Cần tập trung mọi nỗ lực sớm cụ thể hoá những quy định pháp luật và xem xét tính hợp lý của một số chỉ tiêu về môi trường, nâng cao hiệu lực của Luật bảo vệ môi trường. Các có quan quản lý cần cung cấp thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp nước ngoài và tư vấn cho doanh nghiệp về thực thi luật môi trường. Hạn chế việc gây khó khăn cho doanh nghiệp một cách không hợp lý khi thực hiện công tác quản lý môi trường. Hạn chế sự đối xử không bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài trong quá trình thực thi pháp luật.
Hình thành một hệ thống tổ chức quản lý môi trường khu công nghiệp thống nhất, đồng bộ, phù hợp với hoạt động của khu công nghiệp, nhằm giảm thiểu những nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và tạo ra những lợi thế trong việc sử dụng những sản phẩm phụ hoặc chất thải, tạo thành hệ sinh thái công nghiệp.
18 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1663 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá những hạn chế của chính sách đầu tư nước của Việt Nam và giải pháp hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong gần 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu khá thuyết phục về kinh tế xã hội. Hơn một thập kỷ qua, Việt Nam luôn được xếp vào nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời có thành tích giảm nghèo nhanh nhất thế giới.
Thành tựu trên đây là dấu hiệu tốt của quá trình chuyển đổi kinh tế và là kết quả của các chính sách mà Việt Nam đã và đang thực hiện trước những thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là xu thế toàn cầu hoá. Ngay từ cuối thập kỷ 80, Việt Nam đã thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế thế giới, bắt đầu bằng việc thông qua Luật đầu tư nước ngoài vào năm 1987, tiến hành kí kết hiệp định thương mại song phương và đa phương, gần đây nhất là Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN từ năm 1995, của APEC năm 1998, tham gia diễn đàn kinh tế á-Âu (ASEM) vào năm 2001 và gia nhập WTO vào năm 2006.
Bên cạnh mở cửa cho thương mại, cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, Việt Nam đã và đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư, trước hết là khuôn khổ pháp luật nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam đã ký hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 45 nước và cùng lãnh thổ, trong đó phạm vi điều chỉnh của hiệp định đều mở rộng hơn so với quy định hiện hành của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam đã đem lại những kết quả đáng khích lệ về thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng Việt Nam vẫn chưa tận dụng tối ưu có hội thu hút vốn đầu tư, chưa tối đa hoá được lợi ích mà đầu tư nước ngoài có thể mang lại. Điều này thể hiện qua tỷ lệ vốn ĐTNN thực hiện so với đăng ký còn thấp tập trung trong một số ngành vùng, khả năng tuyển dụng lao động còn khiêm tốn. Phần lớn các dự án có qui mô nhỏ, công nghệ sử dụng chủ yếu có nguồn gốc từ Châu á, đạt mức trung bình, đặc biệt là Việt Nam chưa được chọn là điểm đầu tư của phần lớn các Công ty đa quốc gia có tiềm năng lớn về công nghệ và sẵn sàng chuyển giao công nghệ và tri thức.
Do đó em lựa chọn đề tài: “Đánh giá những hạn chế của chính sách đầu tư nước của Việt Nam và giải pháp hoàn thiện”. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FPI).
Bố cục đề tài được chia làm 3 chương100
Chương I: Lý luận chung về đầu tư nước ngoài
Chương II: Tổng quan về chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam
Chương III: Giải pháp hoàn thiện chính sách đầu tư nước ngoài.
Chương I
Lý luận chung về đầu tư nước ngoài
Đầu tư quốc tế bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FPI). Trong đó, FDI quan trọng hơn nhiều cho dù FPI có xu hướng tăng lên.
I. Đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp là loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia, trong đó người sở hữu vốn không trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Thực chất FPI là loại hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư không trực tiếp chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Chủ đầu tư chỉ được hưởng lãi suất theo tỉ lệ công bố trước của số vốn mà họ góp thông qua một đối tác nhất định ở nước khác. Các hình thức FPI thường là: đầu tư trái khoán và viện trợ nước ngoài.
Đầu tư trái khoán là hình thức đầu tư tài sản vào lĩnh vực thuần tuý tài chính như cổ phiếu va trái phiếu.
Đầu tư trái phiếu có nghĩa là nhà đầu tư mua trái phiếu của chính phủ hoặc một công ty hàng đầu trong một nước phát hành. Thực chất của đầu tư trái phiếu là nhà đầu tư cho tổ chức hoặc quốc gia phát hành trái phiếu vay một lượng vốn nhất định, sau đó nhận đủ gía trị danh nghĩa của trái phiếu vào một thời điểm cho trước, cộng với tỷ lệ lãi suất của vốn cho vay theo tỷ lệ lãi suất công bố trước.
Đầu tư cổ phiếu có nghĩa là các nhà đầu tư mua cổ phần của các công ty theo tỷ lệ thấp, thường từ 10 đến 25% vốn pháp định. Thực chất của đầu tư cổ phiếu là người nắm cổ phiếu trong tay đã thực sự trở thành chủ đầu tư và hưởng lợi tức cổ phần theo hiệu quả mà công ty phát hành cổ phiếu đạt được. Lợi tức cổ phần có thể cao hơn hoặc thấp hơn lãi suất cho vay, thậm chí giá trị của những cổ phần này cũng bị thả nổi tuỳ theo tình hình kinh doanh của công ty phát hành.
Viện trợ nươc ngoài là hình thức hỗ trợ phát triển của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ có tính chất song phương hoặc đa phương. Viện trợ nước ngoài song phương hoặc đa phương còn gọi là hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các khoản tiền mà các cơ quan, Chính phủ viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay theo điều khoản tài chính ưu đãi.
Nói về vai trò của viện trợ, các nhà phê bình của tất cả các phái đều khẳng định rằng viện trợ không có hiệu quả. Nó không thực hiện được điều mà người ta định cho nó làm. Tuy nhiên trong thực tế vẫn luôn luôn có viện trợ.
Viện trợ nước ngoài thường vì quyền lợi bản thân quốc gia. Viện trợ kinh tế hay quân sự, đều có thể được sử dụng vào các mục đích chiến lược như để củng cố liên minh là các nước đang phát triển, để che chắn chống đỡ cho các căn cứ phòng thủ của các nước viện trợ, để giúp nước viện trợ dễ dàng đi tiếp cận vật tư chiến lược và để giữ cho liên minh các nước đang phát triển không thay đổi phe phái trong cuộc đấu tranh chính trị quốc tế.
Viện trợ ràng buộc là vì nó ngăn chặn không cho nước nhận viện trợ sử dụng khoản viện trợ ra ngoài nước nhận viện trợ, nên thực tế khoản viện trợ thường ít hơn mệnh giá của nó. Trong một số trường hợp, viện trợ bị ràng buộc phải nhập khẩu thiết bị bao hàm nhiều vốn, làm giảm việc làm ở nước tiếp nhận viện trợ.
Một số hình thức viện trợ khác được thực hiện vì lý do nhân đạo. Nhưng thực tế khó mà tách được các động cơ nhân đạo ra khỏi việc mưu cầu vụ lợi trong việc duy trì một hệ thống chính trị toàn cầu ổn định. Các nước giàu quan tâm đến việc theo đuổi một trật tự thế giới, tránh được chiến tranh, tránh được áp lực gay gắt về dân số thế giới cùng các nạn đói tràn lan, cạn kiệt tài nguyên, xuống cấp mối trường và sự sụp đổ về tài chính. Viện trợ kinh tế là một mặt của màn kịch đó.
Đặc điểm của đầu tư gián tiếp:
Nhà đầu tư không kiểm soát được hoạt động kinh doanh
Nếu là vốn của các tổ chức quốc tế thì thường đi kèm với các điều kiện ưu đãi và gắn chặt với thái độ chính trị của Chính phủ và các tổ chức kinh tế quốc tế khác. Nếu là vốn của tư nhân thì bị hạn chế tỷ lệ vốn góp theo Luật đầu tư của nước sở tại
Chủ đầu tư nước ngoài kiếm lời qua lợi tức cổ phần hay lãi suất cho vay.
Độ rủi ro thấp.
Loại hình đầu tư gián tiếp có những ưu điểm và nhuợc điểm như sau:
ưu điểm:
Quốc gia sở tại được chủ động trong bố trí cơ cấu vốn đầu tư và chủ động sử dụng vốn.
Vốn đầu tư được phân tán trong vô số những ngưòi mua cổ phiếu, trái phiếu và đưa đến các địa chỉ khác nhau. Chủ đầu tư có thể phân tán được rủi ro trong kinh doanh.
Phần lớn các khoản vốn vay ưu đãi và viện trợ nên thời gian sử dụng dài, lãi suất rất thấp, khối lượng vốn lớn, nên được dùng vào các công trình cần nhiều vốn như xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng tạo điều kiện và môi trường nhằm thu hút có hiệu quả vốn FDI.
Nhược điểm:
Hạn chế khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vì tỷ lệ vốn góp bị hạn chế.
Hiệu quả sử dụng vốn thường không cao do các nước nhận viện trợ đa phần là các nước đang hoặc kém phát triển nên kinh nghiệm và trình độ sử dụng vốn đầu tư còn hạn chế.
Dù là vốn ưu đãi nhưng vẫn phải trả nợ nên dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài quá lớn, thậm chí có nước không có khả năng trả nợ.
Đầu tư gián tiếp hạn chế khả năng tiếp thu kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ các chủ đầu tư nước ngoài.
Các quốc gia sở tại dễ bị các chủ nợ trói buộc vào vòng ảnh hưởng chính trị của họ.
II. Đầu tư trực tiếp.
Đầu tư trực tiếp là loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Về thực chất FDI là lọai hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư bỏ vốn để xây dựng hoặc mua phần lớn, thậm chí toàn bộ các cơ sở kinh doanh ở nước ngoài để là chủ sở hữu toàn bộ hay từng phần cơ sở đó và trực tiếp quản lý điều hành hoặc tham gia quản lý điều hành hoạt động của đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. đồng thời họ cũng chịu trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quả sản xuất kinh doanh của dự án.
FDI thường được thực hiện thông qua các hình thức tuỳ theo yêu cầu của Luật đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Các hình thức FDI được áp dụng trên thế giới thường là: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, buôn bán đối ứng, hợp đồng cấp giấy phép công nghệ ...Các hình thức FDI này có thể được thực hiện tại các khu vực đầu tư đặc biệt có yếu tố quốc tế như: khu chế xuất, khu công nghệ tập trung, đặc khu kinh tế...Tuỳ thuộc điều kiện cụ thể và từng lĩnh vực mà các quốc gia lựa chọn và thành lập các khu vực đầu tư nước ngoài phù hợp trong đó thu hút các hình thức FDI khác nhau. Chắc chắn sẽ có nhiều hình thức cụ thể ra đời để đáp ứng nhu cầu và khả năng thu hút FDI của quốc gia.
FDI có các đặc điểm sau:
Tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định của dự án đạt mức độ tối thiểu tuỳ theo Luật đầu tư của nước sở tại
Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý và điều hành dự án mà họ bỏ vốn đầu tư. Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp của chủ đầu tư trong vốn pháp định của dự án. Nếu doanh nghiệp góp 100% vốn trong vốn pháp định thì doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài.
Kết quả thu được tư hoạt động kinh doanh của dự án được phân chia cho các bên theo tỷ lệ vốn góp vào vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần (nếu có).
FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sáp nhập các doanh nghiệp với nhau.
Chương II
Tổng quan về chính sách đầu tư nước ngoài
của Việt Nam
Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong gần 20 năm qua đã không ngừng được hoàn thiện từng bước theo hướng thu hẹp khoảng cách giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tiến tơí xây dựng một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh chung thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Trọng tâm là mở rộng quyền chủ động cho doanh nghiệp, đa dạng hóa các hình thức đầu tư và mở rộng các lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trước năm 2000 vấn đề nay chưa được chú ý đầy đủ nhưng gần đây đã trở thành một xu hướng để hoàn thiện chính sách và môi trường đầu tư, trước hết là trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Trên thực tế đã chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả, bước đầu là thống nhất các chế độ về thuế, XNK và gần đây là quy định về doanh nghiệp và đầu tư, bao gồm việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp năm 2005 đã hình thành được một khung pháp lý thống nhất cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Luật đầu tư 2005 bảo đảm sự bình đẳng về điều kiện đầu tư kinh doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
A. Tác động tích cực của chính sách đầu tư nước ngoài
I. Tình hình thu hút FDI
Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành (1998) đến hết ngày 28/02/2006, Việt Nam đã thu hút được trên 6.090 dự án với mức vốn đăng kí đạt hơn 52,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 28 tỷ USD. Các doanh nghiệp FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, trở thành một thành phần kinh tế trong hệ thống kinh tế quốc dân.
Khu vực đầu tư nước ngoài đã trở thành bộ phận hữu cơ năng động của nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Đầu tư nước ngoài đóng góp tới 27% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí), 33% giá trị sản xuất công nghiệp, 22% vốn đầu tư xã hội và hơn 14% GDP của cả nước, tạo thêm việc làm cho 80 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác.
Khu vực FDI đã làm tăng khả năng cung ứng hàng hoá cho thị trường, giảm nhu cầu hàng hoá nhập khẩu cần thiết, góp phần bình ổn thị trường, nâng cao đời sống xã hội. Mức đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài vào ngân sách ngày càng gia tăng về giá trị tuyệt đối và tương đối, tạo khả năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi. Trong thời gian vừa qua, dòng ngoại tệ vào Việt Nam thông qua FDI vẫn lớn hơn rất nhiều so với dòng ngoại tệ từ Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, cộng thêm việc mở rộng nguồn thu gián tiếp từ FDI (qua khách thăm quan, tìm hiểu cơ hội đầu tư, tiền cho thuê đất, tiền lương cho lao động thuộc khu vực đầu tư nước ngoài, tiền cung cấp nguyên vật liệu địa phương và các dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ khác) đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán đất nước.
Mặc dù phần lớn doanh nghiệp FDI đang trong thời kì hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, nhưng nguồn thu ngân sách từ khu vực FDI liên tục tăng, bình quân chiếm từ 7-8% nguồn thu ngân sách.
Chỉ tính riêng trong 5 năm gần đây (2001-2005), các dự án ĐTNN đã đạt doanh thu khoảng 74.061 tỷ USD. Xuất khẩu khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng bình quân 20%/năm, đã làm tỷ trọng khu vực kinh tế này trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước tăng liên tục trong các năm qua. Chính vì vậy, cần phải khuyến khích các dự án ĐTNN hoàn thành đưa vào sử dụng, vì những dự án này mang lại lợi ích lớn hơn về kinh tế cho đất nước, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, rút ngắn được tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hiện nay các doanh nghiệp ĐTNN đang hoạt động có hiệu quả và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Chỉ riêng trong năm 2005 đã đạt tổng doanh thu khoảng 18 tỷ USD, ngang bằng với năm 2004. Hơn nữa cả vốn và lao động đều được bồi bổ thêm đáng kể. Cụ thể là năm 2005, khu vực kinh tế ĐTNN đã thực hiện được 6.338 tỷ USD vốn đầu tư, tăng trên 50% so với năm 2004.
Nhờ hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh được tăng cao hơn mà trong năm 2005, chủ đầu tư của 607 dự án trong khu vực ĐTNN đã đề nghị và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho tăng thêm vốn để mở rộng quy mô hoạt động, với tổng số vốn đầu tư tăng thêm 2.070 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm trước. Điều đó cho thấy, nhiều nhà ĐTNN muốn làm ăn lâu dài ở Việt Nam.
Theo báo cáo của Bộ KHĐT, trong 5 tháng đầu năm nay, cả nước đã thu hút thêm 2.412 tỷ USD vốn đầu tư đăng kí mới, bao gồm cả vốn đầu tư đăng kí mới, bao gồm cả vốn bổ sung của những dự án cũ. Trong đó phần cấp mới giấy phép có 281 dự án, với tổng vốn đăng kí trên 2 tỷ USD, tăng 8,5% về số dự án và tăng 19,5% về vốn so với cùng kỳ năm trước. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 74,3% số dự án và 66,1% tổng vốn đăng kí mới; lĩnh vực dịch vụ chiếm tương ứng là 21,1% và 33,4%; phần còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-thuỷ sản. Đáng chú ý là, trong số dự án mới cấp phép không chỉ có một số dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, mà còn gắn liền với việc chuyển giao công nghệ cao như dự án của tập đoàn Intel 605 triệu USD.
Doanh thu của các doanh nghiệp FDI trong tháng 5/2006 ước đạt 2,55 tỷ USD, đưa tổng doanh thu của khu vực FDI trong 5 tháng đầu năm 2006 lên 9,8 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2005. Trong 5 tháng đầu năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ cao, đạt 18% so với cùng kỳ năm trước, vượt trội so với mức tăng trưởng chung 15,9% của toàn ngành công nghiệp. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp FDI trong 5 tháng đầu năm 2006 tăng 29,5% so với cùng kỳ năm trước, vượt trội so với mức tăng chung của cả nước là 24,3%.
Sau một năm, kể từ tháng 5 năm 2005 đến nay, không kể dầu khí, tỷ trọng của doanh nghiệp FDI trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng từ 28,9% lên đến gần 30,3%; đồng thời tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước cũng tăng từ 32,76% lên 35,77%. Mặt khác tổng số lao động trực tiếp trong khu vực FDI đã gia tăng từ 819.000 người ở thời điểm cuối tháng 5 năm 2005 lên 1.057.000 người hiện nay.
Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, xu hướng dòng vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục phục hồi và tăng trưởng. Các vùng trọng điểm kinh tế vẫn là đầu tàu trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, làm động lực phát triển kinh tế của nước ta, tạo sức lan toả của đầu tư nước ngoài sang những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn.
Với môi trường kinh doanh từng bước được cải thiện, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển, thể hiện ở các chỉ tiêu vốn thực hiện, doanh thu, xuất khẩu và nộp ngân sách nhà nước ngày càng tăng.
Cơ cấu đầu tư nước ngoài trong năm nay đã có sự chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng của lĩnh vực dịch vụ, chỉ tính riêng năm 2005 (tính đến 20/12/2005), số dự án ĐTNN đầu tư vào ngành dịch vụ cấp mới là 193 dự án chiếm 24,19% với tổng vốn đầu tư gần 1,5 tỷ USD và 50 dự án tăng vốn chiếm 9,77% với tổng vốn tăng thêm gần 228 triệu USD.
II.Tình hình thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
Giai đoạn 1 (1988-1997): là thời kỳ mở đầu cho dòng vốn FPI vào Việt nam theo xu hướng đổi mới và mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài diễn ra trong phạm vi cả nước và tạo động lực, hy vọng chung cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn này, ở Việt Nam đã có 7 Quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập với tổng số vốn được huy động khoảng 400 triệu USD.
Giai đoạn 2 (1998-2002): là thời kỳ khủng hoảng và hậu tài chính-tiền tệ Châu á khiến các dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài đổ vào Châu á bị chững lại và Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng chung của xu hướng này với việc giảm sút và thu hẹp đáng kể quy mô thu hút cả FDI và FPI. Trong số 7 Quỹ đầu tư trên có 5 Quỹ rút khỏi Việt nam, 1 Quỹ thu hẹp trên 90% quy mô quỹ.
Giai đoạn 3 (từ 2003-nay): là thời kỳ phục hồi trở lại của dòng vốn FPI vào Việt Nam cùng với xu hướng tăng cường cải thiện môi trường đầu tư, phát triển các định chế thị trường tài chính, trong đó có lập sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh tháng 7-2000 và thị trường chứng khoán Hà Nội tháng 3-2005, đặc biệt chủ trương và quyết tâm của Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hóa và nới lỏng tỷ lệ giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong số các doanh nghiệp nhà nước lớn được cổ phần hoá (từ 30% lên 49%). Tính đến tháng 6-2006, cả nước có 19 Quỹ đầu tư nước ngoài với tổng số vốn 1,9 tỷ USD đang hoạt động ở Việt Nam. Tổng cộng đến nay, FPI mà Việt nam thu hút được bằng khoảng 2-3% so với tổng vốn FDI đã thu hút được trong cùng thời kỳ (so với tỷ lệ trung bình 30-40% của các nước trong cùng khu vực thì đây là một tỷ lệ thấp). Tuy nhiên có thể cảm nhận khá rõ rệt và xác đáng những triển vọng sáng sủa của dòng FPI đổ vào Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt từ sau khi Việt Nam triển khai các cam kết hội nhập WTO và thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động trong lĩnh vực độc quyền hoặc gần như độc quyền hiện nay.
Tác động tích cực của FPI
- Trực tiếp làm làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư trực tiếp xã hội. Dòng vốn FPI khi đổ vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng lượng FPI trên thị trường vốn trong nước. Hơn nữa khi FPI gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực gia tăng dây chuyền đến dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước, kết quả làm tổng đầu tư gián tiếp xã hội tăng lên.
Hơn nữa FPI gia tăng sẽ là một bảo đảm và tạo động lực mới hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư khác mạnh dạn thông qua quyết định đầu tư trực tiếp mới của mình, kết quả là làm tăng đầu tư trực tiếp xã hội từ phía các nhà đầu tư nước ngoài và cả trong nước.
- Góp phần tích cực vào việc phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Việc gia tăng và phát triển bộ phận thị trường FPI sẽ làm cho thị trường tài chính (đặc biệt là thị trưòng chứng khoán) Việt nam trở nên đồng bộ, cân đối và sôi động hơn, khắc phục được sự thiếu vắng, trầm lắng, thậm chí đơn điệu, thiếu hấp dẫn kéo dài trong thời gian qua
- Góp phần tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Việc phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp cả về bề rộng và bề sâu sẽ mang lại những cơ hội mới và sự đa dạng hóa trong lựa chọn các phương thức đầu tư tiềm năng nước ngoài và trong nước. Đông đảo các nhà đầu tư nước ngoài và cả trong nước, các doanh nhân đến các tổ chức và pháp nhân đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp sẽ có thêm điều kiện lực chọn hình thức sử dụng vốn của mình. Việc đầu tư này sẽ cho phép họ thu được lợi nhuận. Điều này cũng đồng nghĩa với việc cải thiện thu nhập, mức sống của đông đảo các nhà đầu tư là người dân, tuỳ theo lượng vốn và kỹ năng chứng khoán của họ.
- Góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý Nhà nước theo nguyên tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và phát triển thị trường tài chính sẽ đặt ra những yêu cầu mới, khả năng mới cho quản lý Nhà nước nói chung và quản lý, quản trị doanh nghiệp nói riêng.
B. Mặt còn hạn chế của chính sách đầu tư nước ngoài
Mặc dù hệ thống luật pháp chính sách đầu tư nước ngoài liên tục đựôc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Nhưng do thiếu thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng, điều tra nghiên cứu thực tế, tham khảo kinh nghiệm nên vẫn chưa bao quát hết các vấn đề có thể xảy ra và cần giải quyết. Không những thế còn nhiều vấn đề thuộc về quan điểm được đặt ra nhưng chậm giải quyết, việc hướng dẫn cụ thể hoá các chủ trương, văn bản pháp quy của một số ngành rất chậm. Cụ thể trong từng lĩnh vự như sau:
Lĩnh vực đầu tư
Danh mục hạn chế đầu tư chưa cụ thể, những ngành không cấp phép mới dừng ở nhưng nguyên tắc chung, thiếu rõ ràng nên thực tế có nhiều ngành không được cấp phép hơn so với quy định. Mặt khác một số ngành chiến lược như sản xuất điện, bưu chính và viễn thông, bảo hiểm, ngân hàng đã bước đầu được mở cửa cho đầu tư nước ngoài nhưng còn nhiều hạn chế trong hoạt động. Việc mở rộng kinh doanh sang những ngành nghề khác phải xin phép, phê duyệt khó khăn như một dự án mới.
Hình thức đầu tư
Luật cho phép 100% vốn nước ngoài ngay tư đầu nhưng sau một thời gian mới thực sự cấp phép và chuyển một số liên doanh thành 100% vốn trong nước hoặc nước ngoài, chủ yếu là chuyển thành 100% vốn nước ngoài. Từ năm 1997 tỷ trọng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng lên. những ngành không cho phép 100% vốn nước ngoài như quảng cáo…,các ngành kinh doanh có điều kiện hoặc phải liên doanh thì chủ trương trong thời kì đầu là thành lập doanh nghiệp liên doanh trong một số ngành quan trọng như xi măng, sắt thép, hoá chất, ôtô…với mục đích học tập kinh nghiệm, kiểm tra giám sát hoạt động thông qua cán bộ cử tham gia liên doanh. Trên thực tế mục đích này về cơ bản là không đạt được. Vì vậy vẫn còn một số liên doanh vẫn phải tiếp tục duy trì nhưng có nhiều vấn đề trong hoạt động, chủ yếu là do doanh nghiệp thiếu năng lực vốn góp và quản lý.
Thủ tục đầu tư
Các lần sửa đổi luật đã ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn với thủ tục nhanh chóng hơn với nhà đầu tư nước ngoài. việc cấp phép vừa theo ngành nghề, vừa theo quy mô dự án. Dự án lớn, dự án thuộc lĩnh vực địa bàn đầu tư có điều kiện do Bộ KHĐT cấp phép. đối vói các dự án khác, việc cấp phép được phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc uỷ quyền cho Ban quản lý các khu công nghiệp và chế xuất. Đầu những năm 2000 đã bổ sung chế độ đăng kí cấp phép cùng với chế độ thẩm định cấp phép hiện hành. Luật đầu tư năm 2005 quy định chế độ đăng kí đầu tư và thẩm tra đầu tư. Thời gian cấp phép tối đa là 45 ngày. thưc tế những năm qua cho thấy việc đơn giản hoá thủ tục đầu tư và chế độ một cửa còn nhiều khó khăn vì liên quan đến tổ chức cán bộ và nhiều yếu tố khác.
Công tác quy hoạch đầu tư
Nhiều quy hoạch ngành và sản phẩm đã được xây dựng và phê duyệt, làm căn cứ cho quá trình thẩm định, xem xét cấp phép các dự án đầu tư nước ngoài. Trong các quy hoạch này đã xác định nhu cầu các loại nguồn vốn, trong đó có đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên có những quy hoạch chất lượng thấp, chưa tính đến yếu tố ĐTNN, chứa đựng những hạn chế không phù hợp với pháp luật và cam kết quốc tế do không được cập nhật thường xuyên hoặc nhằm hạn chế, ngăn chặn cạnh tranh của các doanh nghiệp mới. Ngoài ra một số ngành chưa xây dựng quy hoạch (công nghiệp phụ trợ, điện tử, giáo dục đại học, học nghề), làm trở ngại cho việc cấp giấy phép.
Quản lý nhà nước và phân cấp quản lý
ở cấp trưng ương được giao cho Bộ kế hoạch và đầu tư. ở cấp địa phương được giao cho sở KHĐT và Ban quản lý khu công nghiệp khu chế xuất cùng trực thuộc UBND tỉnh và cùng đồng thời quản lý đầu tư nước ngaòi.
Phân cấp việc quản lý cấp phép cho các địa phương là tốt nhưng xác định trách nhiệm không rõ ràng. Phân cấp tạo ra sự cạnh tranh thu hút đầu tư bằng cách ban hành thêm các quy định quá mức, có lợi cho các nhà đầu tư nhưng tạo ra sự khác biệt khá lớn trong việc thực hiện chính sách chung của trung ương. Một số địa phương ban hành chính sách ưu đãi vượt thẩm quyền, tạo ra hiện tượng cạnh tranh thu hút đầu tư không lành mạnh giữa các địa phương, dẫn đến thua thiệt cho phía Việt Nam. Cuộc kiểm tra năm 2005 của bộ KHĐT cho thấy 42/64 đại phương ban hành qui định trái với khuôn khổ pháp luật hiện hành, làm méo mó chính sách ưu đãi của Nhà nước và làm giảm tính nhất quán của hệ thống pháp luật. Mặt khác việc phân cấp quản lý đòi hỏi phải có sự liên hệ, phối hợp, cung cấp thông tin tốt hơn với các cơ quan trung ương mà trên thực tế việc kiểm tra, giám sát, phối hợp giữa các có quan quản lý nhà nước còn lỏng lẻo. Năng lực quản lý của các sở còn hạn chế trong việc thực hiện đúng cac quy định của trung ương cũng góp phần làm cho phân cấp kém hiệu quả.
Ngoại tệ và vay vốn
Tiền đồng chưa được chuyển đỏi tự do cho tất cả các giao dịch thương mại theo yêu cầu của các doanh nghiệp (kể cả trong nước). Một số dự án đặc biệt quan trọng được Thủ tướng chính phủ đảm bảo bằng ngoại tệ tuỳ theo khả năng sẵn có ngoại tệ khi chuyển đổi. Doanh nghiệp ĐTNN chủ yếu vay vốn của ngân hàng nước ngoài, tỷ lệ vốn tự có và vốn vay theo quy định là 2/1 nhưng thực tế là 1/2
Lao động và tiền lương
Doanh nghiệp nước ngoài đã được tự tuyển lao động, không bắt buộc phải thông qua câc trung tâm giới thiệu việc làm. Năm 2002 bộ luật lao động giới hạn thời gian tuyển dụng lao động nước ngoài và hạn chế số người nước ngoài làm việc cho công ty không vượt quá 3% trên tổng số lao động hoặc trên 50 người. Cơ quan nhà nước còn kiểm soát và can thiệp vào việc xác định tiền lương của người lao động. Ví dụ như việc phê duyệt quyết toán lương hàng năm, quy định tiền lương tối thiếu và bắt buộc điều chỉnh lương khi giá tăng 10%.
Tiền lương tối thiểu đối với các doanh nghiệp nước ngoài cao hơn trong nước và được điều chỉnh tăng liên tục từ 35 USD năm 1992 lên 870.000đ năm 2006 với khoảng cánh chưa được thu hep so với mức lương tối thiểu của doanh nghiệp trong nước.
Đất đai và tiền thuê đất
Nhà đầu tư nước ngoài không có quyền sở hữu đối với đất đai mà chỉ có quyền thuê đất với thời hạn tối đa là 70 năm, đa số có thời hạn 20-30năm. Thực tế nhà đầu tư nước ngoài phải trả tiền thuê đất đắt hơn so với nhà đầu tư trong nước khoảng 20%.
Nhà đầu tư nước ngòai có quyền đối với đất đai tuỳ theo hình thức trả tiền thuê đất. Nếu trả một lần cho toàn bộ thời gian hoạt động thì có quyền sử dụng đất tương tự như trong nước.
Người thuê đất không được quyền cho thuê lại đất, trừ đất thuê trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Có quyền thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản trên đất nếu đã trả tiên thuê đất cho toàn bộ thời gian thuê hoặc đã trả trước ít nhất 5 năm. Ngân hàng trong nước và gần đây là ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được nhận thế chấp. Trên thực tế khó thế chấp bằng quyền này để vay vốn do thiếu các văn bản hướng dẫn và các giấy tờ hợp pháp khác. Xác định quyền sử dụng đất khi hết hạn, thanh lý, giải thể doanh nghiệp trước thời hạn vẫn là một vấn đề chưa được giải quyết.
Bên cạnh đó khá phổ biến tình trạng xây dựng các khu công nghiệp tràn lan với quy mô lớn nhưng không thu hút được các nhà đầu tư, vì mục đích đầu cơ hoặc do không có năng lực thu hút được các nhà đầu tư.
Cung cấp hạ tầng
Cho đến nay vẫn thiếu một sô hạ tầng cơ bản, nhất là điện và vận tải. Các dịch vụ thiếu đa dạng, giá cao, chất lượng thấp. các nhà đầu tư phải tự giải quyết các dịch vụ còn thiếu.
Chương III
giải pháp hoàn thiện chính sách
đầu tư nước ngoài
1. Mở rộng lĩnh vực và hình thức đầu tư
Lĩnh vực đầu tư trong tương lai gần chưa thể áp dụng danh mục loại trừ theo ngành nghề và điạ bàn một cách tuyệt đối , vẫn cần có đồng thời danh mục khuyến khích và danh mục không được cấp phép. Việc xây dựng các danh mục này cần thực hiện tương tự như đối với việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp quy. Hàng năm xem xét lại và sửa đổi những danh mục này đẻ đảm bảo phù hợp với cam kết quốc té, khắc phục kịp thời những mâu thuẫn giữa chủ trương của bộ ngành và bổ sung những ngành mới xuất hiện.
Cần nghiên cứu những vấn đề mang tính chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó đề cập đến những vấn đề cơ bản: ngành nào không mở cửa, những ngành nào hạn chế vốn nước ngoài ở mức độ nào, xác định những ngành ta không thể có công nghệ dù có thể vay vốn nước ngoài thì nên mở cửa và đẩy nhanh việc cấp phép. VD: như các dự án liên quan đến dầu khí như lọc dầu , hoá dầu.
2. Đơn giản hoá và hoàn thiện thủ tục cấp phép.
Hoàn chỉnh qui trình ban hành các văn bản pháp qui để ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc việc các Bộ, ngành, địa phương ban hành các văn bản trái qui định chung hặc thực hiện không nghiêm túc các quyết định của Chính phủ trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Tiến hành rà soát lại một cách hệ thống các văn bản của các ngành, các cấp liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài.
Qui định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp , công khai các qui trình , thời hạn, trách nhiệm xử lý, các thủ tục hành chính. Giảm đầu mối, giảm các thủ tục hành chính không cần thiết.
Cần tiếp tục hoàn chỉnh và triển khai thực hiện chế dộ một cửa, trước hết áp dụng cho những dự án đăng kí cấp phép (những dự án này được đăng kí bằng điện tử), sau đó mở rộng áp dụng với dự án theo chế độ kiểm tra. Xây dựng và công bố công khai qui trình các bước thủ tục, các mẫu đơn với yêu cầu cung cấp thông tin cần thiết tối thiểu.
3. Nâng cao chất lượng công tác qui hoạch
Cần sớm xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài làm cơ sở cho việc chỉ đạo thực tiễn. Chiến lược chung cần bao quát chiến lược ngành, lĩnh vực và địa bàn thu hút đầu tư. Cần quán triệt quan điểm huy động vốn đầu tư nước ngoài là phát huy cao độ nội lực, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, gắn với tiến trình hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
Cần nâng cao chất lượng qui hoạch ngành, vùng, sản phẩm chủ yếu; dự báo chuẩn xác nhu cầu thị trường làm cơ sở cho việc xây dựng danh mục các dự án gọi vốn ĐTNN; trong đó xác định rõ sản phẩm, công suất, tiến độ, trình độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, địa bàn thực hiện dự án, các chính sách khuyến khích ưu đãi.
Hoàn thiện, bổ sung các quy hoạch ngành để làm căn cứ cấp phép theo hướng phù hợp với các cam kết quốc tế và không hạn chế cạnh tranh. Xây dựng những quy hoạch ngành còn thiếu. Trong quy hoạch cần khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghệ cơ khí, điện tử, năng lượng, những ngành ta có thế mạnh về nguyên liệu và lao động.
4. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với ĐTNN.
Cần khẩn trương xây dựng phương án loại bỏ sự trùng lắp, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn của hệ thống quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài ở cả trung ương và địa phương. đẩy nhanh việc phân cấp và uỷ quyền quản lý đầu tư nước ngoài cho các địa phương. Việc phân cấp cần tuỳ theo kết quả đầu tư hiện tại chứ không theo vị trí trong hay ngoài khu công nghiệp.
Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ tổng hợp, các Bộ quản lý ngành, UBND tỉnh trong việc quản lý hoạt động ĐTNN theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan quản lý Nhà nước về ĐTNN, giúp Chính phủ quản lý thống nhất và đầy đủ hoạt động ĐTNN, là đầu mối phối hợp giữa các Bộ, các ngành và địa phương giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp ĐTNN. Các Bộ, ngành và địa phương thực hiện quản lý Nhà nước về ĐTNN theo đúng chức năng, thẩm quyền quy định của pháp luật, Luật về đầu tư.. mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin để năng cao hiệu quả hoạt động, trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và giữa các cấp. Duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư.
5. Đảm bảo tốt hơn các yêu cầu của doanh nghiệp có vốn nước ngoài về ngoại tệ
Qui định chuyển vốn về nước chỉ khi kết thúc dự án và không cho phép giảm vốn là điều kiện cần thiết để có thể duy trì dự án. Nếu mong muốn rút vốn trước thời hạn, chỉ có thể chuyển nhượng cổ phần hoặc phần vốn góp (tương tự như đối với công ty cổ phần).
6. Thu hút lao động nước ngoài có trình độ cao và đảm bảo sự tham gia của các bên trong việc giải quyết các vấn đề lao động.
Hạn chế số lượng người nước ngoài trong một doanh nghiệp chỉ nên áp dụng với một số ngành nghề có thể sử dụng nhiều lao động phổ thông nước ngoài.
Tiền lương tối thiểu là cần thiết và do Nhà nước qui định nhưng cần thống nhất với đầu tư trong nước (theo hướng giảm mức áp dụng đối với dự án nước ngoài tương đương với trong nước) và có sự thoả thuận của cả người lao động, người sử dụng lao động.
7. Giải quyết các vấn đề của các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Nhiệm vụ trọng tâm là thu hút đầu tư để lấp đầy các khu công nghiệp đã được thành lập. Ngoài các KCN nhỏ, các cụm công nghiệp để giãn các nhà máy tại các thành phố lớn, cần xem xét chặt chẽ việc thành lập các khu công nghiệp mới. Trước mắt cần rà soát các khu công nghiệp đã có quyết định thành lập để dừng hoặc giãn tiến độ xây dựng những KCN không đủ yếu tố khả thi, thành lập khu CN mới khi hội đủ điều kiện.
áp dụng mô hình KCN với qui mô khác nhau, chú trọng các KCN vừa và nhỏ, các cụm công nghiệp tại các vùng nông thôn để phục vụ nông nghiệp, nông thôn; vừa chú trọng lấp đầy các KCN còn triển khai chậm, vừa có phương án sử dụng đất tiết kiệm ở các KCN có tỷ lệ cho thuê đất cao.
Bảo đảm hỗ trợ các công trình hạ tầng kỹ thuật (đường, điện, nước, thông tin liên lạc) đến tận hàng rào các KCN; ưu đãi ở mức cao nhất các dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với KCN (nhà ở cho công nhân, trường học, trường dạy nghề….)
Rà soát chi phí xây dựng cơ sỏ hạ tầng để xác định hợp lý giá cho thuê lại đất tại các KCN để tránh đẩy giá cho thuê đất lên cao làm tăng chi phí đầu tư của các doanh nghiệp. Tăng cường vận động xúc tiến đầu tư vào các KCN.
Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Quy chế KCN, khu chế xuất và khu công nghệ cao phù hợp với tình hình mới theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư.
8. Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ
Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp phụ trợ.
Xây dựng các trung tâm đào tạo kinh doanh và công nghệ cũng như các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xây dựng cơ sở dữ liệu của các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành công nghiệp phụ trợ trong nước.
Thực hiện các biện pháp ưu đãi công nghiệp phụ trợ (hỗ trợ huy động vốn, hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực, cung cấp thông tin công nghệ, tham gia triển lãm sản phẩm)
9. Hoàn thiện hệ thống pháp quy bảo vệ môi trường áp dụng chung cho doanh nghiệp trong nước và nước ngoài
Cần tập trung mọi nỗ lực sớm cụ thể hoá những quy định pháp luật và xem xét tính hợp lý của một số chỉ tiêu về môi trường, nâng cao hiệu lực của Luật bảo vệ môi trường. Các có quan quản lý cần cung cấp thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp nước ngoài và tư vấn cho doanh nghiệp về thực thi luật môi trường. Hạn chế việc gây khó khăn cho doanh nghiệp một cách không hợp lý khi thực hiện công tác quản lý môi trường. Hạn chế sự đối xử không bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài trong quá trình thực thi pháp luật.
Hình thành một hệ thống tổ chức quản lý môi trường khu công nghiệp thống nhất, đồng bộ, phù hợp với hoạt động của khu công nghiệp, nhằm giảm thiểu những nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và tạo ra những lợi thế trong việc sử dụng những sản phẩm phụ hoặc chất thải, tạo thành hệ sinh thái công nghiệp.
Tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX, X – Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Giáo trình Kinh tê quốc tế – Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Kinh tế Việt Nam trên đường hoá rồng – Nhà xuất bản trẻ.
Những đề xuất chính sách phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian tới – Nhà xuất bản trẻ.
Những vấn đề kinh tế vĩ mô của Việt Nam từ đổi mới (1986) đến nay – Nhà xuất bản trẻ.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2005.
Trang Web của Bộ Kế hoạch Đầu tư – http:// www.mpi.gov.vn.
Trang Web của Bộ Tài chính – http:// www.mof.gov.vn.
Trang Web của Bộ Thương mại – http:// www.mot.gov.vn.
Trang Web của Tổng cục thống kê - http:// www.gso.gov.vn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35815.doc