Nhu cầu đánh giá chính sách ngày càng gia tăng
Hai cách tiếp cận truyền thống trong đánh giá định lượng các chính sách
1. Đánh giá sau các chính sách
1.1 Các khái niệm và định nghĩa trong đánh giá tác động
1.2 Các nguyên tắc đánh giá sau các chính sách 18
1.3 Các phương pháp
1.4 Các vấn đề và hạn chế trong đánh giá sau
2. Đánh giá trước các chính sách
2.1 Nguyên tắc đánh giá trước thông qua mô hình cân bằng tổng thể
2.2 Đánh giá tác động tới phân bổ thu nhập của việc
Việt Nam gia nhập WTO
2.3 Kết luận về tác động của việc gia nhập WTO Kết luận chung
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1777 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá tác động của các chính sách công: thách thức, phương pháp và kết quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ử các chính sách phát triển có thể được
nhìn nhận như một quá trình học hỏi, mỗi chính sách
rút ra những bài học thất bại hay những thiếu sót của
những chính sách trước đó một cách cấp tiến. Sau
cuộc khủng hoảng tài chính tấn công các nước Mỹ La-
tinh cuối những năm 1970, các chính sách điều chỉnh
cơ cấu được đưa ra để khắc phục những ngõ cụt của
các chính sách trước đó dựa vào việc thay thế hàng
nhập khẩu bằng các sản phẩm trong nước. Để phục
hồi nền tài chính công và các tài khoản ngoại thương
không chỉ phải triển khai các chính sách hiệu chỉnh
về bình ổn kinh tế vĩ mô mà còn phải nghiên cứu các
chính sách mang tính cơ cấu mạnh hơn nhằm giảm sự
can thiệp của Nhà nước và thúc đẩy xuất khẩu. Mối lo
lắng về tăng trưởng không công bằng đã xuất hiện từ
đầu những 1970 vào thời điểm phục hồi tăng trưởng
cuối những năm 1980 và dẫn đến việc chuyển từ điều
chỉnh cơ cấu sang đấu tranh chống nghèo khổ. Các
cuộc khủng hoảng tại Nga và châu Á cũng đòi hỏi phải
đặt ra câu hỏi về vai trò của các thể chế nhà nước và
phi nhà nước trong hoạt động của các nền kinh tế thị
trường. Những cuộc khủng hoảng như vậy đã khiến
các chính sách cải cách thận trọng hơn, và thúc đẩy
các hoạt động đánh giá mang tính tình thế đối với
những chính sách này. Do vậy, xây dựng “các chính
sách mới” dựa một phần vào kết quả đánh giá chính
xác sau (ex post) các chính sách triển khai trước đó1.
Hoạt động đánh giá phê bình này đòi hỏi phải đề cao
những tiêu chí chuẩn tắc mới (hiệu quả của khu vực tư
nhân, giảm tình trạng nghèo khổ...) và đề xuất ra các
chính sách được cho là sẽ cải thiện những tiêu chí này.
Khi đó ta bước chân vào lĩnh vực khó khăn là đánh giá
trước (ex ante).
Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học luận, các thuật ngữ
sau và trước vừa không đầy đủ vừa không rõ ràng2
vì biên giới giữa chúng nằm giữa đánh giá thực tế và
đánh giá triển vọng, hay thực nghiệm và mô phỏng.
Trong khi đó lý thuyết kinh tế lượng phân biệt tương đối
rõ các phương pháp thực nghiệm trực tiếp thông qua
chọn mẫu ngẫu nhiên với các phương pháp cho phép
biểu diễn mang tính cơ cấu hành vi của các tác phân và
thực hiện các mô phỏng triển vọng3. Theo nghĩa hẹp,
đánh giá sau tìm cách kiểm định xem liệu các mục tiêu
(về nguyên tắc được xác định rõ) của một chính sách
(đã được triển khai) có được thực hiện không thông
qua phương pháp thực chứng. Cách đánh giá này gần
với câu hỏi trong ngành dược phẩm “Phương thuốc
có tác dụng không?”, tức phải qua kiểm nghiệm thực
tế. Tuy nhiên, rất nhiều chính sách không thể áp dụng
cách đánh giá thực nghiệm hay giả thực nghiệm do
không có khả năng hình thành một nhóm giám sát.
Đó là các chính sách không có mục tiêu hay không
phân chia cấp độ, hay các chính sách có mục tiêu
nhưng có thể có tác động bên ngoài hay tác động kinh
tế vĩ mô đến toàn bộ người dân.
Chúng ta lấy ví dụ về chính sách quy định mức lương
tối thiểu đồng thời đặt câu hỏi về tác động của chính
sách lên việc làm và tình trạng nghèo khó. Đây chính là
chính sách không có mục tiêu do đó không thể đánh
giá chính sách này bằng cách so sách về mặt kinh tế
lượng có kiểm soát giữa một số tác nhân có liên quan
(đến mức lương tối thiểu) và các tác nhân không liên
quan. Do chỉ có một mức lương tối thiểu nên ta cũng
không thể phân cấp giữa các tác nhân có một mức
lương nào đó với các tác nhân có mức lương khác,
điều này sẽ cho phép so sánh một cách tương đồng.
Ta có thể quan sát, lần này là theo thời gian, những đợt
tăng lương tối thiểu có tác động thế nào đến việc làm
của các nhóm lao động, nhất là những đối tượng có
lương ban đầu gần với mức lương tối thiểu. Ta cũng có
thể mô hình hóa những trường hợp cá nhân đã thoát
1 Tuy nhiên, các chính sách cũng còn phụ thuộc vào thực trạng mối tưong quan lực lượng quốc tế và diễn biến chính trị tại
các nước phát triển.
2 Xin lưu ý trong trường hợp này, nghĩa của thuật ngữ « trước » và « sau » chỉ hơi gần với nghĩa của chúng trong lý thuyết hiện
đại về tư pháp theo đó trước (hay sau) chỉ cách đánh giá trạng thái thế giới trước (hay sau) khi một rủi ro xảy ra, có phân biệt
cách tiếp cận theo sự ngang bằng về cơ hội với cách tiếp cận theo ngang bằng về điều kiện (xem chương II của cuốn sách
này). Ngoài ra, còn có cách hiểu đơn thuần mang ý nghĩa kinh tế vĩ mô về cặp đối lập trước/sau giữa cân bằng bộ phận (các
kết quả « vòng đầu ») và cân bằng tổng thể.
3 Qua các phương pháp mô phỏng sau một thực nghiệm thực tế (« matching estimators ») và các phương pháp đánh giá tác
động nhân quả của một biến đã cho bằng chiến lược công cụ hóa « tự nhiên ». Tham khảo Heckman, 1999.
37Đánh giá tác động
nghèo và đánh giá tác động của thu nhập từ việc làm
nhận được vào thời điểm t-1 lên tình trạng nghèo khó
vào thời điểm t. Do đó cần phải giám sát chặt chẽ tình
hình kinh tế tại các giai đoạn khác nhau để trách nguy
cơ gắn những yếu tố tình hình với những biến động
về việc làm và thu nhập quan sát được mà hoàn toàn
không có mối liên quan nào đến mức lương tối thiểu.
Ngoài ra, nếu tăng lương tối thiểu tác động mạnh đến
kinh tế vĩ mô dưới bất kỳ dấu hiệu nào, thì những đánh
giá mang tính vĩ mô thuần tuý có thể sai lầm.
Bây giờ chúng ta chuyển sang ví dụ về chính sách
ngành công chính, là ngành có mức lương thấp, ví dụ
chỉ bằng một nửa mức lương tối thiểu hiện hành, đồng
thời đặt ra câu hỏi về tác động của chính sách này
lên tình trạng nghèo. Lần này, một số tác nhân được
chọn, một số khác thì không, và ta sẽ quan sát những
khác biệt giữa hai nhóm này, hoặc bằng cách lựa chọn
trước một cách ngẫu nhiên những tác nhân được thụ
hưởng từ tổng thể các ứng cử viên, hoặc sau đó thông
qua mô hình hóa việc tham gia vào chương trình và
tác động lên thu nhập của những đối tượng tham gia1.
Tuy nhiên, nếu chương trình có quy mô đủ lớn, những
lựa chọn của các đối tượng thụ hưởng chương trình
và tái phân phối thu nhập diễn ra sẽ tác động đến
phần còn lại của thị trường lao động và đến toàn bộ thị
trường hàng hóa và dịch vụ. Những ví dụ này cho thấy
phương thức đánh giá trong kinh tế có thể khác biệt rõ
rệt so với mô hình dược học về áp dụng một phương
pháp điều trị cho một tổng thể bệnh nhân. Trong nhiều
trường hợp, đánh giá sau cũng như đánh giá trước cần
phải thể hiện hoạt động của tổng thể nền kinh tế.
Tất nhiên, thêm một vấn đề đặt ra trong đánh giá
trước đó là đòi hỏi phải tiến hành các mô phỏng triển
vọng hơn là đánh giá nhìn lại. Khi một chính sách có
hệ quả làm thay đổi sâu sắc và lâu dài cơ cấu dân số
như trường hợp các chính sách giáo dục và y tế (ví dụ
đấu tranh chống SIDA), yếu tố triển vọng trở nên hết
sức quan trọng. Trong thực tế, cũng cần phải đánh giá
sau để so sánh một số chính sách thay thế. Nếu đánh
giá sau đi theo phương pháp thực chứng: “chính sách
này đã đạt được mục tiêu đề ra...” thì đánh giá trước
gần hơn với cách tiếp cận chuẩn tắc: “chính sách này
tốt hơn chính sách kia...”2. Khi đó, những thách thức
chính sách càng lớn thì tính độc lập trong đánh giá
càng mang tính nhạy cảm. Có rất nhiều ví dụ chứng tỏ
bản thân cơ cấu mang tính lý thuyết của các mô hình
được sử dụng đã cho thấy chính sách hướng tới sẽ có
tác động tích cực, việc áp dụng thực tế các mô hình
này chỉ để định lượng mức độ tác động. Như vậy, cơ
cấu của nhiều mô hình cân bằng tổng thể được xây
dựng để đánh giá các chính sách điều chỉnh cơ cấu
hay tự do hóa thương mại có xu hướng ưu tiên những
lợi ích về hiệu quả tĩnh thu được nhờ giảm thuế nội địa
và thuế xuất nhập khẩu. Nhưng những mô hình này
hạn chế tối đa những tác động quan trọng theo thuyết
Keynes trong ngắn hạn của việc giảm chi tiêu công,
những tác động co hẹp khi giảm nhanh mức độ bảo
hộ nền kinh tế, hay một số lợi ích về hiệu quả động
dài hạn phụ thuộc vào việc cung cấp các tài sản công
hay bảo vệ đổi mới ở địa phương. Ngược lại, những
chính sách của những năm 1970 đã được đánh giá
thông qua các mô hình hoạch định kế hoạch theo giá
cố định không tính đến những hệ quả chưa chắc chắn
của một cơ cấu giá tương đối hết sức lệch lạc. Như vậy,
thất bại hay thành công của các chính sách đã được
thực nghiệm đem lại những bài học không chỉ cho các
chính sách mới mà cả những phương pháp đánh giá
tương ứng. Bài học đầu tiên chính là sự khiêm tốn.
Các chương trong cuốn sách đã giới thiệu chi tiết nội
dung lý thuyết cũng như thực tiễn của các chiến lược
đấu tranh chống nghèo mới. Những chương này cho
thấy quá trình chuyển đổi đang diễn ra như thế nào
giữa các chính sách điều chỉnh cơ cấu áp dụng từ
khoảng 20 năm nay và các chính sách đang xây dựng
nhằm đấu tranh một cách hiệu quả hơn hiện tượng
nghèo khổ. Ngoài ra, khía cạnh “có sự tham gia” của
phương thức xây dựng các chính sách này đem lại
nhiều tự do hơn để, hay ít ra người ta hy vọng như vậy,
những chính sách này đáp ứng tốt hơn nhu cầu dân
chủ, nhưng đồng thời cũng làm tăng tính không đồng
nhất của những chính sách này. Các phương thức
thương lượng viện trợ quốc tế mới, dưới hình thức các
lịch trình mục tiêu trung và dài hạn, phải giúp có được
thời gian cần thiết để đánh giá theo từng giai đoạn kết
quả đạt được.
Những chính sách mới
Tập trung vào giảm nghèo là hướng đầu tiên của các
phương pháp đánh giá. Những phương pháp này phải
cho phép đánh giá một cách thỏa đáng hệ quả của
các chính sách liên quan lên phân phối thu nhập cũng
như các yếu tố hàng đầu của phúc lợi như tiếp cận tài
sản công, y tế hay giáo dục. Đây là tham vọng rất lớn,
đòi hỏi phải lưu ý nhiều hơn đến tính không đồng nhất
của các nhóm dân cư xét về nguồn lực (thu nhập, vốn,
giáo dục, sức khỏe) giữa các tác nhân và về hành vi
ứng xử thể hiện đặc điểm của các tác nhân đó cũng
như môi trường họ sống.
1 Như để đánh giá chương trình việc làm của Ác-hen-ti-na « Trabajar » mà Jalan và Ravallion đề xuất (2002), bằng cách áp
dụng kỹ thuật matching estimators.
2 Như vậy có thể phân biệt hai giai đoạn. Giai đoạn đầu xem xét và làm sáng tỏ sự gắn kết mang tính lô-gíc của các tiêu chí
và của các chính sách đưa ra ; ở đây có thể tham khảo lý thuyết về sự công bằng. Giai đoạn hai dự báo tác động của những
chính sách này, tức mô phỏng áp dụng chính sách trong tương lai ; phương thức sử dụng ở đây là kinh tế lượng.
38 Khóa học Tam Đảo 2008
Một số yếu tố tiếp tục được áp dụng của các chính
sách bình ổn hay điều chỉnh cơ cấu phải được xem
xét không chỉ về khía cạnh kinh tế vĩ mô và tài chính
hay hiệu quả mà còn tác động phân bổ. Như vậy, các
chính sách tài chính công hay tiền tệ chứa đựng nguy
cơ làm tăng đáng kể tình trạng nghèo khổ từ nay về
sau thương không được các định chế quốc tế ủng hộ.
Tuy nhiên trong trường hợp không thể không áp dụng
những chính sách như vậy thì cần phải bổ sung thêm
các chính sách giảm sốc như các lưới an toàn hay bảo
hộ bằng thuế quan và/hoặc trợ cấp cho một số nhóm
dễ bị tổn thương.
Do vậy, các phương pháp đánh giá phù hợp với vấn
đề này phải có khả năng mô phỏng tác động phân bổ
của các chính sách kinh tế vĩ mô cũng như của các
chính sách giảm sốc. Dù có đổi mới đến mức nào,
những chính sách về thị trường lao động đều cho
thấy những khó khăn giống nhau. Do đó, các chính
sách về hoạt động công chính có sử dụng nhiều lao
động (workfare) phải được đánh giá và có tính đến tính
không đồng nhất của các ứng xử về cung lao động của
các tác nhân và tính không đồng nhất của các cơ hội
việc làm dành cho các tác nhân này cũng như những
tác động kinh tế vĩ mô tiềm năng của những hành vi
can thiệp này. Cũng tương tự như vậy đối với các chính
sách truyền thống hơn như chính sách giá nông sản
hay chính sách lương. Các chính sách liên quan đến
thuế nội địa và thuế xuất nhập khẩu càng phải lưu tâm
đến tính không đồng nhất của các hành vi tiêu dùng
và sự tồn tại của một khu vực phi chính thức phải tuân
theo các quy định về thuế (Gautier, 2002).
Các chính sách giáo dục, y tế hay cung cấp tài sản
công (cung cấp nước chẳng hạn) áp dụng các phương
pháp hơi khác. Trước tiên những phương pháp này
phải vượt ra ngoài mô hình xác định thu nhập và giá
đồng thời đưa vào những hành vi ứng xử khá đặc thù.
Các chính sách xác định giá các dịch vụ công hay hỗ
trợ cầu phải được đánh giá thông qua mô hình kinh
tế vi mô về cầu đối với những dịch vụ này. Đánh giá
những chính sách như vậy thường gặp hai khó khăn
sau đây: thứ nhất là ước lượng mức độ co giãn cầu của
các tác nhân theo giá của những dịch vụ này, thứ hai là
đánh giá ước tính số lượng và chất lượng cung hiện tại
của những dịch vụ này. Trên thực tế, mức độ phương
sai giá của những dịch này thường nhỏ trong các dữ
liệu kinh tế vi mô liên ngành mà những dữ liệu về tiêu
dùng các dịch vụ này thường cũ (tỷ lệ tới trường hay tới
các trung tâm y tế trong giai đoạn dài, sử dụng nước
tính theo khối,...). Ngoài ra, hiệu quả của các chính
sách xác định giá phụ thuộc vào sự tồn tại và chất
lượng của các dịch vụ được cung cấp gần mà điều này
thường khó đánh giá chính xác. Thêm vào đó, đánh
giá chúng đòi hỏi phải cân nhắc giữa số lượng và chất
lượng dịch vụ cung cấp, do đó, liên quan đến cung
phải tính được mức chi phí cải thiện chất lượng và liên
quan đến cầu phải đánh giá được tác động của việc
cải thiện chất lượng lên mức độ sử dụng dịch vụ.
Nhưng với tư cách là các chiến lược giảm nghèo, các
chính sách cung cấp dịch công, nhất là chính sách y
tế và giáo dục thường có mục tiêu dài hạn. Các chính
sách giáo dục nhằm mục tiêu tạo đảm bảo sự ngang
bằng về cơ hội và nâng cao thu nhập của thế hệ tiếp
sau. Hiệu quả của các chính sách trong những lĩnh vực
này được đặt ra và phụ thuộc vào biến động dân số
và thị trường lao động. Một chính sách đào tạo nhân
lực có chất lượng phù thuộc rất nhiều vào các chính
sách hỗ trợ phát triển cầu lao động và chuyên môn
hóa thương mại. Các chính sách y tế thường hướng
tới mục tiêu giảm tỷ lệ tử vong trong dài hạn, đảm bảo
ngang bằng về cơ hội đối với bệnh tật và sống sót, và
tăng cơ hội về thu nhập. Ta đều biết rất rõ vai trò bổ
sung của các chính sách y tế đối với các chính sách
giáo dục và trong dài hạn tác động tổng hợp của hai
loại hình chính sách này lên khả năng sinh sản. Đối với
dịch bệnh như SIDA có thời gian ủ bệnh rất dài, để có
thể đánh giá tác động tích cực của các chính sách
hiện nay phải chờ ít nhất khoảng 15 năm (Cogneau và
Grimm, 2002).
Câu hỏi về phân bổ khả năng tiếp cận các dịch vụ
công được đặt ra dưới khía cạnh địa lý. Trên thực tế,
một mặt có sự khác biệt tương đối rõ nét về không
gian tại đa phần các nước đang phát triển. Mặt khác,
các chính sách cung và giá cả ngày càng có xu hướng
được xây dựng trong bối cảnh có sự phân quyền về
mặt hành chính. Chính những lưu tâm như vậy đã thúc
đẩy sự ra đời mới đây của các “bản đồ về tình trạng
nghèo khó”1.
Không đồng nhất về cơ cấu, đa dạng trong hành vi
ứng xử và thay đổi về dân số-kinh tế
Trong tất cả các lĩnh vực, tiến bộ về phương pháp phân
tích các phân bổ và mô phỏng vi mô (xem phần tiếp
theo) cho phép vừa xem xét tính không đồng nhất của
các tổng thể vừa tiếp tục tiến hành thẩm định mang
tính đại diện về mặt thống kê. Ngoài ra, tiến bộ về kinh
tế vi mô của các hộ gia đình cho phép đánh giá tốt hơn
tác động do khác biệt về nguồn lực và bối cảnh vốn
làm hạn chế hành vi của các tác nhân. Xét về khía cạnh
kinh tế vĩ mô, có thể từ bỏ các mô hình gồm số lượng
nhỏ các tác nhân đại diện. Về kinh tế vi mô, có thể từ
bỏ việc áp dụng một cách đơn giản mô hình chuẩn về
người tiêu dùng. Hai khả năng này trên thực tế cũng là
những sự cần thiết. Tuy nhiên việc áp dụng chúng đòi
hỏi phải tách biệt khỏi sự thuận tiện về mặt tri thức của
mô hình cân bằng mang tính cạnh tranh.
1 Tham khảo Elbers, Lanjouw và Lanjouw (2001) và chương II về những rủi ro của các tiếp cận tĩnh về nghèo khó.
39Đánh giá tác động
Khung XIV.1.
Những vấn đề lý thuyết đặt ra bởi giả thuyết về tác nhân đại diện trong mô hình cân bằng chung
Việc phân tách các Ma trận Kế toán Xã hội không cho phép các mô hình cân bằng tổng thể được áp dụng vượt ra khỏi giả
thuyết về tác nhân đại diện mà chỉ khiến tác nhân tăng lên. Về mặt lý thuyết, sự tồn tại và tính duy nhất của cân bằng trong
mô hình của Arrow-Debreu chỉ được đảm bảo khi cầu thực tế của nền kinh tế có một số đặc tính (Hildenbrand, 1998). Giả
thuyết về một tác nhân đại diện có hàm lợi ích gần như lõm cho phép đảm bảo rằng những đặc tính này được tôn trọng ở cấp
độ cá thể, điều này giúp đem lại những nền tảng kinh tế cho mô hình đồng thời giải quyết các vấn đề phân bổ của nền kinh
tế. Theo Kirma (1992), giả thuyết này đặt ra nhiều vấn đề. Trước hết, không thể chứng minh một cách đáng tin cậy giả thuyết
theo đó tập hợp của nhiều cá thể, và tất cả đều cực đại, phản ứng như một cá thể cực đại. Cực đại cá thể không nhất thiết
tạo ra tính duy lý tập thể và việc tập thể thể hiện một khả năng duy lý nào đó thì không nhất thiết các cá thể trong tập thể đó
phản ứng một cách duy lý. Ngoài ra, nếu ta chấp nhận rằng các lựa chọn của tập hợp có thể được coi như các lựa chọn của
cá thể cực đại thì phản ứng của tác nhân đại diện khi điều chỉnh các tham số của mô hình ban đầu có thể không giống với
phản ứng cộng gộp của các cá thể mà tác nhân này đại diện. Do vậy, có thể tồn tại các trường hợp theo đó có hai tình huống
mà tác nhân đại diện thích tình huống thứ hai hơn tình huống thứ nhất, mỗi cá thể thích tình huống thứ nhất hơn tình huống
thứ hai. Cuối cùng, giải thích hành vi của một nhóm thông qua hành vi của một cá thể sẽ bị hạn chế. Tổng các hành vi kinh tế
đơn giản và chấp nhận được của một tập hợp các cá thể có thể tạo ra những năng động phức tạp, trong khi đó xây dựng một
mô hình cá thể có hành vi tương ứng với những năng động phức tạp này có thể khiến phải dự kiến một tác nhân có những
đặc điểm rất đặc biệt. Nói cách khác, sự phức tạp động trong hành vi của một tập hợp có thể bắt nguồn từ việc tập hợp các
cá thể bất đồng nhất có hành vi đơn giản.
Trước hết, phân tích mang tính mô tả phân bổ các biến
về thu nhập, giáo dục hay y tế cho thấy nếu chỉ xem
xét một vài trường hợp tiêu biểu hay một vài tác nhân
đại diện không đủ để phân tích chênh lệch giữa các
tác nhân cũng như tiến triển của những chênh lệch
này. Về mặt lịch sử, các mô hình cân bằng tổng thể
là những công cụ đầu tiên được áp dụng để giải đáp
cho loại câu hỏi này. Do vậy, các mô hình cân bằng
tổng thể ngày càng trở nên phong phú với việc xây
dựng các Ma trận Kế toán xã hội trong đó tài khoản
các hộ gia đình ngày càng chi tiết và được chia nhỏ1.
Sự phát triển này đã cho phép tiến hành các phân tích
dựa vào việc phân loại các hộ gia đình theo đặc điểm
và thu nhập.
Hai mô hình cân bằng tổng thể đầu tiên áp dụng cho
các nền kinh tế đang phát triển và cho vấn đề tác động
phân bổ của các chính sách kinh tế vĩ mô là mô hình
của Adelman và Robinson dành cho Hàn Quốc (1978)
và mô hình của Lysy và Taylor dành cho Brazil (1980).
Hai mô hình này tạo ra các kết quả khác nhau về tác
động của các chính sách kinh tế vĩ mô đối với phân bổ
thu nhập. Những khác biệt này được gắn với những đặc
điểm cơ cấu của hai nền kinh tế và những lựa chọn các
đặc điểm kỹ thuật của các mô hình. Sau đó, Adelman
và Robinson (1988) đã sử dụng lại hai mô hình này và
bảo vệ lập luận theo đó những khác biệt này không
phải do những lựa chọn khác nhau về cân đối kinh tế vĩ
mô mà do định nghĩa khác nhau về phân bổ thu nhập2.
(xem Khung XIV.1)
Cách tiếp cận tân cổ điển tập trung vào phân phối thu
nhập theo cá nhân, chủ yếu mang tính cá nhân chủ
nghĩa, còn trường phái theo thuyết cấu trúc của Mỹ La-
tinh được xây dựng theo quan điểm mác-xít về xã hội
coi xã hội được hình thành từ các giai cấp có đặc điểm
nổi bật là sở hữu các yếu tố sản xuất và có lợi ích xung
đột. Nói cách khác, trong khi những người theo thuyết
cấu trúc bảo vệ cách tiếp cận “mang tính chức năng”
của phấn phối thu nhập phân biệt hộ gia đình qua việc
sở hữu các yếu tố sản xuất thì những người theo trường
phái tân cổ điển thường áp dụng cách tiếp cận “mang
tính cá nhân” dựa vào phân loại các hộ gia đình theo
mức thu nhập. Sau cuộc tranh luận này, cách tiếp cận
được áp dụng phổ biến nhất hiện nay là phân loại theo
chức năng mở rộng kết hợp cả hai loại tiêu chí này
(Bourguignon, Branson, de Melo, 1989).
Để chuyển từ phân phối thu nhập giữa một vài nhóm
hộ gia đình sang một chỉ số tổng hợp về bất cân bằng
hay để tính toán mức độ nghèo khó, cần phải nêu rõ
đặc điểm phân phối thu nhập ở trong các nhóm có
liên quan. Giải pháp đơn giản nhất là giả định thu nhập
trong từng nhóm tuân thủ theo phân phối có tính chất
tham số phụ thuộc vào mức thu nhập trung bình và
các tham số khác xác định đặc điểm của phân tán thu
1 Các mô hình cân bằng tổng thể dựa vào cơ sở dữ liệu mang tên Ma trận Kế toán xã hội trong đó các luồng kinh tế được phản
ánh trong năm giữa các tác nhân và/hoặc các tài khoản. Trong mô hình này, thu nhập của các hộ gia đình được mô hình
hóa như là tổng thu nhập từ các yếu tố khác nhau của các hộ gia đình.
2 Việc điều chỉnh các yếu tố kinh tế vĩ mô xác định cách thức theo đó đạt được cân bằng giữa công và cầu tài sản, yếu tố và
tài sản tài chính, hoặc nhờ điều chỉnh giá, hoặc nhờ điều chỉnh số lượng. Những hệ quả do giới hạn về ngân sách bên trong
và bên ngoài và thời hạn điều chỉnh giữa thu nhập và đầu tư cũng được nêu rõ.
40 Khóa học Tam Đảo 2008
nhập xung quanh mức trung bình này1 . Như vậy, mức
thu nhập trung bình có thể được điều chỉnh để tuân
thủ kết quả của mô hình cân bằng tổng thể. Ngược
lại, không thể bỏ qua giả thuyết về tính cố định của
phân bổ thu nhập trong nhóm. Mà dù hệ thống phân
loại các hộ gia đình được áp dụng có tinh tế đến đâu
chăng nữa thì kết quả phân tích mang tính mô tả của
các phân phối thu nhập trong thực tế cho thấy bất cân
bằng trong nhóm luôn chiếm ít nhất một nửa tổng mất
cân bằng quan sát được (xem Bảng XIV.1). Ngay cả khi
một phần của mất cân bằng trong nhóm này có thể do
những sai sót trong đánh giá và các yếu tố đặc thù (tức
riêng cho từng cá thể hay hộ gia đình) nhưng chỉ tạm
thời của thu nhập, một phần khác là do tính bất đồng
nhất về mặt cơ cấu. (xem Bảng XIV.1)
Bất đồng nhất về mặt cơ cấu giữa các hộ gia đình cho
thấy trước hết mức độ đa dạng của các yếu tố sản xuất
dù đó là các tài sản như đất đai hay vốn hữu hình hay
đó là phân chia cung lao động theo độ tuổi và trình độ.
Sự đa dạng có mở rộng sang các yếu tố bất đồng nhất
có thể quan sát được (vị trí không giản chẳng hạn) hay
không quan sát được (do hoàn toàn mang tính đặc
thù), các yếu tố tác động đến năng suất của người lao
động và việc làm của các cá thể. Khi phân tích sự phân
bổ sức mua, thì đó là tính bất đồng nhất của các chỉ
tiêu về sinh hoạt phí, xuất phát từ những khác biệt về
nhu cầu và sở thích giữa các hộ gia đình.
Các công cụ bỏ qua tính bất đồng nhất cơ cấu này của
các hộ gia đình và cá thể sẽ dẫn đến những sai lầm
nghiêm trọng trong các kết luận rút ra liên quan đến
phân bổ thu nhập hay nghèo khó, giáo dục và y tế.
Ngoài ra, nghiên cứu thông qua mô phỏng các chính
sách mục tiêu (lưới an toàn, các chương trình việc làm
sử dụng nhiều nhân công, trợ cấp cho giáo dục và y tế)
dựa vào các đặc điểm có thể quan sát được của các
hộ gia đình hay các cá thể như số con chỉ có thể thực
hiện được nếu như các biến điều chỉnh việc chọn lựa
mục tiêu được bảo toàn trong mô hình sử dụng.
Trong ngắn hạn, tính bất đồng nhất cơ cấu này có
thể chịu tác động của việc sắp xếp lại cung lao động
thông qua các hành vi lựa chọn việc làm hay di cư hay
rời xa hệ thống trường học hoặc rời xa các hoạt động
vào cuối đời (kể cả tỷ vong) và do sắp xếp lại các giỏ
tiêu dùng là kết quả của các hình vi cầu sản phẩm. Do
vậy, cần phải mô hình hóa chính xác những kết quả
sắp xếp lại này đồng thời tôn trọng các bối cảnh thị
trường của các tác nhân. Trên thực tế, ta biết rằng xem
xét sự khiếm khuyết hay không hoàn hảo của các thị
trường lao động, sản phẩm hay tín dụng làm thay đổi
sâu sắc hành vi của các tác nhân. Đối với các hộ gia
đình sản xuất nông nghiệp, việc thiếu vắng thị trường
lao động địa phương sẽ dẫn đến những hành vi sản
xuất và tiêu dùng không đệ quy2. Đối với các hộ gia
đình thành thị, việc phân phối việc làm có trả lương
chính thức tạo ra sự phân đoạn thị trường lao động
làm hạn chế những lựa chọn hoạt động và việc làm;
lựa chọn phi ngẫu nhiên các cá thể trong tuyển dụng
hay sa thải của khu vực phi chính thức là nguồn gốc
gây ra sự bất đồng nhất giữa các nhóm có liên quan.
Mức độ không hoàn hảo của các thị trường tín dụng
quyết định mạnh mẽ đến các hành vi đến trường và
rời xa hoạt động.
Trong dài hạn, tính bất đồng nhất cơ cấu chủ yếu được
xác định qua biến động về dân số và tích luỹ tư bản.
Biến động dân số có thể là hệ quả của thay đổi chính
sách và kinh tế (nội sinh) hay hệ quả của các xu hướng
dài hạn của các hành vi dân số (ví dụ sự chuyển tiếp
về khả năng sinh sản), độc lập với thay đổi về chính
sách và kinh tế (ngoại sinh). Trong bối cảnh điều chỉnh
cơ cấu, các điều kiện sống xuống cấp ví dụ do giảm
thu nhập thực tế, có thể làm giảm khả năng mua thực
phẩm (thập chí gây ra nạn đói) và do đó làm tăng tỷ lệ
người mắc bệnh và tỷ lệ tử vong, nhất là đối với trẻ em
gia đình nghèo. Tương tự, các điều kiện y tế xuống cấp
do giảm các dịch vụ y tế có thể làm tăng tỷ lệ người
mắc bệnh và tỷ lệ tử vong. Hoạt động kinh tế đi xuống
cũng có thể khiến người dân trì hoãn việc sinh con hay
1 Ví dụ phân bổ loga-chuẩn trong De Janvry et alii, 1991 ; phân bổ bêta trong Decaluwé et alii, 1999.
2 Ta nói về hành vi không đệ quy khi các quyết định sản xuất và tiêu dùng của một hộ gia đình không thể được phân tích theo
từng loạt do sự không hoàn hảo, thậm chí là thiếu vắng một số thị trường.
BẢNG XIV.1. Phân tích mất cân bằng tổng thể tại Madagascar và Indonesia
Madagascar Indonésie
Phân tách Ma trận Kế toán Xã hội MCS 1995 Phân tách Ma trận Kế toán Xã hội 1995
(14 nhóm) (10 nhóm)
Theil inter 0,127 24,3 % 0,126 25,6 %
Theil intra 0,395 75,7 % 0,367 74,4 %
Theil total 0,522 100 % 0,493 100 %
Nguồn : Các cuộc điều tra EPM 93 và SUSENAS 96, tính toán của các tác giả.
41Đánh giá tác động
cưới hỏi và kéo dài thời gian cho con bú và do vậy kéo
dài thời gian nghỉ sinh. Ngược lại, giảm các chương
trình kế hoạch hóa gia đình và tăng giá các biện pháp
trách thai, đa phần là các sản phẩm nhập khẩu có thể
làm tăng tỷ lệ sinh sản. Phát triển lĩnh vực xuất khẩu
sẽ thu hút người di cư hay ngược lại phát triển nông
nghiệp có thể làm chậm lại hay đảo ngược quá trình
đô thị hoá1.
Các cú sốc dân số như giai đoạn chuyển giao về tỷ lệ
sinh, có thể liên quan đến phát triển giáo dục hay tăng
tỷ lệ tử vọng ở châu Phi cận Sahara dù đại dịch Sida,
cũng có thể làm thay đổi phân phối thu nhập. Những
biến động về dân số có thể được coi như độc lập với
những biến động về kinh tế trong ngắn hạn. Tác động
đến phân phối thu nhập của những biến động dân số
này có thể một phần là do những thay đổi trong cơ cấu
dân số - cơ cấu theo độ tuổi, phân bổ theo quy mô
hộ gia đình và tình trạng hôn nhân... – và một phần là
do thay đổi trong cung lao động và thu nhập do biến
động dân số (về điểm này, tham khảo Lam, 1997).
Tóm lại, có thể tồn tại các mối quan hệ tương tác chặt
chẽ giữa biến động về kinh tế và biến động về dân
số dù chỉ trong ngắn hạn. Những tương tác này phải
được lưu ý đến khi phân tích tác động tới phân phối
thu nhập của các cuộc cải cách chính sách hay hệ quả
của các cú sốc kinh tế vĩ mô hay dân số. Tuy nhiên,
cho đến thời điểm này, người ta ít tập trung phát triển
các công cụ phân tích có khả năng đánh giá và định
lượng những tương tác này2.
Các cách tiếp cận dựa vào việc sử dụng mẫu đại diện
các đơn vị kinh tế vi mô gần đây đã được phát triển
nhằm phân tích một cách thoả đáng những khía cạnh
khác nhau của sự bất đồng nhất của các hộ gia đình
và các cá thể với mục đích phân tích trước tác động
lên phân phối thu nhập của các chính sách chống
nghèo khó.
Các kỹ thuật tiểu mô phỏng ứng dụng
trong đánh giá các chính sách đấu tranh
chống nghèo khó
Thuật ngữ mô phỏng vi mô chỉ một số cách tiếp cận
được sử dụng trong khoa học xã hội. Mẫu thức chung
của chúng là quan tâm chủ yếu tới hành vi kinh tế của
các tác nhân và phân tích tác động của các chính sách
công và tác động tới các đơn vị kinh tế vi mô. Những
mô hình này chuyên sử dụng bộ mẫu đại diện các tác
nhân kinh tế vi mô (hộ gia đình hay doanh nghiệp) và
tìm cách đánh giá tác động của các chính sách lên
những mẫu này. Xuất phát điểm của phạm vi nghiên
cứu này là bài báo của Orcutt (1957) thể hiện sự lo
ngại trước thực tế là các mô hình kinh tế vĩ mô không
đem lại được nhiều điều về tác động của các chính
sách lên phân phối thu nhập của các tác nhân. Tại các
nước phát triển, các kỹ thuật mô phỏng được sử dụng
phổ biến để đánh giá tác động của các chính sách
như cải cách hệ thống hưu trí, y tế hay hệ thống thuế.
Tuy nhiên áp dụng các mô hình này vào các nền kinh
tế đang phát triển đặt ra một số vấn đề riêng biệt.
Trong trường hợp các mô hình mô phỏng vi mô áp
dụng vào đánh giá các chính sách đấu tranh chống
nghèo khó, chủ đề mà chúng tôi đặc biệt quan tâm,
các đơn vị kinh tế vi mô là các cá thể và hộ gia đình.
Các mô hình này thường tập trung nghiên cứu tình
trạng nghèo khó về tiền tệ và phân phối thu nhập. Do
đó, tất cả các cơ chế liên quan đến hình thành thu
nhập – như hình thành lương, lựa chọn nghề nghiệp,
cung lao động - đều có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên,
những mô hình này cho phép nghiên cứu những hành
vi khác như các quyết định liên quan đến cầu giáo dục
và y tế. Thay vì tổng hợp những quan sát rút ra được từ
điều tra hộ gia đình theo các nhóm đại diện – theo tập
quán phổ biến trong xây dựng các mô hình tổng thể
dạng mô hình cân bẳng tổng thể (xem phần trước) – thì
ở đây trực tiếp nghiên cứu tất cả các kết quả quan sát
của cuộc điều tra. Điều này thực hiện được là do năng
lực xử lý của máy tính ngày càng tăng và ngày càng có
nhiều cuộc điều tra về thu nhập và tiêu dùng.
1 Tapinos, Mason và Bravo (1997) phân tích những hiện tượng như vậy tại Mỹ La-tinh trong những năm 1980, giai đoạn khủng
hoảng và điều chỉnh kinh tế. Ví dụ các tác giả chứng minh rằng đối với một quốc gia Mỹ La-tin « trung bình », việc giảm GDP
trong khoảng 10% đến 15% - giá trị khá phổ biến tại khu vực này vào giai đoạn đó – làm giảm gần một năm tuổi thọ. Tác động
này chủ yếu do tỷ lệ tử vong trẻ em và ảnh hưởng trước hết tới người dân nghèo. Các kết quả cho thấy khủng hoảng đã làm
chậm việc cưới xin. Tại một số quốc gia, chỉ số tổng hợp về sinh sản đã giảm nhanh gấp ba lần trong giai đoạn khủng hoảng
so với trước đó. Những tác động lên phân phối thu nhập không được các tác giả phân tích trực tiếp nhưng ta có thể đoán
được mức độ phức tạp của chúng bởi những hiện tượng nêu ra có tác động không rõ ràng đến chỉ số phụ thuộc.
2 Thiếu các công cụ có thể do nhiều nguyên do. Trước hết, trong giai đoạn áp dụng các chính sách điều chỉnh cơ cấu, việc
phân tích kinh tế chủ yếu tập trung vào đánh giá tác động của các chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái, các chính sách tài
khóa và ngoại thương. Thứ hai, mặc dù bình ổn kinh tế vĩ mô làm mục tiêu trung tâm của các chính sách điều chỉnh cơ cấu,
phạm vi phân tích hiếm khi vượt quá ngắn và trung hạn. Trong khi đó các chính sách giáo dục và y tế cần rất nhiều thời gian
mới chứng tỏ được tác động của nó. Thứ ba, các số liệu kinh tế vi mô cần thiết để định lượng những mối quan hệ tương tác
như vậy không có, hiện nay tình trạng này dần được cải thiện.
42 Khóa học Tam Đảo 2008
Một đặc điểm quan trọng khác của
các mô hình mô phỏng vi mô là khả
năng tạo ra các tập hợp quốc gia
được tính toán bằng cách tổng hợp
các kết quả thu được ở cấp độ cá
thể. Đặc điểm này thể hiện qua việc
sử dụng các mẫu đại diện hộ gia
đình ở cấp độ quốc gia với mục tiêu
đảm bảo tính gắn kết giữa lý luận
kinh tế vĩ mô và đánh giá tình trạng
nghèo khó.
Nguyên tắc cơ bản để chạy các mô
hình mô phỏng vi mô là coi bộ mẫu
hộ gia đình như tổng thể tham chiếu
trên đó ta áp dụng các cú sốc về
chính sách kinh tế và, trong trường
hợp các mô hình động, các quá trình
dân số - sinh, tử, di cư... Còn trong
các mô hình tĩnh, tổng thể “nhằm
đến” tương tự như tổng thể tham
chiếu nhưng thu nhập và tiêu dùng
của hộ gia đình đã thay đổi. Trong
mô hình động, tổng thể được mô
phỏng là tổng thể khác do các quy
trình dân số (sinh, tử, di cư) làm thay
đổi cơ cấu của tổng thể. Trong cả
hai trường hợp, mục tiêu đề ra là
so sánh phân phối thu nhập hay
phân phối tiêu dùng trước và sau
khi mô phỏng cú sốc, bằng cách
sử dụng các phương pháp và biện
pháp chuẩn trong trong phân tích
tình trạng nghèo khó.
Để đánh giá tác động của các chính sách đấu tranh
chống nghèo khó, các mô hình mô phỏng vi mô thường
gắn với một khuôn khổ kinh tế vĩ mô hoàn chỉnh. Thuật
ngữ “ mô hình vi mô-vĩ mô” sẽ được sử dụng để chỉ sự
kết hợp một mô hình mô phỏng vi mô với một khuôn
khổ kinh tế vĩ mô (tham khảo Sơ đồ bên cạnh).
Ba cấp độ phân tích có vai trò quan trọng cần phải lưu
tâm để có thể phân tích một cách thỏa đáng tác động
của các chính sách kinh tế lên tình trạng nghèo khó và
phân phối thu nhập:
- ở cấp độ kinh tế vĩ mô, các đặc điểm mang tính cơ
cấu của nền kinh tế đóng có ý nghĩa quan trọng
cũng như những ràng buộc về kinh tế vĩ mô có khả
năng hạn chế phạm vi điều chỉnh của các nền kinh
tế theo những thay đổi của hệ thống giá và các biện
pháp kích thích ;
- ở cấp độ kinh tế vi mô, cũng cần phải nắm bắt được
các khía cạnh khác nhau trong tính không đồng
nhất của các hộ gia đình ;
- ở giữa hai cấp độ này, cơ cấu và vận hành của các
thị trường đóng vai trò trọng tâm trong việc xác định
khả năng sinh lời của các yếu tố.
Một số đặc điểm chủ chốt cho phép phân loại các mô
hình vi mô-vĩ mô sử dụng trong đánh giá tác động của
các chính sách đấu tranh chống nghèo khó. Những
đặc điểm này hoặc liên quan đến “mô-đun” mô phỏng
vi mô, hoặc khuôn khổ kinh tế vĩ mô, hoặc mối liên hệ
giữa hai cấp độ này.
Dưới góc độ mô-đun kinh tế vi mô, có một đặc điểm liên
quan đến biểu diễn các hành vi của các tác nhân. Khi
các hành vi không được xét đến, mô-đun mô phỏng vi
mô chứa ít nhất một phương trình kế toán hình thành
thu nhập. Khi đó ta gọi mô hình này là mô hình vi mô-
kế toán. Khi các hành vi kinh tế vi mô được biểu thị, loại
hình hành vi chính là một đặc điểm khác có tác dụng
phân biệt. Như vậy, một số mô hình chú trọng biểu
diễn cung lao động và lựa chọn nghề nghiệp còn các
mô hình khác lại quan tâm đến các hành vi liên quan
đến phổ cập giáo dục, di dân hay tiêu dùng. Ngoài
ra, các hành vi kinh tế vi mô có thể được biểu diễn
dưới dạng rút gọn hay mang tính cơ cấu. Các mô hình
mang tính cơ cấu là các hệ phương trình kết nối các
biến ngoại sinh, biến nội sinh và các tham số. Giải một
hệ phương trình sao cho các biến nội sinh được biểu
hiện tuỳ theo các biến ngoại sinh thường đem lại một
hoặc nhiều phương trình mà ta gọi là dạng hệ phương
Structure séquentielle avec
module de micro-simulation
sous forme réduite
- Bouclages macro-économiques - Bouclages macro-économiques
- Equilibre Epargne-Investissement
- Budget de l’Etat
- Balance courante
- Equilibre des marchés des facteurs
- Equilibre des marchés des biens
- Agrégats macro
- Production et prix
- Emploi des facteurs et salaires
Equations:
- Module réduit de choix d’occupation
- Equations de salaire et de profit
- Equation de formation du revenu
Equations:
- Module structurel de salaire et d’offre de
travail
- Système de demande de consommation
- Equation de formation du revenu
Variables de liens :
- Emploi des facteurs
et salaires
- Prix à la
consommation
Variables de
liens “Upward”:
- Offre de
travail agrégée
- Demande de
biens agrégée
Variables de
liens
“Downward”:
- Prix
- Salaires
- Agrégats macro
- Production et prix
- Demande de facteurs
- Demande de biens
Equation:
Output:
Output: Distribution des revenus
itérations
itérations
Output:
Equation:
Module Macro (modèle de type EGC)
Module Micro (Enquête de ménages)
Structure intégrée avec module
de micro-simulation sous forme
structurelle
SƠ ĐỒ – Cơ cấu chung của các mô hình vi mô-vĩ mô
43Đánh giá tác động
trình rút gọn. Do đó, các đặc điểm rút gọn xuất phát từ
các mô hình tân cổ điển mang tính cơ cầu về tối ưu hóa
có điều kiện và do đó mang những đặc tính chuẩn của
các mô hình này. Do tính chất rút gọn nên những đặc
điểm này không cho phép phân tích các hiện tượng
nội sinh về đưa ra quyết định, phân đoạn thị trường
và/hoặc phân phối hạn định ở cấp độ kinh tế vi mô.
Đặc điểm thứ hai cho phép phân biệt các mô hình
mô phỏng vi mô liên quan đến mô hình hóa các hiện
tượng ở cấp độ tổng thể, tức liên quan đến sự tồn tại
và đặc điểm của việc điều chỉnh các hiện tượng kinh
tế vĩ mô. Trước tiên ta phân biệt các mô hình không
có điều chỉnh các hiện tượng kinh tế vĩ mô, những mô
hình này tập trung vào những tác động ban đầu hay
các biện pháp ít có tác động phụ, và các mô hình có
điều chỉnh phân tích các tác động cân bằng tổng thể
thông qua biến động giá và lượng kinh tế vĩ mô. Khi
đó, nội sinh hóa việc hình thành giá có thể hoặc được
“đưa vào” mô hình mô phỏng vi mô, hoặc đưa thành
công thức trong khuôn khổ mô hình tổng hợp “độc
lập” bổ sung cho mô phỏng vi mô, khi đó ta gọi là mô
hình kết tiếp nhau.
Hai đặc điểm có ý nghĩa phân biệt nêu trên (rút gọi so
với cơ cấu, kết tiếp nhau so với tổng hợp” trên thực tế
không hoàn toàn độc lập với nhau. Đưa điều chỉnh các
hiện tượng kinh tế vĩ mô vào trong mô hình mô phỏng
vi mô đòi hỏi phải nêu rõ đặc điểm về cơ cấu của các
hành vi kinh tế vi mô.
Tiêu chí phân loại cuối cùng các mô hình mô phỏng
vi mô là khía cạnh thời gian. Các mô hình mô phỏng
vi mô thường được xây dựng để nghiên cứu các hệ
quả của việc điều chỉnh hành vi kinh tế-dân số và tập
trung vào khía cạnh động và mô hình quá các quá trình
dân số. Trái lại, các mô hình tĩnh tập trung vào các tác
động ngắn và trung hạn do thay đổi môi trường kinh
tế và dựa vào việc mô hình hóa hoàn chỉnh hơn các
hình vi ngắn và trung hạn, đặc biệt là các hành vi liên
quan đến sự vận hành của các thị trường hàng hóa và
các yếu tố.
Trên cơ sở kết hợp một cách phù hợp các tiêu chí được
giới thiệu trên đây, ta có thể phân biệt các phương
pháp tiếp cận khác nhau, bây giờ ta chuyển sang mô
tả những điểm mạnh cũng như những hạn chế của các
phương pháp tiếp cận này. Một số ví dụ về mô hình
ứng dụng được giới thiệu trong Bảng XIV-2.
STT Tham khảo Quốc gia hoặc
khu vực
Phần kinh tế vi mô Cơ cấu
dân số
Phần kinh tế
vĩ mô
Quan hệ vi mô-
vĩ mô
Kế toán vi mô và các mô hình cân bằng tổng thể phân tách
[1] Pereira da Silva,
Essama-Nssah và
Samaké (2002)
(PAMS)
Burkina Faso,
nhưng có thể
dễ dàng chuyển
giao cho một
nước khác
Tăng thu nhập của các hộ gia
đình (quan sát được khi điều tra)
theo nhóm kinh tế-xã hội và theo
hiệu suất của các yếu tố do phần
kinh tế vĩ mô đưa ra
Tĩnh Tĩnh, mô hình
chênh lệch về
tài chính
Kết tiếp nhau
[2] Devarajan và Go
(2001) (123-PRSP)
Zambia, nhưng
có thể dễ dàng
chuyển giao cho
một nước khác
Tăng thu nhập của các hộ gia
đình (quan sát được khi điều tra)
theo phần mười và theo hiệu suất
các yếu tố do phần kinh tế vi mô
đưa ra
Tĩnh Tĩnh, mô hình
cân bằng tổng
thể đa lĩnh vực
Kết tiếp nhau
[3] Agénor, Izquierdo
và Foffack (2002)
(IMMPA)
Cơ sở dữ liệu
mang tính giả
định, nhưng dễ
áp dụng cho
một trường hợp
thực tế
Tương tự như [1] Tĩnh Động, mô hình
cân bằng tổng
thể đa lĩnh vực
Kết tiếp nhau
Cách tiếp cận theo kết hợp trình tự và các mô hình dạng rút gọn
[4] Bourguignon,
Gurgand và Fournier
(1999, 2001),
Bourguignon, Ferreira
và Lustig (2001),
Bourguignon, Ferreira
và Leite (2001),
Grimm (2001)
Một số nước có
thu nhập trung
bình tại châu
Á và châu Mỹ
La-tinh, Bờ Biển
Ngà
Mô hình dạng rút gọn về hình
thành thu nhập
Sử dụng
hai (hoặc
nhiều
hơn) tổng
thể quan
sát được
qua thực
nghiệm
Giả thuyết
(dựa vào thực
nghiệm) về thay
đổi hiệu suất
trên thị trường
lao động và
hành vi về cung
việc làm
Không
BẢNG XIV-2 – Các mô hình mô phỏng vi mô để phân tích tình trạng nghèo khó
44 Khóa học Tam Đảo 2008
Kết luận: những thách thức trong
tương lai
Trong chương này, chúng tôi tập trung miêu tả các kỹ
thuật đánh giá trước hiện áp dụng cho các chính sách
giảm nghèo bằng cách đặt chúng vào trong lịch sử đánh
giá kinh tế vĩ mô và trong bối cảnh các chính sách mới
do các định chế quốc tế đề xuất. Hiện nay ưu tiên hướng
vào việc điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với bối
cảnh của các quốc gia và yêu cầu về dân chủ, điều này
khiến nhu cầu đánh giá ngày càng lớn và ngày càng
khắt khe hơn. Trong trường hợp tiến hành đánh giá sau
để lựa chọn trong số các chính sách thay thế, chúng tôi
hy vọng đã chứng tỏ được rằng các kỹ thuật mô phỏng
vi mô là phù hợp nhất. Chúng tôi cũng lập luận rằng
đánh giá sau có thể cũng cần phải mô hình hóa mang
tính cơ cấu một số hành vi kinh tế vi mô hay mô hình hóa
tác động ra bên ngoài hay tác động kinh tế vĩ mô, mặc
dù trong nhiều trường hợp, điểm khác biệt giữa đánh
giá trước và đánh giá sau chỉ thể hiện ở cấp độ thông tin
thống kê có được hơn là ở cấp độ phương pháp.
Trong các chính sách đề xuất bởi PRSP, có thể phân
biệt các chính sách bình ổn và điều chỉnh cơ cấu tương
đối truyền thống liên quan đến mức và/hoặc cơ cấu giá
hoặc cầu, và các chính sách phát triển ngành và/hoặc
chính sách mục tiêu về tiếp cận thì trường lao động
hay tiếp cận các dịch vụ xã hội. Liên quan đến nhóm
chính sách đầu tiên, đánh giá tác động lên phân phối
thu nhập của những chính sách này đòi hỏi phải có sự
gắn kết chặt chẽ giữa khuôn khổ kinh tế vĩ mô và cơ
sở dữ liệu kinh tế vi mô. Sự gắn kết này phải được đảm
bảo ở mức cao và có thể nhấn mạnh vào một trong hai
cấp độ phân tích (vĩ mô hoặc vi mô). Liên quan đến
nhóm chính sách thứ hai, một số tác động của chúng
có thể được đánh giá thông qua mô phỏng vi mô theo
mô hình cân bằng bộ phận các hành vi cung việc làm
hay cầu dịch vụ phù hợp do đánh giá kinh tế lượng vi
mô tỏ ra phức tạp. Đánh giá tác động kinh tế vĩ mô và
tác động dài hạn của các chính sách (đặc biệt là liên
thế hệ) còn đòi hỏi phải mở rộng khuôn khổ phân tích
hoặc về cân bằng tổng thể hoặc theo tính động về
kinh tế-dân số. Cuối cùng, chúng tôi đưa ra bảng phân
loại các kỹ thuật mô phỏng đã được áp dụng hiện
nay để đánh giá các chiến lược giảm nghèo và giới
thiệu một số kinh nghiệm đánh giá mà chúng tôi có
dịp tham gia. Các phương pháp và kinh nghiệm được
giới thiệu đều tương đối mới và đó là các chương trình
nghiên cứu hơn là các kỹ thuật đã được kiểm nghiệm
và quen thuộc. Để kết thúc, chúng tôi muốn cho các
bạn thấy chúng tôi nhìn nhận những thách thức của
hoạt động nghiên cứu này như thế nào. Theo chúng
[5] Ferreira và Leite
(2002)
Ceará (Braxin) Tương tự như [4], cộng với mô
hình rút gọn về phổ cập giáo
dục và quy mô các hộ gia đình
Tĩnh,
nhưng
với phân
bổ về
giáo dục
và quy
mô các
hộ gia
đình
Giả thuyết về
thay đổi hiệu
suất giáo dục
Không
[6] Robilliard,
Bourguignon và
Robinson (2001),
Bourguignon,
Robilliard, và
Robinson (2001)
Indonesia Tương tự như [4] Tĩnh Tĩnh, mô hình
cân bằng tổng
thể đa ngành
Kết tiếp nhau
Cách tiếp cận tổng hợp và các mô hình cơ cấu
[7] Cogneau (1999,
2001)
Antananarivo
(Madagascar)
Mô hình cơ cấu về hình thành
thu nhập của các hộ gia đình
Tĩnh Tĩnh, mô hình
cân bằng tổng
thể 3 khu vực
Tổng hợp
[8] Cogneau và
Robilliard (2001)
Madagascar Mô hình cơ cấu về hình thành
thu nhập của các hộ gia đình
Tĩnh Tĩnh, mô hình
cân bằng tổng
thể 3 khu vực
Tổng hợp
Các mô hình động
[9] Cogneau và Grimm
(2002), Grimm
(2002a)
Bờ Biển Ngà Mô hình cơ cấu về hình thành
thu nhập của các hộ gia đình,
cộng mô hình dân số động
Động Giả thuyết về
thay đổi hiệu
suất giáo dục
và cầu lao động
Không
45Đánh giá tác động
tôi, những thách thức này thể hiện ở ba cấp độ: cấp
độ về phương pháp, đã được phát triển khá kỹ trong
chương này, cấp độ tiêu chí, và cấp độ quy trình lựa
chọn và triển khai các chính sách.
Liên quan đến phương pháp phân tích, chúng tôi cho
rằng hiện có ba lĩnh vực rất quan trọng. Thứ nhất là sự
gắn kết giữa các biến kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô cho
thấy còn tồn tại một số điểm chưa được giải quyết liên
quan đến cách kỹ thuật mô phỏng (xem phần trước)
cũng như các số liệu thống kê1. Thứ hai, chúng tôi
thấy cần phải tìm hiểu sâu hơn nữa về hành vi của các
tác nhân cũng như về cách vận hành thực tế của các
thị trường. Các tình huống phân đoạn không gian hay
ngành, chi phí giao dịch quá cao, tồn tại các cơ chế tái
phân bổ mang tính cộng đồng khiến giới hạn đáng kể
các hành vi của các tác nhân và làm biến đổi đổi sâu
sắc tác động của các chính sách. Thứ ba, trong nhiều
trường hợp, cần phải phát triển các công cụ mô phỏng
tôn trọng khía cạnh thời gian của các hiện tượng kinh
tế-dân số, nhất là để phát huy các chiến lược dài hạn và
chiến lược tái phân bổ liên thế hệ thay vì các biện pháp
can thiệp ngắn hạn tỏ ra thu được nhiều lợi nhuận hơn
nhưng thường không hiệu quả về mặt xã hội.
Còn về các tiêu chí đánh giá, cần phải tăng cường áp
dụng lý thuyết về công bằng cho các vấn đề của các
nước nghèo và của các xã hội bị phân chia nhằm xác
định rõ hơn các mục tiêu của các chính sách (giảm
nghèo tiền tệ hay nghèo đa khía cạnh, ngang bằng về
cơ hội,...), cách đánh giá các chính sách đó. Làm rõ
các mục tiêu là một trong những điều kiện đảm bảo
có được mối tương quan chặt chẽ giữa việc xuất hiện
cuộc thảo luận dân chủ và công việc của các “chuyên
gia” quốc gia và quốc tế. Trước khi nói về việc ta dự
định giảm nghèo thế nào, cần phải tiếp tục thống nhất
về loại nghèo mà ta muốn giảm. Cũng không mong
muốn là các chuyên gia là những người duy nhất tham
gia từ đầu cho đến cuối quá trình thiết kế và đánh giá
các chính sách.
Cuối cùng, mối bận tâm ngày càng lớn đối với các thể
chế cho thấy còn có hai loại hình đánh giá khác có thể
bổ sung cho đánh giá chính thức các chính sách. Đó là
đánh giá quy trình chọn lựa và thiết kế các chính sách
và đánh giá các quy trình triển khai các chính sách này.
Đánh giá chính thức các chính sách sẽ không bao giờ
được quyết định hay được triển khai không có hiệu quả
để làm gì? Đánh giá cần phải lưu tâm đến tầm quan
trọng của việc thiết kế “các chính sách có chất lượng”
cũng như các điều kiện xã hội và thể chế để triển khai
chính sách một cách hiệu quả2. Các quy trình có sự tham
gia và mang tính chất hành chính quyết định tới khả
năng hành động cũng có ý nghĩa quan trọng như việc
xác định cụ thể hành động. Ngoài ra còn có đánh giá kết
quả đánh giá mà chúng tôi mới chỉ đề cập sơ qua.
Danh mục tài liệu tham khảo tóm tắt
• Adelman I. et Robinson S. (1988), “Macroeconomic
adjustment and income distribution: alternative
models applied to two economies”, Journal of
Development Economics, 291: 23-44.
• Adelman I. et Robinson S. (1978), Income distribution
policy: a computable general equilibrium model of
South Korea, Stanford: Stanford University Press.
• AID et FMI (2002), Réexamen du dispositif des
documents de stratégie pour la réduction de la
pauvreté (PRSP): principaux constats, 15 mars,
Washington D.C.: Banque mondiale et FMI.
• Banque mondiale (2002), A user’s guide to poverty
and social impact analysis, mimeo, Washington
D.C.: Banque mondiale.
• Bourguignon F., Branson w.H. et de Melo J. (1989),
Adjustment and Income Distribution: A counterfactual
analysis, NBER working paper N°2943, Cambridge:
National Bureau of Economic Research.
• Cogneau D. et Grimm M. (2002), The distribution
of AIDS over the population in AFrica ; Hypothesis
building from individual answers to a Demographic
and Health survey with an application to Côte
d’Ivoire, Document de travail DT2002-02, Mars,
Paris: DIAL.
• Lam D. (1997), “Demographic variables and income
inequality”, in M.R. Rosenzweig O. Stark (eds),
Handbook of Population and Family Economics,
Amsterdam: North Holland.
• Lysy F. et Taylor L. (1980), “Tbe general equilibrium
model of income distribution”, in L. Taylor, E. Bacha,
E. Cardoso et F. Lysy (eds), Models of Growth and
Distribution for Brazil, Oxford: Oxford University
Press.
• Orcutt G. (1957), “A new type of socio-economic
system”, Review of Economics and Statistics, 58:
773-97.
1 Đặc biệt, các tập hợp và các hệ số cơ cấu rút ra từ các cuộc điều tra kinh tế vi mô nhìn chung khó tương thích với các dữ
liệu của Kế toán Quốc gia nếu những dự liệu này tồn tại ở cấp độ như tiêu dùng theo sản phẩm (xem chương XI và nghiên
cứu của Robilliard và Robinson, 1999). Tăng phân phối thu nhập chưa được thể hiện đầy đủ trong các cuộc điều tra, điều
này có thể đòi hỏi phải nâng cao thu nhập từ vốn hay thu nhập có được nhờ chuyển giao, trong khi đó các tài khoản quốc
gia thường đánh giá chưa đầy đủ tầm quan trọng của các thu nhập không chính thức và điểm hạn chế của phân phối đã
được nêu ra trong một số cuộc điều tra (chương XIII).
2 Giống như trong ví dụ “Điều tra định lượng về cung cấp dịch vụ” được trích dẫn bởi Bourguignon, Pereira da Silva và Stern
(2002).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tam-Dao-2008-VN-SP1-Cling-Razafindrakoto-Roubaud.pdf