Đề tài Đánh giá quá trình đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn huyện Gia Lâm

Đầu tư cho nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn là vấn đề lớn phức tạp, có liên quan đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nước ta hiện nay, chiến lược đầu tư nói chung và chính sách đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng gắn liền với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó nông nghiệp là ngành sản xuất chính

doc108 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1379 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá quá trình đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn huyện Gia Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông nghiệp hiện đại đi đôi với công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, phát triển công nghiệp hiện đại gắn liền với công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp truyền thống, phát triển công nghiệp phải đảm bảo yếu tố môi trường... III.1.4.b.Thương mại- du lịch- dịch vụ: Giá trị sản xuất tăng bình quân 15% thời kỳ 2001- 2010, đến năm 2010 chiếm 32,9% trong giá trị sản xuất của huyện. Kim ngạch xuất khẩu tăng 30%/năm đến năm 2010. Giảm bớt tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng, chỉ nhập khẩu hàng hoá cao cấp. Phát triển các trung tâm thương mại có qui mô khu vực, là nơi giao dịch hàng hoá, sản phẩm của huyện cũng như cung cấp các hàng hoá cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của các đơn vị và cá nhân trên địa bàn huyện. Phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ phát triển các ngành nghề khác, phát triển nông nghiệp và nông thôn. III.1.4.c. Nông nghiệp: Quan điểm phát triển Nông nghiệp thủ đô trong thời kỳ 2000 – 2010 được định hướng phát triển dựa trên nhiều quan điểm trong đó có một số quan điểm sau đây: + Phát triển nông lâm nghiệp thủ đô phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội thủ đô giai đoạn 2000 – 2010 và đến năm 2020. Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội của cả nước. Định hướng phát triển kinh tế xã hội thủ đô Hà Nội nói chung và huyện Gia Lâm nói riêng trong giai đoạn tới là xây dựng thủ đô giàu về kinh tế (trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo), vững về chính trị, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, an ninh quốc phòng vững mạnh. Thực hiện phương hướng đó, trong những năm tới huyện phải đẩy nhanh hơn nữa nhịp độ tăng trưởng kinh tế với cơ cấu phù hợp, hiệu quả kinh tế ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa thủ đô và đất nước. Để gắn phát triển nông nghiệp huyện với chiến lược phát triển kinh tế xã hội thủ đô, trong những năm tới phải phấn đấu: ã Tốc độ phát triển nông nghiệp phải đạt mức đảm bảo cho tốc độ phát triển chung của thành phố cao và ổn định. ã Phát triển mạnh nông nghiệp theo hướng sản xuất nông sản thực phẩm để cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân thủ đô, cung cấp sản phẩm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu gắn phát triển nông lâm nghiệp với phát triển dịch vụ và du lịch. ã Phát triển nông nghiệp trong điều kiện đất nông nghiệp bị giảm do chuyển mục đích sử dụng. Do vậy nông nghiệp cần được phát triển với công nghệ cao, tiết kiệm đất. Đẩy mạnh phát triển sản xuất các loại nông sản dùng ít đất như sản xuất nấm, mộc nhĩ, phát triển chăn nuôi và sản xuất các loại sản phẩm cao cấp có hiệu quả kinh tế cao để nâng cao thu nhập cho nông dân. ã Phát triển nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, lấy thước đo hiệu quả kinh tế để xác định qui mô, chủng loại sản phẩm. Phát triển nông lâm nghiệp theo hướng hàng hoá, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ. Điều đó có nghĩa là người sản xuất phải nắm bắt được nhu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, thời gian yêu cầu cung cấp các sản phẩm hàng hoá để sản xuất. Nói cách khác người nông dân cần phải sản xuất “cái mà thị trường cần” chứ không phải sản xuất “cái mà mình có khả năng sản xuất”. Như vậy trong cơ chế thị trường, người nông dân phải thực sự có đầu óc “thương mại hoá”. Trong nền kinh tế hàng hoá, mục tiêu sản xuất của người nông dân là tối đa hoá lợi nhuận, hay nói cách khác chính là lấy thước đo hiệu quả kinh tế làm cơ sở xác định qui mô và chủng loại sản phẩm sản xuất. Mục tiêu phấn đấu về hiệu quả kinh tế sản xuất nông nghiệp thủ đô trong những năm tới là nhằm đạt giá trị thu nhập, giá trị lợi nhuận cao nhất trên 1 đơn vị đất đai sản xuất hay thu nhập của người lao động ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp có đặc điểm riêng biệt. Đối tượng sản xuất là sinh vật gắn với điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái, ở mỗi vùng, tiểu vùng khác nhau do có sự khác nhau về địa lý, về tự nhiên mà hình thành các loại sản phẩm đặc trưng của từng vùng, tiểu vùng. Do vậy trong quá trình lựa chọn sản phẩm cung cấp cho thị trường cần khai thác triệt để lợi thế so sánh của từng vùng, tiểu vùng để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. ã Phát triển nông nghiệp gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Nông nghiệp là ngành sản xuất chủ yếu ở nước ta. Vì vậy trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã xác định: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nội dung trọng yếu những năm còn lại của thập kỷ 90. Trong giai đoạn tới, nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vẫn là nhiệm vụ quan trọng để thực hiện phát triển tổng thể nền kinh tế xã hội của đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là: + áp dụng mạnh mẽ các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là công nghệ sinh học nhằm tạo ra năng suất lao động, năng suất và chất lượng sản phẩm cao + Phát triển công nghiệp chế biến với công nghệ hiện đại để tạo ra các sản phẩm chế biến có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và vươn ra chiếm lĩnh thị trường quốc tế. + Đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật nông nghiệp nhằm đáp ứng cao nhất các nhu cầu sản xuất hàng hoá chuyên môn hoá. Trước hết là đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất giống cây trồng vật nuôi có năng suất, chất lượng cao cung ứng cho sản xuất, đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi, giao thông nông thôn, hệ thống cung ứng điện và các cơ sở vật chất kỹ thuật trọng yếu khác để nâng cao năng lực phục vụ sản xuất + Thực hiện cơ giới hoá nông nghiệp, tăng cường trang bị máy móc, thiết bị thay thế dần lao động thủ công trong các khâu của sản xuất nông nghiệp như: làm đất, thu hoạch, dịch vụ nông nghiệp, giết mổ gia súc. + Tăng cường công tác bảo vệ thực vật, công tác thú y và công tác vệ sinh thực phẩm, thực hiện phát triển một nền nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp sạch có chất lượng cao. + Tăng cường công tác đào tạo kiến thức khoa học kỹ thuật, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nâng cao một bước chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp, rút ngắn dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. III.1.5.Nhiệm vụ và định hướng hoàn thiện phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp trong công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn huyện: III.1.5.a.Căn cứ đưa ra định hướng: Định hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, định hướng hoàn thiện phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình này từ nay đến năm 2010 phải dựa trên những căn cứ có tính khoa học và phân tích tình hình thực tế. Những căn cứ đó là: ă Đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước. Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần IX đã vạch rõ nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn hiện nay là: “ Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, cải tạo xây dựng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết là những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển..” Như vậy, trong giai đoạn hiện nay để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh hiện đại là một trong những công việc then chốt. ă Thực trạng và tiềm năng công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn huyện Gia Lâm: Cùng với đường lối đổi mới của Đảng, Gia Lâm đã và đang quán triệt, vận dụng sáng tạo nội dung của Đại hội toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XII, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Gia lâm lần thứ XVII đã đưa ra phương hướng tổng quát: “ Phát triển kinh tế xã hội theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với công nghiệp hoá- hiện đại hoá và đô thị hoá, có hiệu quả kinh tế ngày càng cao, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, trình độ dân trí cho nhân dân, đảm bảo giữ vững trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Phấn đấu đưa tổng thu ngân sách huyện với tốc độ tăng trưởng bình quân 9,85%- 11%, 100% số xã phổ cập cấp II và 100% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. + Về thuỷ lợi: Từng bước hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi nhất là vùng bãi, triển khai tốt chủ trương cứng hoá kênh mương đến năm 2010 cứng hoá 100% kênh mương + Về giao thông: Hoàn thiện hệ thống giao thông lên thôn, liên xóm, liên xã, phấn đấu về cơ bản là đường nhựa, bê tông, gạch. + Điện nông thôn: Củng cố nâng cấp hệ thống điện đảm bảo đủ điệ cho sinh hoạt và cho sản xuất trong nông thôn, bán đúng giá qui định của Nhà nước. III.1.5.b.Phương hướng chung: Văn kiện đại hội Đảng IX đã chỉ rõ khu vực nông thôn là khu vực cần được ưu tiên đầu tư với mục tiêu tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng, giảm khoảng cách với khu vực đô thị... Huyện Gia Lâm là khu vực có số dân sống bằng nông nghiệp tương đối cao, mặc dù trong những năm gần đây xu hướng đô thị hoá đã phát triển khá mạnh nhưng về cơ bản nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Chính vì vậy việc đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn trong những năm tới vẫn được chú trọng và càng được chú trọng hơn khi huyện Gia Lâm đang bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá. Đứng trước trách nhiệm đó, huyện đã đề ra những phương hướng phát triển kết cấu hạ tầng như sau: Kết cấu hạ tầng phải được phát triển đồng bộ mới thu được kết quả và phát huy hiệu quả tối đa. Ưu tiên xây dựng và phát triển các công trình đầu mối nhằm tạo ra khung sườn cho huyện phát triển trọn vẹn, cân đối và toàn diện. Xây dựng kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước và đón được yêu cầu của tương lai phát triển đất nước, trong đó phải nghiên cứu kỹ mục tiêu, nội dung các dự án, phân kỳ và đề ra các giải pháp phát triển dự án thích hợp với từng thời kỳ. Theo dõi sát sao, nấm bắt kịp thời những tiến bộ nhanh chóng của cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là bước chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin để lựa chọn một cách hợp lý loại hình, kết cấu qui mô của cơ sở hạ tầng phù hợp với điều kiện cụ thể của huyện. Cơ sở hạ tầng phát triển theo hướng hiện đại đạt trình độ kỹ thuật tiên tiến. Nhà nước chịu trách nhiệm chính cho việc đầu tư đầu tư cơ sở hạ tầng mới và chỉ cấp vốn cho các công trình cơ sở hạ tầng không trực tiếp hoặc không có khả năng thu hồi vốn, việc bảo trì và nâng cấp là trách nhiệm của chính quyền. Cần tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia xây dựng các loại công trình thuộc cơ sở hạ tầng trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích chính đáng và thích đáng của các chủ đầu tư, tạo điều kiện cho các nhà thầu cạnh tranh lành mạnh với nhau trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng huyện. Khuyến khích thu hút các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư tham gia ngày càng nhiều vào việc sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ công cộng theo tinh thần của Nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ VII: “ chuyển các dịch vụ đô thị sang hạch toán kinh doanh, khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước, các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư xây dựng kết cấu hạ tầng”. Nâng cao năng lực quản lý của các cấp chính quyền thành phố trong việc vạch ra các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng ngày càng nhiều, kịp thời, đa dạng với giá cả hợp lý. Can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp khi xảy ra những trường hợp làm tổn hại đến lợi ích công cộng của dân cư. III.1.5.c.Nhiệm vụ và định hướng: Để các ngành phát triển theo đúng phương hướng nhằm đạt được các mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế huyện giai đoạn 2001- 2010 theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, nội dung đầu tư trong những năm tới là khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm để đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng. Với việc đầu tư này một mặt nhằm thúc đẩy sản xuất, đáp ứng nhu cầu của người dân, mặt khác còn đóng góp và làm thay đổi bộ mặt nông thôn ngày càng văn minh lịch sự, giúp cho việc đô thị hoá nông thôn nhanh chóng, đưa huyện Gia Lâm đi lên về mọi mặt. Định hướng về cơ cấu huyện: Nếu cơ sở hạ tầng được đảm bảo thì tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ nhanh hơn trong tương lai và tốc độ phát triển bình quân ổn định đến năm 2010 là 111%. Cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp- thương mại, dịch vụ- nông nghiệp. Định hướng cơ sở hạ tầng: Từ nay đến năm 2010 tiếp tục duy trì và đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế trên địa bàn huyện, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đi trước một bước phù hợp với trình độ sản xuất hiện có, chú trọng đến các vùng kinh tế trọng điểm và nhu cầu cấp thiết theo những mục tiêu trước mắt và lâu dài thích hợp. + Về giao thông: ngoài đường quốc lộ, các đường giao thông liên huyện, liên xã, đường nội thị sẽ được nâng cấp để đảm bảo cho các xe trọng tải lớn đi lại thống suốt, đạt100% đường trải nhựa và bê tông, đảm bảo giao thông thuận lợi đến từng gia đình, thôn xóm và mở rộng quan hệ giao lưu với các huyện tỉnh bạn. Trong tương lai gần Gia Lâm sẽ tập trung chuyên môn hoá sản xuất cao, các ngành dịch vụ phát triển tốt, do đó các tuyến đường cho mục tiêu trên là cần thiết. Gia Lâm cố gắng phấn đấu để các tuyến đường giao thông đến các thôn xóm cơ bản là đường nhựa, bê tông và gạch vào năm 2010. Trước hết xoá bỏ đường đất phục vụ cho giao thông đi lại, tiếp cận và áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tiếp thu khoa học về máy móc với phương châm tập trung theo chiều sâu, lấy chất lượng các tuyến đường làm chính, hoàn thiện dần về chất lượng để phục vụ kịp thời cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. + Về hệ thồng thuỷ lợi: Trước mắt tập trung cho việc tưới tiêu đảm bảo 1005 ha diện tích có nhu cầu thuộc khu vực trong đê cũng như ngoài bãi. Đến năm 2010 xây dựng mới một trạm bơm và cứng hoá hoàn toàn kênh mương. Vùng bãi sông Hồng và sông Đuống xây dựng hệ thống tưới, áp dụng kỹ thuật tưới phun, tưới thấm giảm hao tổn nước, phù hợp với đặc điểm địa hình và đất đai vùng bãi, đảm bảo tưới cho 2025 ha để thâm canh tăng vụ. Về thuỷ lợi nổi bật lên vẫn là vấn đề tiêu nước cả nông nghiệp và phi nông nghiệp, tập trung giải quyết tiêu nước cho các thị trấn, đầu tư hệ thống cống rãnh thoát nước song song với việc xây dựng hệ thống các công trình giao thông. + Về hệ thống điện: Phương hướng phát triển hệ thống điện cũng phải đi trước một bước, cân đối giữa nguồn và mạng phân phối, phục vụ kịp thời, thuận tiện với giá cả hợp lý, phù hợp với định hướng phát triển chung của thành phố. áp dụng các giải pháp khoa học tiên tiến kết hợp với mạng lưới điện hiện có nhằm từng bước cải tạo mạng lưới điện huyện. Huy động các thành phần kinh tế tham gia xây dựng mạng lưới cung cấp điện, phát huy các hình thức đóng góp của các thành phần tư nhân, phát triển mạng lưới điện có sự chỉ dẫn của cơ quan quản lý ngành để đảm bảo phát triển đúng qui hoạch. Hệ thống điện của huyện Gia Lâm phải đảm bảo hai yêu cầu: đáp ứng cho các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các hoạt động dịch vụ và cung cấp điện tiêu dùng cho dân ổn định, an toàn. Từ nay đến năm 2010 sẽ cung cấp hệ thống đường dây các trạm biến thế để đảm bảo đủ cho các vùng trọng điểm của sản xuất như: Gia lâm, Đức giang, Yên viên, Sài đồng, Trâu quỳ, Phú thuỵ, Bát tràng, Ninh hiệp. Hệ thống điện chiếu sáng sẽ được xây dựng trên toàn bộ trục giao thông chính. III.1.5.d.Nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng: Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, muốn đạt được các mục tiêu của ngành nông nghiệp và nông thôn trước tiên chúng ta cần phải phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng tiến trước một bước. Để đáp ứng được nhu cầu này thì hệ số ICOR yêu cầu tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp không dưới 23% GDP. Một trong những yếu tố quan trọng nhất để phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là yếu tố vốn. Bên cạnh sự ủng hộ và đóng góp về lao động của nhân dân thì có vốn chúng ta mới có thể xây dựng mới, cải tạo nâng cấp duy tu, bảo dưỡng thường xuyên được các công trình giao thông thuỷ lợi, công trình điện lưới nông thôn. Cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển tạo điều kiện phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững nghĩa là kinh tế nông nghiệp và nông thôn có điều kiện tăng trưởng với tốc độ cao trong một giai đoạn dài và xã hội nông thôn luôn ổn định liên tục phát triển. Vì thế, đầu tư là một yếu tố quan trọng, quyết định sự phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, quyết định khả năng phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn bền vững. Căn cứ qui hoạch được duyệt và nhu cầu đầu tư trên một số lĩnh vực, dự kiến nhu cầu vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn huyện Gia Lâm như sau: Nhu cầu vốn đầu tư một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng nông thôn Đơn vị tính: triệu đồng Hạng mục đầu tư Tổng số 2001 2002 2003 2004 2005 Ghi chú 1. Giao thông Ngân sách cấp đường liên huyện, liên xã Vốn sự nghiệp đầu tư 12 000 1 500 1 800 2 200 3 000 3 500 Vốn xây dựng cơ bản 39 000 5 000 6 000 7 000 10 000 11 000 Vốn huy động khác 10 000 2 000 2 000 2 000 2 000 2 000 2. Thuỷ lợi Ngân sách cấp kênh loại I, II Vốn sự nghiệp đầu tư 22 900 3 400 4 000 4 800 5 000 5 700 Vốn xây dựng cơ bản 208 000 60 000 63 000 61 000 11 000 13 000 Vốn huy động khác 23 000 4 000 5 000 5 000 5 000 4 000 3. Lưới điện nông thôn thôn Ngân sách cấp trạm biến áp, cao hạ thế. Vốn sự nghiệp đầu tư 32 000 5 000 5 500 6 000 7 500 8 000 Vốn xây dựng cơ bản 64 000 28 000 9 000 10 000 8 000 9 000 Vốn huy động khác 15 000 6 000 3 000 2 000 2 000 2 000 Nguồn: Phòng Kế hoạch huyện Gia Lâm Tóm lại, phương hướng phát triển kết cấu hạ tầng nói chung và của các ngành nói riêng đều mang tính chất đi trước một bước, đón đầu, phát triển kết cấu hạ tầng toàn diện phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của huyện, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và đòi hỏi cấp thiết một hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Từ những phương hướng cơ bản trên cùng với việc dự báo nhu cầu của nhân dân trong tương lai về hệ thống điện, thuỷ lợi và hệ thống giao thông, chúng ta có thể đề xuất những giải pháp sau. III.2. Các giải pháp cần thực hiện nhằm phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn huyện Gia Lâm phục vụ quá trình CNH- HĐH. Trong nhiều thập kỷ qua, vấn đề nông nghiệp, nông thôn luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và đã có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển. Từ nay đến năm 2005, 2010, 2020 nông nghiệp vẫn có một vị trí hết sức quan trọng. Mặc dù trong tương lai, tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân sẽ ngày càng thu nhỏ nhưng nó vẫn là lực lượng chủ yếu quyết định sự ổn định của nền kinh tế và xã hội, là yếu tố quan trọng để đảm bảo môi sinh, cân bằng sinh thái. Mấy năm gần đây tuy sản xuất nông nghiệp tăng nhưng lại không bền vững, do đó để sản xuất nông nghiệp đạt mục tiêu đề ra, nông nghiệp và nông thôn phát triển bền vững thì một trong những nhân tố quan trọng tác động tích cực đến nó là đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn. Với thực trạng hiện nay của cơ sở hạ tầng nông thôn và nhu cầu đầu tư trong những năm tới cần phải có hệ thống các giải pháp nhằm tăng cường cho hoạt động đầu tư này. III.2.1.Giải pháp về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện Gia Lâm: Mục tiêu quan trọng của việc đẩy mạnh xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là nhằm thúc đẩy nền sản xuất, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của người dân, mặt khác còn đóng góp và làm thay đổi bộ mặt nông thôn, giúp cho việc đô thị hoá nông thôn diễn ra nhanh chóng, đưa huyện Gia Lâm đi lên về mọi mặt. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn huyện bên cạnh những mặt tích cực còn có những mặt chưa được đó là đầu tư còn dàn trải, manh mún, tình trạng phát triển bừa bãi ở một số nơi, tình trạng xây dựng riêng lẻ, việc đầu tư còn có tư tưởng hỏng đâu làm đó, không có quy hoạch một cách thống nhất. Chính vì vậy, để khắc phục tình trạng này chúng ta cần phải có quy hoạch phát triển huyện trong đó có quy hoạch phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng. Đây chính là giải pháp để mạng lưới này phát triển theo đúng hướng, đúng quỹ đạo mà chúng ta đã đề ra. III.2.2.Các giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư : Trước đòi hỏi phải chuyển đồi nhanh chóng cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn theo cơ chế thị trường, vấn đề đặt ra là phải có cơ sở hạ tầng phù hợp. Tuy nhiên, theo dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho xây dựng hạ tầng phát triển nông nghiệp, nông thôn ở trên, chúng ta thấy nhu cầu về vốn đầu tư là khá lớn. Nhu cầu đó được thực hiện trong bối cảnh có nhiều khó khăn về vốn. Các khó khăn đó là: + Vốn ngân sách nhà nước đang rất eo hẹp, khả năng trong những năm tới là không lớn. Điều này càng trở nên khó khăn hơn khi lâu này đây là nguồn vốn chủ yếu đầu tư cho lĩnh vực hạ tầng nông thôn của huyện, hơn nữa lại được phân bổ không hợp lý, chủ động, mà cốt lõi là vấn đề tổ chức, qui hoạch hiện đang còn yếu kém. + Vốn tín dụng Nhà nước giải ngân chậm do thủ tục phiền hà, mặt khác các doanh nghiệp, hộ nông dân chưa thực sự chuẩn bị đủ các điều kiện để giải ngân nhanh và khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này. + Nguồn vốn trong dân còn bị hạn chế, manh mún, chắp vá. Mặt khác, dân còn chưa đủ tự tin khi đầu tư, mới chỉ quan tâm tới lợi ích trước mắt mà chưa thấy hết lợi ích lâu dài, lợi ích cộng đồng của công cuộc đầu tư, điều này là hệ quả tất yếu khi chính mức sống của người dân còn thấp. Bên cạnh những khó khăn về nguồn vốn như trên thì công tác quản lý và triển khai các dự án cũng còn nhiều vấn đề bất cập như: chất lượng tư vấn các dự án đầu tư còn yếu gây khó khăn cho khâu xét duyệt và triển khai thực hiện, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp còn lỏng lẻo, chưa ăn khớp, những điều này gây khó khăn không ít cho việc thực hiện các dự án đầu tư. Trước tình hình trên, để nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nói chung và lĩnh vực hạ tầng nông thôn nói riêng ngày càng nhiều và đạt hiệu qủa cao thì huyện cần tập trung làm tốt các công tác sau: III.2.2.a.Cải tiến chính sách tạo vốn: Nguồn vốn huy động cho cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển tuy không thể đa dạng như huy động vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh song đến nay nguồn vốn này cũng đã thu hút nhiều đối tượng có vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn cũng đã thay đổi. Thay vì trước kia chỉ có vốn ngân sách Nhà nớc đầu tư vào lĩnh vực này, bây giờ đã thu hút thêm được vốn của xã, vốn của các hộ nông dân, vốn đầu tư nước ngoài. Trong những năm tới để huy động được các nguồn vốn trên bổ sung cho nguồn ngân sách, huyện cần có chính sách kinh tế thích hợp, nhất là các chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp, chính sách ruộng đất, trợ giá nông sản, xuất khẩu gạo, khoa học kỹ thuật, khuyến nông, xoá đói giảm nghèo… Đối với chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp cần phải giảm và miễn thuế này cho nông dân. Nông dân được miễn giảm vừa có điều kiện nâng cao mức sống, hạn chế được dòng di dân từ nông thôn ra thành thị vừa tạo điều kiện nâng mức tỷ lệ tiết kiệm của hộ nông dân dẫn đến đầu tư của hộ tăng lên. Với các chính sách trợ giá nông sản, xuất khẩu gạo, khuyến nông, khoa học kỹ thuất sẽ làm cho thị trường nông thôn được mở rộng, thu hút được lao động, các ngành nghề phi nông nghiệp phát triển, giảm khối lượng thời gian nhàn rỗi của nông dân, kinh tế nông thôn phát triển, mức thu nhập của hộ gia đình tăng, tỷ lệ tiết kiệm tăng. Ngoài ra, với chính sách đầu tư khai thác đất mới, xây dựng cơ sở hạ tầng, sau đó chuyển giao cho nông dân nghèo từ nơi khác đến lập nghiệp sẽ vừa tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nông dân nghèo, vừa phân bổ lại dân cư và lao động trên các vùng lãnh thổ, rút ngắn khoảng cách về thu nhập và đời sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư ở nông thôn. Kết quả cuối cùng là sản xuất phát triển, độ đồng đều trong nông thôn cao hơn, vừa thực hiện được mục tiêu xoá đói giảm nghèo vừa tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư. Để làm được những điều trên, huyện cần: Xây dựng hệ thống biện pháp đồng bộ nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn trong đó nguồn vốn ngân sách đóng vai trò “dẫn đường, dọn đường, nền tảng“ của mọi công cuộc đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, do đó phải tiết kiệm, bảo toàn, đề cao hiệu quả kinh tế- xã hội của nguồn vốn này và điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo định hướng phát triển kinh tế- xã hội của huyện. Xây dựng những dự án đầu tư tổng thể, cụ thể hoá phương châm phát huy nội lực trong huy động vốn đầu tư trên cơ sở đa dạng hoá, khai thác sử dụng có qui hoạch, có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh, lao động.. III.2.2.b.Cải tiến cơ chế huy động vốn: Trong điều kiện hiện nay, trước nhu cầu đòi hỏi phải huy động một nguồn vốn khá lớn để đảm bảo xây dựng hệ thống hạ tầng huyện theo đúng hướng phát triển trong tương lai, thì giải pháp quan trọng để thực hiện thành công định hướng đã đề ra là cần phải huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư. Tuy nhiên, việc huy động vốn phải dựa trên cơ sở tính toán nhu cầu vốn đầu tư, khả năng các nguồn vốn cung ứng của từng lĩnh vực, đảm bảo thực hiện công tác kế hoạch hoá và điều hành công tác huy động vốn theo tháng, quý trên cơ sở chỉ tiêu cần đáp ứng. Trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp ngoài việc đầu tư tái mở rộng còn góp phần đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng. Theo kinh nghiệm, chúng ta hoàn toàn có thể huy động được nhiều khả năng đóng góp tối đa của các doanh nghiệp vào phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước, của các ngành trung ương đóng trên địa bàn huyện. Đối với vốn ngân sách thành phố và ngân sách huyện, trích 45% thu từ thuế sử dụng nông nghiệp để lại địa phương xây dựng và phát triển nông thôn. Để giải quyết vấn đề vốn đầu tư, theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, có thể để lại toàn bộ số thủy lợi phí cho xã tổ chức sửa sang cầu cống, thay thế những máy bơm đã hỏng. Để lại toàn bộ số công lao động nghĩa vụ, dân công làm thuỷ lợi cho xã để xã tổ chức nông dân nạo vét kênh mương nội đồng. Hiện nay, Chính phủ đã ban hành chính sách thuỷ lợi phí mới thay thế cho Nghị định 112 cũ không còn phù hợp. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách thuỷ lợi phí mới cần nêu rõ các nội dung chính sau: + Cơ cấu giá, giá thành thu đầy đủ đối với các doanh nghiệp khai thác thuỷ nông. + Giá thu đầy đủ các dịch vụ tưới, tiêu và cấp nước, giao thông thuỷ lợi ở các vùng kinh tế điển hình. + Phương thức cấp bù ngân sách phần chênh lệch giữa giá thu đầy đủ với thuỷ lợi phí. Với các công trình lớn huyện cần phải huy động vốn thông qua nhiều công cụ khác nhau, song các công cụ này phải đảm bảo lợi ích một cách hợp lý giữa các nhà đầu tư và người huy động vốn. Ngân sách Nhà nước cần phải cắt giảm vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh để tăng tương ứng vốn đầu tư cho phát triển hệ thống hạ tầng. Mặt khác cần có cơ chế và chính sách để tận dụng và khai thác triệt để các nguồn thu trên địa bàn để tăng khả năng phân bổ ngân sách cho đầu tư phát triển. Do ở huyện Gia Lâm nguồn vốn được phân bổ từ ngân sách thành phố, chính vì vậy để bổ sung cho nguồn ngân sách này, Hà Nội cần tập trung theo hướng: Thực hiện tốt các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí, thu phạt… giải pháp chủ yếu là tăng cường các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan hành thu, kiện toàn bộ máy cán bộ thuế để chống thất thu trong công tác thu thuế, tạo cơ chế quản lý phối hợp đồng bộ hoạt động giữa cơ quan thu với cơ quan quản lý Nhà nước, giáo dục tính tự giác của công dân, tăng cường các biện pháp hành chính. Hiện nay, với việc luật thuế tài sản nằm trong kế hoạch cải cách hệ thống chính sách thuế nội địa mục đích nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách trước thực tế thuế xuất nhập khẩu ngày càng giảm do hội nhập khu vực và quốc tế, trong khi nhu cầu chi tiêu phục vụ các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước ngày càng tăng đã góp phần phát huy nội lực trong nước, khoán sức dân, khắc phục phần nào những khuyết tật của cơ chế thị trường, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng. Mục tiêu trước mắt là chống thất thu và tăng thu ngân sách. Có cơ chế thích hợp để xử lý và khai thác nguồn thu từ đất ở và nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước mà Hà Nội đang quản lý. Cần đẩy nhanh tốc độ giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay, ý kiến của nhiều chuyên gia đều cho rằng biện pháp cơ bản thực hiện tốt điều này là thành phố cần rà soát lại và xây dựng được một chính sách giá hợp lý vừa phù hợp với quan hệ cung cầu nhà ở, đất ở, vừa phù hợp với mức sống chưa phải là cao của số đông người dân. Huy động và sử dụng tốt nguồn vốn từ quỹ đất để phát triển kết cấu hạ tầng. Đối với một huyện như Gia Lâm, một huyện đang trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ chịu ảnh hưởng to lớn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá cần có kế hoạch cụ thể để quản lý chặt chẽ và có hiệu quả. Cần sớm triển khai thực hiện cơ chế đấu thầu quyển dụng đất trong các dự án đầu tư phát triển mà UBND thành phố đã xác định theo qui hoạch. Với nguồn vốn ngân sách thu được, thành phố cần đưa ra kế hoạch đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn các huyện ngoại thành nói chung và huyện Gia Lâm nói riêng trong những năm tới: + Cân đối lại nguồn ngân sách, bố trí lại cơ cấu đầu tư hợp lý cho nông lâm, ngư nghiệp. Tăng tỷ trọng đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách cho xây dựng hạ tầng phát triển nông nghiệp, nông thôn (ít nhất là 20% tổng số vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn), trên cơ sở đó mở mang mạng lưới phục vụ sản xuất, lao động xã hội tạo ra môi trường thu hút vốn từ các thành phần kinh tế, từ các dự án đầu tư hợp tác nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh nông- lâm- ngư nghiệp và công nghệ chế biến. + Hoàn chỉnh các qui hoạch tổng thể kinh tế - xã hội các huyện, các qui hoạch chuyên ngành, phát triển nông - lâm - ngư nghiệp, thuỷ lợi, giao thông nông thôn… làm căn cứ lập dự án đầu tư trong năm tới. + Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết từng vùng, từng xã, từng đoạn đường để phân loại các nguồn vốn đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng theo nguyên tắc: ã Mạng lưới cơ sở hạ tầng thuộc cấp hành chính nào do cấp đó đầu tư. ã Cấp nào đầu tư thì cấp đó được thu hồi vốn từ đối tượng sử dụng + Phân cấp và xác định đối tượng được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách theo từng lĩnh vực sau: Ngân sách đầu tư 100%: cải tạo nâng cấp các công trình đầu mối thuỷ lợi, cứng hoá kênh mương loại I, II,đê điều, đường giao thông liên huyện, liên xã, xây dựng trạm biến áp, đường dây cao hạ thế, trạm cấp nước sạch đầu mối và đường trục ống dẫn nước… Ngân sách hỗ trợ 30% vốn xây dựng các công trình đường liên thôn, các công trình đường thoát nước và vệ sinh môi trường nông thôn… Ngân sách hỗ trợ phần hạ tầng xây dựng các nhà máy chế biến các sản phẩm nông nghiệp có công nghệ hiện đại. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách như vậy còn rất ít, do đó để nông nghiệp, nông thôn huyện ngày càng phát triển, huyện cần phải huy động lượng vốn đầu tư nhiều hơn nữa từ các nguồn vốn khác: vốn tín dụng, vốn đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư từ các doanh nghiệp và từ nội lực nông thôn. Trong đó: Vốn dân góp bao gồm cả vốn tài chính và sức lao động. Huy động vốn của dân cư là huy động có tính lâu dài. Vì thế, trong cơ chế huy động vốn của dân cư cần phải tạo điều kiện cho người dân có được thu nhập cao hơn, thông qua các chính sách kinh tế nông nghiệp đối với nông thôn như cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi, chính sách thuế, trợ giá nông sản…bởi mức sống của dân còn nghèo nên lợi ích là điều họ quan tâm tới trước nhất. Đối với vốn trực tiếp nước ngoài chúng ta cần khuyến khích đầu tư cơ sở hạ tầng theo các hình thức: Hợp đồng xây dựng- chuyển giao - kinh doanh (BOT), hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BTO), hợp đồng xây dựng- chuyển giao (BT). Trong các hình thức BTO, BOT, BT chúng ta tích cực khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới hình thức BT. Hình thức này đem lại lợi ích cho cả hai bên đối tác trong lĩnh vực đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn. Trong những năm tới, hình thức BT chắc chắn sẽ thu hút không chỉ với các nhà đầu tư nước ngoài mà hình thức này còn thu hút được cả các nhà đầu tư trong nước. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng góp phần không nhỏ trong việc thực hiện huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Trong những năm tới việc mở rộng qui mô, nâng cao năng lực của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là một yêu cầu cấp thiết. Tóm lại, cần phải cải tiến cơ chế huy động vốn, coi nguồn vốn ngân sách Nhà nước là cơ bản, nguồn vốn đóng góp của dân là quan trọng. Trong cơ chế huy động vốn cần phải đa dang hoá các công cụ huy động, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. III.2.2.c.Cải tiến cơ chế hoàn vốn: Cơ chế hoàn vốn phải được tính toán phù hợp với điều kiện từng vùng. Chúng ta phải xác định một mức phí mà người hưởng lợi từ công trình phải trả sao cho thời gian thu hồi vốn không quá lâu, phí thu hồi được đầy đủ, hấp dẫn được các nhà đầu tư mà lại phù hợp với mức thu nhập của người sử dụng. Người dân vừa trả được phí sử dụng vừa cải thiện được đời sống, mức phí không ảnh hưởng nhiều đến thu nhập của họ. Hiện nay, phí giao thông, thuỷ lợi còn cao so với mức thu nhập của nông dân, đặc biệt giá điện còn ở tình trạng rất cao. Vì vậy, cần phải có chính sách bình đẳng về giá điện cho nông dân, cố gắng giảm phí thuỷ lợi, giao thông tới mức có thể so với mức hiện nay. Những khoản tiền thu từ phí sử dụng công trình cơ sở hạ tầng sẽ có tác dụng tăng thêm nguồn thu cho quỹ xây dựng để đầu tư trở lại nâng cấp, sửa chữa, xây dựng mới các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn và cũng là để hạn chế hiện tượng tiêu dùng quá mức không cần thiết. Phí sử dụng cần được thu qua hai cách, đó là: + Đối với các công trình cơ sở hạ tầng có chi phí giao dịch thấp nên thu lệ phí đối với người sử dụng sau mỗi lần sử dụng. + Đối với các công trình cơ sở hạ tầng có chi phí giao dịch quá tốn kém nên thu phí thông qua đánh thuế sử dụng các công trình. III.2.2.d.Giải pháp về sử dụng vốn: Điều kiện nhu cầu về vốn đầu tư lớn trong khi khả năng còn hạn chế thì một trong các biện pháp quan trọng để thực hiện tốt các mục tiêu đề ra đó là sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. Do đó, khi lập các dự án tiền khả thi, tới khả thi thì cần phải xem xét tới hiệu quả kinh tế- xã hội mà dự án đem lại. Lấy chỉ tiêu kinh tế- xã hội làm chỉ tiêu hàng đầu cho việc xét duyệt, lựa chọn các dự án. Bên cạnh đó, cần phải xem xét dự án có phù hợp với qui hoạch phát triển lâu dài không. Đặc biệt, việc đầu tư cho hệ thống hạ tầng có thể phân kỳ đầu tư mà vẫn đảm bảo chất lượng công trình, điều quan trọng là cần phải phân bố và sử dụng vốn đầu tư hợp lý, đảm bảo kịp tiến độ thi công nhưng không làm ứ đọng vốn. Việc tổ chức đấu thầu cho các công trình lớn, đơn vị nào có dự toán thấp nhất đảm bảo thắng thầu sẽ góp phần tiết kiệm được nguồn vốn đầu tư. Khi lập dự toán phải tính toán được qui mô công trình sao cho xác đáng, tránh tình trạng chi vượt dự toán, đảm bảo tính khách quan khi duyệt thiết kế cần có một cơ quan khác. Trong quá trình đầu tư, huyện cần chú trọng đến chất lượng của đầu tư, tránh tình trạng chạy theo thành tích hoàn thành vượt mức kế hoạch gây thất thoát và lãng phí. Cụ thể, các công trình đã đầu tư xong thì phải quan tâm đến chất lượng, khả năng đảm bảo tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật đã đề ra. Hơn nữa, trong quá trình đầu tư không thể thực hiện theo số lượng mà phải xem xét dưới góc độ chất lượng, nghĩa là làm sao đầu tư với chi phí vốn thấp mà đem lại hiệu quả cao nhất. Vì vậy, trong thời gian tới cần thực hiện một số biện pháp sau: + Tăng cường công tác quản lý, kiểm soát chi phí cho công trình, bảo đảm sử dụng vốn đầu tư theo đúng mục đích, kế hoạch, tiết kiệm hiệu quả và theo đúng chế độ quản lý tài chính của Nhà nước + Ưu tiên đầu tư cho những khu vực quan trọng trên cơ sở đã xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội huyện một cách cụ thể và chi tiết. + Gắn trách nhiệm của chủ đầu tư với hiệu quả sử dụng vốn đầu tư III.2.2.e.Giải pháp về tín dụng Nguồn vốn đầu tư ( bao gồm cả vốn tín dụng của Nhà nước và tín dụng của ngân hàng) từ tín dụng có vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp- nông thôn nói riêng và quá trình đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng. Đây chính là kênh vốn bổ sung cho nguồn vốn ngân sách còn đang hạ hẹp. Do vậy, ngày càng tăng cường nguồn vốn này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển. Để nguồn vốn này phát huy hiệu quả cần phải thực hiện các giải pháp sau: Thứ nhất: Về nhận thức cần làm rõ cho các cấp, các ngành và nông dân tín dụng là nguồn vốn chủ yếu cho nông dân để phát triển kinh tế- xã hội ngoại thành. Thứ hai: Dự báo nhu cầu vốn tín dụng nhà nước cho hộ nông dân trong thời gian tới (2001- 2005). Thứ ba: Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng cho nông dân (ngân hàng, quỹ quốc gia giải quyết việc làm…) Thứ tư : Tăng cường nhu cầu thực sự về vốn của các hộ nông dân ( kích cầu vốn tín dụng đối với các hộ nông dân). Thứ năm: Đào tạo nông dân, hỗ trợ họ trở thành những người chủ thực sự có khả năng vay vốn, giải ngân vốn và có ý thức trả nợ Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước và thành phố đối với việc quản lý vốn của Nhà nước cho nhân dân vay: Có hướng dẫn thống nhất về xử lý nợ quá hạn giữa các văn bản pháp luật của Nhà nước và các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội trên địa bàn. Tăng cường quản lý Nhà nước để giảm thiểu tối đa rủi ro trong kinh doanh Thứ sáu: Mở rộng tín dụng nông thôn cả về nguồn vốn, phạm vi và hình thức hoạt động, cho nông dân vay vốn với lãi xuất ưu đãi, thủ tục đơn giản, linh hoạt về mức vay, thủ tục vay, biện pháp thế chấp, tín chấp và phương thức cho vay (cho vay tổ chức hay thông qua tổ chức, đại diện). Ngoài ra, cần tranh thủ các nguồn vốn thuộc chương trình của Nhà nước: vốn hỗ trợ giải quyết việc làm, vốn vay từ quỹ xoá đói giảm nghèo, vốn ODA và các chương trình khác. III.2.2.f.Huy động nguồn vốn nước ngoài: Đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận quan trọng của hoạt động đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên, do những hạn chế của nông nghiệp, nông thôn nên số lượng các dự án và vốn đầu tư vào khu vực này còn rất ít. Do vậy, huyện và Sở Kế hoạch- Đầu tư nên thực hiện mạnh mẽ chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn nói chung và lĩnh vực hạ tầng cơ sở nói riêng để bổ sung cho nguồn vốn trong nước. Để thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đặc biệt là đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn cần phải thực hiện các công việc sau: + Về chính sách cần có sự ưu tiên đối với các dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn hơn so với các dự án khác, quan trọng nhất là chính sách thuế, ruộng đất, thủ tục duyệt và cấp giấy phép đầu tư. + Sớm tổng kết và rút kinh nghiệm về các dự án đầu tư cho nông nghiệp trong những năm qua. Khẩn trương nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội (giao thông, điện, nước, thuỷ lợi..). Thực hiện tốt điều này sẽ góp phần thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài và đến lượt mình số vốn này lại được đầu tư trở lại xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa cho hệt hống cơ sở hạ tầng nông thôn. III.2.3.Một số giải pháp khác: III.2.3.a.Các giải pháp về chính sách phát triển nguồn nhân lực: Đào tạo những kiến thức về đầu tư, nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý: Đầu tư là một lĩnh vực rộng lớn, bao gồm nhiều kiến thức về những lĩnh vực như lập dự án, thị trường vốn, đấu thầu, thẩm định dự án, luật đầu tư và các kiến thức về đầu tư nước ngoài. Vì vậy, để thực hiện tốt được các công việc được giao và có những quyết định đúng đắn, chính xác về đầu tư đối với mục tiêu đề ra của Nhà nước và thành phố thì huyện cần phải có kế hoạch rõ ràng, tiêu chuẩn cần thiết khi tiếp nhận cán bộ vào làm việc, thường xuyên cử cán bộ đi học hoặc mở các lớp đào tạo, tập huấn về kiến thức đầu tư cho cán bộ công nhân viên, tạo điều kiện cho cán bộ, công nhân viên tiếp cận kịp thời với những thay đổi thường xuyên của nền kinh tế. Chống nạn tham ô cửa quyền, gây thất thoát nguồn vốn đầu tư. Kiên quyết xử lý các biện pháp mờ ám không minh bạch trong xét duyệt trúng thầu. Cần động viên các xí nghiệp đầu tư, ủng hộ vốn cho các ngành cơ sở hạ tầng. Chính sách phát triển nguồn nhân lực: Kinh nghiệm của nhiều nước đi lên từ nông nghiệp trong khu vực đều ghi nhận rằng: để có thể tiếp thu có chọn lọc các thành tựu công nghệ, tri thức quản lý, kinh nghiệm quản ký kinh doanh của các nước đi trước, nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển nông thôn trong điều kiện cạnh tranh gay gắt thì công tác giáo dục đào tạo và bồi dưỡng nguồn lao động có vai trò vô cùng quan trọng. Đây cũng là vấn đề đòi hỏi sự quyết tâm nỗ lực lớn lao của cả phía Nhà nước và bản thân từng người dân. + Hệ thống giáo dục tốt là tiền đề, là điều kiện quan trọng để có thể thực hiện các yêu cầu của công cuộc đổi mới phục vụ sự phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng cũng như phát triển cơ sở hạ tầng nói chung. Trước mắt cần áp dụng nhiều biện pháp (thông qua chế độ tiền lương, tiền thưởng), phong cấp các chức danh cao quý để nâng cao vị trí xã hội của người lao động có kỹ năng, những chuyên gia kỹ thuật đang công tác tại nông thôn phù hợp với thành tích đóng góp thực tế cuả họ. Bằng cách này xây dựng lại động cơ học tập cho thế hệ trẻ, tạo sự an tâm khi làm việc tại nông thôn. Thực hiện đổi mới chương trình và phương pháp giáo dục ở các cấp phổ thông theo hướng kết hợp đào tạo phổ cập và bồi dưỡng năng lực thực hành nghề nghiệp của học sinh phù hợp với cơ cấu sản xuất và ngành nghề ở địa phương. Đa dạng hoá hình thức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ngành nghề cho người lao đông ở các lứa tuổi khác nhau (học hàm thụ, học tại chức, bồi dưỡng ngắn ngày, học theo chuyên đề tự đăng ký...), khuyến khích hoạt động của nhiều loại tổ chức đào tạo, bồi dưỡng (trường công, bán công, trường tư..), chú trọng bồi dưỡng những kiến thức về kinh tế thị trường, quản lý kinh doanh cho đông đảo tầng lớp nhân dân đặc biệt cho các chủ doanh nghiệp nhỏ, cho tầng lớp thanh niên. + Đào tạo lao động và chuyên gia để xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn, công nhân chuyên sâu một nghề nhưng am hiểu nhiều nghề. Xây dựng và hoàn thiện dần chương trình đào tạo kỹ sư ngành phát triển nông thôn, ngành tổng hợp thuỷ lợi, nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông, điện, cơ khí, tuỳ từng địa điểm mà có nội dung thay đổi thích ứng. Đào tạo đáp ứng nguồn nhân lực cho nông thôn cũng như nguồn nhân lực cho sự phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn cũng là nhằm phát triển nông thôn một cách bền vững. III.2.3.Các giải pháp về kỹ thuật công nghệ: Cùng với giáo dục đào tạo, việc nhanh chóng phỏ cập các tiến bộ khoa học công nghệ trong nhân dân là con đường có hiệu quả đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu và hiện đại hoá nông thôn. Trong trời kỳ này, các nỗ lực khoa học, công nghệ rất cần thiết trong phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Với yêu cầu tăng mức đầu tư cho công tác nghiên cứu và phổ cập khoa học công nghệ vào nông thôn nói chung và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng cần thực hiện ngay một số chế độ cụ thể nhằm khuyến khích mạnh mẽ các cán bộ khoa học công nghệ về công tác tại nông thôn. Dành ưu tiên cao cho việc trang bị và hiện đại hoá cơ sở vật chất của các trạm, trại ở địa phương, phục vụ có hiệu quả công tác chỉ đạo sản xuất và phổ cập các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Cần sắp xếp một bước cơ bản về mạng lưới các viện, trung tâm kha học kỹ thuật hiện có. Phát triển cơ sở hạ tầng cần thực hiện hai khía cạnh sau: Chuyển giao công nghệ đô thị hoá nông thôn: + Huy động các đơn vị, các chuyên gia, tổ chức trong và ngoài nước thiiết kế các mẫu, kiểu, mô hình các loại công trình công cộng, công trình phục vụ sản xuất, các công nghệ hạ tầng kỹ thuật phục vụ xây dựng đường, cung cấp năng lượng cấp nước, thuỷ lợi…áp dụng vào từng địa bàn có đặc thù khác nhau. Mặt khác, nghiên cứu, ứng dụng, cải tiến các mô hình, mẫu, kiểu các công trình đã có trong và ngoài nước phù hợp với địa bàn. + Để tập trung các thành quả nêu trên, ở trung ương cần có một trung tâm nghiên cứu chuyển giao công nghệ cơ sở hạ tầng nông thôn, cấp đủ kinh phí cho trung tâm hoạt động với chức năng thu thập thông tin công nghệ, kiến nghị áp dụng đại tra và thông tin tuyên truyền, vận động ứng dụng công nghệ có hiệu quả cao. + Phân cấp đầu tư vốn cho nghiên cứu và chuyển giao công nghệ như sau: Vốn ngân sách trung ương cho các công trình, đề tài, đề án, thiết kế quy hoạch, các công nghệ, xây dựng thực nghiệm mang tính chất chung phổ biến. Vốn ngân sách các địa phương, các ngành để nghiên cứu các đề tài, đề án, công nghệ xây dựng thực nghiệm mang tính chất đặc thù tuỳ theo tính chất của từng địa điểm. Phát triển vật liệu xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn: Để phục vụ tốt việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tiết kiệm nguyên vật liệu, tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước, đề phòng thiên tai hoả hoạn cần nghiên cứu chính sách sản xuất, cung ứng vật liệu xây dựng thích hợp với công nghệ chuyển giao, đáp ứng cho nhu cầu xây dựng từng địa phương. Về mặt này Gia Lâm tận dụng các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng sẵn có và nguồn vật liệu xây dựng tại chỗ để xây dựng các công trình. Tóm lại, chúng ta hi vọng rằng cùng với tốc độ phát triển kinh tế đáng mừng của huyện Gia Lâm trong mấy năm qua cũng như quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đang diễn ra nhanh chóng, mạng lưới kết cấu hạ tầng sẽ sớm khẳng định vai trò của mình và ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. Kết luận Đầu tư cho nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn là vấn đề lớn phức tạp, có liên quan đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nước ta hiện nay, chiến lược đầu tư nói chung và chính sách đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng gắn liền với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó nông nghiệp là ngành sản xuất chính. Quán triệt Nghị quyết của Đại hội IX, các ngnàh, các cấp của trung ương và địa phương đã từng bước triển khai, không chỉ nghiên cứu về lý luận mà còn có hành động cụ thể. Từ một nước nông nghiệp với kỹ thuật sản xuất lạc hậu, thu nhập thấp, còn mang nặng tính tự cấp tự túc chuyển sang nền kinh tế công nghiệp hoá- hiện đại hoá là một việc làm vô cùng khó khăn. Từ định hướng, bước đi, phạm vi và đặc biệt là các giải pháp nhằm khai thác nội lực, nắm được xu hướng của thời đại, hoà nhập vào khu vực và quốc tế là rất cần thiết. Là một huyện ngoại thành Hà Nội, có vị trí thuận lợi và có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế xã hội, trong những năm đổi mới cơ chế kinh tế vừa qua, huyện đã đạt được những thành quả đáng mừng: tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhanh từ 14- 16%, công nghiệp phát triển với tốc độ cao, các ngành dịch vụ, nông nghiệp phát triển nhịp nhàng, tốc độ đô thị hoá của huyện Gia Lâm diễn ra hết sưc nhanh chóng. Trong tương lai xu thế phát triển của huyện ngày càng mạnh mẽ. Song cùng với quá trình phát triển đó sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn ngày càng rõ nét. Chính vì vậy, việc đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn huyện Gia Lâm có ý nghĩa quan trọng. Để thực hiện thành công công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn trong những năm tới chúng ta cần có những yếu tố nội sinh để làm tiền đề. Một trong những yếu tố này là cơ sở hạ tầng nông thôn. Cơ sở hạ tầng nông thôn nhất thiết phải có, nó là nhân tố để thu hút vốn đầu tư, để khai thác tiềm năng của vùng mang lại lợi ích cho quá trình tăng trưởng. Mặt khác nó tạo điều kiện cho một sự phát triển công bằng. Song thực tế hiện nay, cơ sở hạ tầng nông thôn nước ta nói chung và Gia Lâm nói riêng chưa cân xứng với yêu cầu và tầm vóc của một ngành kinh tế thu hút tới 75% lực lượng lao động. Vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản ở nông thôn còn ít và chưa đáp ứng được sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước nhất là sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Qua một số đánh giá về hiện trạng cơ sở hạ tầng của huyện cho thấy nhìn chung cơ sở hạ tầng Gia Lâm phát triển tương đối với tốc độ phát triển kinh tế, dịch chuyển kinh tế của huyện, cơ sở hạ tầng của huyện có bước phát triển hơn các vùng ngoại thành khác. Tuy nhiên với tốc độ đô thị hoá nhanh như hiện nay thì cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng của huyện chưa đáp ứng đủ, vẫn còn yếu kém nhất là các xã nông nghiệp xa trung tâm. Như vậy, Gia lâm muốn đưa nền kinh tế phát triển nhanh hơn nữa trong những năm tới thì vai trò, vị trí của việc quy hoạch, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất đủ lượng làm tiền đề cho sự nhảy vọt kinh tế huyện Gia Lâm trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn càng được khẳng định và đang trở nên ngày càng cấp thiết. Trong tương lai Gia Lâm sẽ phát triển kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Để có được sự dịch chuyển này thì kinh tế- xã hội nông thôn phải phát triển, trình độ dân trí phải cao, khi đó ngành nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá có quy mô. Trước mắt cũng như lâu dài cần tập trung giải quyết những khó khăn cho việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn như hiện nay. Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế đầu tư, ĐHKTQD - PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai. Nhà xuất bản giáo dục năm 1998. Báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Quốc hội khoá X ngày 18 tháng 11 năm 1999. Dự án phát triển đa dạng hoá nông nghiệp của huyện Gia Lâm. Đề án phát triển kinh tế xã hội Gia Lâm 2000 – 2010 theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với CNH – HĐH và đô thị hóa. Niên giám Thống kê 1998- 2000. Lương Xuân Chính: Báo cáo Th.S – Bước đầu nghiên cứu tình hình CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn huyện Gia Lâm. Nguyễn Điền: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở các nước Châu á và Việt Nam, nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 1997. PGS.TS Trần Văn Chử - Kinh tế học phát triển - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1999. Báo cáo kết quả thực hiện chương trình phát triển kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới huyện Gia Lâm 1999. Tạp chí: Những vấn đề kinh tế thế giới, Nghiên cứu kinh tế, Kinh tế dự báo, Kinh tế phát triển, Tài chính, tạp chí tổng luận khoa học- kỹ thuật- kinh tế các năm 1998, 1999, 2000. Báo đầu tư: năm 1998, 1999, 2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0025.doc
Tài liệu liên quan