD, hầu hết đều tăng so với năm 2005 và vượt kế hoạch đặt ra: Mặt hàng giày dép đạt 3,7 tỉ USD, tăng 22% so với năm 2005. Năm 2006, EU đã áp đặt thuế chống bán phá giá tạm thời đối với sản phẩm giày có mũi da của Việt Nam, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam đã nhanh chóng chuyển dịch thị trường xuất khẩu vào Mĩ do đó kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khá; sản phẩm gỗ đạt 1,9 tỉ USD tăng 25%. Hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 1,65 tỉ USD tăng 16% so với cùng kỳ năm ngoái. Mặt hàng dệt may đạt 6,2 tỉ USD, tăng 28%.
Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 36,23% đạt 14,4286 tỉ USD. Trong đó dầu thô đạt 9,1 USD, mặc dù lượng xuất khẩu có giảm 5% nhưng do giá tăng 30% nên kim ngạch tăng 23% so với năm 2005 và vượt chỉ tiêu xuất khẩu đặt ra.
Các mặt hàng nông, lâm và thủy sản cũng tăng mạnh so với năm 2005 và hầu hết là đạt hoặc vượt chỉ tiêu đặt ra. Cà phê xuất khẩu được 894 ngàn tấn, tăng nhẹ về lượng nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh đạt 1 tỉ USD do giá xuất khẩu tăng 44%. Cao su xuất khẩu đạt 680 ngàn tấn, tăng 16% về lượng và 68% về kim ngạch do giá cao su tăng 45% so với năm 2005. Thủy sản năm 2006 xuất khẩu đạt 3.15 tỉ USD, tăng 15%. Các doanh nghiệp thủy sản đã vượt qua những khó khăn về rào cản thương mại tại thị trường Mĩ, EU, Nhật Bản đã thay đổi cơ cấu mặt hàng cũng như cơ cấu thị trường xuât khẩu. Những năm trước đây trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, tôm luôn chiếm tỉ trọng cao; năm 2006 xuất khẩu cá đặc biệt là cá tra và cá basa đã tăng cao. Riêng mặt hàng gạo lượng xuất khẩu chỉ đạt 5 triệu tấn, giảm gần 5% về lượng, đạt kim ngạch 1,4 tỉ USD tăng nhẹ so với 2005. Đến hết năm 2006 đã có 9 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD, ngoài các mặt hàng truyền thống đạt kim ngạch cao, năm 2006 lần đầu tiên hai mặt hàng cà phê và cao su có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỉ USD.
Nhìn trung, năng lực các mặt hàng xuất khẩu đã được tăng lên một bước, thể hiện ở sự mở rộng quy mô xuất khẩu, ở kim ngạch xuất khẩu và giá xuất khẩu tăng ở từng mặt hàng. Nhưng dù vậy cơ cấu xuất khẩu ở nước ta vẫn chưa có chuyển biến theo hướng tăng tỉ lệ hàng chế biến, giảm tỉ lệ hàng sơ chế và khoáng sản. Trong số 7,163 tỉ USD kim ngạch tăng lên thì vẫn còn 2,941 tỉ USD là do giá tăng. Điển hình là mặt hàng cao su tuy có mức tăng trưởng cao nhất tới 58.3% so với năm 2005 về giá trị kim ngạch, nhưng chủ yếu là do thị trường cao su thế giới sốt giá trong năm 2006. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn được lợi do yếu tố giá cả, theo các chuyên gia đánh giá, sự tăng trưởng này không bền vững, bị lệ thuộc nhiều vào yếu tố nước ngoài.
Ngoài ra trong 9 mặt hàng chủ lực trên 1 tỉ USD chỉ có một mặt hàng thuộc lĩnh vực công nghệ ( điện tử, linh kiện máy tính ) có hàm lượng công nghệ cao. Còn lại các sản phẩm khác nói chung được xuất khẩu dưới dạng thô chỉ được sơ chế như: gạo, cà phê, cao su Các mặt hàng lệ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu ( như: đồ gỗ, dệt may, giày dép.) hoặc phần lớn chỉ thực hiện gia công theo những đơn đặt hàng của đối tác nước ngoài ( dệt may, giày da ) đã làm cho giá trị gia tăng trong số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam còn thấp.
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2006 đạt 6,03 triệu USD vượt kế hoạch đặt ra.
Theo thị trường:
Cơ cấu thị trường xuất khẩu có nhiều chuyển biến tích cực, giảm dần sự phụ thuộc vào khu vực thị trường châu Á, ổn định xuất khẩu vào thị trường châu Âu, tăng xuất khẩu vào thị trường châu Mĩ. Ngoài ra còn thâm nhập được nhiều thị trường mới có nhiều tiềm năng như thị trường châu Phi.
Tuy vậy, khu vực thị trường châu Á vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất về xuất khẩu của nước ta, tuy nhiên có xu hướng giảm dần qua các năm. Năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta vào khu vực thị trường ASEAN đạt 6.6326 tỉ USD chiếm 16.7% tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 15% so với năm 2005. Thị trường Nhật Bản đạt 5.2 tỉ USD chiếm tỉ trọng 13% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thị trường Trung Quốc đạt 3.2 tỉ USD giảm 1% so với năm 2005, chiếm tỉ trọng 8,1% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tổng kim ngạch xuất khẩu vào khu vực thị trường EU năm 2006 đạt khoảng 7 tỉ USD, chiếm tỉ trọng 17,8% tổng kim ngach nhập khẩu tăng 21% so với năm 2005 các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu vào thị trường EU là giày dép, dệt may, sản phẩm gỗ và thủy sản.
Năm 2006 xuất khẩu vào thị trường Mĩ đạt 7,8 tỉ USD chiếm 19,7% tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 33% so với năm 2005, chủ yếu vẫn là các mặt hàng truyền thống như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ và thủy sản.
b. Nhập khẩu.
Quy mô: Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2006 đạt 44,8911 tỉ USD ( so với kế hoạch -tăng 22,1% bằng 73% GDP.
Cơ cấu:
Theo mặt hàng
Nhìn vào bảng số liệu thấy rằng nhập khẩu hàng hóa trung gian vẫn chiếm tỉ lệ cao 67,53% tổng kim ngạch nhập khẩu với giá trị là 30,3149 tỉ USD cao hơn cả năm 2005 cả về giá trị và tỉ trọng (năm 2005: tỉ trọng là 66,6%, giá trị 24,4833 tỉ USD ).
Như vậy sản xuất của Việt Nam vẫn là gia công chế biến phụ thuộc rất nhiều vào thị trường thế giới.
Tỉ lệ nhập khẩu máy móc thiết bị chiếm tỉ lệ khiêm tốn 14,77% ( giá trị: 6,63 tỉ USD ) tổng kim ngạch nhập khẩu tăng so với năm 2005 nhưng mức tăng không đáng kể ( năm 2005 giá trị: 5,282 tỉ USD, tỉ trọng: 14,37%).
Như vậy yêu cầu phát triển ngành công nghiệp phụ trợ là hết sức bức thiết để giảm tỉ lệ nhập khẩu hàng hóa trung gian cho những năm tới.
Năm 2006 tỉ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng đạt 3,5084 tỉ USD chiếm 7,82% có giảm so với năm 2005. Nhập khẩu dịch vụ năm 2006 là 6,397 tỉ USD.
c. Cán cân thương mại quốc tế
Vượt qua tập tục “ Tháng riêng là tháng ăn chơi” guồng máy xuất nhập khẩu vận hành trơn chu từ đầu năm, trong những ngày nghỉ tết nguyên đán Bính Tuất, các cửa khẩu phía bắc vẫn nhộn nhịp, lần đầu tiên – quý I/2006 cán cân thương mại đã cân bằng.
Nhập siêu chỉ lộ diện từ quý II, tất nhiên vẫn chỉ ở mức khiêm tốn và cả năm chỉ dừng ở mức 5,0649 tỉ USD chiếm 12,7% tổng xuất và bằng 8,32% GDP giảm đi nhiều so với các năm trước đó ( năm 2003: tỉ lệ nhập siêu chiếm 25,3% GDP, năm 2004: tỉ lệ nhập siêu chiếm 20,7% GDP, năm 2005: tỉ lệ nhập siêu chiếm 13,3% GDP ).
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2006 chiếm 139,2% GDP, - nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới tuy nhiên năng xuất vẫn <0 lại khẳng định rằng chúng ta mở cửa theo kiểu nhập siêu nhưng chúng ta phải chấp nhận thực tế này không chỉ ở năm 2006 mà còn trong cả một số năm tiếp theo vì nền kinh tế nước ta còn yếu kém chưa đủ năng lực đáp ứng nhu cầu. Tuy nhiên chúng ta cũng cần cố gắng hơn để chủ động được nguồn hàng hóa trung gian nhằm giảm nhập siêu ,cũng là giảm sự phụ thuộc bên ngoài.
d. Một số nguyên nhân dẫn đến lý gải cho tình hình xuất nhập khẩu khá là tích cực năm2006:
Năm 2006 là năm đầu tiên thực hiện đổi mơi về giải pháp và điều hành dài hạn đối vơi trương trình xúc tiến thương mại quốc gia theo quyết định số 297 ngày 3-11-2005 của thủ tướng chính phủ, nhằm: Để doanh nghiệp dễ tiêp cận với chương trình; đơn giản hóa thủ tục thanh toán :cơ quan chủ trì trương trình linh hoạt hơn trong việc xây dựng và điều chỉnh các hạng mục trong trương trình; cơ quan kiểm soát nguồn vốn ngân sach hỗ trợ cho xúc tiến thương mại. Trên tinh thần đó, nhiều hạng mục được thực hiện với sắc thái mới và lần đầu tiên chương trình xúc tiến thương mại Quốc gia năm sau (2007) đã được phê duyệt từ năm trước (2006). Từ thực tiễn tổ chức “Ngày VNở nước ngoài”,chính phủ đã quyết định tổ chức hình thức này hằng năm nhằm tiếp tục quảng bá hình ảnh của đất nước,con người, doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam.
Từ xu hướng coi giao hàng xong,thu được tiền là thỏa mãn, nay đã tiến tới chủ động tiếp cận với các kênh phân phối hàng trong thị trường nước ngoài –chăm lo khách hàng của mình, tạo khả năng phát triển xuất khẩu bền vững.
Một năm ghi nhận nhiều kỉ lục.Thủy sản vượt qua khó khăn về nguyên liệu và việc kiểm tra gắt gao dư lượng chất kháng sinh, còn giá giầy vấp phải thuế chống bán phá giá, song do tạo mặt hàng mới, chuyển sang thị trường khác; đầu tư chiều sâu11 tháng đã “dắt tay nhau” vượt qua ngưỡng 3 tỷ USD
Chú đọng ban hành cơ chế xuất nhập khẩu phù hợp với định chế của WTO, trước thời điểm giqa nhập tổ chức thương mại toàn cầu này, đó là nghị định ngày 23-1-2006 về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua bán, gia công và quá cảnh, chuyển khẩu với nước ngoài–cơ chế dài hạn nhất từ trước tới nay tạo sự ổn định trong điều hành xuất nhập khẩu và giúp các doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển danh nghiệp.
Các địa phương đều có những nỗ lực riêng. Hải Phòng lần đầu tiên đạt ngưỡng một tỷ USD tăng 24,8% so với 2005. Thanh Hóa do các doanh nghiệp đã kí được hợp đồng xuất khẩu trực tiếp sớm hơn mọi năm và số doanh nghiệp xuất khẩu cũng tăng lên. Hà Tây mở hội chợ làng nghề động viên sức sáng tạo của nghệ nhân hướng về xuất khẩu
Sự mạnh dạn vươn đến các thị trường xa của doanh nghiệp Việt Nam, sự bứt phá của một số mặt hàng nhỏ lẻ
2.Xuất nhập khẩu năm 2007.
a. Xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2007 đạt 48, 56 tỷ USD, tăng 21.9% năm 2006, vượt 3,9% kế hoạch Chính phủ đạt ra là 46, 76 tỷ USD. Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 56, 9% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đạt 27,9 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2006; của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 20,6 tỷ USD, tăng 22,85 % so với năm 2006.
Về giá trị, kim ngạch xuất khẩu năm 2007 tăng 8,7 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản tăng 1,7 tỷ USD, nhóm nhiên liệu, khoáng sản tăng 0,3 tỷ USD, nhóm công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tăng 5,6 tỷ USD và nhóm hàng khác tăng 1,26 tỷ USD.
Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, hàng công nghiệp nhẹ và TTCN chiếm tỷ lệ cao nhất 44,48% , hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 32,5 %, hàng nông, lâm, thuỷ sản chiếm 22,58%. Tuy rằng năm 2007 xuất khẩu dầu thô giảm đạt 15,1 triệu tấn, thấp hơn cùng kỳ năm 2006 8,3% nhưng vẫn đứng đầu về giá trị (8,4 tỷ chiếm 17,36% kim ngạch xuất khẩu). Các mặt hàng CN nhẹ và TTCN tăng về quy mô 5298,4 triệu USD so với năm 2006 nhưng ngành này nhập khẩu đến hơn 50% nguyên liệu đầu vào. Nhìn cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ta thấy một thực trạng đáng buồn là hầu hết các mặt hàng này là gia công chế biến hoặc sản phẩm thô mới qua sơ chế giá trị gia tăng nhỏ, cơ cấu các mặt hàng hầu như không được thay đổi và không có sản phẩm công nghệ cao. Các doanh nghiệp ViệtNam chủ yếu chỉ dừng lại ở việc nhận gia công theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp nước ngoài (dệt may, giày dép), và chế biến thô; chưa đầu tư công nghệ cao vào sản xuất. Điều này phản ánh khả năng cạnh tranh yếu và dễ bị tổn thương về giá..
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường đều tăng về lượng nhưng thị trường Trung Quốc, Nhật Bản và Úc có xu hướng giảm về tỷ trọng, trong khi thị trường Mỹ, EU tăng. Mặt khác, Việt Nam còn mở rộng sang các thị trường mới như châu Phi và khu vực Trung Đông.
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2007 ước đạt gần 6 tỷ USD, vượt kế hoạch đề ra, tăng 16,7 % so với năm 2006, chủ yếu là xuất khẩu du lịch.
b. Nhập khẩu.
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt 62,68 tỷ USD, vượt kế hoạch 1,66 lần, tăng 39,6 % so với năm 2006, trong đó doanh nghiệp 100 % vốn trong nước nhập khẩu 40,9 tỷ USD, tăng 44,2 % và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu 21,7 tỷ USD, tăng 31,7 %.
Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu
Qua bảng số liệu cho thấy nhập khẩu chủ yếu là hàng hoá trung gian chiếm tỷ trọng lớn lần lượt qua các năm là: 66,6% năm 2005; 67,53 % năm 2006; 64,03% năm 2007. Tuy năm 2007 tỷ lệ nhập khẩu hàng hoá trung gian có giảm hơn so với năm 2006 nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao điều này cho thấy thực trạng sản xuất của Việt Nam vẫn chủ yếu là gia công chế biến phụ thuộc rất nhiều vào thị trường nguyên liệu thế giới. Trong đó, những mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn là xăng dầu, sắt thép phục vụ cho sản xuất, vải để gia công, hàng điện tử-máy tính và linh kiện, chất dẻo, nguyên phụ liệu dệt may – da giầy, hoá chất, thức ăn gia súc và nguyên liệu, đồ gỗ và nguyên liệu phụ liệu cho sản xuất gỗ. Tỷ lệ nhâp máy móc thiết bị có tăng nhưng chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn năm 2005 là 14,37%; năm 2006 là 14,77%; năm 2007 là 16,55%.Trong những năm tiếp theo chúng ta cần phát triển ngành công nghiệp phụ trợ để giảm tỷ lệ nhập khẩu hàng hoá trung gian đảm bảo sản xuất trong nước ổn định và chủ động đồng thời tạo điều kiện cho việc đầu tư máy móc thiết bị nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng khá nhỏ năm 2005 là 8,14%; năm 2006 giảm xuống còn 7,82%; năm 2007 là 8,14 %.
Cơ cấu NK theo thành phần kinh tế
Qua bảng số liệu ta thấy, NK của khu vực 100% vốn trong nước chiếm tới 64,28% kim ngạch NK trong khi chỉ chiếm hơn 40% kim ngạch XK điều này cho thấy trình độ công nghệ, quản lý, hiệu quả sản xuât của khu vực này còn yếu cần có giải pháp để nâng cao năng lực của các doanh nghiệp này.
c. Cán cân thương mại năm 2007.
Thâm hụt thương mại năm 2007 khá lớn 14,12 tỷ USD, bằng 29 % tổng kim ngạch xuất khẩu, bằng 19,88 % GDP, tăng gấp 2,5 lần so với năm 2006.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2007 là 111,24 tỷ USD chiếm 156,67%GDP, chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên chúng ta mở cửa theo kiểu nhập siêu, điều này thường thấy với tất cả các nước đang phát triển trong thời kỳ đầu của CNH-HĐH đất nước, khi mà nền sản xuất trong nước còn yếu kém chưa đủ năng lực để đáp ứng nhu. Vì vậy, nhập khẩu tạo điều kiện cho các ngành kinh tế phát triển.
d. Các yếu tố tác động đến xuất nhập khẩu năm 2007.
Xuất khẩu
Sau những nỗ lực đàm phán tháng 11/2006 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO. Vì vậy, năm 2007, một loạt hàng rào thuế quan vào các thị trường lớn như Mỹ, EU được cắt giảm, các doanh nghiệp được đối xử bình đẳng hơn trong quan hệ quốc tế tạo điều kiện cho xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào các thị trường này. Vì vậy kim ngạch xuất khẩu năm 2007 tăng mạnh .
Các hoạt động xúc tiến thương mại của chính phủ ở các nước bắt đầu từ năm 2006 quảng bá hình ảnh của Việt Nam đến bạn bè quốc tế không những tạo ấn tượng tốt về con người, đất nước và cả hàng hoá Việt Nam được nhiều người biết đến. Tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá sang các nước, thu hút khách du lịch mà còn thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Chính sách tỷ giá hối đoái: Tuy Việt Nam đồng có xu hướng tăng so với 2006 do lượng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào oà ạt nhưng NHTW vẫn duy trì một tỷ giá có lợi cho xuất khẩu hơn nhập khẩu.
Năm 2007 giá cả của mốt số mặt hàng tăng cao như cà phê, gạo, đặc biệt cao su tăng 54%, dầu thô tăng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Các doanh nghiệp Việt Nam đã biết tận dụng cơ hội một cách tốt hơn sau những kinh nghiệm từ những năm trước, tạo niềm tin với các đối tác cũ đồng thời mở rộng quan hệ tìm đối tác mới cho mình.
Cuối năm 2006, Chúng ta tổ chức thành công hội nghị ASEM 5 tại Hà Nội đã tạo được ấn tượng tốt đẹp với quan khách và là cơ hội tốt quảng bá hình ảnh đất nước tạo tiền đề cho khách du lịch đến Việt Nam năm 2007.
Bên cạnh những thuận lợi đó xuất khẩu Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn như lạm phạt trong nước tăng cao, giá cả các nguyên liếu đầu vào tăng cao.
Nhập khẩu
Là thành viên của các tổ chức Asean, Asem, Apec và đặc biệt là gia nhập tổ chức WTO, Việt Nam phải cắt thuế NK và các hang rào bảo vệ sản xuất trong nước theo lộ trình cam kết. Tuy nhiên, 1/1/2006 có tới 96% của 10689 dòng thuế xuất nhập khẩu giảm chỉ còn 0-5% trong khi trung bình của Asean là 4,7%, và đến năm 2014 mức thuế chung của WTO mới là 13,4%. Đây là thể hiện quyết tâm của Việt Nam khi gia nhập WTO nhưng nó mang lại hệ quả là nhập siêu năm 2007 gấp 2,5 lần năm 2006 và gấp hơn 2 lần so với kế hoạch.
Giá nguyên liệu NK tăng cao như xăng dầu, sắt thép, phân bón, nguyên nhiên liệu phụ cho ngành may mặc, da giầy, đồ gỗ đều tăng đây là một phần nguyên nhân dẫn đến nhập siêu tăng đột biến.
Nền kinh tế của chúng ta phụ thuộc quá nhiều nguồn nguyên liệu thế giới vì vậy xuất khẩu tăng nhanh kéo theo nhập khẩu cũng tăng nhanh. Ngoài ra hiệu ứng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài và ODA bù đắp khoản thâm hụt làm chúng ta cảm giác như mình đang giàu có thức sự dẫn đến tiêu tiền hoang phí “nhà nghèo được tiêu tiền chùa”. Lượng nhập khẩu hàng hoá xa xỉ tăng đột biến như ôtô nguyên chiếc, hàng hiệu đóng góp không nhỏ vào khoảng nhập siêu.
3. Kế Hoạch Thương Mại Quốc Tế 2008.
a. Kế hoạch xuất nhập khẩu 2008.
Kế hoạch xuất khẩu 2008.
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 20 - 22%.Xuất khẩu năm 2008 đạt tốc độ tăng trưởng 22% với kim ngạch xuất khẩu đạt 58,6 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản đạt 10,65 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 8,2%; nhóm khoáng sản đạt 9,7 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 3,3%; nhóm hàng công nghiệp chế biến đạt 28 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 30,8%; nhóm hàng hoá khác đạt 10,25 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 39.5%.
Về thị trường xuất khẩu, các thị trường chủ lực của ta trong năm 2008 sẽ vẫn là thị trường châu á (Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông), châu Âu (chủ yếu là EU), Bắc Mỹ (Hoa kỳ, Canada) và châu Đại dương (Australia). Ngoài ra tiếp tục khai thác, thâm nhập một số thị trường truyền thống hoặc thị trường mới như Nga, Trung Đông, Mỹ La tinh,
Châu Phi.
Nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục tăng trưởng cao với kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 28 tỷ USD, tăng 29.6% so với năm 2007. Trong đó các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như dệt may đạt 9.5 tỷ USD, tăng 22,1%; giày dép đạt 4,5 tỷ USD, tăng 13,6%. Dự kiến một số mặt hàng thuộc nhóm này có mức tăng trưởng rất cao như hàng điện tử và linh kiện máy tính tăng 60,6%; thủ công mỹ nghệ tăng 35,1%; dây điện và cáp điện tăng 47%; sản phẩm nhựa tăng 37,9%
Do hạn chế về diện tích, thời tiết, năng suất và phần nào là thị trường tiêu thụ, nên xuất khẩu các mặt hàng thuộc nhóm hàng nông, lâm thủy sản không có khả năng tăng trưởng cao trong năm 2008, thậm chí một số sẽ đến ngưỡng về sản lượng, nếu không có những biện pháp tích cực về nâng cao chất lượng, giá xuất đạt ở mức cao thì một số mặt hàng sẽ đạt mức tăng trưởng thấp hoặc giảm trong năm 2008 như chè, nhân điều, cao su và cà phê. Hai mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thuộc nhóm này là thuỷ sản đạt 4,25 tỷ USD, tăng 13,3%, gạo đạt 4,5 triệu tấn băng mức năm 2007
Đối với nhóm hàng khoáng sản gồm dầu thô và than đá dự kiến xuất khẩu trong năm 2008 đạt 9,5 tỷ USD, tăng 3,8% so với năm 2007. Nhóm này có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng được là phụ thuộc vào sự tăng giá xuất khẩu còn lượng thì giảm so với năm 2007 như mặt hàng dầu thô với lượng xuất dự kiến 15 triệu tấn. Xuất khẩu than đá dự kiến ở mức 25 triệu tấn trị giá khoảng 850 triệu USD, giảm 2,3% về lượng và 14,2% về trị giá so với năm 2007.
Bên cạnh đó, sự nỗ lực từ phía cả các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và các tổ chức nghề nghiệp khác trong xã hội, đi đôi với việc triển khai thực hiện một cách toàn diện và đồng bộ nhiều chính sách, biện pháp, là những yếu tố đảm bảo cho việc thực hiện thành công kế hoạch xuất khẩu năm 2008
Kế hoạch nhập khẩu 2008.
Năm 2008 tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá dự kiến là 68.4-69.5 tỷ USD, tăng 20-22 % so với 2007. Trong đó, nhập khẩu của các doing nghiệp đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đạt 27.5 tỷ USD, chiếm gần 40% tổng kim ngạch nhập khẩu và tăng 31% so với 2007.
Cơ cấu hàng nhập khẩu: Nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng chiếm tỷ trọng 26.3% tổng kim ngạch nhập khẩu, nhóm nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất 66.2% và nhómhàng tiêu dung 7.5%.
Các mặt hàng nguyên nhiên liệu cơ bản vẫn nhập từ thị trường châu Á ( chiếm tỷ trọng 75-85% ), tiếp theo là EU và châu mỹ. Ưu tiên nhập khẩu công nghệ nguồn từ những nước tiên tiến.
Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2008 ước đạt khoảng 7,6 tỷ USD, tăng 18.9% so với 2007.
Nhập siêu 2008 dự kiến đạt khoảng 10.8-10.9 tỷ USD, bang 18.6-18.7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong chỉ đạo điều hành phấn đấu theo hướng giảm tỷ lệ nhập siêu xuống thấp hơn.
Xây dựng hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp định chế quốc tế đối với hàng nhập khẩu để bảo hộ hợp lí sản xuất trong nước. Tiếp tục triển khai một số công cụ quản lí nhạp khẩu mới phù hợp với quy định của WTO như hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối.
Thực hiện các giải pháp để giảm nhập siêu đối với một số thị trường có tỉ trọng lớn.
b. Tình hình thương mại quốc tế năm 2008.
Xuất khẩu
Năm 2008 tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, dự kiến cả năm đạt 64-65 tỷ USD tăng 31.8-33.8 % so với 2007 vượt mức kế hoạch đề ra (20-22 %), trong đó khu vực đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đật 36 tỷ USD.
Nếu giá dầu thô giảm mức 80USD/ thùng, giá gạo xuống 500 USD/ tấn thì tổng kim ngạch xuất khẩu 2008 khoảng 62.5-63 tỷ USD. ( Xuất khẩu 4 tháng cuối năm 2008 có thể đạt 20.7-21.7 tỷ USD. Giá xuất khẩu nông sản, khoáng sản, một số măt hàng khác có thể thấp hơn 8 tháng đầu năm do giá thế giới giảm, trong đó dầu thô được tính ở mức 120 USD/thùng, gạo tính 600 USD/ tấn.)
→ Theo các chuyên gia kinh tế thông thường, việc tăng kim ngạch xuất khẩu dựa vào 2 yếu tố:
Thứ nhất là sự tăng giá. Giả sử lượng hàng xuất khẩu không thay đổi, thậm chí giảm nhưng giá mậu dịch mặt hàng đó trên thế giới tăng thì kim ngạch vẫn tăng. Năm 2007, lượng gạo ta xuất thậm chí còn giảm 1,8%, thế mà nhờ giá thế giới tăng cao nên kim ngạch xuất khẩu gạo vẫn cao, tăng 16,8%. Hoặc hạt tiêu năm 2007, ta xuất về lượng giảm tới 28,9% nhưng do giá hạt tiêu thế giới tăng nên kim ngạch xuất hạt tiêu tăng 42,3%.
Thứ hai là sự tăng về lượng. Nếu sự tăng giá là yếu tố khách quan thì sự tăng về lượng hàng xuất khẩu là yếu tố chủ quan. Nó thể hiện năng lực nội tại của nền kinh tế: sản xuất phát triển và có sức cạnh tranh. Ở đây, sức mạnh không chỉ về chất lượng sản phẩm mà còn về giá thành (phản ánh năng suất lao động tăng và hiệu quả sản xuất cao). Cho nên, yếu tố tăng trưởng về lượng rất được quan tâm.
Nhập khẩu
Với các giải pháp quyết liệt nhằm kiềm chế nhập khẩu hiện nay, phấn đấu kim ngạch nhập khẩu 2008 ở mức 84-85 tỷ USD, tăng 34-35.6 % so với 2007. ( Dự báo nhập khẩu 4 tháng cuối năm đạt 24.7-25.7 tỷ USD, giảm nhiều so với 8 tháng đầu năm. Mức nhập khẩu của tháng 9 có thể thấp hơn nhưng qu 4 sẽ cao hơn theo quy luật chung. ) Nếu giá xăng dầu xuống giá như 2007 kéo theo sự giảm giá của các mặt hàng khác thì nhập khẩu chỉ ở mức 82.5-83.5 tỷ USD.
Cân đối
Nhập siêu khoảng 20 tỷ USD tương đương 30.7- 31.2 % kim ngạch xuất khẩu.
Mức nhập siêu từ thị trường Trung Quốc vẫn là chủ yếu, ước tính khoảng 10-15 tỷ USD,tăng 10 % so với 2007,nhập siêu từ một số thị trường châu Á có xu hướng tăng so 2007 như Đài Loan, Hàn Quốc, Malaisia, Thái Lan, Indonesia Châu Á là thị trường nhạp khẩu cao nhất chiếm 78-80 %, khoảng 66-67 tỷ USD trong đó Trung Quốc chiếm 17-18 %, khoảng 14-15 tỷ USD.
Việc nhập siêu còn ở mức cao có nhiều nguyên nhân trong đó nổi lên là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thấp hơn nhập khẩu, do nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và đầu tư nước ngoài tăng; nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cho các công trình trọng điểm quốc gia cũng ở mức cao. Hầu hết các sản phẩm nhập khẩu đều tăng giá, đặc biệt là các sản phẩm có nguồn gốc từ dầu mỏ, do việc cắt giảm thuế quan và sức mua trong nước tiếp tục tăng cao cũng góp phần gia tăng nhập khẩu. Tỉ giá VND/USD trên thị trường đang hạ, nguồn cung USD tăng, lãi xuất vay USD từ các ngân hàng nước ngoài thấp; xuất khẩu trong nước phụ thuộc nhiều vào các nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Các yếu tố này tác động lớn dến nhập khẩu của năm nay.
c. Khả năng đạt kế hoạch 2008.
Sau hai năm gia nhập WTO, với việc thực hiện mạnh mẽ chủ chương đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng cả thị trường truyền thống và thị trường mới có nhiều tiềm năng. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh gấp rưỡi, gấp đôi tốc độ tăng trưởng kế hoạch đề ra. 2006 tăng 22.7 %, 2007 tăng 21.9 %, năm 2008 tăng 31.8-33.8 %. Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người đã đạt xấp xỉ mục tiêu kế hoạch 5 năm.
Khó khăn hiện nay là do sản xuất công nghiệp và xuất khẩu phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, trong điều kiện giá cả thế giối tăng cao, nhập siêu coa chiều hướng gia tăng. Trong 2007 tỷ lệ nhập siêu là 29 %, 2008 là trên 30 %. Gần đây nhập siêu giảm mạnh nhờ áp dụng các biện pháp kiềm chế nhập khẩu như tăng thuế, kiểm soát bằng các biện pháp phi thuế quan.
d. Giải pháp để đạt kế hoạch 2008.
Để thực hiện một cách suôn sẻ về kế hoạch đặt ra trong năm 2008, theo lý thuyết của Philip Kotler – cha đẻ của ngành Marketing thì cần có mặt hàng xuất khẩu mới, chất lượng và phong cách hàng mới. Rõ ràng, muốn chiến thắng trên thị trường, nhất là thị trường cũ, phải cạnh tranh với nhiều đối thủ, bạn phải tung ra được sản phẩm mới, mặt hàng mới. Việc đưa ra sản phầm mới hoặc cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm không những được thị trường chấp nhận mà còn dễ dàng né những hàng rào kỹ thuật bảo hộ của nước sở tại. Cuối cùng là phương cách bán hàng mới. Đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường mới. Đặc biệt là khai thác tối đa những ưu đãi từ các hiệp định thương mại cho đến nay ta đã tham gia nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương. Nhưng hầu như ra mới chỉ chú ý bảo vệ sân nhà mà chưa tìm cách khai thác các lợi thế để vào thị trường đối tác.
Để hoàn thành mục tiêu xuất khẩu năm 2008, Bộ Công thương đã đề ra 5 hướng chính nhằm tăng cường hoạt động xuất khẩu:
Một là, thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa, tăng giá trị hàng xuất khẩu đối với những mặt hàng truyền thống ít có khả năng tăng về lượng.
Hai là, tích cực mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, thiết bị sản xuất các mặt hàng có giá trị gia tăng cao, có khả năng giải quyết công ăn việc làm cho xã hội.
Ba là, nâng cao chất lượng xúc tiến thương mại, tìm kiếm mở rộng thị trường.
Bốn là, tập trung khai thác các thị trường xuất khẩu truyền thống, trọng điểm.
Năm là, đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ, tăng nguồn thu ngoại tệ và góp phần hạn chế nhập siêu.
Chương 3
Đánh Giá Khả Năng Thực Hiện Kế Hoạch 2009-2010 Và Một Số Giải Pháp Thực Hiện Cho Những Năm Tiếp Theo
I. Đánh Giá Khả Năng Thực Hiện Kế Hoạch 2009-2010.
1. Kế hoạch TMQT 2009-2010.
Mới đây, Chính phủ đặt ra chỉ tiêu năm 2009 cho ngành công thương phấn đấu là: mức tăng trưởng XK phải đạt 18%, tương đương với 75.5- 76.7 tỉ USD; SXCN đạt trên 16%, trong đó giá trị gia tăng phải đạt 8%. Xuất khẩu của các doanh ngiệp có vốn đầu tư rực tiếp từ nước ngoài là 30-31 tỷ USD. Tổng kim ngạch nhập khẩu là 96.6-97.8 tỷ USD, trong đó nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 39-40 tỷ USD.
Nhập siêu là 21.1 tỷ USD tương đương 27,5 % tổng kim ngạch xuất khẩu.
Bộ Thương mại đang xây dựng Đề án xuất khẩu 2006- 2010, theo đó, trong giai đoạn sắp tới, cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Tỷ trọng của các nhóm hàng nông- lâm- thuỷ sản và nhiên liệu- khoáng sản sẽ có xu hướng giảm dần và nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ sẽ có xu hướng tăng dần. Trong đó, nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản với hai mặt hàng chủ yếu là dầu thô và than đá giảm mạnh từ 21% năm 2006 xuống còn 9,6% năm 2010.
Kim ngạch xuất khẩu dầu thô sẽ bắt đầu giảm mạnh từ năm 2009 trở đi do sản lượng khai thác được sẽ dành một phần để phục vụ cho hoạt động của nhà máy lọc dầu trong nước. Theo kế hoạch dự kiến, lượng dầu thô xuất khẩu năm 2006 là 18,7 triệu tấn, năm 2007 là 19 triệu tấn, năm 2008 là 20 triệu tấn và bắt đầu giảm từ năm 2009 xuống còn 16 triệu tấn, năm 2010 còn 15,6 triệu tấn. Mức giá dự tính sẽ vẫn dao động ở mức cao, trung bình khoảng 54 USD/thùng (tương đương với khoảng 400 USD/tấn). Với mức giá dự tính này, năm 2006 dự kiến đạt gần 7,4 tỷ USD, năm 2007 hơn 7,5 tỷ USD, năm 2008 là 7,9 tỷ USD nhưng sang 2009 sẽ giảm xuống còn 6,3 tỷ USD vàn năm 2010 chỉ còn 6,1 tỷ USD.
Mặt hàng than đá, kim ngạch xuất khẩu cũng sẽ giảm dần do chủ trương hạn chế xuất khẩu tài nguyên của Nhà nước. Theo kế hoạch dự kiến, xuất khẩu than sẽ duy trì ở mức 11 triệu tấn trong năm 2006- 2007 và năm 2008 giảm xuống còn 10 triệu tấn, năm 2009 còn 9 triệu tấn và năm 2010 còn 8 triệu tấn. Mức giá bình quân dự tính đạt 35- 40 USD/tấn. Dự kiến năm 2006- 2007 sẽ đạt kim ngạch mỗi năm 447 triệu USD, năm 2008 bắt đầu giảm xuống 407 triệu USD, năm 2009 là 366 triệu USD, năm 2010 chỉ còn 325 triệu USD. Nhóm hàng duy nhất tăng trong các loại khoáng sản và nhiêu liệu là quặng và một số loại khoáng sản chế biến chủ yếu bao gồm các loại quặng sắt, đồng, bôxit nhôm. Hiện tại, các mặt hàng này có qui mô xuất khẩu khoảng 145 triệu USD và trong giai đoạn 2006- 2010 tăng bình quân 28,1%/năm và đạt khoảng 500 triệu USD vào năm 2010.
Cũng theo dự tính của Bộ Thương mại, nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản sẽ giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam từ 19,1% năm 2006 xuống còn 13,7% năm 2010. Nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tăng khá mạnh từ 45,9% năm 2006 lên 54,1% năm 2010. Bộ thương mại: dự kiến xuất khẩu dịch vụ đạt 12 tỷ USD vào năm 2010.
Theo Bộ Thương mại, xuất khẩu dịch vụ sẽ tăng trưởng cả về qui mô và tốc độ. Dự kiến xuất khẩu của khu vực dịch vụ trong giai đoạn 2006- 2010 đạt tốc độ bình quân 16,3%/năm và kim ngạch đạt 12 tỷ USD vào năm 2010. Trong đó, một số lĩnh vực có tốc độ tăng khá cao như: bảo hiểm tăng 29,3%/năm; bưu chính viễn thông tăng 24,5%/năm; tài chính tăng 22,4%/năm; vận tải biển tăng 21,5%/năm
Cụ thể, dịch vụ du lịch đạt khoảng 3,2 tỷ USD, xuất khẩu lao động đạt 3 tỷ USD, dịch vụ vận tải biển đạt 1,1 tỷ USD, dịch vụ vận tải hàng không đạt 950 triệu USD. Ngoài ra, một số dịch vụ khác như tài chính, bưu chính viễn thông, bảo hiểm có kim ngạch xuất khẩu đến năm 2010 đạt mức tương ứng là 550 triệu USD, 530 triệu USD và 470 triệu USD. Năm 2005, xuất khẩu dịch vụ đạt 5,65 tỷ USD, vượt 1,56 tỷ USD so với chỉ tiêu 4 tỷ USD đề ra trong chiến lược xuất khẩu.
2. Đánh giá các yếu tố tác động và khả năng thực hiện KH TMQT 2009-2010
2.1. Xuất khẩu.
a. Thuận lợi:
Việc gia nhập WTO đã tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn công nghệ, dịch vụ và nguồn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất, cũng như tiếp cận dễ dàng hơn các thị trường nước ngoài. Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp tăng, nhập khẩu thiết bị, nguyên liệu và công nghệ được mở rộng, quan hệ thương mại được mở rộng và đa dạng hóa, đặc biệt với những đối tác chiến lược của Việt Nam.
Ông Lê Đắc Sơn, Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc tế (VIBank), cho rằng có một cơ hội lớn là mặc dù kinh tế thế giới khủng hoảng, nhưng thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới là Trung Quốc đang bị mất uy tín, đó là thời cơ cho xuất khẩu VN.
Chiều 29/9, Bộ Công thương và Đại sứ quán Nhật Bản đã họp báo công bố kết thúc thỏa thuận nguyên tắc về Hiệp định đối tác kinh tế VN - Nhật Bản (EPA) sau 19 tháng đàm phán, dự kiến sẽ được hai bên ký kết vào cuối năm nay.
Theo EPA, hàng nông lâm thủy sản của VN vào Nhật Bàn sẽ được giảm 86% thuế, hàng công nghiệp giảm 97%. (Nhật Bản hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 của VN với kim ngạch thương mại hai chiều đạt 12 tỷ USD/năm, là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai và là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài quan trọng ).
Theo Vụ phó Vụ Quản lý ngoại hối, một tín hiệu tốt cho DN là mới đây Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có chỉ thị 05, trong đó yêu cầu kiểm soát tín dụng BĐS, đồng thời tích cực tăng tín dụng cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn, xuất khẩu.
Ông cho rằng tính thanh khoản của ngân hàng nay đã tốt, tiền gửi tiết kiệm tăng đáng kể, điều kiện hỗ trợ DN đã tốt hơn trước. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước xây dựng tỷ giá với chủ trương chấp nhận mất giá một chút để hỗ trợ xuất khẩu.
Theo Tổng giám đốc VIBank, ngoại tệ biến động phức tạp, lãi suất ngoại tệ và USD có xu hướng sẽ tăng, vốn ngoại tệ bị ảnh hưởng, khả năng tiếp cận của DN sẽ khó khăn. Tuy nhiên, lãi suất đồng nội tệ khá bình ổn, là điều kiện thuận lợi để hỗ trợ DN.
b. Khó khăn.
Các tác động của việc gia nhập WTO
Ngay sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã xóa bỏ trợ cấp trực tiếp đối với xuất khẩu hàng nông sản và một số loại trợ cấp trong các ngành công nghiệp.
Xuất khẩu chứa đựng một số yếu tố không bền vững và dễ bị tổn thương trước những cú sốc từ bên ngoài. Rủi ro có thể tăng trong bối cảnh giá quốc tế của nhiều mặt hàng thường xuyên biến động, có nhiều hàng rào kỹ thuật hơn và sự thay đổi về cơ chế giám sát hoặc chính sách của các thị trường chính đối với xuất khẩu của Việt Nam. Những lợi thế cạnh tranh của một số mặt hàng có thể bị giảm sút, do đó những ngành này có thể gặp phải những khó khăn trong xuất khẩu và cả trong sản xuất.
Khi gia nhập WTO, Việt Nam bị coi là nền kinh tế “phi thị trường” trong một thời hạn tối đa là 12 năm hoặc không muộn hơn thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2018. Chừng nào Việt Nam còn bị coi là nền kinh tế “phi thị trường”, thì Việt Nam vẫn phải đối mặt với những điều kiện không thuận lợi trong các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp. Nhiều sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Hoa Kỳ và Châu Âu (như thủy sản, dệt may và giầy dép..) dễ trở thành đối tượng của những vụ kiện chống bán phá giá và do đó bị buộc vào thế bất lợi.
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ được cho là sẽ tác động trực tiếp tới tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam.
Khủng hoảng tài chính xuất phát từ Hoa Kỳ dẫn đến toàn cầu tác động đến nền kinh tế Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ chịu tác động trực tiếp nhất và nhanh nhất.
Hiệp hội Chế biến thủy sản cho biết, Mỹ đang thắt chặt tín dụng nên nhà nhập khẩu phải bán xong mới trả tiền cho DN Việt Nam. Vì vậy DN Việt Nam không có vốn để tiếp tục sản xuất. Và nếu tình trạng này không được cải thiện thì sẽ vô cùng khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam vì Mỹ là thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, thì kinh tế Mỹ có thể phải tới cuối năm 2010 mới phục hồi, người tiêu dùng Mỹ sẽ phải cắt giảm chi tiêu, kéo theo cầu nhập khẩu hàng hóa sẽ giảm, vì vậy, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ khó có thể đạt mức 30%/năm như trong thời gian qua, mà chỉ đạt khoảng 20% trong giai đoạn 2009 - 2010.
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ còn tác động gián tiếp đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU và Nhật Bản - hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Người tiêu dùng tại các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, nên nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng sẽ có xu hướng giảm.
Cộng thêm những khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, do tín dụng thắt chặt, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khiến giá thành sản xuất cao, hàng hóa khó cạnh tranh, thì xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới chắc chắn sẽ chịu những ảnh hưởng tiêu cực.
Theo phân tích của Vụ XNK, năm 2008 sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và toàn cầu đối với nước ta chưa nhiều, nhưng sang năm 2009 chắc chắn những hệ lụy của nó sẽ tác động mạnh hơn tới sản xuất, XNK và đầu tư của Việt Nam. Một số mặt hàng liên quan đến lĩnh vực vật liệu xây dựng, sản phẩm gỗ và công nghiệp chế biến sẽ là những đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất trong những tháng cuối năm 2008 và nó được dự báo là sẽ bị thâm hụt hơn nữa trong năm 2009 do giá hàng hóa sẽ giảm, trong khi giá nguyên liệu sản xuất không giảm.
Trong nước, những khó khăn nội tại cũng góp phần làm nên khó khăn cho xuất khẩu. Tình trạng thiếu nhân công, cúp điện, ách tắc cảng, thủ tục còn nhiêu khê vẫn xảy ra thường xuyên.
Xăng dầu thế giới đã giảm nhưng trong nước không giảm, giá vận chuyển vẫn còn cao, là những ngáng trở lớn. Và khó khăn tín dụng, lãi suất còn cao, vẫn là những vấn đề chưa gỡ được.
Lợi thế về sản lượng và tăng giá cho XK của nhóm mặt hàng nông lâm thủy hải sản chắc chắn không còn nữa. Sau khi lập kỷ lục về giá, nhiều mặt hàng có dấu hiệu chững lại và giảm sút. Ví dụ, mặt hàng gạo, tuy năm 2009 có tăng thêm 1- 2 triệu tấn về sản lượng, nhưng do giá lương thực trên thế giới đã từng bước ổn định nên khả năng tăng cao về kim ngạch là không còn. Những mặt hàng thủy sản, cà phê, hạt điều, hạt tiêu... giá XK đều đã chạm ngưỡng, nên không có cơ sở tăng về sản lượng. Vụ Công nghiệp nhẹ Bộ Công Thương cũng tỏ quan ngại về việc giá một số mặt hàng trong lĩnh vực này như dệt may, da giày... đã bắt đầu giảm và xu hướng sẽ giảm mạnh hơn trong năm 2009. Đặc biệt là mặt hàng dầu thô, theo Vụ Năng lượng Bộ Công Thương, từ năm 2009 đến năm 2012, sản lượng khai thác sẽ giảm mỗi năm khoảng 1 triệu tấn. Cộng thêm sẽ có khoảng 3- 4 triệu tấn dành cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất nên sản lượng dành cho XK giảm đáng kể. Đã vậy, giá dầu thô dự báo sẽ dần trở về giá trị thực của nó, chỉ còn khoảng 80 USD/thùng, do đó kim ngạch từ XK dầu thô không còn là chỗ để “bù” vào những khoản thâm hụt khác...
Dự báo nhu cầu đồ gỗ gia dụng sẽ giảm mạnh. chưa kể đến những khó khăn như tắc đường, tắc cảng làm đội chi phí lên, rồi những yêu cầu ngày càng khắt khe về vấn đề môi trường, hiện tại các doanh nghiệp ngành gỗ còn phải đối mặt với khó khăn chung là vốn tín dụng quá cao. Chẳng hạn ngành chế biến gỗ, 80% nguyên liệu phải nhập từ Indonesia, Malaysia, Brazil Trong khi đó, cước vận chuyển hàng hóa tăng đến 40%. Hiệp hội Gỗ - Lâm sản Việt Nam cũng cho biết, 9 tháng ngành gỗ xuất khẩu hơn 2 tỷ USD, mục tiêu 3 tỷ năm 2008 có khả năng đạt được, nhưng dự kiến năm 2009 cũng chỉ đạt 3 tỉ.
Đối với ngành dệt may, Bộ Công thương nhận định, các thị trường trọng điểm vẫn là Mỹ, EU, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc Dù khó khăn, nhưng Bộ vẫn dự kiến kim ngạch xuất khẩu của ngành này năm 2009 sẽ đạt 11.5 tỷ USD, tăng 21% so với năm nay. Tuy nhiên, ông Phạm Xuân Hồng, Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam e ngại, chỉ tiêu tăng trưởng 21% hơi cao so với con số 15% mà Hiệp hội đưa ra. Bởi năm 2009, xu hướng thị trường sẽ chuyển sang các sản phẩm bậc trung và thấp, sản phẩm giá cao sẽ khó bán hơn.
Ngành thủy sản xuất khẩu 3,335 tỷ USD, tăng 23,7%. Dự báo chỉ tiêu cả năm 2008 là 4,2 tỷ có thể đạt được, song mục tiêu 5,3 tỷ USD của năm 2009 là khó đạt.Thuộc nhóm có tỷ trọng sẽ giảm từ 20,7% năm 2008 xuống 18,3% năm 2009, đại diện Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam nhận định, năm 2009 cũng sẽ là năm khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam vì sẽ phải cạnh tranh gay gắt với thủy sản Thái Lan khi xuất khẩu vào Hàn Quốc. Bởi Chính phủ Thái Lan vừa ký Hiệp định song phương với Hàn Quốc, trong đó một số mặt hàng thủy sản của Thái Lan khi xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc sẽ được hưởng thuế suất 0%; trong khi sản phẩm thủy sản của Việt Nam vào nước này đang chịu thuế suất 15 - 20%. Đó là chưa kể đến những khó khăn trong nước mà các doanh nghiệp ngành này đang phải đối mặt như: thiếu hụt lao động trầm trọng, cước phí vận tải tăng mạnh...
Vụ Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương dự kiến, cơ cấu xuất khẩu vào các thị trường của Việt Nam có sự thay đổi. Thị trường chủ lực là châu Á có tỷ trọng giảm nhẹ, từ 42,5% năm 2008 xuống 42,4% năm 2009; tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường châu Phi cũng giảm, từ 4,9% năm 2008 xuống còn 4,8% năm 2009; thị trường châu Đại dương không tăng, trong khi xuất khẩu vào châu Mỹ tăng cũng không mạnh, từ mức 24,5% năm 2008 lên 24,9% năm 2009.
Mặt khác, khi hàng hóa của các nước (chủ yếu là các nước ASEAN và Trung Quốc) không bán được ở thị trường trên sẽ quay lại chính thị trường nội địa, điều này khiến các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam không chỉ khó khăn ở thị trường Mỹ, mà sẽ còn vất vả hơn khi tiếp cận thị trường Trung Quốc và khu vực ASEAN.
Hầu hết các chuyên gia kin tế đều cho rằng phải rất nỗ lực mới đạt được mục tiêu xuất khẩu 2008.Kết quả không phấn khởi như 2008, năm 2009 sẽ càng khó khăn.
2.2. Nhập khẩu.
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới:
Suy thoái kinh tế có thể làm giảm xuất khẩu, do đó cũng làm giảm nhập khẩu do chúng ta phâỉ nhập khẩu 70-80% nguyên liệu để làm hàng xuất khẩu
Suy thoái kinh tế cũng làm cho giá nguyên vật liệu giảm mạnh ( sự sụt giảm của giá dầu mỏ, các sản phẩm hoá dầu, phôi thép xây dựng và các thiết bị công nghiệp cũng sẽ giảm mạnh ). Trong năm 2009, chúng ta vãn ưu tiên kiềm chế lạm phát, lãi xuất ngân hàng dù có được điều chỉnh vẫn ở mức cao, đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước vẫn phải được kiểm soát chặt chẽ.
F Kim ngạch nhập khẩu có thể sẽ giảm đi
Giai đoạn 2009-2010, việc nhập khẩu các mặt hàng xăng dầu, phâm Urê, phôi thép, nguyên phụ liệu may, giầy dépsẽ giảm dần lượng nhập khẩu do tăng khả năng sản xuất trong nước:
Năm 2009, nhà máy lọc dầu Dung Quất dự kiến sẽ hoàn thành với công suất 140000 thùng/ngày.
Đầu năm 2009, cả nước sẽ có thêm 2 nhà máy sản xuất phân đạm Ninh Bình và Cà Mau với công suất 560 nghìn tấn và 760 nghìn tấn. Dự tính đến 2010 sản lượng Urê sản xuất trong nước có thể đạt trên 2 triệu tấn/năm, thay thế hoàn toàn cho việc nhập khẩu hiện nay.
Giá phôi thép nhạp khẩu cao, nên việc sản xuất thép từ phế liệu sẽ rẻ hơn nhiều. Hiện nay, Việt Nam có 25 lò điện đã sản xuất hoặc đang sản xuất có công xuất 4.5 tr tấn/năm, có 7 lò đang xây dựng và sẽ đi vào hoạt động trong năm 2009-2010. Điều này sẽ giảm lượng phôi thép nhập khẩu.
è Điều này sẽ góp phần làm giảm kim ngạch nhập khẩu của các nhóm ngành này trong nền kinh tế.
Khả năng sản xuất trong nước tăng lên nhưng khi gia nhập WTO, theo lộ trình cam kết, thuế xuất, thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng sẽ giảm đi theo lộ trình. Thuế thuốc trừ sâu, phan bón, thức ăn chăn nuôi gia súccũng sẽ giảm mạnh từ 2009-2010. HÀng hoá nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam mạnh hơn, nhiều hơn. Vì vậy nếu hàng của Việt Nam không đủ sức cạnh tranh sẽ rất khó khăn dẫn đến nhập khẩu nhiều hơn.
II. Các Giải Pháp Thực Hiện Cho Những Năm Tiếp Theo.
Nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả và chất lượng sản phẩm hàng hoá , dịch vụ. từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất .Bảo vệ và khuyếch trương thương hiệu riêng của từng doanh nghiệp trên thị trường ,Đổi mới phương thức tiếp thị quản lý bán hàng. Mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng cho mình hệ thống phân phối sản phẩm hợp lý, tham gia vào các kênh phân phối của các tập đoàn xuyện quốc gia. Phát triển hình thức thương mại điện tử, sử dụng Internet để tìm kiếm thông tin và thị trường nước ngoài.
Phát triển thị trường trên cơ sở phát triển mạnh xúc tiến thương mại, thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực mở rộng thị trường, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ với các đối tác Coi trọng công tác quảng bá mở rộng thị trường. Chú trọng công tác thông tin dự báo phân tích thị trường, diễn biến giá cả của những mặt hàng chủ lực. Xây dựng mạng lưới khách hàng ổn định nhất là những khách hàng lớn để qua đó thâm nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Tạo lập thị trường ổn định cho các hàng xuất khẩu theo hướng củng cố thị phần ở những thị trường truyền thống và khai thác nhiều thị trường tiềm năng; tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện còn chiếm tỷ trọng thấp; mở các thị trường mới.
Hướng dẫn và hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển thương hiệu và đăng ký thương hiệu hàng hoá. Hỗ trợ cho doanh nghiệp xử lý các vấn đề khó khăn trong quá trình hội nhập đưa lại nhưng không duy trì những biện pháp bảo hộ bất hợp lý . Xử lý có hiệu quả các vấn đề phát sinh trong quá trình hội nhập để giảm thiểu những hoạt đông tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ trong thời gian tới Tạo lập thị trường ổn định cho các hàng xuất khẩu theo hướng củng cố thị phần ở những thị trường truyền thống và khai thác nhiều thị trường tiềm năng. Chú trọng cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư vào lĩnh vực chế biến hàng xuất khẩu. Tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan lý nhà nước-hiệp hội ngành hành-doanh nghiệp.
Hoàn thiện cơ chế chính sách xuất nhập khẩu, Xây dựng và hoàn thiện pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế. Ưu tiên xây dựng văn bản pháp luật và các thiết chế cần thiết nhằm bảo vệ nền kinh tế trong quá trình hội nhập. Tận dụng những điều kiện thuận lợi, phát huy lợi thế, hạn chế những tác động bất lợi trong hội nhập để tăng cường thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từng bước nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu thông qua việc hoàn thiện toàn bộ hệ thống thuế, phí, theo hướng khuyến khích xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích sử dụng các nguyên liệu vật tư, sản phẩm công nghiệp sản xuất trong nước cho nhu cầu sản xuất nói chung và sản xuất hàng xuất khẩu. Tạo điều kiện thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu:tăng sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Đồng thời kiên quyết chống hàng lậu, hàng giả, hàng nhái nhãn mác.
Phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành trung ương, giữa trung ương với địa phương, giữa nhà nước với doanh nghiệp trong việc tổ chức thực hiện các cam kết. Tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy các hoạt động hợp tác giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước .Khuyến khích thành lập các tổ chức tư vấn pháp lý ,xúc tiến thương mại và đầu tư, tìm kiếm thị trường mới ,nghiên cứu sản phẩm mới.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế về thương mại, đầu tư dịch vụ và các lĩnh vực kinh tế khác. Đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế - thương mại quốc tế toàn diện khi đã gia nhập WTO.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5969.doc