Hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM của nước ta từ trước đến nay vẫn luôn giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế . Đặc biệt là nước ta đang trên con đường tiến tới sự nghiệp CNH-HĐH thì vấn đề tập trung nguồn vốn để phát triển nền kinh tế là rất cần thiết. Sau hơn 10 năm xây dựng và trưởng thành hệ thống NHTM nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhờ có hệ thống NHTM ra đời mà tiền tiết kiệm của các cá nhân, đoàn thể, các tổ chức được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Nó trở thành chất dầu “ bôi trơn” cho bộ máy kinh tế hoạt động thông qua việc di chuyển nguồn lực của xã hội từ nơi chưa sử dụng,còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao mức sống xã hội.
Hiện nay hệ thống NHTM Việt nam đang mở rộng phạm vi tín dụng nhằm đáp ứng vốn cho các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế một cách có hiệu quả đưa nền kinh tế có mức tăng trưởng đáng kể và là một bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế.
32 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1816 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh vực tiền tệ ngân hàng cũng rối loạn.Vì vậy Nhà nước một lần nữa phải can thiệp: Ngân hàng phát hành có thêm chức năng quản lý tiền tệ và đổi tên thành Ngân hàng Trung ương, hệ thống các trung gian tài chính lại được tách ra làm 2 gồm hệ thống ngân hàng và hệ thống trung gian tài chính phi ngân hàng.
ở Việt nam mãi đến thời Pháp thuộc mới hình thành ngân hàng để hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh thương mại.
6/5/1951 Ngân hàng Nhà nước Việt nam ra đời và là ngân hàng một cấp hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Đến năm 1986 nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
5/1990 Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt nam ra đời chia hệ thống ngân hàng làm 2 cấp: một là NHTW là cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc quyền phát hành tiền và đóng vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, là ngân hàng của Chính phủ; một là NHTM có chức năng kinh doanh tiền tệ trực tiếp với nền kinh tế.
Hơn 10 năm qua NHTM nói riêng và hệ thống các NH nói chung đã có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế.
II. Chức năng của NHTM
NHTM là loại hình NH hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông qua việc kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu.Tầm quan trọng của NHTM được thể hiện qua các chức năng của nó. NHTM có 3 chức năng cơ bản là chức năng làm thủ quỹ, chức năng làm trung gian tín dụng, chức năng làm trung gian thanh toán.
Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội
Thực hiện chức năng này, NHTM nhận tiền gửi của công chúng, các doanh nghiệp và các tổ chức, giữ tiền cho khách hàng của mình, đáp ứng nhu cầu rút tiền và chi tiền của họ.
Chức năng này đã có ngay trong thời kỳ sơ khai của hoạt động NH xuất phát từ nh cầu muốn đảm bảo an toàn cho tài sản và mong muốn tích luỹ giá trị của công chúng và các doanh nghiệp trong xã hội.Ban đầu NH đơn giản là người giữ hộ tài sản và khách hàng phải trả cho NH một khoản phí. Về sau NH đã sử dụng khoản tiền gửi của khách hàng để cho vay, và thay cho việc khách hàng phải trả thù lao cho NH, NH lại trả cho khách hàng lợi tức tiền gửi. Tuy nhiêm với các khoản tiền, vàng bạc, đá quý, chứng từ có giá. . . khách hàng gưỉ vào NH với yêu cầu giữ hộ, khách hàng vẫn phải trả cho NH một khoản phí nhất định.
Ngày nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập ngày càng cao, tích luỹ của doanh nghiệp và cá nhân ngày càng lớn cộng thêm nhu cầu bảo vệ tài sản và mong muốn sinh lời từ khoản tiền có được của các chủ thể kinh tế làm cho các chức năng này càng được thể hiện rõ. Nó đem lại lợi ích cho cả khách hàng và NH.
Đối với NH, chức năng này là cơ sở để NH thực hiện chức năng trung gian thanh toán, đồng thời tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho NHTM để thực hiện chức năng trung gian tín dụng.
2. Chức năng trung gian thanh toán
NH làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng. NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở nó thực hiện chức năng thủ quỹ cho xã hội. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu, chi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề để NH thực hiện vai trò trung gian thanh toán.Mặt khác, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế như rủi ro, chi phí lớn. . .
Việc hệ thống NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế trong việc góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội.Đồng thời làm tăng uy tín cho NH và do đó tạo điều kiện để thu hút nguồn vốn tiền gửi.
3. Chức năng làm trung gian tín dụng
NH làm trung gian tín dụng khi nó là “cầu nối” giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, NH hình thành nên quỹ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với nền kinh tế, mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Với chức năng này NH vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay.
Sở dĩ NH làm được chức năng này vì nó là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng, có khả năng nhận biết được tình hình cung cầu về tín dụng. Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối lượng lớn, NH có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu tín dụng cả về khối lượng vốn vay và thời gian cho vay.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng,NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ là người gửi tiền, NH và người đi vay và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế.
Chức năng là trung gian tín dụng của NHTM có tác dụng tập trung vốn cho quá trình sản xuất. Mặt khác sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán làm cho hệ thống NHTM có khả năng tạo tiền gửi thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, NH sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá, dịch vụ… Khi NH chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay, NH chưa hề tạo tiền, chỉ khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, NH mới bắt đầu tạo tiền.
Tóm lại, các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời khi thực hiện tốt chức năng thủ quỹ và chức năng trung gian thanh toán lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng quy mô hoạt động của NH.
III. Nghiệp vụ của NHTM
Việc nghiên cứu các nghiệp vụ một của NHTM thực chất là việc xác định nội dung các khoản mục thuộc bảng tổng kết tài sản. Đó là bản báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình sử dụng vốn và nguồn vốn hoạt động của một NHTM tại một thời điểm nhất định. Bảng tổng kết tài sản của NHTM bao gồm 2 phần là tài sản Nợ và tài sản Có. Đây cũng chính là 2 nghiệp vụ cơ bản của một NHTM.
1. Nghiệp vụ thuộc tài sản Nợ
Nghiệp vụ thuộc tài sản Nợ phản ánh nguồn vốn của NH. Kết cấu tài sản Nợ của NHTM bao gồm: vốn tiền gửi, vốn đi vay và vốn của NH.
Vốn tiền gửi
Vốn tiền gửi là bộ phận quan trọng của NHTM, bao gồm:
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Đối với khoản này, mục đích chính của người gửi tiền là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua NH và do vậy nó thường được gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau một thời hạn nhất định từ một vài tháng đến một vài năm. Mục đích của người gửi tiền là lấy lãi và NH có thể chủ động kế hoạch hoá việc sử dụng vốn này vì tính có thời hạn của nguồn vốn. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền và sự thoả thuận giữa NH và khách hàng trên cơ sở xem xét đến mức độ an toàn của NH cũng như quan hệ cung cầu vốn tại thời điểm đó.
Tiền gửi tiết kiệm là tiền để dành của dân cư được gửi vào NH nhằm mục đích hưởng lãi.
Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn vốn của NHTM, là nguồn vốn chủ yếu để NH kinh doanh. Chính vì vậy người ta gọi NHTM là NH ký thác hay NH tiền gửi.
Vốn đi vay
Các NHTM có thể vay vốn từ NHTW, vay các NH hoặc trung gian tài chính khác và vay từ công chúng.
Phát hành các giấy tờ có giá khi NH thiếu khả năng thanh toán hoặc NH phát hiện ra các dự án đầu tư lớn. Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu được áp dụng theo hai phương thức là:
- Phát hành theo mệnh giá.
- Phát hành dưới hình thức chiết khấu.
Vay NHTW chỉ được vay ngắn hạn vì cho vay dài hạn NHTW không điều tiết được. Bất kỳ NHTM nào khi được NHTW cho phép thành lập hoạt động đều được hưởng quyền vay tiền tại NHTW trong trường hợp cần bổ sung nhu cầu vốn khả dụng dưới 2 hình thức chủ yếu là tái chiết khấu các giấy tờ có giá và cho vay thế chấp hay ứng trước.
Ngân hàng Trung ương cấp tín dụng cho các NHTM chủ yếu dưới hai hình thức là:
Tái cấp vốn mà chủ yếu dưới hình thức tái chiết khấu các chứng từ có giá.
Cho vay thế chấp hay ứng trước.
Ngoài ra, NHTM có thể vay các NH và tổ chức tài chính khác. Mục đích quan trọng của loại này là nhằm đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng trong thời hạn ngắn.
NHTM cũng có thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt động từ việc phát hành phiếu nợ để vay nước ngoài.
Vốn vay đã trở thành một nguồn vốn quan trọng của NH khi nó làm cho các NH chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh. Việc áp dụng một chính sách lãi suất linh hoạt kèm theo các điều kiện phi lãi suất thích hợp đối với các công cụ nợ khi đi vay NH có thể chủ động đạt được nguồn vốn phù hợp với nhu cầu.
Vốn của NH
Khoản mục cuối cùng trong phần tài sản Nợ của bảng quyết toán tài sản NH là vốn thuộc sở hữu của NH. Nó bằng hiệu số giữa tổng tài sản Có với tài sản Nợ. Vốn của NHTM mang tính chất ổn định, nó thường chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NH( khoảng dưới 10%), nhưng có một vị trí quan trọng, quyết định quy mô hoạt động của NH, là cơ sở để NH tiến hành kinh doanh, huy động vốn và cho vay. Người ta ví nó như một cái đệm để chống đỡ sự giảm giá trị của những tài sản Có của NH mà có thể đẩy NH đến tình trạng thiếu khả năng chi trả và phá sản.
2. Nghiệp vụ thuộc tài sản Có.
Nghiệp vụ thuộc tài sản Có phản ánh việc sử dụng vốn của NHTM. Xuất phát từ đặc điểm nguồn vốn của NH, cơ cấu sử dụng vốn phải đảm bảo an toàn và sinh lời. Tài sản Có bao gồm: nghiệp vụ ngân quỹ, nghiệp vụ cho vay và nghiệp vụ đầu tư.
Nghiệp vụ ngân quỹ là một khoản dự phòng để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi tiêu của NH. Khoản mục này bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ở các NH khác, tiền gửi ở NHTW.
Các bộ phận này hình thành nên phần dự trữ của NHTM. Mặc dù dự trữ của NH không tạo nên lợi nhuận nhưng nó đảm bảo khả năng thanh toán và các nghĩa vụ tài chính khác cho NH. Vì thế mà nó hạn chế rủi ro thanh khoản, nâng cao uy tín cho NH, tạo nền tảng vững chắc cho khả năng sinh lời của NH.
Nghiệp vụ cho vay: là nghiệp vụ cung ứng vốn của NH trực tiếp cho các nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trên cơ sở thoả mãn các điều kiện vay vốn của NH. Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, NH có thể kiểm soát trực tiếp và thường xuyên mục đích sử dụng tiền vay. Đối với các NH truyền thống, cho vay là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu và được thực hiện thông qua các hình thức phổ biến như chiết khấu thương phiếu, cho vay ứng trước, tín dụng uỷ thác thu hay bao thanh toán, tín dụng bằng chữ ký. . .
Nghiệp vụ cho vay được thực hiện thông qua các hình thức phổ biến sau:
Chiết khấu thương phiếu.
Cho vay ứng trước.
Cho vay vượt chi.
Tín dụng uỷ thác hay thu bao thanh toán.
Cho vay thuê mua.
Tín dụng bằng chữ ký gồm tín dụng chấp nhận và tín dụng bảo lãnh.
Tín dụng tiêu dùng.
Nghiệp vụ đầu tư: đầu tư vào chứng khoán là hình thức phổ biến trong nghiệp vụ tài sản Có của các NHTM và các tổ chức tín dụng. NH có thể đầu tư vào trái khoán Chính phủ hoặc trái khoán công ty để thu lợi tức đầu tư, do đó mang lại thu nhập cho NH, bảo tồn ngân quỹ. Đồng thời nó còn làm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của NH nhằm phân tán rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH.
Những tài sản Có khác là những vốn hiện vật như nhà làm việc, máy tính và những trang thiết bị khác do NH sở hữu.
Ngoài ra NH sử dụng các nghiệp vụ bổ trợ cho nghiệp vụ kinh doanh chính như kinh doanh vàng bạc, thanh toán chuyển tiền cho khách hàng, thực hiện các bảo lãnh, tư vấn đầu tư, các nghiệp vụ đại lý, các dịch vụ bảo quản. . .
IV. Vai trò của NHTM
Vai trò của NHTM nói riêng và của các NHTG nói chung được thể hiện trong việc vận dụng các chức năng của nó và cụ thể hoá trong các hoạt động của NH. Khái quát lại, có thể nêu lên hai vai trò lớn của NHTM sau:
Là công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá.
Với chức năng trung gian tín dụng, thông qua các nghiệp vụ huy động vốn, cho vay và đầu tư NHđã huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, cho vay đối với các ngành, các thành phần kinh tế. Nó trở thành chất dầu “bôi trơn” cho bộ máy kinh tế hoạt động thông qua việc di chuyển nguồn lực của xã hội từ nơi chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao mức sống xã hội.
Bên cạnh đó, với chức năng trung gian thanh toán, NH đã thực hiện các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế từ đó thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hoá, luân chuyển vốn trong xã hội, tiết kiệm chi phí thanh toán cho từng cá nhân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời NH cùng giám sát được các hoạt động kinh tế góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo ra sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội.
Ngày nay, có thể nói mọi quan hệ kinh tế đến thực hiện thông qua quan hệ tiền tệ và chủ yếu là thông qua hoạt động của hệ thống NH bên cạnh các tổ chức tài chính phi NH.
NHTLM và các NHTG khác là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW
Với các chức năng của mình, NHTM là một trong các chủ thể tham gia vào quá trình cung ứng tiền, tạo ra một khối lượng phương tiện thanh toán rất lớn trong nền kinh tế.
Để thực hiện chính sách tiền tệ, NHTW phải sử dụng các công cụ để điều tiết lượng tiền trong lưu thông, nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các công cụ của chính sách tiền tệ chỉ được thực thi có hiệu quả với sự hợp tác tích cực và có
hiệu quả của các NHTM, các NHTG khác như việc chấp hành quy định dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt và việc nâng cao hiệu quả cho vay và đầu tư.
Tóm lại, cùng với sự tăng trưởng kinh tế NHTM càng có một vị trí và vai trò quan trọng hơn trong việc thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong nền kinh tế góp phần ổn định tiền tệ cũng như ổn định và phát triển nền kinh tế của quốc gia.
Phần II: thực trạng của hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM việt nam hiện nay
I. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống NHTM Việt nam.
Trước năm 1945 nước ta phải đứng trước tình trạng bị các đế quốc, thực dân đô hộ. Đặc biệt là khi thực dân Pháp xâm lược thì trên lãnh thổ Việt nam đã xuất hiện hệ thống NH đầu tiên bao gồm NH Đông Dương với tư cách là NH phát hành tiền lúc bấy giờ là giấy bạc Đông Dương và một số NH tư nhân của người nước ngoài để hoạt động kinh doanh thương mại.
Sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra đời thì hệ thống NH mới từng bước xây dựng và trưởng thành. 6/5/1951 Ngân hàng Quốc gia Việt nam ra đời. Từ 1951 đến năm 1987 hệ thống NH ở Việt nam vẫn là hệ thống NH 1 cấp, NHNN vừa đóng vai trò là NHTW vừa đóng vai trò là NHTG. Hoạt động của NH được tiến hành trên cơ sở kế hoạch tập trung bằng Pháp lệnh từ khâu phát hành, tín dụng cho đến cung ứng tiền mặt hay nói cách khác NHNN có hai chức năng vừa là người phát hành, vừa là người kinh doanh tiền tệ cho nên không thể quản lý được lượng tiền cung ứng . Do đó mà làm tăng hơn nữa tỷ lệ lạm phát cao trong những năm thập kỷ 80, nhất là năm 1986 khi đó mức lạm phát lên tới xấp xỉ 700%.
Ngày 26 tháng 3 năm 1988 theo quyết định của Hội đồng bộ trưởng(HĐBT), hệ thống NH được tổ chức lại thành hai cấp với mục tiêu là tăng cường chức năng quản lý vĩ mô về tiền tệ của NHNN, chức năng kinh doanh tiền tệ của các NHTM.
Cho đến 5/1990 với việc ban hành 2 Pháp lệnh về NH - đánh dấu bước chuyển đổi căn bản và toàn diện hoạt động NH ở Việt nam. Hệ thống NH 2 cấp chính thức ra đời: NHNN là NHTW thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền, quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán ngoại hối và NH; các NH chuyên doanh thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ trực tiếp với nền kinh tế. Cho đến hiện nay, ngành NH đã trở thành một hệ thống với nhiều loại hình tổ chức tín dụng(TCTD), đa dạng về hình thức sở hữu với mạng lưới trải khắp các tỉnh, thành phố từ thành thị đến nông thôn. Đó là 6 NHTM quốc doanh, 47 NHTM cổ phần, 4 NH liên doanh, 31 chi nhánh của 26 NHTM nước ngoài và hàng trăm quỹ tín dụng nhân dân.
NHTM quốc doanh được thành lập băng 100% vốn của Ngân sách Nhà nước và giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền tệ nước ta, NHTM cổ phần được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần.
Nhìn chung NHTM với tư cách là một doanh nghiệp chuyên kinh doanh tiền tệ hoạt động trên cơ sở “đi vay” để “ cho vay” thông qua nghiệp vụ tín dụng của mình nhằm đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông tiền tệ. Do đó các NHTM ra đời là một tất yếu khách quan và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế nước ta hiện nay đó là nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
II. Hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM Việt nam.
Tình hình kinh tế nước ta trong những năm vừa qua.
Trong thời kỳ nền kinh tế nước ta thực hiện chính sách kinh tế đóng thì tình trạng trì trệ, kém phát triển của một cơ chế quan liêu bao cấp đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế của đất nước.
Cho đến 1987 nước ta xoá bỏ bao cấp, thực hiện nền kinh tế mở, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển mình đáng kể. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá- tiền tệ theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta đạt được những chỉ số quan trọng. Đó là đỉnh cao tăng trưởng năm 1995 là 9,5%, năm 1996 là 9,34%, năm 1997 là 8,8%. Tuy nhiên trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nước ta giảm hẳn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đầu tháng 7/1997 tại Thái lan năm 1998 là 5,8%, năm 1999 là 4,8%, năm 2000 là 6,75% và năm 2001 là 6,8%. Với những biến đổi của nền kinh tế hệ thống NH nước ta cũng có nhiều biến đổi đặc biệt là hoạt động tín dụng của các TCTD kinh doanh tiền tệ trong đó vai trò chính là các NHTM. Với những chính sách lãi suất huy động và cho vay phù hợp kết hợp với những chuyển biến lớn trong các dịch vụ ngân hàng nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời ổn định tiền tệ, hạn chế lạm phát. Tuy nhiên nền kinh tế Thế giới cũng có những ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế Việt nam. Tính đến năm 2001 tổng đầu tư toàn xã hội năm 2001 = 30% GDP tăng gần 16,8% so với năm 2000, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 20% tổng số và tăng 4,2% so với năm 2000.
Hiện nay, Nhà nước ta đang có những cải tiến đáng kể trong việc tạo ra môi trường pháp lý ổn định cho hoạt động NH nói riêng và nền kinh tế nói chung nhằm phát triển kinh tế đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
2. Hoạt động tín dụng của các NHTM Việt nam trong thời gian qua.
Hệ thống các NHTM Việt nam ra đời khi thời kỳ Pháp lệnh 5/1990. Sau hơn 10 năm xây dựng và trưởng thành cùng với tăng trưởng của hoạt động dịch vụ ngân hàng, hệ thống các NHTM từng bước đã được kiện toàn lành mạnh. Đó là 6 NHTM quốc doanh với 100% vốn sở hữu Nhà nước, 47 NHTM cổ phần trong đó NHTM quốc doanh chiếm thị phần hơn cả. Về vốn huy động NHTM quốc doanh chiếm tới 75%, NHTM cổ phần chiếm gần 10%, chi nhánh NH nước ngoài và liên doanh chiếm khoảng trên 11%. Về đầu tư vốn cho vay vốn NHTM quốc doanh chiếm gần 80%, NHTM cổ phần chiếm gần 9%, chi nhánh NH nước ngoài và liên doanh chiếm khoảng 10%. Qua thực trạng trên cho thấy hệ thống NHTM nói chung và NHTM quốc doanh nói riêng cùng với việc mở rộng hoạt động tín dụng từ thành thị đến nông thôn, đối với các thành phần kinh tế, nâng cao chất lượng sản phẩm tín dụng, phương tiện thanh toán hay các dịch vụ NH khác, nhiều NH có dư nợ hàng năm cao đã, đang và sẽ góp phần không nhỏ vào việc huy động vốn để phát triển kinh tế đất nước.
Hơn nữa, nước ta đang trên con đường hướng tới CNH – HĐH đất nước. Để đưa đất nước hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới thì vấn đề nguồn vốn là vấn đề được đặt ra cấp bách đặc biệt ở nước ta thị trường chứng khoán chưa phát triển mạnh, do đó vị trí của NHTM trong nền kinh tế với chức năng và vai trò vô cùng quan trọng trong việc huy động vốn và sử dụng vốn như thế nào có hiệu quả, phát huy tốt vai trò “ là kênh dẫn vốn” từ người thừa vốn đến người thiếu vốn. Trong tất cả các nghiệp vụ của các NHTM thì nghiệp vụ tín dụng giữ vai trò quan trọng nhất. Đây chính là một trong những cơ sở để đánh giá sự phát triển của một NHTM. Việc huy động vốn và sử dụng vốn của các NHTM này thông qua những cơ chế thích hợp nhằm tạo ra sự cân đối cho nền kinh tế. Bên cạnh những thành tựu đạt được của hệ thống NHTM Việt nam còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục. Thông qua thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM Việt nam phần nào thấy được những thành tựu và những hạn chế trên các mặt huy động vốn và sử dụng vốn.
Huy động vốn.
Huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của các NHTM, thông qua nghiệp vụ này mà các NHTM có thể phát huy được tác dụng của lượng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với tư cách là TGTD. Việc huy động vốn của các NHTM Việt nam cũng như hệ thống các NHTM nói chung đó là việc nhận tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng kể cả việc đi vay mượn từ nước ngoài, các TCTD khác.
Thực tế việc huy động vốn thông qua hệ thống NHTM ở nước ta trong những năm qua đang ngày càng được mở rộng, số tiền gửi vào ngân hàng cao hơn các tổ chức tư nhân làm cho lòng tin của người có tiền gửi vào ngân hàng được tăng lên.Từ đó ngân hàng đã giải quyết tương đối tốt vốn đầu tư cho nền kinh tế nước ta. Sau khi hệ thống ngân hàng được tách làm 2 cấp thì chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM Việt nam được thể hiện rõ nét hơn. Cụ thể là: tổng nguồn vốn huy động của các NHTM năm 1993 đạt hơn 15.000 tỷ đồng, tăng 8% so với năm 1992 trong đó nguồn vốn huy động kỳ phiếu tăng 281% = 688 tỷ. Số dư tiết kiệm và kỳ phiếu đạt 3.918 tỷ đồng chiếm 26% tổng nguồn huy động. Tiền gửi ngoại tệ chiếm khoảng 47% tổng nguồn huy động.
Đến năm 1998 là một năm đầy khó khăn đối với nước ta. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 đã nhanh chóng lan ra và ảnh hưởng sâu sắc đến diện mạo của nền kinh tế, thiên tai lại liên tiếp xảy ra đe doạ nền sản xuất và cuộc sống của hơn 76 triệu dân nước ta. Song có thể thấy NHNN đã cố gắng bằng mọi biện pháp đồng bộ thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt trên cơ sở thực hiện đúng như tinh thần của luật NHNN và luật các TCTD vừa mới ban hành. Kết quả là cơ cấu tổng phương tiện thanh toán có sự thay đổi tích cực.Tỷ trọng tiền gửi tại các NHTM tăng cao trong đó tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn đang ở mức 41% năm 1997 đã tăng lên mức 50,6% năm 1998. Mặc dù lãi suất tiền gửi và lãi suất huy động vốn liên tục giảm xuống tới mức rất thấp trong năm 1999( lãi suất không kỳ hạn là 0,1 đến 0,15%/ tháng, tiền gửi 3 tháng là 0,3%/tháng, tiền gửi 6 tháng là 0,4 đến 0,45%/tháng. . . Tuy vậy nguồn vốn huy động vào các NHTM vẫn tăng nhanh, tổng nguồn vốn huy động đến 9/1999 tăng 19% trong đó vốn huy động bằng ngoại tệ tăng 17,5%, vốn huy động bằng nội tệ tăng 23,5% so với năm 1998. Năm 2000 tổng số dư nguồn vốn huy động tăng gấp 1.250 lần so 1986, gấp 21 lần so năm1990.
Cho đến năm 2001 thì tốc độ huy động vốn giảm, tính đến cuối năm 2001 huy động vốn đạt 24,43%( năm 2000 là 33,2%) đặc biệt tốc độ tăng huy động bằng ngoại tệ là do tác dụng của diễn biến lãi suất ngoại tệ trên thị trường liên tục giảm trong năm 2001.
Có thể thấy tiền gửi tại NHTM( nghìn tỷ VND) qua bảng sau:
Năm
1999
2000
2000
2000
2000
2001
2001
2001
Tháng
12
3
6
9
12
3
6
8
1.Tiền gửi của khối DN
- Bằng VND
37,8
41,8
45,5
49,7
59,4
58,0
59,8
62,3
- Bằng ngoại tệ
21,2
23,1
24,3
25,3
25,2
30,1
32,8
35,1
Trong đó tiền gửi ngoại tệ thanh toán
12,2
13,9
12,8
12,6
13,5
14,0
13,2
12,5
2. Tiền gửi của khối dân cư
- Bằng VND
26,6
30,6
30,9
31,2
29,9
35,6
35,9
35,1
- Bằng ngoại tệ
22,6
27,0
29,1
33,6
45,1
17,8
51,5
54,6
Trong đó tiền gửi ngoại tệ thanh toán
0,6
0,7
0,7
0,8
3,3
1,4
1,3
2,1
Nguồn IMF-Vietnm
Có thể thấy rằng từ sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nền kinh tế Việt nam tăng trưởng chậm lại, cầu về tín dụng giảm sút, Chính phủ Việt nam đã thực hiện giảm lãi suất để kích cầu, trong khi đó các NHTM phải giảm lãi suất VND để giảm tình trạng vốn chảy vào quá mức gây nên tình trạng ứ đọng vốn tại các NH, các doanh nghiệp rất cần vốn mà e ngại đầu tư.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng công tác huy động vốn vẫn còn nhiều hạn chế như hình thức vốn vẫn còn đơn điệu, phần lớn là các nguồn vốn ngắn hạn. . .
Sử dụng vốn
Hiệu qủa kinh doanh cuả các NHTM được thể hiện trên cả hai mặt huy động vốn và sử dụng vốn. Sử dụng vốn như thế nào có hiệu quả đem lại lợi nhuận trong kinh doanh là một vấn đề được đặt ra đối với các NHTM.
Trong thời gian qua các NHTM đã đẩy mạnh cho vay phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật với số lượng vốn ngày càng lớn, cơ cấu đầu tư tín dụng đã thay đổi theo hướng đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng vốn cho vay trung và dài hạn để phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Vốn của các NHTM đã tập trung đầu tư cho sản xuất kinh doanh và dịch vụ đối với mọi thành phần kinh tế. Tính đến cuối năm 2000, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 1.075 lần so với năm 1986, gấp 28 lần so với năm 1990, bằng 40% GDP. Cho vay trung và dài hạn chiếm gần 40% tổng dư nợ, cho vay khu vực nông nghiệp và nông thôn chiếm 39%. NH tập trung vốn trung và dài hạn cho vay các dự án then chốt của nền kinh tế như ngành điện, dầu khí, công nghiệp, xây dựng, cơ sở hạ tầng giao thông.
Thực hiện cho vay vốn các đối tượng chính sách và các chương trình kinh tế lớn trọng điểm của Nhà nước, cho vay chương trình xoá đói giảm nghèo với trên 3 triệu hộ nghèo trong cả nước góp phần quan trọng vào việc giảm tỷ lệ nghèo đói xuống 15% vào năm 2000 được Liên hợp quốc công nhận là nước thành công nhất trong việc xoá đói giảm nghèo, cho vay phát triển nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long, thành lập quỹ đào tạo để cho sinh viên nghèo vay ăn học với lãi suất thấp bằng 50% lãi suất thị trường, thời hạn cho vay dài từ 10 đến 15 năm.
Trong năm 2001 tín dụng đối với nền kinh tế tiếp tục tăng theo hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp-chế biến nông-lâm-thuỷ sản, các ngành nghề thủ công, chú trọng đầu tư phát triển khu nông nghiệp nông thôn phù hợp với định hướng của Chính phủ về chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế. Vì vậy tín dụng cho khu vực này chiếm tỷ trọng cao trong tổng tín dụng đối với nền kinh tế. Các NHTM quốc doanh đóng vai trò chủ lực trong cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp. Cụ thể là: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam: 32.300 tỷ, Ngân hàng Công thương Việt nam: 3000 tỷ đồng, Ngân hàng đầu tư và phát triển: 3.700 tỷ, Ngân hàng phục vụ người nghèo: 5.100 tỷ đồng. . .
Nhưng nhìn chung hoạt động tín dụng của các NHTM hiện nay vẫn chưa được thông suốt. Thực tế là các NHTM chỉ huy động được các nguồn vốn ngắn hạn, chỉ dành một phần nhỏ trong tổng số vốn của mình để đầu tư tín dụng trung và dài hạn, so với nhu cầu rất cao của các ngành kinh tế, các tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay của NH chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu vốn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế. . . nhưng tại các NH lại thừa tiền chưa cho vay được hiện nay vẫn đang là vấn đề lớn đối với các doanh nghiệp, NHTM và cả đối với Nhà nước. Đặc biệt là các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp - đây có thể coi là khu vực kinh tế – là “ vùng đệm” tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước ta giao lưu quan hệ với bên ngoài, với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Đây sẽ là thị trường lớn về nhu cầu vốn tín dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các công ty hoạt động trong khu chế xuất, khu công nghiệp nhưng các NH trong nước đáp ứng vốn một cách hạn chế. Tính đến năm 2001 trên địa bàn Thành phố HCM là 1.227 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng rất nhỏ là 2,26% so với tổng dư nợ. Để đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp chủ yếu đi vay từ nước ngoài, từ công ty mẹ chuyển sang trả chi phí sử dụng vốn với lãi suất rất cao từ 8,5% đến 9,5%/năm.Trong khi đó nguồn vốn trong nước không cho vay ra được. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của cả 2 phía doanh nghiệp và ngân hàng.
Mặc dù việc cho vay tín dụng đối với các NHTM đã được cải tiến song vẫn còn hạn chế nhất định có thể xuất phát từ nguyên nhân như mặc dù hệ thống các NHTM xét về số lượng thì quả là một con số không nhỏ; song, nếu xét về quy mô của hầu hết các NHTM Việt nam thì lại thật nhỏ bé. Sự nhỏ bé ở đây được thể hiện rất rõ qua số vốn, mạng lưới chi nhánh và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Nhiều ngân hàng có số vốn chỉ vào khoảng 1 tỷ VND như các NHTM cổ phần nông thôn; các ngân hàng còn lại chỉ ở mức vốn vài chục tỷ VND. Ngay cả NHTM quốc doanh là loại hình ngân hàng đang nắm vai trò chủ đạo thì mức vốn cũng chỉ tương đương với 100 triệu USD. Vốn điều lệ thấp với mạng lưới nhiều chi nhánh hoạt động tín dụng trong môi trường rủi ro nên trong thời gian qua nhiều NHTM lâm vào tình trạng khó khăn, tình trạng nợ quá hạn của các NHTM Việt nam cao( nhất là các NHTM cổ phần). Sự dễ tổn thương của hệ thống NHTM Việt nam có thể là thách thức lớn khi hệ thống này chuyển đổi sang một cơ chế thị trường thực sự, đặc biệt khi tự do hoá lãi suất, thả nổi tỷ giá, trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Nợ quá hạn cuả hệ thống NHTM có chiều hướng gia tăng kể từ năm 1997. Qua số liệu của IMF WB công bố thì tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống NH Việt nam dường như không cao so với các nước trên thế giới nhưng đây cũng là tỷ lệ nợ quá hạn cao.
Năm
95
96
97
98
99
3/2000
NHTMQD
9,1
11,0
12,0
11,0
11,1
11,0
NHTMCF
3,3
4,2
13,5
16,4
23,0
24,4
Nguồn IMF – table Vietnm.
Hiện nay, nguồn vốn trong dân cư còn nhiều nhưng chưa được khai thác, vốn tại các ngân hàng vẫn còn ứ đọng, một số doanh nghiệp vẫn không đủ vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy mà các NHTM, NHNN và Chính phủ phải có những biện pháp thích hợp để giải quyết tình trạng trên tạo điều kiện cho luồng vốn được chảy thông suốt để đưa nền kinh tế phát triển.
Tóm lại, hệ thống NHTM Việt nam bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế như tỷ lệ nợ quá hạn còn cao, công nghệ NH chưa được áp dụng rộng rãi trong hệ thống các NHTM...
III. Chất lượng tín dụng của hệ thống NHTM Việt nam.
Năm 2000 hoạt động NH đã đạt kết quả khả toàn diện. Các chỉ tiêu tiền tệ-tín dụng đều thực đạt và vượt kế hoạch: tổng phương tiện thanh toán tăng 25,6%, nguồn vốn huy động tăng 28%, dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 25%, lạm phát được kiểm soát và kiềm chế ở mức thấp, các NHTM đã tích cực xử lý tài sản thế chấp, tài sản siết nợ, thu hồi được một bộ phận nợ tồn đọng, đóng băng lâu ngày. Hiệu quả kinh doanh được nâng lên một bước đáng kể. Tuy vậy trong hoạt động kinh doanh của các NHTM hiện nay, chất lượng tín dụng vẫn là nội dung được đặc biệt quan tâm. Chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển KT-XH và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng được thể hiện: đối với NHTM: phạm vi, mức độ và giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Đối với khách hàng: tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng, với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
Đối với sự phát triển KT-XH: tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Trong các nghiệp vụ ngân hàng nhất là khi ngân hàng chuyển sang nền kinh tế thị trường thì nghiệp vụ được đặt lên hàng đầu là tín dụng-nghiệp vụ mũi nhọn quyết định sự sống còn và phát triênt của một ngân hàng. Yêu cầu cơ bản của tín dụng là “ tính khả thi và hiệu quả đầu tư”, trong đó việc đảm bảo thu đủ nợ gốc và lãi đến hạn là vấn đề then chốt được đặt ra hàng đầu đối với các NHTM. Hoạt động tín dụng của các NHTM Việt nam trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới.
Những thành tựu đạt được trong quản lý chất lượng tín dụng của các NHTM Việt nam.
Tín dụng của các NHTM Việt nam trong thời gian qua đã được cải thiện đáng kể, đó là dư nợ cho vay nền kinh tế tăng mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn cao nhưng cũng đã giảm so với những năm trước, tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn: năm 2000 tăng 38,14% so với năm 1999, năm 2001 tăng 21,44% so với năm 2000 , cơ cấu cho vay hợp lý hơn. Việc quản lý tín dụng ở các NHTM cũng đang được hoàn thiện hơn. Đặc biệt các NHTM đã chú trọng việc nâng cao trình độ cán bộ tín dụng, tăng cường công tác giám sát nhằm tránh rủi ro.
Theo báo cáo thường niên, đến 12/2001 tổng phương tiện thanh toán tăng 25,53% so với cuối năm 2000. Cơ cấu tổng phương tiện thanh toán cuối năm 2001 không có sự biến động lớn so với năm 2000. Tín dụng đối với nền kinh tế tăng mạnh: tốc độ tăng tín dụng năm 2000 gấp 2 lần so với năm 1999. Tỷ trọng tiền mặt lưu thông là 23,7% tương đương năm 2000, tỷ trọng tiền gửi bằng VND là 44,6%, tiền gửi bằng ngoại tệ là 31,7%. Tổng dư nợ của NHTM đối với nền kinh tế năm 2001 đạt 30,8% GDP, tăng gần 16,8% so với năm 2000. Mức huy động vốn tăng cao, năm 2001 đạt 25,1% so năm 2000 trong đó băng VND đạt 32,2% năm 2000, 24,43% năm 2001, bằng ngoại tệ năm 2000 là 60,5%, năm 2001 là 26%.Tín dụng được mở rộng đối với các thành phần kinh tế, các vùng trong cả nước, đặc biệt gần đây với chính sách phát triển kinh tế các vùng nông thôn thì việc tập trung vốn cho khu vực này được Đảng và Nhà nước quan tâm. Tính đến tháng 6/2001 dư nợ cho vay đối với khu vực này là 48.500 tỷ đồng, dịch vụ tín dụng người nghèo đã cung cấp một khối lượng tín dụng đáng kể, đáp ứng được một phần nhu cầu vốn tín dụng cho hộ nghèo ở Việt nam. Bên cạnh đó hình thức tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tư nhân cũng đang được đáp ứng một cách rộng rãi.
Đặc biệt mới đây theo quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 của Thống đốc NHNN Việt nam kể từ ngày 1/6/2002 cơ chế lãi suất thoả thuận được thực hiện trong hoạt động tín dụng Thương mại bằng đồng Việt nam của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Sự ra đời của cơ chế lãi suất thoả thuận đã tạo ra một dư luận tích cực trong đời sống KT-XH. Với cơ chế này sẽ tạo ra nguyên tắc “ thuận mua, vừa bán” giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt nam. Đây có thể là bước mở đầu cho việc phát triển chất lượng tín dụng của các NHTM.
Theo nguyên tắc này, các tổ chức tín dụng sẽ tìm mọi cách để có được các nguồn rẻ nhất, chi phí hoạt động thấp nhất và khách hàng làm ăn có hiệu quả nhất. Ngược lại khách hàng cũng sẽ tìm đến các tổ chức tín dụng có lãi suất cho vay thấp nhất, hoạt động bền vững nhất.
Chất lượng tài sản có đã được cải thiện, hệ thống NHTM đã áp dụng những hoạt động kiểm soát, kiểm tra thường xuyên để hạn chế những rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Tuy nhiên trong những năm gần đây rủi ro tín dụng đã làm cho chất lượng tín dụng của các NHTM giảm xuống.
Về công nghệ ngân hàng đang được áp dụng trong một số NHTM nhằm nâng cao chất lượng của các khoản vay. Đến năm 2002 Ngân hàng Công thương đã lắp đặt 30 máy rút tiền tự động ATM, hệ thống VCB-ATM phục vụ khách hàng trong nước và nước ngoài dùng thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ của Việt nam và quốc tế. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến VCB-On-line sẽ được áp dụng trong năm tới.
2. Những hạn chế về chất lượng tín dụng của các NHTM Việt nam hiện nay
Mặc dù chất lượng tín dụng của hệ thống NHTM Việt nam đã có những cải thiện đáng kể, song vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Biểu hiện cụ thể:
Thứ nhất là ở tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM. Đối với NHTM quốc doanh nếu năm 1995 nợ quá hạn là 9,1%, đỉnh cao là năm 1997 là 12%, đến tháng 3/2000 giảm xuống còn 11%. Đặc biệt hệ thống NHTM cổ phần có mức dư nợ quá hạn tăng ở mức báo động năm 1995 là 3,3% nhưng đến tháng 3/2000 là 24,4%.Trong tổng số nợ quá hạn thì số nợ quá hạn trên một năm, nợ khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi chiếm tỷ trọng cũng không nhỏ.
Thứ hai là cơ cấu cho vay chưa hợp lý. Thời gian qua NHTM Việt nam chủ yếu là cho vay ngắn hạn( chiếm lớn hơn 70%), chưa tập trung được nguồn vốn dài hạn để cho vay. Điều này là một hạn chế rất lớn, tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay đối với các doanh nghiệp tư nhân được đáp ứng còn ít, mà nước ta là một nước nông nghiệp vừa trải qua một cơ chế thị trường quan liêu bao cấp bước vào nền kinh tế thị trường chưa lâu thì việc phát triển các thành phần kinh tế này là rất cần thiết. Ngân hàng chưa có chính sách tín dụng theo hướng tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có dự án đầu tư kinh doanh khả thi vay vốn ngân hàng.
Hạn chế thứ ba là thủ tục vay vốn, bảo lãnh rườm rà, phức tạp, lãi suất vay cao, mạng lưới các tổ chức ngân hàng còn yếu kém gây tâm lý ngần ngại cho người vay vốn. Các hình thức tín dụng như cho thuê tài chính, bảo lãnh chậm phát triển, doanh số hoạt động thấp.
Hạn chế thứ tư là các loại hình sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, đơn điệu, nhiều thị trường tiềm năng chưa được khai thác hết. Các sản phẩm dịch vụ của NHTM còn rất ít ỏi và đơn điệu, hầu như chỉ bán ra những gì ta có mà không thật quan tâm đến cái gì mà khách hàng cần.
Hạn chế thứ năm là phương thức cho vay còn hạn chế. Hiện nay các NHTM chủ yếu áp dụng 2 phương thức cho vay là phương thức cho vay từng lần và phương thức cho vay theo hạn mức.
Khi muốn rút tiền thì khách hàng phải đến NH để rút, hệ thống thanh toán tự động được ứng dụng còn ít, việc thanh toán bằng thẻ tín dụng, séc còn hạn chế.
Một hạn chế nữa là việc cho vay của NH lại quá đề cao vai trò của tài sản thế chấp, cầm cố. Do vậy khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, NH chỉ còn biện pháp là xin nợ tài sản thế chấp nhưng do biến động của nền kinh tế và do thường đánh giá không đúng giá trị của tài sản thế chấp nên NH khó có thể thu hồi được vốn. Chính điều này làm cho nợ quá hạn của NH tăng lên, hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn do dư nợ tín dụng cho vay không như mong muốn, tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên.
Tóm lại, chất lượng tín dụng của hệ thống NHTM ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Song để nâng cao chất lượng tín dụng trong thời gian tới NHTM phải có những biện pháp hợp lý để phát huy những ưu điểm và khắc phục những hạn chế nhằm phát huy hết khả năng hoạt động tín dụng của hệ thống các NHTM.
Phần III. Một số giải pháp và kiến nghị
Như em đã trình bày ở trên, trong những năm tới và cả về lâu dài các NHTM vẫn là các trung gian tích tụ và tập trung vốn lớn nhất trong nền kinh tế. ở nước ta hiện nay khi mà thị trường chứng khoán chưa phát triển rộng khắp thì nhiệm vụ tích tụ và tập trung vốn vẫn là vấn đề trung tâm hoạt động của ngành NH. Với phương châm vay để cho vay lại, NH đã góp phần khắc phục tình trạng thiếu vốn hiện nay của nền kinh tế thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế trong thời gian tới để đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung vốn qua các tổ chức này thì cần phải thực hiện một số giải pháp cụ thể.
1. Đào tạo cán bộ tín dụng Ngân hàng
Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng, có tính chất quyết định sự phát triển của một Ngân hàng. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế Việt nam đang trong giai đoạn phát triển, hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới thì việc đào tạo cán bộ ngân hàng là rất cần thiết.
Vì vậy phải củng cố và nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ tín dụng. Nên đào tạo cán bộ tín dụng theo từng lĩnh vực chuyên ngành,cần phải giao trách nhiệm cụ thể, rõ ràng xử phạt nghiêm minh nhưng cũng cần phải quan tâm hơn nữa cho họ một cách thoả đáng.
2. Xây dựng hệ thống thu thập và xử lý thông tin tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng của NH rất đa dạng và phức tạp: từ các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp tư nhân đến các hộ gia đình; từ khu vực sản xuất vật chất đến các hoạt động du lịch. Yếu tố đầu tiên mà các NH dựa vào để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng, từ đó quyết định có cấp tín dụng không là sự hiểu biết nhất định về khách hàng. Mức độ hiểu biết về khách hàng phụ thuộc vào lượng thông tin thu thập được và khả năng xử lý thông tin đó. Thông tin có thể được thu thập từ nhiều nguồn có tính chính xác cao: có thể lấy từ việc quan sát tình hình hoạt động ở văn phòng, kho bãi, thái độ của người xin vay như thế nào… Các thông tin lấy từ nhiều nguồn khác nhau trên cơ sở đó phân phối cho các bộ phận thẩm định dự án cho vay xem có khả thi không mới quyết định cho vay hay không.
3. Đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng của NHTM.
Hiện nay, sản phẩm tín dụng của các NHTM Việt nam vẫn còn đơn điệu. Các loại cho vay của ta hiện nay còn quá nghèo nàn, hầu như chỉ bán ra những gì ta có mà không thật quan tâm đến cái mà khách hàng cần.
4. Chủ động phân tán rủi ro bằng cách thực hiện bảo hiểm tiền gửi.
Có thể nói: “Bảo hiểm là chiếc cầu nối giữa ngân hàng và công chúng”.Vì ngân hàng là một trung gian tài chính, kinh doanh bằng cách “ mua tài sản nợ, bán tài sản có”. Chính điều này đã làm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn gắn liền với các rủi ro trong đó rủi ro mất khả năng thanh toán có ảnh hưởng trực tiếp nhất.
Thực hiện bảo hiểm tốt sẽ làm tăng khả năng an toàn cho vốn tự có, củng cố thêm niềm tin của công chúng, đáp ứng các yêu cầu hợp lý của người đi vay, tạo thuận lợi cho các ngân hàng nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ kinh doanh. Mặt khác, rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng có tính lan truyền cho nên việc thực hiện bảo hiểm rủi ro là rất cần thiết đối với các ngân hàng, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường việc kinh doanh luôn đứng trước những thách thức, rủi ro có thể đến bất cứ lúc nào.
5. Trích lập quỹ rủi ro tín dụng.
Bất kể một hoạt động kinh doanh nào, quá trình sinh lời luôn đi cùng với nó là rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Doanh nghiệp ngân hàng kinh doanh một thứ hàng hóa đặc biệt: hàng hoá tiền tệ. Thứ hàng hoá này trong quá trình sử dụng không bị mất đi mà bản thân nó còn sinh lời và sau quá trình sử dụng nó lại quay lại với người bán với giá trị lớn hơn ban đầu, số chênh lệch đó chính là giá bán của hàng hoá tiền tệ. Trong quá trình này quyền sở hữu và quyền sử dụng hoàn toàn tách rời nhau, thực chất ngân hàng chỉ cho người mua hàng hoá của mình để sử dụng với một thời hạn nhất định. Như vậy khi khách hàng sử dụng vốn của ngân hàng bị rủi ro, điều tất yếu ngân hàng sẽ bị gánh chịu hậu quả dây chuyền. Có thể khẳng định trong quá trình kinh doanh tiền tệ, nhất là hoạt động tín dụng thì rủi ro là không thể tránh khỏi.
Để khắc phục tình trạng trên và tránh những xáo trộn tiêu cực trong hoạt động kinh doanh, hạn chế tới mức tối đa những ảnh hưởng không tốt đồng thời bảo tồn và phát triển nguồn vốn trong quá trình kinh doanh của mình, các NHTM cần phải thiết lập quỹ dự phòng để bù đắp những rủi ro hoạt động tín dụng gây nên.
6. Cải tiến các thủ tục cho vay.
Thủ tục cho hạn chế rườm rà, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn một cách nhanh gọn. Về việc đảm bảo các khoản vay phải được quy định rõ ràng để tránh rủi ro tín dụng. Có thể đảm bảo bằng tài sản như cho vay thế chấp, cho vay cầm cố. Có thể đảm bảo không dùng tài sản gồm tổ chức tín dụng tự chọn khách hàng cho vay không có đảm bảo bằng tài sản, tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội.
7. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Các công nghệ ngân hàng hiện đại cần phải được nhanh chóng áp dụng trong các NHTM đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán. Công nghệ ngân hàng có hiện đại mới nâng cao được chất lượng của tín dụng, là sự thu hút của công chúng. Vì vậy cần phải được hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, cần tập trung cho các NHTM quốc doanh hoặc ít nhất một số NHTM đầu đàn để kịp phát triển lĩnh vực ngân hàng trong khu vực.
8. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng của NHTM.
Để đảm bảo trong hoạt động kinh doanh của NHTM, công tác kiểm tra, kiểm toán đóng vai trò quan trọng. Nó thực hiện chức năng chính là kiểm tra, xác nhận và đánh giá các hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính nhằm nâng cao tính hiệu quả và góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý của NHTM. Hiện nay ở các NHTM Việt nam việc thực hiện kiểm toán nội bộ còn nhiều hạn chế như chất lượng kiểm tra chưa cao, nội dung kiểm tra còn thiên về kiểm tra hồ sơ tín dụng, chưa chú trọng đến việc đánh giá phân tách các chức năng trong quy trình nghiệp vụ tín dụng, chủ yếu thực hiện phương pháp kiểm toán riêng lẻ, chưa chú trọng phương pháp kiểm toán hệ thống.
Để các NHTM thực hiện tốt công tác kiểm toán nội bộ, trong đó kiểm toán đối với hoạt động tín dụng, phải có văn bản hướng dẫn cụ thể về phương pháo kiểm toán nội bộ đối với các hoạt động nghiệp vụ cho các NHTM, đặc biệt là kiểm toán viên có đủ trình độ, kinh nghiệm. Phương pháp kiểm toán hoạt động tín dụng: bên cạnh việc áp dụng phương pháp kiểm toán riêng lẻ các kiểm tra viên nên chú trọng phương pháp kiểm toán hệ thống vì phương pháp này có ưu điểm là chỉ ra tiềm ẩn rủi ro nhiều, khắc phục được nhược điểm khó phát hiện rủi ro tiềm ẩn trong một quy trình của phương pháp kiểm toán riêng lẻ, ứng dụng tin học vào công tác kiểm toán nội bộ.
9. Sử dụng công cụ Marketing nâng cao sức cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự cạnh tranh trong kinh doanh là điều tất yếu. Muốn đứng vững trên thương trườngđòi hỏi mỗi doanh nghiệp cân phải xây dựng cho mình một chính sách, một chiến lược riêng. Trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ cũng vậy. Một trong những công cụ để phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hang chính là việc sử dụng công cụ Marketing trong quá trình hoạt động. Bởi vì:
Marketing là công cụ kết nối hoạt động của các NHTM với thị trường.
Định hướng thị trường đã trở thành điều kiện tiên quyết trong hoạt động kinh doanh của các NHTM ngày nay. Chính vì vậy, các loại hoạt động gắn kết giữa ngân hàng với thị trường như hoạt động nghiên cứu thị trường để phát hiện các cơ hội kinh doanh mới cũng như biết trước được các hiểm hoạ đối với hoạt động ngân hàng, hoạt động nghiên cứu nội lực để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu của NHTM, hoạt động điều chỉnh thiết kế mới các dịch vụ mới thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Marketing là công cụ hữu hiệu thu hút khách hàng
Mọi NHTM đều hiểu rằng, kinh doanh trong cơ chế thị trường thì khách hàng là lực lượng nuôi sống mình, bởi vậy họ luôn tìm cách để duy trì và phát triển mối quan hệ với khách hàng. Marketing nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để đưa ra những dịch vụ phù hợp nhất, nhanh nhất, với giá rẻ nhất cho khách hàng.
Marketing là công cụ để chiến thắng đối thủ cạnh tranh
Cơ chế thị trường chính là cơ chế cạnh tranh, nên làm thế nào để chiến thắng đối thủ cạnh tranh luôn là mối quan tâm hàng đầu của các NHTM.
Sử dụng công cụ Marketing trong ngân hàng tốtsẽ tăng khả năng thu hút khách hàng không chỉ ở hiện tại mà còn ở tương lai.
Kết luận
Hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM của nước ta từ trước đến nay vẫn luôn giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế . Đặc biệt là nước ta đang trên con đường tiến tới sự nghiệp CNH-HĐH thì vấn đề tập trung nguồn vốn để phát triển nền kinh tế là rất cần thiết. Sau hơn 10 năm xây dựng và trưởng thành hệ thống NHTM nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhờ có hệ thống NHTM ra đời mà tiền tiết kiệm của các cá nhân, đoàn thể, các tổ chức được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Nó trở thành chất dầu “ bôi trơn” cho bộ máy kinh tế hoạt động thông qua việc di chuyển nguồn lực của xã hội từ nơi chưa sử dụng,còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao mức sống xã hội.
Hiện nay hệ thống NHTM Việt nam đang mở rộng phạm vi tín dụng nhằm đáp ứng vốn cho các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế một cách có hiệu quả đưa nền kinh tế có mức tăng trưởng đáng kể và là một bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu mà hệ thống NHTM Việt nam đã đạt được trong thời gian vừa qua hoạt động tín dụng của NHTM không thể tránh khỏi những hạn chế. Để nâng cao chất lượng tín dụng thì NHTM phải kết hợp với NHTW và Chính phủ có những giải pháp thích hợp để giải quyết những tồn tại đó.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng-NXB Thống kê 2001.
Giáo trình Ngân hàng thương mại-GS.TS. Lê Văn Tư-Lê Tùng Vân-Lê Hải Nam.
Tiền tệ và thị trường tài chính Miskin.
Báo cáo thường niên 2000, 2001.
Tạp chí ngân hàng.
Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng.
Tạp chí tài chính tiền tệ.
Thời báo ngân hàng.
Mục lục
Lời nói đầu 1
Phần I. Khái luận chung vệ NHTM. 3
I. Sự ra đời của NHTM. 3
II. Chức năng của NHTM. 4
Chức năng là thủ quỹ cho xã hội. 5
Chức năng trung gian thanh toán. 5
Chức năng làm trung gian tín dụng. 6
III- Nghiệp vụ của NHTM 7
Nghiệp vụ thuộc tài sản Nợ. 7
Nghiệp vụ thuộc tài sản Có. 9
IV. Vai trò của NHTM. 10
Là công cụ thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. 10
NHTM là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW.11
Phần II. Thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM Việt nam hiện nay. 12
Sự hình thành và phát triển của hệ thống NHTM Việt nam. 12
Hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM Việt nam. 13
Tình hình kinh tế nước ta trong những năm vừa qua. 13
Hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM Việt nam thời gian qua. 14
Huy động vốn. 15
Sử dụng vốn. 17
Chất lượng tín dụng của hệ thống NHTM Việt nam. 19
Những kết quả đạt được trong quản lý chất lượng tín dụng của các NHTM Việt nam trong thời gian qua. 19
Những hạn chế về chất lượng tín dụng của NHTM Việt nam. 22
Phần III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM Việt nam. 24
1. Đào tạo cán bộ Ngân hàng. 24
2. Xây dựng hệ thống thu thập và xử lý thông tin. 24
Đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng của NHTM. 25
Chủ động phân tán rủi ro bằng cách thực hiện bảo tiền gửi. 25
Trích lập quỹ rủi ro tín dụng. 25
Cải tiến thủ tục cho vay. 26
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. 26
Nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ với hoạt động tín dụng của NHTM. 26
Sử dụng công cụ Marketing nâng cao sức cạnh tranh trong hoạt động tín dụng ngân hàng. 27
Kết luận 28
Tài liệu tham khảo 29
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35292.doc