Tóm tắt.
Bài báo này giới thiệu một số kết quả nghiên cứu đánh giá tác động của các công trình
đến các trường thủy động lực vùng cửa sông ven biển Cửa Tùng, sông Bến Hải tỉnh Quảng Trị
bằng bộ mô hình MIKE 21 với các mô đun HD, SW và ST, từđó phân tích nguyên nhân dẫn đến
các hiện tượng bồi xói bất thường trong khu vực, làm tiền đề cho việc đề xuất và quy hoạch các
công trình chỉnh trị phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã hội và môi trường.
Đánh giá tác động công trình đến bức tranh thủy động lực khu vực cửa sông ven bờ Bến Hải, Quảng Trị
8 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1761 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá tác động công trình đến bức tranh thủy động lực khu vực cửa sông ven bờ Bến Hải, Quảng Trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442
435
_______
Đánh giá tác động công trình đến bức tranh thủy động lực
khu vực cửa sông ven bờ Bến Hải, Quảng Trị
Nguyễn Thọ Sáo1, Trần Ngọc Anh1,*, Nguyễn Thanh Sơn1, Đào Văn Giang2
1Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN,
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
2Trung tâm Hải văn, Tổng cục biển và hải đảo, Bộ Tài nguyên và Môi trường
Nhận ngày 11 tháng 8 năm 2010
Tóm tắt. Bài báo này giới thiệu một số kết quả nghiên cứu đánh giá tác động của các công trình
đến các trường thủy động lực vùng cửa sông ven biển Cửa Tùng, sông Bến Hải tỉnh Quảng Trị
bằng bộ mô hình MIKE 21 với các mô đun HD, SW và ST, từ đó phân tích nguyên nhân dẫn đến
các hiện tượng bồi xói bất thường trong khu vực, làm tiền đề cho việc đề xuất và quy hoạch các
công trình chỉnh trị phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã hội và môi trường.
Từ khóa: MIKE, vùng cửa sông ven biển, Cửa Tùng, công trình chỉnh trị sông
1. Đặt vấn đề∗
Trong những năm gần đây các hoạt động
kinh tế, du lịch biển phát triển mạnh, nhiều các
công trình được xây dựng ở vùng cửa sông ven
biển như cầu, cảng, kè chắn sóng... đã phần nào
tác động đến các yếu tố thủy động lực trong
vùng. Các tác động này có thể theo hướng tích
cực như chống bồi lấp luồng tàu, bảo vệ các
vùng xung yếu hoặc cũng có thể tiêu cực như
gây xói lở cục bộ, làm hư hại hoặc phá hủy các
công trình lân cận. Vùng cửa sông ven biển Cửa
Tùng sông Bến Hải tỉnh Quảng Trị gần đây có
sự thay đổi mạnh mẽ về hình thái [1]. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi đó có
thể là các công trình mới xây dựng ở khu vực
này do có sự trùng hợp về thời điểm xuất hiện
công trình với các hiện tượng bồi xói bất
thường ở các bãi biển trong khu vực. Khi có
mặt các công trình như cầu, đê chắn cát,
cảng,… trường thủy động lực sẽ có những biến
đổi nhất định và có tác động đến các quá trình
vận chuyển bùn cát ven bờ do vậy có thể gây
ảnh hưởng đến hình thái vùng cửa sông ven
biển.
∗ Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-38584943.
E-mail: anhtnvnu.edu.vn
Bài báo này giới thiệu một số kết quả
nghiên cứu đánh giá tác động của các công
trình đến các trường thủy động lực vùng cửa
sông ven biển Cửa Tùng, sông Bến Hải tỉnh
Quảng Trị bằng công cụ mô hình toán, từ đó
phân tích nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng
bồi xói bất thường trong khu vực, làm tiền đề
cho việc đề xuất và quy hoạch các công trình
chỉnh trị phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã
hội và môi trường kinh tế xã hội và môi trường.
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 436
2. Khái quát khu vực nghiên cứu
Bãi biển Cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị từng là
một trong những bãi tắm đẹp, thu hút nhiều du
khách. Hiện nay bãi biển phía bắc Cửa Tùng bị
xói lở mạnh, chỉ còn một khoảng không gian
nhỏ. Về tự nhiên, Cửa Tùng nằm ở một vị trí
địa lý phức tạp (hình 1), chịu ảnh hưởng của
các điều kiện tự nhiên như: sóng biển, thủy
triều, hải lưu, nước dâng và dòng bùn cát; dòng
chảy sông và các tai biến lũ lụt; gió mùa đông
bắc, tây nam và bão, nền địa chất phức tạp trên
khối bazan cùng với các chu kỳ biến đổi khí
hậu toàn cầu và các hoạt động kinh tế xã hội
đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực. Những
năm gần đây, bãi tắm phía bắc Cửa Tùng ngày
càng bị thu hẹp về không gian do sự xâm thực
ngày càng gia tăng cả về quy mô lẫn cường độ,
dẫn tới các tổn thất về du lịch [2].
Quang Tri Province
Hình 1. Vị trí khu vực nghiên cứu.
Nhằm đáp ứng các nhu cầu về giao thông,
giao thương giữa hai bờ Nam – Bắc sông Bến
Hải cũng như các hoạt động đánh bắt thủy sản,
giao thương với huyện đảo Cồn Cỏ, thời gian
gần đây đã có một loạt công trình được xây
dựng (hình 2) mà tiêu biểu là cầu Tùng Luật,
cảng cá Cửa Tùng và đê chắn cát mố phía nam
cầu Tùng Luật (gọi tắt là kè).
Cầu Tùng Luật được xây dựng vào năm
2004 ngay nơi dòng sông gặp biển, nối hai
huyện huyện Gio Linh và Vĩnh Linh. Cầu có
thiết kế dài 461 m, rộng 9m, tải trọng H30-
XB80, khổ thông thuyền 50m, tĩnh không 8,5 m
với 4 trụ cầu có kích thước mỗi trụ: 10,5mx 7m.
Kè Cửa Tùng bắt đầu được xây dựng từ
năm 2004, nằm phía bờ nam Cửa Tùng, bờ kè
được xây dựng có chiều dài 430 m, cao 1,5 m,
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 437
rộng 6 m với kết cấu bằng đá hộc và cốt thép
vươn dài ra biển nhằm mục đích chắn sóng,
chắn cát, giảm xói mòn trụ cầu Tùng Luật cũng
như ngăn chặn bồi lấp cửa phục vụ giao thông
thủy và an toàn hàng hải cho cảng cá Cửa Tùng.
Cảng cá Cửa Tùng bắt đầu được xây dựng
từ năm 2004, khi Sở Thuỷ sản Quảng Trị (nay
thuộc Sở NN-PTNT Quảng Trị) thực hiện dự án
khu neo đậu trú bão và hậu cần nghề cá với
mục tiêu là cung cấp bến neo đậu, tránh trú bão,
hậu cần nghề cá và hiện đại hoá khu sản xuất
nghề cá ven biển. Trước đây, tại vị trí cảng cá
Cửa Tùng là một eo biển kín gió, được một cồn
cát lớn nằm phía ngoài che chắn sóng biển. Khi
thực hiện dự án, hơn 200.000 m3 cát ở cồn này
bị múc đi đổ vào san lấp eo biển tạo thành một
bãi cát bằng phẳng chính là mặt bằng cảng cá
hiện nay.
Nhằm mục đích đánh giá tác động của các
công trình cầu – kè – cảng đến bức tranh thủy
động lực trong vùng, khu vực nghiên cứu được
xác định gồm hai miền: miền trong sông từ cầu
Hiền Lương đến cửa và miền biển ven bờ (xem
hình 3
3. Phương pháp tiếp cận
Để đánh giá tác động của công trình hoặc
hệ thống công trình đến chế độ thủy động lực
có nhiều phương pháp khác nhau, tuy nhiên sử
dụng (các) mô hình thủy động lực là phương
pháp rẻ và tin cậy đồng thời có thể cung cấp các
giải pháp thay thế cũng như các dự báo cho
tương tai. Hỗ trợ cho mô hình thủy động lực là
các biện pháp điều tra, thu thập và xử lý số liệu
để tăng cường độ tin cậy của các đầu vào yêu
cầu cho mô hình cũng như phân tích nhằm làm
sáng tỏ bức tranh thủy động lực trong khu vực
trước và sau khi có công trình, từ đó đánh giá
sơ bộ các luận điểm và sẽ được minh chứng lại
bằng các công cụ mô phỏng trong các bước tiếp
theo. Số liệu khí tượng, thủy hải văn trong khu
vực nghiên cứu đã được thu thập và cập nhật
đến năm 2008 cùng các nguồn số liệu khác như
tài liệu khảo sát địa hình năm 2000 và tài liệu
phân tích cấp hạt của TEDI, ảnh hàng không
chụp năm 2003, ảnh vệ tinh Google...
Bên cạnh đó nhằm bổ sung số liệu, hai đợt
khảo sát và đo đạc đã được thực hiện vào tháng
8/2009 và 4/2010 trong đó tập trung vào đo đạc
địa hình khu vực nghiên cứu phần dưới nước,
phần trên cạn, dòng chảy, sóng, gió, trầm tích
đáy và lơ lửng kết hợp với các điều tra thu thập
thông tin xã hội [1]. Số liệu khảo sát sau đó
được xử lý và đưa về các dạng tương thích phục
vụ công tác thiết lập mô hình ở bước tiếp theo
Hình 2. Sơ đồ bố trí công trình khu vực nghiên cứu.
Hình 3. Lưới phần tử hữu hạn dùng trong mô hình
MIKE 21 FM.
Cảng cá
Cầu Tùng Luật
Kè
K2
K1
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 438
4. Kết quả mô phỏng
Trên thế giới và trong nước hiện có nhiều
mô hình thủy động lực đang được áp dụng cho
nhiều mục đích khai thác khác nhau như nghiên
cứu, quy hoạch và thiết kế hệ thống công
trình... tiêu biểu có thể kể đến SORBEK (Hà
Lan), MIKE (Đan Mạch),…tuy nhiên, mỗi mô
hình đều có những ưu nhược điểm riêng và cho
đến nay vẫn chưa có một đánh giá toàn diện và
chi tiết về khả năng áp dụng trong thực tế của
các mô hình nói trên. Trong nghiên cứu này,
với mục tiêu mô phỏng và tính toán ảnh hưởng
của các công trình lên trường thủy động lực
vùng cửa sông ven biển Cửa Tùng - Quảng Trị,
bộ mô hình MIKE 21 đã được lựa chọn do đáp
ứng được những tiêu chí: a) Là bộ phần mềm
tích hợp đa tính năng (tính toán trường sóng,
dòng chảy, vận chuyển trầm tích, diễn biến địa
hình đáy; b) Đã được kiểm nghiệm thực tế ở
nhiều quốc gia trên thế giới [3]; c) Giao diện
thân thiện, dễ sử dụng và tương thích với nhiều
phần mềm GIS khác.
4.1. Thiết lập mô hình
* Miền tính và lưới tính
Miền tính được xác định từ khoảng vĩ độ
16º58’ N - 17º4’ N , kinh độ 107º3’ E - 107º10’
E, từ cầu Hiền Lương đến cầu Tùng Luật và từ
cầu Tùng Luật ra biển cách bờ khoảng 3,5 km
(hình 3). Để tính toán các trường thủy động lực
và sau đó đánh giá tác động công trình đến bức
tranh thủy động lực khu vực cửa sông ven bờ
Bến Hải, Quảng Trị trên cơ sở các tài liệu địa
hình đã có, nghiên cứu này đã lựa chọn lưới
phần tử hữu hạn với độ phân giải thay đổi tăng
dần từ ngoài biển vào sát bờ và cao nhất xung
quanh các công trình. Trong toàn miền diện tích
của phần tử lớn nhất là 100000 m2, nhỏ nhất là
100 m2, góc nhỏ nhất 23º; vùng tính toán được
rời rạc hóa thành 10767 phần tử với 5717 nút
lưới, độ phân giải thô nhất ở vùng ngoài khơi
khoảng 400m, mịn nhất vùng gần bờ và các
công trình khoảng 20m. Mỗi kịch bản tính toán
về sự tồn tại hay không tồn tại công trình sử
dụng một lưới tính khác nhau và hình 3 minh
họa một ví dụ về lưới tính với trường hợp hiện
trạng (có cả cụm công trình cầu - kè - cảng).
* Điều kiện biên
Ba mô đun HD, SW và ST có thể tính toán
riêng rẽ theo từng mục đích, tuy nhiên trong bài
này sử dụng kết quả mô hình FM liên hợp, tức
là tính toán trường thủy động lực có xét đến tác
động sóng, đồng thời với mô hình vận chuyển
trầm tích và biến đổi đáy. Như vậy mô hình
sóng được tính trước tiên với 3 hướng chính
NE, E và SE. Để tiết kiệm thời gian tính toán,
sóng được coi phát triển hoàn toàn và ổn định
trong suốt thời gian tính (ứng suất bức xạ không
đổi theo thời gian). Đối với tính toán sóng, sử
dụng điều kiện biên là độ cao, chu kỳ và hướng
sóng tại biên phía biển, tại biên phía bắc và nam
là điều kiện đối xứng. Trong tính toán mực
nước và dòng chảy sử dụng điều kiện biên tại
Bến Hải là mực nước hoặc lưu lượng, tại phía
biển là các hằng số điều hòa thủy triều của 8
sóng theo bản đồ đồng triều toàn cầu.. Điều
kiện biên đối với trầm tích lơ lửng là cân bằng
nồng độ, tham số trầm tích đáy lựa chọn là d50
= 0.27mm, độ chọn lọc cát là 1.4 [1].
4.2. Hiệu chỉnh và kiểm định mô hình
Mô hình được hiệu chỉnh và kiểm định với
tài liệu đo đạc dòng chảy và mực nước tại hai
điểm trong vùng nghiên cứu (1 điểm trong vùng
biển ven bờ K1 và 1 điểm trong vùng cửa sông
K2, gần khu cảng cá) với chuỗi số liệu từ ngày
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 439
12-18/8/2009 và từ ngày 21-28/4/2010. Kết quả
tính toán mô phỏng khá tốt đối với mực nước,
nhưng chưa tốt lắm đối với vận tốc. Mặc dù vậy
xu thế, dáng điệu và sự trùng pha tương đối phù
hợp với thực đo cho phép đánh giá mô hình
được thiết lập với bộ thông số đã hiệu chỉnh là
đáng tin cậy và có thể sử dụng cho tính toán các
kịch bản tiếp theo. Các kết quả tính toán dưới
đây ứng với trường hợp 12-18/8/2009, các hình
4, 5, 6.
Hình 5. So sánh lưu tốc đo và tính toán tại K2.
-0.6
-0.4
-0.2
0
0.2
0.4
0.6
12/8/2009 12:00 AM 14/8/2009 12:00 AM 16/8/2009 12:00 AM 18/8/2009 12:00 AM
Time
H
(m
)
Obs. Cal.
5. Đánh giá tác động các công trình
Trước hết cần nhận định rằng trong khu vực
nghiên cứu, trường thủy động lực do sông và
thủy triều không đáng kể so với trường sóng.
Biên độ thủy triều chỉ khoảng 45cm, dòng chảy
sông trung bình khoảng 20m3/s, trong khi độ
cao sóng có nghĩa xấp xỉ 3m tại ranh giới phía
đông khu vực ngiên cứu
Hình 6. So sánh mực nước đo và tính toán tại K2.
Mặc dù điều kiện sóng tại Cồn Cỏ rất đa
dạng, tuy nhiên Cồn Cỏ ở xa khu vực nghiên
cứu khoảng 34km, do đó cần lấy sóng Cửa
Tùng với ba hướng sóng cơ bản là NE, E và SE.
Hình hoa sóng tại Cồn Cỏ và Cửa Tùng dưới
đây cho thấy điều đó, lấy tháng 9-12 làm đại
diện (hình 7), các tháng khác xu thế cũng tương
tự
Để làm cơ sở so sánh và đánh giá tác động
của các công trình, ngoài việc tính toán với điều
kiện hiện trạng cụm công trình (cầu-kè-cảng) để
kiểm định mô hình ở trên, cần có kịch bản nền
ứng với điều kiện tự nhiên khi chưa có các công
trình.
Hình 4. So sánh lưu tốc đo và tính toán tại K1.
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 440
Hình 7. Hoa sóng tại Cồn Cỏ và Cửa Tùng trong các tháng 9-12.
Trước đây trong tình trạng tự nhiên, khu
vực cảng cá là một eo biển kín gió, được một
cồn cát lớn nằm phía ngoài che chắn sóng biển.
Khi thực hiện dự án, con người đã có những tác
động đáng kể đến địa hình đáy khu vực nghiên
cứu do vậy nghiên cứu này đã sử dụng tài liệu
địa hình 2000 [4,5] để làm kịch bản nền. Ngoài
ra, trên cơ sở các tài liệu về địa hình hiện trạng
và kích thước, hình dạng các công trình, thêm 3
kịch bản tính toán đươc thiết lập bao gồm: a)
Kịch bản 1: địa hình 2010 + cảng cá; b) Kịch
bản 2: địa hình 2010 + cảng + cầu; c) Kịch bản
3: địa hình 2010 + cầu + kè + cảng. Mỗi kịch
bản tính toán được thực hiện đầy đủ cả 3 mô
đun HD, SW và ST, ứng với các hướng sóng
thịnh hành là Đông Bắc, Đông và Đông Nam.
Tuy nhiên trong giới hạn của bài báo chỉ trình
bày minh họa kết quả tính toán trường dòng
chảy trong khu vực nghiên cứu ứng với trường
hợp sóng Đông Nam (hình 8-11).
Việc xây dựng cảng cá với các tác động
trực tiếp đến bar cát chắn cửa sông chắc chắn sẽ
mang lại nhiều thay đổi bức tranh thủy động
lực. Các phân tích dựa trên kết quả tính toán với
điều kiện địa hình 2000 và 2010 cho thấy, cảng
cá đã làm tăng đáng kể bề rộng mặt cắt ngang
cửa, nhưng cũng làm thu hẹp một phần phía
thượng lưu, dẫn đến thay đổi rõ nét về dòng
chảy trong khu vực, đặc biệt, trục động lực cửa
sông lệch dần sang phải nếu nhìn ra biển. Cửa
sông được mở rộng nên tạo cơ hội thuận lợi hơn
cho các trao đổi giữa hai thủy vực sông – biển
đồng thời tạo nên các xoáy cục bộ vùng lân cận
cửa làm tăng khả năng lắng đọng các hạt trầm
tích lơ lửng.
Hình 8. Trường dòng chảy sóng Đông Nam trường
hợp chưa có công trình.
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 441
Hình 9. Trường dòng chảy sóng Đông Nam kịch bản 1.
Hình 10. Trường dòng chảy trong sóng Đông Nam
kịch bản 2.
Hình 11. Trường dòng chảy trong sóng Đông Nam
kịch bản 3.
Mặt khác, sau khi xây dựng cầu đã làm cho
mặt cắt sông bị thu hẹp lai và kết hợp với các
trụ cầu đã làm thay đổi hướng của dòng chảy và
tạo lên các xoáy cục bộ phía sau trụ cầu. Mặc
dầu vậy không quan sát thấy sự gia tăng đáng
kể về vận tốc giữa các trụ cầu do ảnh hưởng của
dòng chảy sông trong khu vực không lớn và do
vậy các trụ cầu cũng không gây hiện tượng bồi
lắng hay xói lở sau cầu. Ngược lại đối với
trường sóng, sự xuất hiện các trụ cầu và mố cầu
đã cản trở sự lan truyền của sóng vào phía trong
sông, sóng gần như tắt hẳn ngay phía thượng
lưu cầu Tùng Luật.
Công trình kè (đê chắn cát) phía nam tác
động mạnh mẽ đến cả hướng sóng và dòng
chảy. Do hướng vuông góc với bờ, kè phía Nam
đã có tác dụng chắn toàn bộ sóng Đông Nam,
tạo nên vùng khuất sóng phía trong cửa. Đồng
thời với việc chắn sóng, kè cũng có tác dụng
ngăn dòng chảy do sóng dọc bờ hướng từ phía
Nam lên phía Bắc và kết quả phân tích cho thấy
kè đã giữ lại một lượng lớn cát ở phía Nam và
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 442
do đó đã hạn chế hiện tượng bồi lấp luồng trong
mùa sóng Đông Nam. Tuy vậy, kè cũng làm
xuất hiện một số xoáy cục bộ và làm tán xạ
sóng khiến cho sóng đi thẳng vào mố cầu phía
Nam, có thể gây hiện tượng sạt lở mố cầu trong
mùa sóng Đông Bắc. Mặt khác, kè cũng có tác
dụng đẩy dòng chảy sóng dọc bờ ra xa hơn,
khiến cho nguồn bùn cát phía Nam ít có cơ hội
tiếp cận cửa và bãi biển phía bắc Cửa Tùng. Đó
cũng có thể là một phần nguyên nhân của hiện
tượng thiếu hụt nguồn trầm tích bãi biển phía
bắc, làm mất cân bằng cán cân bùn cát và gây
hiện tượng xói lở bãi biển
Kết luận
Qua phân tích tài liệu và kết quả tính toán,
trường thủy động lực trong khu vực đã có
những thay đổi mạnh mẽ khi có sự xuất hiện
của các công trình. Tuy nhiên, các công trình
khác nhau có những tác động khác nhau trong
đó tác động của công trình cầu ít rõ nét trong
khi tác động của đê chắn cát và việc xây dựng
cảng cá là khá rõ ràng. Đây chính là những
nguyên nhân dẫn tới những biến đổi bất thường
về mặt hình thái trong khu vực. Nghiên cứu này
đặt cơ sở cho việc nghiên cứu đề xuất các biện
pháp giảm thiểu tác động bất lợi bảo vệ các
nguồn tài nguyên trong khu vực phục vụ phát
triển kinh tế xã hội bền vững.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Thọ Sáo, Nguyễn Minh Huấn, Ngô Chí
Tuấn, Đặng Đình Khá (2010), Biến động trầm
tích và diễn biến hình thái khu vực cửa sông ven
bờ Cửa Tùng, Quảng Trị, Tạp chí Khoa học,
ĐHQGHN, (đã nộp bản thảo tháng 8 năm 2010).
[2] Cổng thông tin điện tử, UBND tỉnh Quảng Trị
www.quangtri.gov.vn.
[3] Danish Hydraulics Institute (DHI). “MIKE21.
User’s Mannual”. 2007
[4] Báo cáo khảo sát địa hình-thủy văn. Công ty Tư
vấn Xây dựng Cảng đường thủy, Hà Nội, 2000.
[5] Báo cáo khảo sát địa chất công trình, Công ty Tư
vấn Xây dựng Cảng đường thủy, Hà Nội, 2000.
Assessment of structural impacts on hydrodynamic patterns
in Ben Hai river mouth and coastal zones, Quang Tri province
Nguyen Tho Sao1, Tran Ngoc Anh1, Nguyen Thanh Son1, Đao Van Giang2
1Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, Hanoi University of Science, VNU,
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
2Marine Center, General Service for Sea and Islands, MONRE
This paper describes the scientific researches of structural simpacts on hydrodynamic conditions in
Ben Hai river mouth and Cua Tung beach, Quang Tri province. These hydrodynamic patterns were
simulated by using MIKE 21 including hydrodynamics (HD), spectral wave (SW) and sand transport
(ST) modules. The research results may take a part in analysis of the reasons leading to beach erosion
and deposition in the study region. It may be served as the good information for planning and
proposing the suitable training measures for social economical sustainable development.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19) Sao, Anh, Son, Giang_435-442(8tr).pdf