Đề tài Đánh giá thị trường tài chính Việt Nam hậu WTO

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I 2 LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 2 1.Tài chính và thị trường tài chính 2 1.1. Tài chính 2 1.1.1. Bản chất của tài chính: 2 1.1.2. Chức năng của tài chính: 3 1.1.3. Vai trò của tài chính 3 1.2 Thị trường tài chính 5 1.2.1 Định nghĩa 5 1.2.2 Phân loại thị trường tài chính 5 1.2.3. Cấu thành của thị trường tài chính 5 1.2.4 Vai trò của thị trường tài chính 5 CHƯƠNG II 7 THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY 7 2.1. Thực trạng thị trường chứng khoán( TTCK ) 7 2.1.1 Những thuận lợi và khó khăn của thị trường chứng khoán Việt Nam 7 2.1.2 Tình hình hoạt động thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay 8 2.2. Thực trạng thị trường tiền tệ 17 2.2.1. Thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc và trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ 17 2.2.2. Thị trường hối đoái 18 2.3 Thực trạng thị trường vốn của Việt Nam 19 2.3.1. FDI tăng kỷ lục 22 2.3.2. CPI tăng phi mã 23 CHƯƠNG III 24 GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY 24 3.1. Các giải pháp trên thị trường tiền tệ. 24 * Một số nguyên nhân làm cho thị trường tiền tệ Việt Nam chưa phát triển: 25 * Những giải pháp phát triển thị trường tiền tệ: 27 3.2. Các giải pháp trên thị trường vốn : 29 * Những giải pháp phát triển thị trường vốn 31 Các giải pháp trên thị trường chứng khoán ( TTCK ) 33 KẾT LUẬN 35

doc53 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1856 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá thị trường tài chính Việt Nam hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hị trường. Nguyên nhân trên sẽ dẫn tới hậu quả là nền kinh tế trì trệ, khả năng thanh toán thấp, thị trường hàng hoá, nhất là bất động sản ảm đạm báo hiệu sớm nguy cơ khủng hoảng thị trường tài chính. Khi đó, sẽ gây tác hại to lớn khó lường cho TTCK. Biến động TTCK trong thời gian tới . Trong thời gian tới TTCK nước ta sẽ diễn biến rất phức tạp, không những chịu sự chi phối của những yếu tố nội tại TTCK mà còn chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế. Kinh tế thế giới đã vào cuối chu kỳ phát triển. Khủng hoảng năng lượng luôn đe doạ, giá dầu tăng cao đã làm gia tăng lạm phát toàn cầu. Kinh tế Việt Nam cũng rơi vào tình trạng đó. Lạm phát tăng cao cùng với sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lợi tức thấp khiến các nhà đầu tư tìm cách rút vốn từ TTCK sang đầu tư lĩnh vực khác an toàn hơn. Nhu cầu cổ phiếu sẽ bị giảm đi nhiều. Lượng cung cổ phiếu lại tăng cao do lạm phát cổ phiếu và do cổ phiếu nhiều công ty mới lên sàn giao dịch. Điều này đã làm thị giá cổ phiếu giảm đi nhanh chóng. Như vậy TTCK sẽ suy giảm, chỉ số chứng khoán khó tăng trở lại mà có nguy cơ giảm nữa. 2.2. Thực trạng thị trường tiền tệ Do sự bất ổn định trên thị trường tiền tệ thế giới vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008 mà cụ thể nhất là cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở Mỹ do giá nhà đất sụt giảm làm cho đồng USD mất ổn định mà đỉnh điểm của sự mất giá đồng USD là ngày 15/04/2008 tỉ giá EUR/USD=1,6000 đi kèm với việc đồng USD mất giá là giá dầu thô và vàng liên tục lập những kỷ lục mới, có lúc vàng tiến đến 1031USD/ounces và dầu đã lập kỷ lục với mức 135USD/thùng đã làm cho lạm phát tăng cao trên toàn thế giới. Mặt khác trong thế giới ngày nay sự đan xen và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia là không tránh khỏi đã gây nên những xáo trộn trên thị trường hối đoái của các nước trong đó có Việt Nam. Song song với nguyên nhân trên còn có nguyên nhân là do sự yếu kém xuất phát từ nội tại của nền kinh tế trong điều hành chính sách vĩ mô nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ mà cụ thể là việc điều hành chính sách tỉ giá có lúc tỉ giá do NHNN công bố xuống 15.700 VND ăn 1 USD và trên thị trường tự do là VND/USD=15.500 trong tháng 02/2008 nhưng đến ngày 27/05/2008 thì mọi chuyện hoàn toàn ngược lại tỉ giá chính thức do ngân hàng nhà nước công bố là VND/USD16.212 nhưng trên thị trường tự do VND/USD=17.550. Một nguyên nhân nữa cũng không kém phần quan trọng do nhập siêu trong 5 tháng đầu năm 2008 quá cao 14,4tỉ USD(do có lúc doanh nghiệp xuất khẩu không bán được USD) cộng với tâm lý của người dân khi lạm phát tăng cao(15,96%) nên đổ xô đi mua USD tích trữ làm cho thị trường ngoại tệ biến đổi khó lường trong thời gian qua trong khi đó trên thị trường quốc tế EUR/USD =1,579 tức đồng USD đang mất giá. 2.2.1. Thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc và trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ - Nghiệp vụ thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc được thực hiện từ tháng 5/1995 và trải qua các giai đoạn phát triển sau: + Từ năm 1995 đến 1999: Phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc + Từ năm 1999 đến năm 2003: Phát hành tín phiếu kho bạc + Từ năm 2003 đến nay: Phát hành tín phiếu kho bạc và ngoại tệ (USD, kỳ hạn 5 năm ) Theo Thông tư 19/2004/TT-BTC ngày 18/3/2004 của Bộ Tài chính, hiện nay có hai loại trái phiếu đang được đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước là: Tín phiếu kho bạc Nhà nước và Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ (trái phiếu ngoại tệ). Do đầu năm 2008, các Tổ chức tín dụng thiếu hụt vốn khả dụng nên trong Quý I và Quý II năm 2008, mặc dù Ngân hàng nhà nước tổ chức được 03 phiên đầu thầu phát hành Tín phiếu kho bạc nhưng không có thành viên tham gia. Sang quý III và quý IV, một số Tổ chức tín dụng dư thừa vốn khả dụng nên đã tham dự thầu với khối lượng TPKB trúng thầu đạt hơn 20.000 tỷ đồng, tăng hơn 100% so với năm 2007 và bằng 78,23% kế hoạch phát hành Tín phiếu kho bạc qua Ngân hàng Nhà Nước của Bộ Tài chính. Lãi suất trúng thầu đạt mức cao nhất là 15,70% và giảm dần xuống mức 8,38% vào cuối năm 2008. Nhìn chung, hoạt động nghiệp vụ thị trường tiền tệ năm 2008 đã được Ngân hàng Nhà Nước vận hành uyển chuyển, linh hoạt, đa dạng đáp ứng cung cầu vốn của các thành viên tham gia thị trường và cơ bản đã hoàn thành tốt nhiệm vụ truyền tải hữu hiệu các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà Nước. 2.2.2. Thị trường hối đoái Trong 6 tháng đầu năm, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ. Mặt khác, do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.  Diễn biến USD tháng 5/2009 (nguồn: ACB) Diễn biến USD tháng 6/2009 (nguồn: ACB) Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp, phải kể đến việc mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +3% lên +5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Đồng thời, NHNN cũng tiến hành một loạt các biện pháp nhằm chấn chỉnh hoạt động của thị trường ngoại hối. Đặc biệt, nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và người dân NHNN đã yêu cầu các ngân hàng thương mại nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6 – 6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá 1,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009). Tuy nhiên, điều đó đã không tác động nhiều đến tâm lý găm giữ ngoại tệ của người dân và doanh nghiệp. Nguyên nhân được xác định là do người dân vẫn lo lắng về biến động tỷ giá trong thời gian tới. Trên thị trường hiện nay vẫn tồn tại tình trạng huy động USD của các ngân hàng rất nhiều nhưng lại thiếu USD nguồn vốn để có thể bán lại cho các doanh nghiệp. Do đó, để đảm bảo hoạt động kinh doanh nhiều công ty vẫn phải chấp nhận mua đồng USD ở thị trường tự do với mức giá cao hơn so với mức giá của NHNN quy định. 2.3 Thực trạng thị trường vốn của Việt Nam Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng. Tỷ giá giao dịch đôla Mỹ đã đạt gần 20.000 đồng đổi một USD vào trưa ngày 11/11, xác lập kỷ lục về giá trên thị trường tự do năm 2009. Nguyên nhân chủ yếu là do đầu cơ, những căng thẳng trên thị trường ngoại tệ trong giai đoạn 6 tháng cuối năm, cũng như cơn sốt giá vàng diễn ra vào giữa tháng 11. Để giải quyết căng thẳng, ngày 25/11, Ngân hàng Nhà nước quyết định điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 17.034 lên 17.961 đồng một USD, thu hẹp mức chênh lệch cho phép đối với tỷ giá tại các ngân hàng thương mại từ 5% xuống 3%. Đây là lần điều chỉnh biên độ tỷ giá thứ hai trong năm của Ngân hàng Nhà nước, sau khi nâng từ mức 3% lên 5% vào tháng 3. Cách giải quyết này rất dễ làm cho giá cả trong nước tăng lên, đồng nghĩa với việc lạm phát cao sẽ tăng theo và khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn hơn. Kéo theo đó là sự suy giảm sản xuất kinh doanh trong nước. Và lãi suất cũng sẽ được điều chỉnh tăng, dễ gây ra tình trạng kiệt quệ nền kinh tế trong khi không giải quyết được bài toán nào. Do đó, Ngân hàng Nhà nước nên duy trì mức tỷ giá hiện tại là 17.961 đồng đổi một USD trong thời gian dài, để không tạo ra sự nặng nề thêm cho nền kinh tế. Về lâu dài, tùy theo tình hình mà có sự điều chỉnh linh hoạt tiếp theo. Muốn đạt được hiệu quả cao trong hỗ trợ xuất khẩu, cần phải bằng nhiều công cụ, nhiều giải pháp như hỗ trợ trực tiếp cho các đơn vị xuất khẩu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, chiến lược, sản phẩm, chất lượng, vốn, công nghệ và con người. Vấn đề nan giải hiện nay là làm sao phải hạn chế được nhập siêu cao. Muốn vậy, Nhà nước phải dùng giải pháp: hàng rào kỹ thuật, dùng nghiệp vụ trong hệ thống ngân hàng; dùng chính sách hỗ trợ sản xuất trong nước, nhất là sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu, phải vận động liên tục và hiệu quả chủ trương của Bộ Chính trị kêu gọi người Việt ưu tiên dùng hàng Việt. Và phải ngăn chặn được tình trạng buôn lậu qua biên giới. Có vậy, Việt Nam mới hy vọng giải quyết được bài toán hạn chế nhập siêu và ổn định tỷ giá, chứ không phải chỉ bằng cách tăng tỷ giá USD/VND. Nhiều thời điểm, tỷ giá trên thị trường tự do có độ vênh lớn so với thị trường chính thức đã tạo điều kiện cho hoạt động găm giữ, đầu cơ, lũng đoạn thị trường, làm ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối.Ngân hàng Nhà nước đã phải triển khai biện pháp liên kết với Bộ Công an, Bộ Công thương, Tổng Cục an ninh, UBND TP Hà Nội, TP HCM tăng cường kiểm soát hoạt động ngoại tệ, vàng trên thị trường chợ đen, được coi là phương án mạnh tay để trấn tĩnh thị trường. Thời gian tới, cần tăng cường tuyên truyền phổ biến nhiều hơn nữa về phương pháp xử phạt cụ thể để người dân thấy rõ chủ trương và góp phần bình ổn thị trường ngoại tệ. (Ngành tài chính Việt Nam năm 2009 phải đối mặt với nhiều biến động lớn) Ảnh: Hoàng Hà Nhìn lại kinh tế 2009, tác hại của khủng hoảng tài chính trên thế giới là rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, hậu quả vẫn thấp hơn rất nhiều so với những dự đoán trước đó. Nhiều người từng nghĩ, cuộc khủng hoảng này sẽ làm tê liệt kinh tế toàn cầu, suy thoái kinh tế thế giới diễn ra trong nhiều năm và có thể còn lớn hơn cuộc khủng hoảng 1929-1933. Nhưng thực tế, đến nay kinh tế đã phục hồi và tăng trưởng. Cụ thể năm 2009 suy thoái, nền kinh tế thế giới bị âm 0,9%, nhưng các dự báo năm 2010 đều có chỉ số tăng trưởng dương 3,1%. Như vậy, kinh tế có thể biến động theo hình chữ V hoặc hình căn bậc hai. Riêng Việt Nam có thể lạc quan trước những thành công đã đạt được. Sự điều hành linh hoạt của Chính phủ từng bước đã ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế từ quý II/2009. Quý I, tăng trưởng GDP chỉ 3,1%, quý II đạt 4,2% , quý III lên 5,8% và quý IV vượt lên 6,8%. Như vậy, cả năm 2009, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 5,2%. Đây là mức thấp nhất trong 10 năm qua, nhưng nếu đặt trong bối cảnh thế giới toàn cầu đang suy thoái thì tăng trưởng này là một thành công rất lớn. Chỉ số giá tiêu dùng 2009 khoảng 6,5%, tức vẫn đang nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ. Kinh tế thế giới suy thoái, thất nghiệp gia tăng, tổng cầu thế giới suy giảm, thương mại thế giới cũng giảm theo, nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn đạt 56 tỷ USD. Tuy so với năm 2008 có giảm đi khoảng 10%, nhưng điều này chứng tỏ ngành xuất khẩu vẫn đạt được những thành công nhất định trong năm 2009. Hệ thống ngân hàng Việt Nam 2009 vẫn trong sự an toàn, mặc dù một số nhà băng có biểu hiện thiếu thanh khoản vào cuối năm. Nhưng nếu nhìn vào nước Mỹ năm 2009, toàn hệ thống ngân hàng có đến 140 đơn vị bị phá sản, mới thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng khích lệ. Tuy nhiên ngành ngân hàng Việt Nam vẫn không được chủ quan, nhất là đối với chất lượng tín dụng trong năm 2010. Dưới sự chỉ đạo nhanh và linh hoạt của Chính phủ, ngành ngân hàng đã triển khai thành công gói hỗ trợ kích cầu thứ nhất với hình thức hỗ trợ lãi suất 4%, dư nợ hỗ trợ đạt trên 450.000 tỷ đồng, chiếm hơn ¼ dư nợ của toàn hệ thống. Đây là một giải pháp có sự khác biệt so với các nước trên thế giới và mang lại hiệu quả cao cho kinh tế Việt Nam; giúp nhiều doanh nghiệp duy trì được sản xuất kinh doanh, tạo ra công ăn việc làm cho hơn 1,6 triệu lao động trong năm 2009. Dư nợ của toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2009 tăng 38%, trong khi dư nợ 2008 chỉ tăng 22%. Đây là một trong những thành công, vì trong khi đó các nguồn vốn khác bị suy giảm như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, FDI, ODA và ngay cả vốn kiều hối gửi về cũng giảm. Do đó, vốn tín dụng tăng cao hơn so với dự kiến, trở thành tác nhân quan trọng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng ở mức 5,2%. Quan hệ đối ngoại của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên thương trường quốc tế với Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) có những bước tiến đáng kể. Chính điều này đã giúp cho vốn ODA và những cam kết cho ODA vào năm 2010 của Việt Nam ở tỷ lệ rất cao, trên 8 tỷ USD Tuy nhiên, không nên vội vui mừng với những thành công trên, vì bên cạnh đó vẫn có những điểm chưa thực vững chắc.Việt Nam vẫn còn mất cân đối lớn như bội chi ngân sách 2009 khoảng 6,9%, một tỷ lệ rất cao, mặc dù 2010 dự báo sẽ còn khoảng 6,2%. Chính phủ cần phải đưa con số này về dưới 5% thì mới đảm bảo tính an toàn. Thâm hụt cán cân kinh tế vãng lai năm 2009 rất lớn khiến dự trữ ngoại hối bị giảm mạnh. Chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện chỉ góp phần kiểm soát lạm phát chứ không thể giải quyết triệt để bài toán lạm phát. Vì lạm phát ở Việt Nam còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác tác động, như giá xăng dầu tăng, khủng hoảng lương thực thế giới làm cho giá lương thực tăng, đầu tư công không hiệu quả, do đầu cơ lũng đoạn giá, do tâm lý, do tin đồn, do điều giá than điện nước theo cơ chế thị trường. Đồng thời, để chính sách lãi suất hiệu quả hơn, phù hợp với quy luật cung cầu, Ngân hàng Nhà nước cần phải tiếp tục thuyết phục Quốc hội bỏ cơ chế lãi suất trần theo lãi suất cơ bản, để tiến tới tự do hóa lãi suất mà nước ta đã làm từ năm 2002. Nếu Quốc hội quyết định vẫn giữ nguyên cơ chế lãi suất cơ bản thì Ngân hàng Trung ương phải có phương án thứ hai, như đưa ra những giải pháp thu phí trong hoạt động tín dụng. Tùy vào từng khách hàng vay khác nhau mà có những mức phí tương thích. Chỉ có cách này mới làm giảm gánh nặng cho lãi suất cơ bản. Hiện nay,Việt Nam nằm trong top những nước có lãi suất cơ bản cao nhất thế giới, chỉ thấp hơn Pakistan,Venezuela... Ngân hàng Nhà nước phải phát huy hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ: lãi suất chiết khấu, dự trữ bắt buộc, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết lãi suất thị trường phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Về hoạt động sàn vàng, do chưa có một cơ chế chung trong việc quản lý nên đã để xảy ra những vụ ồn ào gây nhiễu loạn thị trường. Hai phương án xử lý sàn vàng đã được Ngân hàng Nhà nước đệ trình Chính phủ. Thời gian tới, sự lộn xộn này cần sớm được quản lý tập trung theo đúng pháp luật. Về lâu dài có thể tổ chức dưới hình thức Sở giao dịch vàng, giống như Sở giao dịch chứng khoán. Riêng thị trường vàng vật chất, Việt Nam cần phải vận hành một cách trơn tru và liên thông với giá vàng thế giới, hạn chế tối đa việc để xảy ra hiện tượng bong bóng giá, gây rối loạn thị trường tiền tệ. Dù vẫn còn tồn đọng một số khó khăn trên, nhưng với nỗ lực của mình, Việt Nam là một trong những nước sớm nhất vượt qua đáy suy giảm, duy trì được tăng trưởng dương trong suốt năm 2009 với tốc độ hợp lý. 2.3.1. FDI tăng kỷ lục Vượt qua hai thử thách cam go của tình trạng phát triển nóng trong nửa đầu năm và khủng hoảng tài chính toàn cầu nửa cuối năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2008 tiếp tục tăng cao cả số vốn thực hiện và vốn đăng ký cấp mới. FDI cam kết của cả năm 2008 đã đạt con số kỷ lục 64,011 tỷ USD, tăng gấp 3 lần so với năm 2007. Lượng giải ngân của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam lên con số 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Riêng 27 dự án có quy mô vốn đầu tư từ 100 triệu USD đã đạt trên 40 tỷ USD, trong đó có một số dự án quy mô vốn từ 3,5-7,8 tỷ USD. Công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong lượng vốn đăng ký, với 572 dự án chiếm 54,12% về vốn đầu tư đăng ký. Trong đó, các dự án thăm dò và khai thác dầu tại Việt Nam thu hút 17,5% tổng vốn FDI. Năm 2008 cũng chứng kiến một loạt dự án thép quy mô lớn vào Việt Nam, và đến nay vẫn còn một vài nhà đầu tư nước ngoài xếp hàng chờ được cấp phép. Lĩnh vực dịch vụ cũng chiếm lượng vốn lớn, 47,3%. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-ngư. Trong năm 2008, Malaysia lần đầu tiên trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, với 14,9 tỷ USD, nhờ dự án thép liên doanh giữa tập đoàn Lion với Vinashin gần 10 tỷ USD. Tiếp sau là Đài Loan và Nhật Bản. Ninh Thuận và Bà Rịa - Vũng Tàu là 2 tỉnh trong năm 2008 đã thu hút nhiều vốn FDI nhất cả nước Hiện nay, cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn diễn biến phức tạp và khó lường nên tác động có thể dự báo được đó là số lượng các dự án FDI được phê duyệt sẽ giảm đáng kể trong năm 2009. Luồng vốn thực tế sẽ phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ giải ngân các dự án hiện đang thực hiện. Vì vậy, để duy trì tốc độ tăng trưởng trong thời điểm hiện nay, các biện pháp tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế sẽ cần phải tiếp tục tăng cường. 2.3.2. CPI tăng phi mã Nếu tính sau một năm (tức là tháng 12 năm nay so với năm trước), thì năm 2008 là năm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có tốc độ tăng cao nhất so với 16 năm trước đó (năm 1992 tăng 17,5%, năm 1993 tăng 5,2%, năm 1994 tăng 14,4%, năm 1995 tăng 12,7%, năm 1996 tăng 4,5%, năm 1997 tăng 3,6%, năm 1998 tăng 9,2%, năm 1999 tăng 0,1%, năm 2000 giảm 0,6%, năm 2001 tăng 0,8%, năm 2002 tăng 4%, năm 2003 tăng 3%, năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%, năm 2006 tăng 6,6%, năm 2007 tăng12,63%). Nếu tính bình quân năm (tức là bình quân năm nay so với bình quân năm trước), thì CPI năm 2008 cũng là năm có tốc độ tăng cao nhất so với 15 năm trước đó (năm 1993 tăng 8,5%, năm 1994 tăng 9,5%, năm 1995 tăng 17,8%, năm 1996 tăng 5,7%, năm 1997 tăng 3,2%, năm 1998 tăng 7,7%, năm 1999 tăng 4,4%, năm 2000 giảm 1,6%, năm 2001 giảm 0,3%, năm 2002 tăng 3,9%, năm 2003 tăng 3,1%, năm 2004 tăng 7,8%, năm 2005 tăng 8,3%, năm 2006 tăng 7,5%, năm 2007 tăng 8,3%). Tuy nhiên, chỉ số CPI lại giảm liên tục trong 3 tháng cuối năm. Tính chung cả quý 4 CPI đã giảm 1,06% trong khi 3 tháng cùng kỳ năm trước tăng 4,95%. Trước tình hình trên Chính phủ đã có những giải pháp vừa cơ bản, vừa linh hoạt để xử lý. Việc chuyển đổi mục tiêu ưu tiên từ tăng trưởng kinh tế nhanh sang kiềm chế lạm phát, với 8 nhóm giải pháp, trong đó giải pháp hàng đầu là thắt chặt tiền tệ trong những tháng đầu năm, là đúng hướng, kịp thời và đã đạt được kết quả tích cực; sau đó, việc chuyển đổi mục tiêu ưu tiên từ kiềm chế lạm phát sang ngăn chặn sự suy thoái kinh tế với 5 giải pháp cấp bách, trong đó có giải pháp hàng đầu là kích cầu đầu tư, tiêu dùng, là đúng hướng và kịp thời. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY Để mở rộng thị trường tài chính, phát triển đồng bộ các loại thị trường. Để đưa những chủ trương lớn của Đảng và nhà nước sớm đi vào cuộc sống, góp phần phát triển kinh tế đất nước thì cần phải đưa ra những giải pháp phát triển thị trường tài chính hiện nay ở Việt Nam. 3.1. Các giải pháp trên thị trường tiền tệ. Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, là thị trường vốn ngắn hạn( có thời hạn dưới 1 năm). Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam và luật tổ chức tín dụng (sửa đổi) cho phép giấy tờ có giá trị dài hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ còn giúp cho thị trường tiền tệ đóng vai trò là thị trường thứ cấp của các công cụ nợ dài hạn. Với sự tham gia của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương, các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ được đánh giá là thị trường có độ an toàn cao và là thị trường buôn bán hữu hiệu.Thị trường tiền tệ được biết đến như là một thị trường phi tập trung, sôi động và mang tính toàn cầu. Các giao dịch trên thị trường tiền tệ thương có thời hạn ngắn và rất ngắn, đặc biệt thị trường cho vay qua đêm rất phát triển và chiếm tỷ trọng đáng kể trong doanh số hoạt động của thị trường tiền tệ. Khởi nguồn từ hoạt động cho vay/ đi vay giữa các ngân hàng, thị trường tiền tệ ngày càng phát triển đa dạng và linh hoạt. Với mục tiêu ban đầu là thị trường để đảm bảo khả năng thanh khoản của các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ đã phát triển trở thành thị trường đầu tư vốn ngắn hạn, thị trường kinh doanh chênh lệch giá, thị trường của các công cụ phòng ngừa rủi ro và các thị trường phái sinh. Thị trường tiền tệ là thị trường hết sức nhạy cảm với những sự kiện biến động về kinh tế, chính trị, xã hội. Vì vậy nó được coi như là thước đo của nền kinh tế. Dễ dàng nhận thấy thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng của Việt Nam chưa phát triển. Sự chưa phát triển của thị trường tiền tệ Việt Nam thể hiện ở chỗ: các công cụ giao dịch tên thị trường còn nghèo nàn và khối lượng giao dịch còn hạn chế, thị trường thứ cấp các công cụ giao dịch của thị trường gần như là chưa có, hoạt động của thị trường sơ cấp còn hạn chế thị trường chưa thu hút được đông đảo các thành viên tham gia và chưa thể thiện được tính chuyên nhiệp của thị trường. * Một số nguyên nhân làm cho thị trường tiền tệ Việt Nam chưa phát triển: Thứ nhất, sự hoạt đông hiệu quả thấp của thị trường vốn, ở các thị trường phát triển thì huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu và các công cụ nợ dài hạn phải đáp ứng trên 60% nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế. Việt Nam với tốc độ tăng trưởng GDP liên tục nhiều năm đạt trên mức 7% đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn, trong khi đó huy động thông qua thị trường chứng khoán hầu như không đáng kể, gánh nặng về vốn đầu tư đổ đống lên vai vai các ngân hàng với tư cách là các trung gian tài chính, đi vay để cho vay. Nói cách khác, áp lực về vốn tín dụng đầu tư đối với các ngân hàng thương mại là rất lớn và các ngân hàng nhận thấy rằng việc đầu tư vào thị trường tín dụng hiệu quả hơn nhiều so với đầu tư thông qua các công cụ trên thị trường tiền tệ. Điều này hoàn toàn khác với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, đó là hầu hết các doanh nghiệp lớn, làm ăn có hiệu quả đều lựa chọn việc huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu và các trái phiếu của công ty, vì chi phí rẻ và doanh nghiệp chủ động hơn là vay tín dụng ngân hàng.Các ngân hàng chỉ có thể tiếp cận được với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có thương hiệu tên thị trường. Tuy nhiên, việc cho vay với các đối tượng khách hàng loại này là rủi do rất cao. Vì vậy, các ngân hàng phải cân nhắc họ thích đầu tư vào thị trường tiền tệ hơn. Sự thiếu quan tâm tới các sản phẩm trên thị trường tiền tệ vì cho rằng không hiệu quả bằng đầu tư vào thị trường tín dụng của các ngân hàng là một trong các nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự hoạt động trầm lắng của thị trường tiền tệ trong thời gian qua. Các ngân hàng thương mại lớn nhưng trung gian rất quan trọng trên thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng, bởi vì các ngân hàng thương mại có khả năng tài chính lớn, phạm vi hoạt động rồn và đưa ra các “ sản phẩm dịch vụ” thỏa mãn được nhu cầu đa dạng của thị trường. Các ngân hàng thương mại thường đóng vai trò là những ngừời tạo lập thị trường (market) cụ thể là phải thường xuyên yết giá hai chiều của tất cả các công cụ trên thị trường.Tuy nhiên các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa làm được điều này. Ngay thị trường vốn ngắn hạn liên ngân hàng là thi trường hoạt động tích cực nhất hiện nay thì các ngân hàng tham gia cũng đáp ứng mục tiêu đảm bảo thanh khoản là chủ yếu.Vì vậy, các ngân hàng cũng thường chỉ đặt giá một chiều (vay hoặc đi vay) khi có nhu cầu phát sinh.Vai trò tạo lập thị trường của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn rất mờ nhạt. Thứ hai, sự thiếu chuyên nghiệp trong hoạt động của thị trường tiền tê. Sự thiếu chuyên nghiệp được thể thiện ở chỗ các công cụ của thị trường không theo những quy chuẩn của thị trường. Hiện nay, trên thị trường tiền tệ của Việt Nam đã hình thành một số “ hàng hóa” nhất định, có thể tham gia giao dịch như tín phiếu, trái phiếu của chính quyền địa phương (TP Hồ Chí Minh ), trái phiếu doanh nghiệp (Tổng công ty dầu khí) và tín phiếu của ngân hàng Nhà Nước. Tuy nhiên khối lượng các công cụ có thể giao dịch được trên thị trường không lớn và chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Để thị trường thứ cấp giao dịch giấy tờ có giá phát triển đòi hỏi các thủ tục mua bán, trao đổi phải hết sức đơn giản, thuận tiện trong khi đó phần lớn các giấy tờ có giá hiện nay đều là các giấy tờ có giá ghi danh. Những tín phiếu, trái phiếu vô danh chiếm một tỷ trọng rất nhỏ vì thế gây ra sự bất tiện khi giao dịch trên thị trường. Mặt khác, thời hạn của các giấy tờ có giá đơn điệu và phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu vốn của người phát hành. Tín phiếu kho bạc nhà nước là một ví dụ điển hình: Bộ tài chính trong những năm qua chủ yếu phát hành loại tín phiếu kho bạc có thời hạn là 364 ngày, vì thế không thể căn cứ vào lãi suất tín phiếu kho bạc để xác định đường cong lãi suất chuẩn của thị trường. Sự thiếu tính chuyên nghiệp của thị trường tiền tệ Việt Nam còn thể hiện ở chỗ thiếu những nhà tạo lập thị trường, những tổ chức trung gian trên thị trường như các nhà kinh doanh chuyên nghiệp, các công ty môi giới, những công ty xếp hạng tín dụng … Người kinh doanh chuyên nghiệp và tạo lập thị trường là những người được yêu cầu phải yết giá mua và giá bán của tất cả các công cụ đang giao dịch trên thị trường, nói cách khác, họ phải mua của những người cần bán và bán cho những người cần mua trên thị trường và được hưởng chênh lệch giá. Tuy nhiên, ở Việt Nam các ngân hàng chưa làm tốt vai trò này, nhiều ngân hàng phát hành các kỳ phiếu có cam kết sẽ mua lại trước hạn và coi đó như là sự “ ưu việt ” của kỳ phiếu của ngân hàng mình còn hầu hết người chủ sở hữu các giấy tờ có giá có nhu cầu tạm thời về vốn phải đi vay có thế chấp bằng các kỳ phiếu, trái phiếu, sổ tiết kiệm… mà mình đang nắm giữ với thủ tục rất phức tạp. Do chủ sở hữu các công cụ của thị trường khi cần vốn không biết bán ở chỗ nào cho nên đã phản ứng tiêu cực lại với thị trường sơ cấp phát hành ra các công cụ đó. Vào thời điểm năm 2003, trong khi hầu hết các ngân hàng đều thực hiện việc tăng lãi suất như là đòn bẩy kinh tế để mở rộng huy động vốn.Tuy nhiên vẫn không thu hút được nguồn vốn trung dài hạn mà lý do là những người đâu tư không dám “ mạo hiểm” đầu tư vào các công cụ có thời hạn dài mà khi cần có vốn họ không thể bán lại được trên thị trường. Thứ ba, các văn bản pháp lý cho hoạt động của thị trường chưa đồng bộ. Có thể nói, các nội dung cơ bản của thị trường tiền tệ đều đã được luật pháp hóa, cụ thể là ở các mức độ khác nhau ( Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Quy chế…..) chúng ta đã ban hành các quy định đối với hoạt động của thương phiếu, phát hành tín phiếu và trái phiếu chính phủ, phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu của các tổ chức tín dụng, quy định về quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng…. Tuy nhiên, các quy định này còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ. Mặc dù Pháp lệnh thương phiếu đã ban hành từ năm 1999, Chính phủ và ngân hàng Nhà Nước đã có Nghị định và văn bản hướng dẫn, tuy nhiên cho đến nay các quy định này vẫn chưa đi vào cuộc sống. Tín phiếu kho bạc là một công cụ tài chính rất được ưa chuộng giao dịch trên thị trường tiền tệ, tuy nhiên hiện nay việc phát hành tín phiếu kho bạc chủ yếu với mục đích bù đắp thiếu hụt của Ngân sách Nhà nước mà chưa chú trọng đến vai trò thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển của nó.Cho nên hiện nay, Bộ tài chính chỉ phát hành một loại kỳ hạn 364 ngày là chủ yếu ( ở nhiều quốc gia, ví dụ Singapore mặc dù Ngân sách luôn bội thu nhưng trái phiếu Chính phủ vẫn được phát hành với khối lượng lớn, thời hạn đa dạng để phục vụ cho hoạt động của thị trường tiền tệ ). Thứ tư, xuất phát điểm thấp của nền kinh tế và công tác thông tin tuyên truyền cho các sản phẩm của thị trường tiền tệ chưa đáp ứng được yêu cầu. Xuất phát điểm từ một nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, lại trải qua một thời gian dài trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, cho nên cơ sỏ hạ tầng cũng như nhận thức của công chúng về nền kinh tế thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính – thị trường tiền tệ còn rất hạn chế.Ví dụ hình thức gửi tiền truyền thống của dân chúng hiện nay vẫn là gửi tiết kiệm tại các ngân hàng thương mại và giữ đến khi hết hạn để hưởng lãi. Đa phần người dân chưa có thói quen mua các công cụ nợ ( như tín phiếu, trái phiếu ) và mua bán lại các công cụ nợ đó trên thị trường. Vì vậy muốn thị trường tiền tệ phát triển thì đòi hỏi các đơn vị có liên quan( đặc biệt là hệ thống ngân hàng) phải tích cực thông tin, tuyên truyền, quảng cáo về các tiện ích của các giao dịch trên thị trường tiền tệ. Trong thời gian qua, do các ngân hàng chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động của thị trường tiền tệ, vì vậy công tác thông tin, tuyên truyền còn hạn chế, thị trường giao dịch giữa khách hàng với các ngân hàng không phát triển, dẫn đến thiếu cơ sở vững chắc cho thị trường các trung gian tài chính. * Những giải pháp phát triển thị trường tiền tệ: Để thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển cần có sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, các cấp đồng thời thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây: Một là, chuẩn hóa các công cụ giao dịch trên thị trường tiền tệ: Để thị trường thứ cấp phát triển thì một mặt, phải tạo ra nhiều hàng hóa đồng thời phải chuẩn hóa các công cụ tài chính trên thị trường. Trong thời kỳ đầu, cần phải tăng cường việc phát hành các giấy tờ có giá dưới dạng chứng chỉ để công chúng nắm giữ( sau này khi thị trường đã phát hiện thì có thể phát hành thông qua ghi sổ tại ngân hàng). Các giấy tờ có giá này phải đảm bảo lưu thông một cách dễ dàng, điều này đồng nghĩa với việc các giấy tờ có giá này phải không ghi danh và có thể chuyển nhượng, chiết khấu, thanh toán một cách dễ dàng ( như vậy các giấy tờ có giá này sẽ phải được thiết kế an toàn giống như tiền). Ngoài ra, thời hạn của các giấy tờ có giá này phải đa dạng để đáp ứng nhu cầu của thị trường ( nhất là tín phiếu kho bạc và các chứng chỉ tiền gửi ngân hàng). Để phát triển thị trường tiền tệ và thị trường tài chính, đề nghị Bộ Tài Chính xem xét phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc thêm nhiều loại kỳ hạn, như 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng …(kho bạc Mỹ thường công bố kế hoạch đấu thầu tín phiếu, trái phiếu kho bạc hàng năm, với thời hạn từ 4 tuần đến 10 năm). Hai là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ cần tập trung vào các nội dung sau: - Rà soát và hoàn thiện các quy định hiện hành về phát hành các công cụ trên thị trường sơ cấp như phát hành thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng thương mại … Xây dựng và hoàn thiện các quy định liên quan tới các nghiệp vụ của thị trường tiền tệ, xây dựng các định chế chuyên nghiệp cho thị trường như các văn bản hướng dẫn liên quan đến nghiệp vụ chiết khấu, REPO, nghiệp vụ hoán đối…để các ngân hàng thương mại thực hiện quy trình thành lập các định chế tài chính trung gian trên thị trường( Broker, Dealer…) Khuyến khích các ngân hàng xây dựng các thỏa thuận khung( có thể trong khuôn khổ của Hiệp hội Ngân hàng) để làm cơ sở thực hiện các giao dịch trên thị trường tiền tệ, như quy định về hợp đồng mẫu REPO, các thỏa thuận về thanh toán bù trừ các giấy tờ có giá trị do các ngân hàng phát hành; thỏa thuận chia sẻ thông tin và liên kết mạng… Ba là, nâng cao vai trò của các ngân hàng thương mại trên thị trường, như là những người tạo lập thị trường cụ thể là: Trên cơ sở các công cụ tài chính được quy chuẩn giao dịch trên thị trường, các ngân hàng thương mại (đặc biệt là các ngân hàng thương mại Nhà nước, các ngân hàng TMCP quy mô lớn) phải đóng vai trò là các tổ chức tạo Phải quan tâm và dành một nguồn vốn nhất định để tham gia trên thị trường tiền tệ và đưa ra nhiều sản phẩm để đáp ứng nhu cầu về vốn, đầu tư, phòng ngừa rủi ro của thị trường, như chiết khấu các giấy tờ có giá, các hợp đồng REPO, các hợp đồng SWAPS, Option… Phải niêm yết giá chào 2 chiều( cả cho vay và đi vay) trên thị trường liên ngân hàng và sẵn sàng thực hiện các giao dịch theo mức lãi suất đã niêm yết. Phải niêm yết lãi suất chiết khấu: giá mua, giá bán các giấy tờ có giá công khai tại các hội sở và chi nhánh của ngân hàng và thực hiện giao dịch theo các mức giá đã được niêm yết đó. Đối với các trái phiếu do ngân hàng phát hành, phải cam kết sẽ chiết khấu( mua lại) trước hạn theo mức lãi suất chiết khấu của ngân hàng tại thời điểm chiết khấu. Thực hiện việc liên kết giữa các ngân hàng trong việc sẵn sang chiết khấu các giấy tờ có giá do các ngân hàng khác phát hành; hoặc tổ chức thanh toán bù trừ về nghiệp vụ này. Nâng cao vai trò người cho vay cuối cùng của ngân hàng Nhà nước, thông qua nghiệp vụ thị trường mở và nghiệp vụ cho vay qua đêm đối với các ngân hàng Bốn là, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng để phục vụ cho các giao dịch trên thị trường tiền tệ và thu nhập xử lý thông tin của thị trường. Các giao dịch trên thị trường tiền tệ đòi hỏi phải thực hiện nhanh và trên phạm vi rộng( toàn cầu) vì vậy đòi hỏi việc chào giá, thỏa thuận và thực hiện giao dịch phải thông qua hệ thống mạng có độ an toàn cao. Hiện nay, gần 30 ngân hàng thương mại đã thực hiện giao dịch vốn ( gửi tiền/ cho vay và nhận tiền gửi/ đi vay) liên ngân hàng thông qua hệ thống giao dịch của hang Reutres. Tuy nhiên, do thông tin ( lãi suất, thời hạn…) trên thị trường liên ngân hàng rất quan trọng đối với Ngân hàng Trung ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia cho nên ở các nước có thị trường phát triển thì Ngân hàng Trung ương thường xây dựng các mạng riêng của mình( như Fed Wire của Mỹ; BOK Wire của Hàn Quốc…) và cho phép các ngân hàng thực hiện giao dịch vốn ngắn hạn liên ngân hàng thông qua mạng này. Việc hình thành mạng này có vai trò tích cực đối với hoạt động của thị trường vì thông qua việc cho phép các ngân hàng giao dịch qua mạng này, ngân hàng Trung ương có thể nắm bắt được đầy đủ các thông tin về thị trường và thực hiện vai trò kiểm soát thị trường của mình. Đối với các ngân hàng thì giao dịch qua mạng của Ngân hàng Trung ương sẽ tiết kiệm được chi phí so với thuê của các tổ chức khác. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để đâu tư một thiết bị mạng tương tự. Ngoài ra, cần phải thu thập, phân tích và công bố các chỉ số cơ bản của thị trường để công chúng và các địa chể tài chính tham khảo. Trong các thông số đó thì lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng là một thông số quan trọng để đánh giá sự biến động của thị trường. Năm là, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, đào tạo cán bộ phục vụ cho hoạt động của thị trường tiền tệ. Các nghiệp vụ của thị trường tiền tệ là các nghiệp vụ rất mới mẻ đối với công chúng và các ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng cần phải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo để các khách hàng biết được những tiện ích mang lại khi họ tham gia các nghiệp vụ này.Đối vói các ngân hàng thì việ đào tạo bồi dưỡng các cán bộ có trình độ về chuyên môn,ngoại ngữ để thực hiện kinh doanh trên thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế là hết sức quan trọng, đảm bảo hoạt động hiệu quả và thành công của ngân hàng trên thị trường tiền tệ. 3.2. Các giải pháp trên thị trường vốn : Thị trường vốn ở nước ta đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Thể chế và cấu trúc thị trường đang từng bước được hoàn thiện. Tuy đã đạt được những kết quả khả quan, nhưng thị trường này còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Vì vậy, thúc đẩy thị trường này ngày càng phát triển là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay. Mục tiêu phát triển thị trường đã được Nhà nước đưa ra là phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường vốn Việt Nam. Từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và cải cách nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2020, thị trường vốn Việt Nam phát triển tương đương thị trường các nước trong khu vực.Theo đánh giá của Bộ Tài chính, thị trường vốn Việt Nam đã thiết lập được hệ thống thị trường có tổ chức của Nhà nước như cơ chế vận hành, cơ quan quản lý, hạ tầng thị trường, hệ thống các nhà phát hành, các nhà đầu tư và các trung gian hoạt động trên thị trường; Quy mô của thị trường vốn có bước phát triển khá mạnh. Tính đến hết năm 2006 đã có 3400 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa với tổng giá trị vốn Nhà nước bán ra là 35.500 tỷ đồng; 26000 công ty cổ phần thành lập mới với số vốn cổ phần huy động khoảng 80.000 tỷ đồng; hơn 400 loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp được phát hành với tổng dư nợ trên 109.000 tỷ đồng. Trong đó, 193 loại cổ phiếu đã thực hiện niêm yết và đăng ký giao dịch với tổng vốn điều lệ là 20.000 tỷ đồng và giá trị vốn hóa thị trường tại thời điểm 31/12/2006 là 221.156 tỷ đồng (bằng 22,4% GDP năm 2006); hệ thống các định chế trung gian thị trường đã được thiết lập. Ngoài số lượng các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, kế toán, kiểm toán tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường thì số lượng các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ cũng tăng mạnh. Số lượng các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào thị trường chứng khoán ngày càng tăng. Bên cạnh những kết quả đó, thị trường vốn còn gặp trở ngại khi phát triển: Tính thống nhất trong điều hành các chính sách liên quan còn hạn chế như điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất; chính sách tham gia của các ngân hàng, tổ chức tín dụng vào thị trường vốn; chính sách đầu tư gián tiếp; cải cách doanh nghiệp và quản trị doanh nghiệp; quản lý nợ công…; Quy mô thị trường vốn còn nhỏ khi nguồn cung cấp vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế cho thị trường chưa nhiều; Việc phát hành cổ phiếu mới của các công ty cổ phần trực tiếp trên thị trường còn ít; Giá trị vốn Nhà nước bán ra tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa chưa nhiều (hiện chiếm khoảng 20% tổng giá trị vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp); Hiện nay, thị trường tự do thiếu sự kiểm soát của Nhà nước đang chiếm thị phần lớn. cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa có quy mô lớn hoặc lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng, điện lực, viễn thông, hàng hải vẫn tự do giao dịch trên thị trường không chính thức, không công khai, minh bạch…. đã tác động tiêu cực tới thị trường có tổ chức và gây ra những bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Trong khi đó, sự tham gia ồ ạt của nhiều nhà đầu tư, hoạt động đầu tư theo phong trào trong khi nguồn cung hạn chế đã làm mất cân đối về cung cầu chứng khoán, đẩy giá chứng khoán vượt khỏi giá trị thực của doanh nghiệp, gây ra tình trạng “nóng” trên cả thị trường có tổ chức và thị trường tự do; Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trung – dài hạn của ngân hàng vẫn ở hình thức truyền thống. Một khối lượng lớn tài sản đang tồn tại ở dạng cầm cố, thế chấp vay vốn mà chưa được chứng khoán hóa. Do vậy, khả năng huy động vốn, thoát vốn và sự liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn còn hạn chế. * Những giải pháp phát triển thị trường vốn Phát triển quy mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa để đáp ứng nhu cầu thị trường: Đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các doanh nghiệp, Tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước, gắn việc cổ phần hóa với niêm yết trên thị trường chứng khoán; Mở rộng việc phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn trên thị trường. Đối với những doanh nghiệp đã cổ phần hóa đủ điều kiện phải thực hiện việc niêm yết; đồng thời tiến hành rà soát, thực hiện ngay việc bán tiếp phần vốn, thực hiện ngay việc bán tiếp phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối. Chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hình thức công ty cổ phần và niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán; Mở rộng quy mô và đa dạng hóa các phương thức phát hành trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp trên thị trường vốn; Phát triển các loại trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, trái phiếu công trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng trọng điểm của quốc gia; Phát triển các loại chứng khoán phái sinh như quyền chọn mua, quyền chọn bán chứng khoán; hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, các sản phẩm liên kết (chứng khoán – bảo hiểm, chứng khoán – tín dụng, tiết kiệm – chứng khoán),…. Phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc, được quản lý, giám sát bởi Nhà nước và có khả năng liên kết với thị trường khu vực và quốc tế: Tách thị trường trái phiếu ra khỏi thị trường cổ phiếu để hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt; Từ sau năm 2010 nghiên cứu hình thành và phát triển thị trường giao dịch tương lai cho các công cụ phái sinh, thị trường chứng khoán hóa các khoản cho vay trung dài hạn của ngân hàng…; Phát triển thị trường cổ phiếu theo nhiều cấp độ để đáp ứng nhu cầu phát hành cổ phiếu, niêm yết, giao dịch của nhiều loại hình doanh nghiệp và đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước theo hướng tách biệt thị trường giao dịch tập trung, thị trường OTC, thị trường đăng ký phát hành, giao dịch cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; Chuyển Trung tâm giao dịch chứng khoán thành Sở giao dịch chứng khoán hoạt động theo mô hình công ty tháng 6/2008 theo tinh thần của Luật chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán thực hiện chức năng tổ chức và giám sát giao dịch chứng khoán tập trung. Nâng cấp đồng bộ hạ tầng kỹ thuật của thị trường đảm bảo khả năng liên kết với thị trường các nước trong khu vực; Tổ chức thị trường giao dịch OTC theo hướng: Thực hiện đăng ký, lưu ký tập trung đối với các công ty cổ phần đủ điều kiện theo quy định của Luật chứng khoán; Nghiên cứu cơ chế giao dịch đối với các chứng khoán không đủ điều kiện niêm yết theo mô hình thỏa thuận thông qua các công ty chứng khoán; Các giao dịch chứng khoán tập trung thanh toán và chuyển giao thông qua Trung tâm lưu ký chứng khoán, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát của Trung tâm giao dịch chứng khoán trong việc công bố thông tin,… để tăng cường tính công khai, minh bạch trên thị trường, đảm bảo sự quản lý, giám sát của Nhà nước đối với các giao dịch chứng khoán, thu hẹp hoạt động trên thị trường tự do. Phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường: Tăng số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực tài chính cho các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán,…. Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ cung cấp trên thị trường, nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng các dịch vụ; đảm bảo tính công khai, minh bạch và bình đẳng trên thị trường; Mở rộngphạm vi hoạt động Trung tâm lưu ký chứng khoán, áp dụng các chuẩn mực lưu ký quốc tế, thực hiện liên kết giao dịch thanh toán giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ; Từng bước hình thành thị trường định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Cho phép thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam và cho phép một số tổ chức định mức tính nhiệm có uy tín của nước ngoài thực hiện hoạt động định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước: Khuyến khích các định chế đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm…) tham gia đầu tư trên thị trường. Thực hiện lộ trình mở cửa đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài vào thị trường Việt Nam theo lộ trình đã cam kết; Đa dạng hóa các loại quỹ đầu tư, tạo điều kiện cho phép Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tiết kiệm bưu điện…. tham gia đầu tư trên thị trường vốn; Từng bước phát triển các quỹ hưu trí tư nhân để thu hút các vốn dân cư tham gia đầu tư; Khuyến khích việc thành lập các quỹ đầu tư ở nước ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường Việt Nam.Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà nước: Hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ đáp ứng được yêu cầu quản lý, giám sát và hội nhập với thị trường vốn của khu vực và quốc tế; Bổ sung các chế tài nghiêm khắc về dân sự, hình sự để phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động trên thị trường vốn, thị trường chứng khoán; Nghiên cứu hoàn chỉnh các chính sách về thuế, phí, lệ phí đối với hoạt động chứng khoán để khuyến khích thị trường phát triển, đồng thời góp phần giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán và từng đối tượng, thành viên tham gia thị trường; Thực hiện mở cửa thị trường vốn theo lộ trình hội nhập đã cam kết, mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên các mặt tư vấn chính sách, pháp luật và phát triển thị trường; Đẩy mạnh công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho thị trường vốn; Tăng cường phổ cập kiến thức về thị trường vốn, thị trường chứng khoán cho công chúng, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. Các giải pháp trên thị trường chứng khoán ( TTCK ) Bên cạnh các yếu tố trong và ngoài nước đã tác động đến TTCK thời gian qua, có một số yếu tố đang tác động đến TTCK trong thời gian gần đây như sau: Giá cả quốc tế, đặc biệt là giá dầu thô tăng mạnh (trên 140 USD/thùng) cũng như các thông tin về lạm phát của Việt Nam vượt ngưỡng 18,10% trong 6 tháng đầu năm; mức thâm hụt cán cân thương mại qua 6 tháng khá cao (trên 15 tỷ USD, vượt ngưỡng cả năm 2007). Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 12% lên 14% và khống chế lãi suất cho vay ở mức tối đa 150% lãi suất cơ bản, bước đầu đã giúp cho NHTM chủ động hơn trong huy động vốn, qua đó góp phần giảm áp lực về tính thanh khoản cho các ngân hàng. Tuy nhiên, khi mặt bằng lãi suất huy động tăng lên (khoảng 18-19%) cũng tác động đến sức cầu đầu tư chứng khoán. Giá vàng, giá USD tăng giảm đột biến, cũng tác động mạnh đến tâm lý và sự dịch chuyển luồng vốn trên TTCK. Đặc biệt, một số dự báo của các tổ chức quốc tế về mức phá giá VNĐ từ nay đến cuối năm đã làm cho tỷ giá trên thị trường tự do lên quá cao, nguồn cung USD khan hiếm gây nên những cơn “sốt” giả tạo. Thị trường bất động sản sau thời gian phát triển “nóng” nay đang suy giảm mạnh (ở phía Nam giảm từ  40-60%) và có dấu hiệu đóng băng, đồng thời chịu sức ép về nguy cơ siết chặt tín dụng cho vay bất động sản của ngân hàng cũng tác động đến các doanh nghiệp kinh doanh hoặc tham gia đầu tư vào các dự án bất động sản. Sau thời gian khoanh, giãn nợ để hạn chế giải chấp chứng khoán cầm cố và repo, các NHTM gặp khó khăn trong thanh khoản, cộng với giá chứng khoán xuống quá thấp, nên các ngân hàng buộc phải bán ra để thu hồi nợ. Trong thời gian tới TTCK nước ta sẽ diễn biến rất phức tạp, không những chịu sự chi phối của những yếu tố nội tại TTCK mà còn chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế. Kinh tế thế giới đã vào cuối chu kỳ phát triển. Khủng hoảng năng lượng luôn đe doạ, giá dầu tăng cao đã làm gia tăng lạm phát toàn cầu. Kinh tế Việt Nam cũng rơi vào tình trạng đó. Lạm phát tăng cao cùng với sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, lợi tức thấp khiến các nhà đầu tư tìm cách rút vốn từ TTCK sang đầu tư lĩnh vực khác an toàn hơn. Nhu cầu cổ phiếu sẽ bị giảm đi nhiều. Lượng cung cổ phiếu lại tăng cao do lạm phát cổ phiếu và do cổ phiếu nhiều công ty mới lên sàn giao dịch. Điều này đã làm thị giá cổ phiếu giảm đi nhanh chóng. Như vậy TTCK sẽ suy giảm, chỉ số chứng khoán khó tăng trở lại mà có nguy cơ giảm nữa. Để TTCK phát triển lành mạnh, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư có thể áp dụng những giải pháp sau: Tạm giãn bớt việc thắt chặt tín dụng với TTCK và bất động sản để tránh tác động của việc sụt giảm tối đa bất động sản và chứng khoán, từ đó giảm bớt rủi ro cho ngân hàng và TTCK. Hạn chế việc giải chấp chứng khoán, trong bối cảnh giá chứng khoán sụt giảm mạnh như hiện nay, đề nghị các NHTM, công ty chứng khoán tạm ngừng giải chấp, tiếp tục gia hạn hoặc NHNN hỗ trợ tài chính thông qua hoạt động tái chiết khấu để tạo thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Xử lý cầu ĐTNN: giữ tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam như hiện nay (49%). Tuy nhiên, cần nghiên cứu tháo gỡ các thủ tục hành chính (ví dụ như tháo gỡ quy định các ngân hàng nước ngoài mua cổ phiếu các NHTM chưa niêm yết phải xin phép NHNN) để tạo ra sức cầu đối với khối các ngân hàng, từ đó tác động chung đến tâm lý thị trường. Điều chỉnh biên độ giá cổ phiếu: xem xét điều chỉnh biên độ hợp lý để cải thiện tính thanh khoản nhưng vẫn đảm bảo tính ổn định của thị trường, tránh gây sốc. Trong điều kiện kinh tế vĩ mô còn khó khăn, tâm lý và lòng tin nhà đầu tư chưa cao, thì việc mở biên độ sẽ chứa đựng nhiều rủi ro, vì vậy việc điều chỉnh biên độ cần dựa trên diễn biến của thị trường và theo hướng nới lỏng dần. Xây dựng cơ chế can thiệp thị trường từ SCIC để phát huy hiệu quả, giải pháp này mang tính hỗ trợ và không nên coi là biện pháp bình ổn thị trường. Trên cơ sở đó, nghiên cứu xem xét thành lập Quỹ bình ổn thị trường với sự tham gia của Nhà nước và các thành viên thị trường. Đẩy mạnh việc kiểm tra, thanh tra để xử lý các vi phạm trên thị trường, đặc biệt là các vi phạm về chào bán chứng khoán ra công chúng; vi phạm về công bố thông tin và vi phạm liên quan đến giao dịch thao túng thị trường. Đẩy mạnh việc tái cấu trúc thị trường trên cơ sở chuyển đổi mô hình của các TTGDCK, SGDCK, TTLKCK sang mô hình doanh nghiệp để tăng cường tính độc lập, tự chủ tài chính. Tổ chức triển khai thị trường giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết theo mô hình thị trường OTC; Xây dựng thị trường TPCP chuyên biệt, tập trung tại TTGDCK Hà Nội theo cơ chế giao dịch từ xa và có sự tham gia tích cực của các tổ chức kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp (NHTM; tổ chức bảo hiểm...) KẾT LUẬN Thị trường tài chính đóng một vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nó là dòng mạch máu lưu thông và nuôi song toàn bộ nền kinh tế.Trong nền kinh tế thị trường cung và cầu gặp nhau tạo thành thị trường. Giá cả hàng hó xuất hiện nhằm giải quyết trạng thái cân bằng cung và cầu là yêu cầu cắp bách.Vốn để đầu tư cho phát triển kinh doanh, phát triển sản xuất là yếu tố sống còn đối với các thành phần kinh tế.Vì vậy có vị trí to lớn trong nền kinh tế. Thị trường tài chính Việt Nam sau giai đoạn đổi mới đến nay đã có những bước tiến nổi bật, sự ra đời của thị trường chứng khoán đã thực sự làm biến đổi thị trường tài chính nước tất cả về chất và lượng. Chúng ta có quyền hy vọng, và mong muốn một tương lai tươi sáng tốt đẹp hơn cho đất nước.Việt Nam bước vào thời kỳ hội nhập, đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, đã trúng cử trở thành thành viên không thường trực của hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008- 2009. Vì thế đòi hỏi vị thế của Việt Nam trên thị trường Quốc tế phải nâng cao hơn nữa, muốn làm được điều này kinh tế phải phát triển, đất nước phải đổi mới. Bên cạnh những yếu tố khác, thị trường tài chính là một yếu tố cấp thiết cung cấp nguồn vốn, tạo tính thanh khoản cao trên thị trường, giúp đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTaichinh (53).DOC