Chương I Thực trạng phát triển ngành thủy sản và các vấn đề môi trường
1. Thực trạng phát triển ngành thủy sản
2. Các vấn đề môi trường trong nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản.
3. Mục tiêu phát triển ngành thuỷ sản và dự báo các vấn đề môi trường chính
Chương II. Tổng quan về các quy định pháp luật bảo vệ môi trường đối với ngành thuỷ sản.
1. Các quy định về môi trường trong hệ thống pháp luật liên quan đến nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản.
2. Các quy định của Luật và hệ thống các văn bản dưới Luật BVMT đối với lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản.
3. Phân tích tính thống nhất, mối quan hệ của các quy định này với các quy định của Luật bảo vệ môi trường và hệ thống các văn bản dưới luật bảo vệ môi trường.
Chương III. Tổ chức thực hiện luật bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản.
1. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm về bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản.
2. Thực trạng tuân thủ Luật bảo vệ môi trường trong khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản.
Chương IV. Kiến nghị hướng bổ sung, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường ngành thuỷ sản.
1. Hoàn thiện pháp luật về ngành thuỷ sản theo hướng lồng ghép các quy phạm về bảo vệ môi trường
2. Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường đối với ngành thuỷ sản.
Tài liệu tham khảo
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1914 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá việc thực hiện Luật bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản và đề xuất hướng hoàn thiện trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mở đầu
Chương I. Thực trạng phát triển ngành thủy sản và các vấn đề môi trường.
1. Thực trạng phát triển ngành thủy sản
2. Các vấn đề môi trường trong nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản.
3. Mục tiêu phát triển ngành thuỷ sản và dự báo các vấn đề môi trường chính
Chương II. Tổng quan về các quy định pháp luật bảo vệ môi trường đối với ngành thuỷ sản.
1. Các quy định về môi trường trong hệ thống pháp luật liên quan đến nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản.
2. Các quy định của Luật và hệ thống các văn bản dưới Luật BVMT đối với lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản.
3. Phân tích tính thống nhất, mối quan hệ của các quy định này với các quy định của Luật bảo vệ môi trường và hệ thống các văn bản dưới luật bảo vệ môi trường.
Chương III. Tổ chức thực hiện luật bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản.
1. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm về bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản.
2. Thực trạng tuân thủ Luật bảo vệ môi trường trong khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản.
Chương IV. Kiến nghị hướng bổ sung, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường ngành thuỷ sản.
1. Hoàn thiện pháp luật về ngành thuỷ sản theo hướng lồng ghép các quy phạm về bảo vệ môi trường
2. Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường đối với ngành thuỷ sản.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
MỞ ĐẦU
Thời gian qua, cùng với sự tăng tốc của nền kinh tế, ngành thủy sản cũng đã phát triển mạnh trên các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế biến. Những thành công trên đã nâng cao vị thế của ngành trong nền kinh tế quốc dân, dần trở thành một trong những lĩnh vực xuất khẩu chủ chốt của nước ta trong thời gian tới. Tuy nhiên, mặt trái của nó là tác động tiêu cực đến môi trường đang để lại hậu quả lớn cho môi trường và con người.
Ngày 27 tháng 12 năm 1993, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật bảo vệ môi trường. Cũng như các bộ/ngành khác trong cả nước, ngành thủy sản cũng đã tích cực triển khai thực hiện Luật bảo vệ môi trường. Các kết quả đạt được đã góp phần giảm bớt các tác động nhiều mặt của các hoạt động nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản đến môi trường và con người. Để có bức tranh tổng quan về thực trạng thi hành Luật bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản, nhiệm vụ "Đánh giá việc thực hiện Luật bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản và đề xuất hướng hoàn thiện trong thời gian tới" đặt ra nội dung nghiên cứu các vấn đề môi trường trong các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản, tình hình thực hiện Luật bảo vệ môi trường trong ngành và hướng hoàn thiện trong thời gian tới. Báo cáo tổng kết nhiệm vụ gồm các nội dung sau:
1. Thực trạng phát triển ngành thuỷ sản và các vấn đề môi trường.
2. Tổng quan về các quy định pháp luật bảo vệ môi trường đối với ngành thủy sản.
3. Tổ chức thực hiện Luật bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản.
4. Kiến nghị hướng bổ sung, hoàn thiện pháp luật về Bảo vệ môi trường ngành thủy sản.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, nhóm nghiên cứu đã nhận được sự giúp đỡ và tạo điều kiện của Vụ Khoa học và công nghệ, Viện nghiên cứu kinh tế và quy hoạch thủy sản (Bộ Thủy sản), các bạn đồng nghiệp trong Cục Môi trường. Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ và hỗ trợ kịp thời đó.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song do hạn chế về mặt thời gian và nguồn lực tổ chức thực hiện, báo cáo chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết và hạn chế. Rất mong nhận được ý kiến góp ý để báo cáo được hoàn thiện hơn.
Chương I. Thực trạng phát triển ngành thuỷ sản và các vấn đề môi trường
1. Thực trạng phát triển ngành thuỷ sản
Thời gian qua, nhờ có các chủ trương và biện pháp lớn phù hợp với cơ chế thị trường, ngành thủy sản phát triển mạnh trên tất cả các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế biến, đã và đang đóng góp tích cực cho nền kinh tế quốc dân.
1.1. Nuôi trồng thủy sản
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của ngành thuỷ sản, nuôi trồng thủy sản (NTTS) ở nước ta có bước tiến khá dài với mức tăng bình quân hàng năm 4 - 5% về diện tích nuôi trồng và hơn 9% về sản lượng. Đến hết năm 1998, đã có 626.330 ha mặt nước được đưa vào sử dụng NTTS, trong đó 335,890 ha mặt nước ngọt (ao, hồ, hồ chứa, ruộng trũng) và 290.440ha mặt nước lợ, mặn (vùng triều, eo vinh, đầm phá ven biển) với nhiều đối tượng nuôi phong phú như tôm cá nước ngọt, nước lợ và nước mặn, nuôi lồng trên sông, ngoài biển, nuôi trong đầm nước lợ, rừng ngập mặn, đem lại sản lượng 537.870 tấn, chiếm 32% tổng sản lượng thủy sản cả nước. Bên cạnh đó, với 354 trại cá giống sản xuất khoảng 7 tỉ cá bột, về cơ bản đã cung cấp đủ giống nhân tạo thoả mãn nhu cầu giống nuôi ở các loại hình mặt nước và các vùng sinh thái khác nhau. Trong quá trình bước đầu chuyển sang phương thức nuôi bán thâm canh và thâm canh đã quan tâm đến việc chế biến và sử dụng thức ăn công nghiệp. Với 24 cơ sở sản xuất thức ăn, năm 1998 đã sản xuất 20.000 tấn thức ăn nuôi tôm cá, đáp ứng một phần nhu cầu của các khu vực nuôi trồng thủy sản.
Thực hiện Nghị quyết 09/2000/NQ-CP của Chính phủ về một số chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nhân dân ở hầu khắp các tỉnh ven biển đã tiến hành chuyển đổi vùng đất nhiễm mặn trồng lúa, trồng cói, làm muối hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản, mà chủ yếu là nuôi tôm. Năm 2001, tổng diện tích chuyển đổi ở vùng ven biển đã lên tới trên 220 nghìn hecta, trong đó riêng Cà Mau đã có tới hơn 132 nghìn ha. Diện tích chuyển đổi này đã góp phần quan trọng trong số xấp xỉ 60 nghìn tấn tôm nuôi tăng thêm, nâng tổng sản lượng tôm nuôi lên gần 160 nghìn tấn, cao gấp rưỡi so với năm 2000. Đặc biệt, mô hình nuôi luân canh tôm lúa đã đem lại hiệu quả cao và bền vững ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong các vùng nước ngọt, tuy không sôi động như vùng ven biển nhưng quá trình chuyển dịch cũng diễn ra với qui mô không kém, với việc sử dụng các diện tích mặt nước hồ chứa, sông, ao hồ nhỏ, ruộng lúa để nuôi tôm càng xanh, cá chim trắng và nhiều loài cá có giá trị cao khác nhau. Không những góp phần quan trọng tạo sản phẩm xuất khẩu, nuôi trồng thủy sản đã có đóng góp to lớn cho cải thiện cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
1.2. Chế biến thủy sản.
Trước năm 1975 công nghiệp chế biến thủy sản ở nước ta phát triển chậm, chủ yếu tập trung vào các sản phẩm truyền thống như các loại sản phẩm khô, mắm và nước mắm. Toàn miền Bắc chỉ có nhà máy đồ hộp Hạ Long (thành lập năm 1957) là cơ sở chế biến thủy sản công nghiệp phục vụ chủ yếu cho thị trường nội địa và một số ít nhà máy ở miền Nam chế biến thủy sản đông lạnh.
Sau năm 1975, ở các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang đã được đầu tư, xây dựng thêm một số cơ sở chế biến thủy sản đông lạnh bằng nguồn vốn ngân sách và viện trợ không hoàn lại. Đến năm 1980 đã xây dựng thêm 16 xí nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh, đưa tổng số nhà máy chế biến thủy sản trong cả nước lên 40 với tổng cộng cấp đông là 172T/ngày.
Đến cuối năm 1990, số cơ sở chế biến thủy sản đông lạnh đạt tới con số 102 cơ sở với tổng sản lượng đông lạnh là 60.200T. Ngoài ra, các cơ sở chế biến nước mắm, chế biến hàng khô, bột cá cũng phát triển mạnh. Cả nước có 73 cơ sở chế biến nước mắm quốc doanh và hàng chục cơ sở chế biến tư nhân với công suất khoảng 105 triệu lít/năm. Sản lượng bột cá chế biến hàng năm trên 10.000tấn. Sản lượng thủy sản khô các loại trong năm 1990 khoảng 7.700T.
Từ năm 1991 đến nay, công nghiệp chế biến thủy sản phát triển vượt bậc không chỉ số lượng mà cả về chất lượng. Nhờ sự giúp đỡ, tư vấn của các chuyên gia dự án US/VIE.9./058 và dự án Cải thiện chất lượng và xuất khẩu do DANIDA tài trợ, các xí nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh đã từng bước nâng cấp điều kiện sản xuất và xây dựng chương trình quản lý sản xuất theo HACCP để sản xuất các sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh và có chất lượng nhiều xí nghiệp được xây mới, cải tạo. Đến cuối năm 1998 đã có 186 xí nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh xuất khẩu với sản lượng sản phẩm thủy sản đông lạnh đạt khoảng 150.000T/năm; sản phẩm khô là 15.000T; nước mắm 170 triệu lít và 9.000T bột cá. Ngoài công ty Cổ phần đồ hộp Hạ Long, chúng ta đã xây thêm 2 cơ sở sản xuất đồ hộp ở Kiên Giang và Thành phố Hồ Chí Minh, đưa khối lượng sản phẩm đồ hộp năm 1998 lên 3.480T.
1.3. Khai thác thủy sản
Trong khoảng 15 năm trở lại đây, sản lượng khai thác thủy sản của Việt Nam đã tăng trưởng liên tục với mức bình quân năm là 6,9%. Lao động trực tiếp khai thác hải sản cũng tăng và đạt gần 627.000 lao động (1997). Tuy nhiên sản lượng cá khai thác ở vùng gần bờ chiếm tỷ lệ chủ yếu (trên 800.000 tấn, khoảng 80% tổng sản lượng cá đã khai thác được). Hiện tại mức khai thác ở vùng này chỉ cho phép đạt 700.000tấn. Trong khi đó tiềm năng nguồn lợi vùng biển xa bờ còn ít được khai thác, năng suất lao động thấp, tăng trưởng về sản lượng khai thác chậm hơn so với tăng số lượng tàu thuyền và công suất máy.
Đội tàu khai thác cá biển có trang bị động lực của Việt Nam hiện nay đã lên đến 71.500 chiếc, với tổng công suất máy 1.850.000CV. Nhưng phần lớn tàu thuyền có công suất máy nhỏ, loại lắp máy trên 90 CV chỉ chiếm 25%. Do đó rất hạn chế đi khai thác cá vùng biển xa bờ.
Phần lớn tàu thuyền khai thác hải sản đều kiêm nghề. Ở phía Bắc có số tàu thuyền khai thác cá đáy chiếm khoảng 35%, cá tầng khoảng 65%. Trong khi đó, số lượng tàu thuyền nói trên ở miền Trung phân biệt là 28% và 72%, còn ở Nam Bộ tỷ lệ đó bằng nhau.
Những năm gần đây, được Chính phủ cho phép, Bộ Thủy sản đang thực hiện chương trình khai thác cá xa bờ, số tàu thuyền có công suất máy lớn đã tăng lên. Trong tổng sản lượng hải sản 1,35 triệu tấn khai thác năm 2001, đã có 456 nghìn tấn được đánh bắt trong vùng biển xa bờ, chiếm 33% tổng số, trong đó sản phẩm làm nguyên liệu xuất khẩu chiếm 30%. Đó chính là kết quả hoạt động của đội tàu cá xa bờ chỉ chiếm khoảng 26% tổng số tàu.
Năm 2001 cũng là lần đầu Việt Nam thử nghiệm thuê tàu trần và chuyên gia của nước ngoài để tham gia khai thác trên biển. Và mặc dù còn rất nhỏ bé, một đội tàu cá đầu tiên của Việt Nam đã lên đường đi khai thác ở vùng biển nước ngoài theo thoả thuận song phương, rút kinh nghiệm để mở hoạt động cho những năm sau.
1.4. Đánh giá chung
Những thành tựu trong hoạt động khai thác và nuôi trồng, cộng với sự chuyển mình mạnh mẽ của các doanh nghiệp chế biến thủy sản đã tạo nên thành tích to lớn trong lĩnh vực xuất khẩu thủy sản, đạt giá trị 1,7 tỷ USD/năm, chiếm gần 40% kim ngạch xuất khẩu của cả khối nông nghiệp và trên 12% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, đứng thứ 3 sau ngành dầu khí và dệt may.
Bên cạnh các kết quả trên, quá trình liên hợp hóa, hợp tác hoá trong lực lượng sản xuất như đòi hỏi của tự thân nó trong sự phát triển cũng đang diễn ra với nhịp độ nhanh chóng, với nhiều cấp độ, qui mô và hình thức. Đến nay, trong khai thác hải sản đã có 450 hợp tác xã (trên 15 nghìn lao động) và 4.300 tổ hợp với khoảng 21 nghìn lao động. Trong nuôi trồng thuỷ sản đã có 34 HTX và trên 3.400 tổ hợp. Các HTX và tổ hợp đã đóng góp vai trò tích cực trong các khâu tổ chức sản xuất, dịch vụ nguyên nhiên liệu, song đó là những nhân tố cần thiết trên con đường phát triển lực lượng sản xuất theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Một số con số của năm 2001:
- Tổng sản lượng:
2.226.900T
- Sản lượng khai thác:
1.347.800T
- Sản lượng nuôi và khai thác nội địa:
879.100T
- Diện tích mặt nước sử dụng để nuôi thủy sản:
887.500 ha
- Kim ngạch xuất khẩu:
1,7 tỷ USD
- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản:
5.013 tỷ đồng
- Nộp ngân sách nhà nước:
1.350 tỷ đồng
2. Các vấn đề môi trường trong nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản.
2.1. Trong nuôi trồng thủy sản
Bên cạnh phát triển mạnh, nuôi trồng thủy sản của Việt Nam bộc lộ nhiều vấn đề bất cập liên quan đến các điều kiện môi trường và kinh tế - xã hội trong phạm vi từng vùng, từng tỉnh, cũng như trong các hệ sinh thái đặc thù. Việc thiếu qui hoạch một số loại hình nuôi trồng thủy sản đã gây hại đến môi trường, đặc biệt ở các vùng ven biển, như chặt cây của rừng ngập mặn và xây dựng đê ở các vùng triều để nuôi tôm quảng canh, thiếu các công trình kỹ thuật cần thiết để làm thoái hoá môi trường, sinh thái vùng ven biển, làm giảm năng suất sinh học của thủy vực, giảm lượng thức ăn tự nhiên, phá hoại các điều kiện tự nhiên thích hợp cho sự phát triển của ấu thể thuỷ sản khác nhau.
Một số tác động chính đến môi trường có thể thống kê như sau:
- Việc phá các rừng ngập mặn hoặc đắp bờ khoanh vùng rừng ngập mặn để nuôi tôm quảng canh thô sơ đã gây ra những tác động có hại đến tài nguyên và môi trường.
Hầu hết các đầm nuôi ven biển phía Bắc Việt Nam là rừng ngập mặn có nhiều loài cây, nhiều xác cây, lá và các bộ phận khác của cây. Các đầm nuôi chỉ sử dụng được một thời gian ngắn, sản lượng cá tôm chỉ đạt trung bình 80 - 100kg/ha/năm. Sau vài năm đất trong đầm thoái hoá phải bỏ hoang, gây ra lãng phí rất lớn về tài nguyên thiên nhiên. Khi xây dựng các đầm người ta thường phá thảm thực vật ở trong đầm, có khi phá cả các cây ở ngoài bờ đầm, do đó mất hàng rào bảo vệ chống xói lở đã làm mất nơi ở, nơi cung cấp thức ăn cho nhiều loài hải sản và nhiều sinh vật khác là thức ăn của chúng.
- Quá trình ôxy hoá trầm tích và hình thành môi trường chua mặn trong các đầm nuôi. Ở một số đầm chất lượng đất và nước còn tương đối tốt, nhưng do mặt bờ và sườn bờ không có cỏ, cây trao đổi nước làm cho độ pH giảm nhanh. Nhiều động vật trong đầm không thích nghi kịp nên bị sốc và chết.
Ở trong các đầm có nhiều chất hữu cơ, chúng phát triển rất mạnh tạo thành lớp tảo bám ở đáy cản trở hoạt động của tôm, tiêu hao nhiều O2 vào ban đêm. Khi chúng chết, bị phân hủy yếm khí tạo ra H2S trong đầm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản II cũng cho thấy các đầm nuôi tôm quang cảnh thô sơ ở Bến Tre qua một số năm sử dụng, môi trường đã thoái hoá rõ rệt. Nhiệt độ nước trong đầm nuôi tôm thường khá cao (có khi tới 36 - 370C) do mất đi độ che phủ của cây rừng. Phù sa bồi lắng làm mương tôm rất cạn (0,3 - 0,5m) độ đục khá cao (5 - 15cm), hạn chế sự phát triển của tảo và thuỷ sản sinh vật.
- Tác động của việc xây dựng các đầm nuôi tôm quang cảnh đến sự xâm nhập mặn. Trong những năm gần đây, việc đắp bờ xây dựng hàng loạt các đầm tôm lớn dọc bờ biển của sông và ven sông đã làm giảm đáng kể diện tích phân phối nước triều, nhất là vào thời kỳ triều cường.
Một số địa phương trước đây đã quai đê để trồng lúa nhưng do đất chua mặn, năng suất thấp đã chuyển một phần diện tích sang nuôi tôm, cua, cá nước lợ ở trong đê như Uông Bí, Yên Hưng (Quảng Ninh), Kiến Thụy, Tiên Lãng (Hải Phòng). Nhưng do không quan tâm đến việc ngăn chặn suy thoái môi trường nên năng suất thủy sản giảm. Một số sinh vật chết dần khiến cho quá trình khoáng hoá các phần hữu cơ bón cho lúa bị cản trở hoặc hạn chế.
- Tác động của việc đắp các đầm tôm quảng canh đến quá trình xói lở ven biển, ven sông. Bên cạnh việc quai đê lấn biển lấy đất trồng lúa, việc đắp đê để nuôi tôm đã lấp các nhanh sông nhỏ đổ ra biển, khiến cho đất phù sa bồi tụ dồn vào cửa sông lớn của hệ sông Hồng hoặc ứ đọng phía trong đê. Ở các cửa sông nhỏ, không còn đất bồi nên bị sóng làm xói lở mạnh. Điển hình là đoạn bờ dọc từ Giao Hải đến Văn Lý (tỉnh Nam Hà). Trên một đoàn bờ biển dài 20km không còn bãi triều lầy và đang bị xói lở mạnh. Cách đây khoảng gần một thế kỷ, một nhánh cửa sông Hóòng đã đổ ra đây, nhưng nay chỉ còn một nhánh sông Sò với dòng chảy yếu ớt.
Một số nơi nhân dân lại sử dụng các vùng đất bồi lắng đang trong quá trình hình thành bãi triều có rừng ngập mặn để đắp đầm nuôi tôm (Thái Thụy, Tiền Hải, Xuân Thủy, Kim Sơn, Nam Hoàng Hóa, Nam cửa Lạch ghép). Do tác động của gió, bão nên nhiều đầm bị vỡ hoặc bị xói lở vì nền đáy là bùn non, thành phần cơ giới thường là cá bột, cát nhỏ thiếu chất dính kết, gây ra lãng phí lớn.
- Tác động của việc nuôi tôm, cá đến sự ô nhiễm nguồn nước. So với các ngành công nghiệp, nông nghiệp thì sự ô nhiễm môi trường nước do nuôi tôm, cá quảng canh thô sơ như hiện nay không lớn. Tuy nhiên do nhốt lâu ngày trong đầm, thay nước ít nên môi trường trong đầm bị ô nhiễm mạnh do sự hình thành H2S và NH4 phân hủy các xác cây bị ngập mặn. Một hiện tượng khá phổ biến trong các đầm nuôi tôm quảng canh thô sơ ở cả miền Bắc và miền Nam là có nhiều tảo dao động như oscillatoria subbervis, O.limota. Các loài tảo này thường phát triển thành lớp nhờn dày, màu lục, chúng chết sẽ làm cho nước trong đầm bị thối, lượng ôxy hoà tan giảm, làm cho chất lượng đầm thoái hoá nhanh. Khi tháo đầm đánh bắt tôm cá, nước có tác chất độc hại trên chảy ra sông rạch làm ô nhiễm vùng xunh quanh.
Ở một số địa phương, nhất là ở ven biển Nam Bộ, trong những năm gần đây người nuôi tôm đã quan tâm đến việc diệt cá trong các đầm nuôi. Thuốc diệt cá chủ yếu là cây ruốc cá hoặc bã chè. Thường người ta rắc nước thuốc vào đầm cho cá chết và để cho cá chết thối làm thức ăn cho tôm. Do vậy nước trong đầm bị ô nhiễm nặng và ảnh hưởng đến các đầm lân cận và kênh rạch, tiêu diệt nhiều sinh vật ở đó. Không những thế mùi hôi thối nồng nặc đã ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người.
- Tác động của việc nuôi tôm tới môi trường và sinh thái vùng biển. Chỉ tính riêng Quảng Ninh với 10.286 ha đầm nuôi tôm được xây dựng đã làm giảm tới 40% tổng diện tích vùng triều giảm 43% diện tích rừng ngập mặn. Các địa phương khác cũng có hiện tượng tương tự.
Việc đắp bờ đầm, nhất là những đầm nằm sâu trong sông đã ảnh hưởng tới việc lưu thông nước của thủy lực, nhất là về mùa mưa, gây ảnh hưởng tới nông nghiệp và giao thông đường thủy.
2.2. Trong chế biến thủy sản.
Tác động môi trường của ngành chế biến thủy sản thể hiện từ góc độ chất thải là chính, trong đó nước thải đang là vấn đề lớn nhất. Ở Việt Nam, do không chú trọng đến môi trường ngay từ khâu thiết kế và xây dựng cơ sở hạ tầng, nên nhiều cơ sở chế biến thủy sản gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến môi trường, sinh vật và cộng đồng xung quanh. Một số khía cạnh môi trường đặc trưng của ngành chế biến thủy sản có thể kể đến như sau:
a. Nước thải
Nước thải chế biến thủy sản đặc trưng bởi các thông số ô nhiễm như màu, mùi, chất rắn không hoà tan, chất rắn lơ lửng, các vi sinh vật, chỉ số BOD, COD, pH, nhiệt độ v.v...
Màu trong nước thải thủy sản do các chất hữu cơ bị phân rã; một số chất ở dạng keo và dạng hoà tan.
Trong nước thải từ các cơ sở chế biến thủy sản có chứa các chất rắn không hoà tan; các mảnh vụn thủy sản do quá trình chế biến tạo ra như: xương cá, vẩy, đầu tôm các chất này gây cản trở cho quá trình xử lý, vì vậy cần tách, lắng chúng trước khi đưa nước thải vào các hệ thống xử lý sinh học.
Trong nước thải thủy sản có rất nhiều loại vi sinh vật, các vi sinh vật này có sẵn trong nguyên liệu thủy sản (ruột, da, mang) hoặc từ môi trường bên ngoài. Nhóm vi sinh vật chỉ thị Colifrom và Ecoli được sử dụng để xác định vi khuẩn gây bệnh đường ruột trong nước.
Chỉ số BOD (Biochemical oxygen Demand) là hàm lượng ôxy hoà tan (thể hiện bằng gam hoặc miligam ôxy theo đơn vị thể tích) phản ánh được lượng các chất hữu cơ dễ bị phân huỷ trong mẫu nước.
Chỉ số COD (Chemical Oxygen Demand) là lượng ôxy hoá học (thể hiện bằng găm hoặc miligam theo đơn vị thể tích) cần thiết để ôxy hoá chất hữu cơ. COD thể hiện toàn bộ các chất hữu cơ có thể bị ôxy hoá bằng tác nhân hoá học.
Giá trị pH ảnh hưởng lớn đến hoạt động của vi sinh vật. Đối với đa số vi sinh vật khoảng pH tối ưu là 6,5 - 8,5.
Chỉ số SS (Suspended Solid) biểu diễn hàm lượng chất rắn lơ lửng trong một đơn vị thể tích.
Nhiệt độ nước thải ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hoạt động của vi sinh vật. Đối với đa số vi sinh vật, nhiệt độ tối ưu khoảng 200C - 370C.
Ngoài ra trong nước thải thủy sản còn nhiều hợp chất nitơ, sunfat và phốt phát.
Thực trạng nước thải của một số loại hình chế biến thủy sản đặc trưng như sau:
Nước thải trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh, hàng khô gồm 3 loại: nước thải trong quá trình sản xuất, nước thải trong vệ sinh công nghiệp và nước thải sinh hoạt. Ngoài ra kể đến nước mưa, nước thải từ bộ phận sản xuất nước đá.
Nước thải trong quá trình sản xuất bao gồm: nước rửa nguyên liệu, nước rửa bán thành phẩm và nước làm mát sản phẩm sau khi luộc (đối với các xí nghiệp sản xuất sản phẩm chín đông lạnh, cá cơm khô và tôm khô). Tùy từng công đoạn mà thành phần nước thải có khác nhau. Nước thải này bao gồm máu, nhớt, thịt vụn, tạp chất, với hàm lượng chất hữu cơ cao, mức độ ô nhiễm cao nên cần thiết có biện pháp xử lý kịp thời.
Nước thải vệ sinh công nghiệp: Đây là lượng nước cần dùng cho việc vệ sinh nhà xưởng, các thiết bị, vệ sinh kho lạnh, thiết bị cấp đông. Nước thải này bao gồm các chất hữu cơ giàu đạm của nguyên liệu thủy sản và các hoá chất tảy rửa được sử dụng.
Nước thải sinh hoạt từ các nguồn: nước thải từ khu nhà ăn tập thể: nước thải từ khu nhà tắm, nhà vệ sinh công cộng; nước rửa tay của công nhân. Đây cũng là lượng nước thải đáng kể vì trong các xí nghiệp chế biến thủy sản ở Việt Nam có lượng công nhân khá đông, nhu cầu nước cho sinh hoạt lớn.
Kết quả điều tra cho thấy, nói chung, nước thải của các xí nghiệp chế biến thủy sản vượt quá nhiều lần so với tiêu chuẩn cho phép (từ 5 - 10 lần về chỉ số BOD và COD, gấp 7 - 15 lần về chỉ tiêu nitơ hữu cơ). Đặc biệt như xí nghiệp Danifood, sản xuất mặt hàng Surimi, trong nước thải khi chưa xử lý đạt tới 3120mg/l về BOD và 4.890mg/l về COD. Xí nghiệp AGIFISH sản xuất cá Basa phi lê đông lạnh, có hàm lượng li pit trong nước thải rất cao. Ngoài ra chỉ số về lưu lượng nước thải trên một đơn vị sản phẩm của các nhà máy loại này cũng rất lớn. Chính vì vậy, tải trọng ô nhiễm do các xí nghiệp này gây ra là rất lớn.
Nước thải từ các xí nghiệp chế biến thủy sản nếu không được xử lý triệt để làm tăng ô nhiễm môi trường nước trên các dòng sông, làm xấu đi chất lượng nguồn nước mặt, nước ngầm, không khí tại các khu đô thị và khu dân cư.
Nhìn chung, nước thải chứa nhiều hợp chất hữu cơ, đặc biệt là các hợp chất chứa Nitơ và phốt pho. Vì vậy, việc xử lý nước thải hết sức cần thiết và là vấn đề cấp bách của doanh nghiệp chế biến thủy sản.
Theo số liệu điều tra, trong các doanh nghiệp chế biến sản phẩm thủy sản đông lạnh, lượng nước thải dao động từ 30m3/T đến 78m3/T. Như vậy, tổng lượng nước thải trên phạm vi cả nước khoảng ừ 4.500.000m3/năm đến 11.700.000m3/năm.
Lượng nước thải sản xuất trong chế biến sản phẩm khô khoảng 372,278m3/năm.
Nước thải trong chế biến đồ hộp gồm nước thải ra trong quá trình xử lý: nước rửa nguyên liệu, nước rửa bán thành phẩm, nước hấp cá và nước rửa dụng cụ, nước ngưng tụ từ hơi do rửa và khử trùng vỏ hộp, do thanh trừng. Nước thải trong quá trình xử lý nguyên liệu có tính chất giống như nước thải trong các xí nghiệp chế biến đông lạnh.
Nhìn chung nước thải trong chế biến sản phẩm đồ hộp chứa nhiều các chất hữu cơ đặc biệt là chất chứa nitơ và phốt pho. Ngoài ra, nước thải còn chứa lipid, các hoá chất sử dụng.
Lượng nước thải trong xí nghiệp chế biến đồ hộp trong 1 năm khoảng 104.400m3/năm đến 271.440m3/năm.
Kết quả điều tra cho thấy nhiều xí nghiệp chế biến đồ hộp chưa có hệ thống xử lý nước thải và đang là một trong các đối tượng gây ô nhiễm các nguồn nước.
Lượng nước thải trong quá trình sản xuất agar rất lớn, khoảng 240.000m3/năm, có chứa bã rong vụn, các hoá chất dư trong quá trình chế biến. Nước thải có chứa các hoá chất nguy hại, nếu thải trực tiếp ra sông, hồ, ruộng đồng sẽ gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Hiện nay các cơ sở sản xuất agar đều chưa có hệ thống xử lý nước thải. Thực trạng này đang đặt ra thách thức lớn đối với các nhà quản lý môi trường và thuỷ sản.
Nước thải trong chế biến bột cá có chứa máu, nhớt của cá và tạp chất. Nước ép cá sau khi hấp sẽ chứa thịt vụn của cá, độ đạm cao, nên nước ép này có thể tận dụng lại, nhưng dùng làm thức ăn cho gia súc hoặc làm nước mắm. Thành phần của chất khí gây mùi hôi tanh chủ yếu là mùi của các hợp chất hữu cơ metyl amin, dimetylamin, trimetylamin, putrescin, cadverin, và các sản phẩm phân giải của proten tạo ra H2S, NH3.
b. Mùi và phát tán các hoá chất.
Mức độ mùi tanh hôi có trong xí nghiệp chế biến đông lạnh, xí nghiệp chế biến hàng khô, xí nghiệp chế biến nước mắm, xí nghiệp chế biến đồ hộp, xí nghiệp chế biến bột cá có khác nhau. Mùi hôi tanh nặng nhất là trong xí nghiệp chế biến bột cá vì nguyên liệu dùng để chế biến bột cá là loại cá kém chất lượng, các phế thải từ các quá trình chế biến các sản phẩm thủy sản khác như đầu, xương, vảy, vây, nội tạng cá, không được bảo quản tốt, trong quá trình xử lý nhiệt gây ra mùi hôi rất khó chịu.
Mùi tanh hôi thường phát ra ở những khu vực có xử lý thuỷ sản, đặc biệt ở những khu vực chứa đựng phế thải, các dụng cụ không được vệ sinh kỹ, từ hệ thống nước thải.
Hơi của cholorine từ các khâu vệ sinh, khử trùng trong sản xuất. Chlorine sẽ khuếch tán trong không khí ngay tại khu làm việc với nồng độ khác nhau tuỳ theo nồng độ và lượng nước sử dụng, mức độ thông gió của khu vực sản xuất, điều này có phần nào ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động. Chlorine thường được sử dụng trong các xí nghiệp chế biến đông lạnh, xí nghiệp chế biến hàng khô, xí nghiệp chế biến đồ hộp.
Các môi chất lạnh bị rò rỉ ngoài môi trường từ các hệ thống máy lạnh chạy tủ đông, băng chuyền IQF, hầm đông, máy đá cây, máy đã vảy, kho lạnh. Trong xí nghiệp chế biến sản phẩm đông lạnh, các môi chất lạnh thường được sử dụng: NH3, Freon 22, Freon 12, Freon 502. Việc sử dụng các hợp chất CFC gây ảnh hưởng lớn đến môi trường, trên thế giới việc sử dụng các hợp chất này đang bị cấm, nên các xí nghiệp chế biến đông lạnh cần thay thế các chất khí CFV bằng NH3. Theo điều tra, lượng môi chất bị rò rỉ hàng năm tại các xí nghiệp chế biến thủy sản không nhiều, do các doanh nghiệp đã chú ý tới việc bảo dưỡng, sửa chữa thiết bị lạnh, tránh để gas lạnh bị rò rỉ.
c. Chất thải rắn
Lượng chất thải rắn trong các xí nghiệp chế biến thuỷ sản bao gồm chất thải rắn từ nguyên liệu thủy sản (phế thải) trong quá trình sản xuất và chất thải rắn trong sinh hoạt.
Lượng chất thải rắn (phế thải) trong quá trình chế biến thủy sản đông lạnh đối với: Tôm đông lạnh (0,75 tấn phế thải/1 tấn thành phẩm); Cá đông lạnh (0,6tấn phế thải/1 tấn thành phẩm); Nhuyễn thể chân đầu (0,45 tấn phế thải/1 tấn thành phẩm); Giáp xác đông lạnh (0,5 - 0,6 tấn phế thải/1 tấn thành phẩm); Nhuyễn thể hai mảnh vỏ đông lạnh (4 tấn phế thải/ 1 tấn thành phẩm).
Lượng bã thải trong sản xuất nước mắm ước tính 0,2 tấn/1000 lít nước mắm loại 1 (15g/lit).
Lượng chất thải rắn của sản phẩm khô đối với: Tôm khô (0,43 tấn phế liệu/1 tấn nguyên liệu); cá khô (0,38 tấn phế liệu/1 tấn nguyên liệu); Mực ống khô (0,17 tấn phế liệu/1 tấn nguyên liệu).
Lượng chất thải rắn của các sản phẩm thuỷ sản hộp (chủ yếu là cá hộp) là 1,7 tấn phế liệu/1 tấn thành phẩm.
Lượng chất thải rắn trong sản xuất agar lfa 6 tấn phế thải/1 tấn thành phẩm.
2.3. Trong khai thác thủy sản
Khai thác nguồn lợi thủy sản được loài người tiến hành từ bao đời nay, song tập trung cao nhất khoảng 4 thập kỷ gần đây và hậu quả là nhiều nước trên thế giới phải đối mặt với vấn đề cạn kiệt tài nguyên, suy giảm chất lượng môi trường. Hiểm họa trên tiếp tục đe doạ, khi mà dân số thế giới, nhu cầu thực phẩm, nhu cầu công ăn việc làm ngày càng tăng. Việt Nam không là một ngoại lệ, đặc biệt từ khi thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986. Trong xu hướng phát triển chung của đất nước, thủy sản được xếp vào một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, sản lượng thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. Tăng trưởng cao là điều mừng, song cũng là nỗi lo đối với các nhà quản lý tài nguyên môi trường, thể hiện qua những con số:
- Sản lượng khai thác thủy sản ở một số vùng biển có độ sâu dưới 30m nước đã vượt qua giới hạn cho phép 10 - 12%.
- 135 loài thủy sản quí hiếm, có giá trị kinh tế bị đe doạ so với 14 loài công bố năm 1989.
- Tỷ lệ thủy sản chưa trưởng thành chiếm 25 - 40% sản lượng khai thác của một mẻ lưới (tỷ lệ cho phép 15%).
- Năng suất một số nghề khai thác (vây, mành đèn, chà, vó kết hợp ánh sáng) giảm 30 - 60% so với trước 1986.
- Năng suất thủy sản nước ngọt tự nhiên ở các thuỷ vực thuộc các tỉnh phía Bắc và miền Trung hầu như cạn kiệt; đối với Nam Bộ sản lượng khai thác hàng năm chỉ bằng 50% so với trước năm 1975.
- Diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp khoảng 40 - 45% so với trước năm 1954.
- Tỷ lệ rạn san hô giảm từ 35% xuống còn 5 - 7%.
- Ô nhiễm môi trường biển và ven biển: 11/34 thông số vượt quá giới hạn cho phép 2 lần, đo được ở 3/6 điểm thuộc các tỉnh phía Bắc, 8/34 thông số vượt quá giới hạn cho phép 2,5 làn, đo được ở 3/8 điểm thuộc các tỉnh Nam Bộ và 7/34 thông số vượt quá giới hạn cho phép 1,6 lần, đo được ở 2/5 điểm thuộc các tỉnh miền Trung.
3. Mục tiêu phát triển ngành thủy sản và dự báo các vấn đề môi trường chính.
Chiến lược phát triển ngành thuỷ sản đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 như sau:
- Nâng cao sản lượng cá để bảo đảm đạt 10kg/người/năm vào năm 2005 và cao hơn vào những năm tiếp theo.
- Duy trì sự đóng góp của nghề cá cho GDP ở mức 3%/năm.
- Tăng sản lượng nghề cá đạt 1,9 triệu tấn vào năm 2005 và 2,4 triệu tấn vào năm 2010. Trong 2,4 triệu tấn sản phẩm thủy sản, một nửa là sản lượng nuôi thuỷ sản.
- Giá trị xuất khẩu thủy sản đến năm 2010 đạt 2,5 tỷ USD.
- Tăng việc làm cho cư dân.
Để đạt được các mục tiêu trên ngành thuỷ sản cần phải đồng bộ đẩy mạnh cả ba mặt trận: Nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản. Bức tranh tổng quan về phát triển và các vấn đề môi trường đối với 3 lĩnh vực nói trên là rất quan trọng và là cơ sở để định hướng các chính sách và luật pháp phù hợp để phát triển bền vững ngành thuỷ sản nhiều tiềm năng của nước ta.
Đối với khai thác hải sản: Khai thác hải sản đang cung cấp tỷ lệ lớn đối với ngành thuỷ sản và trong tương lai, khi nước ta đẩy mạnh khai thác xa bờ, sản lượng khai thác triển vọng sẽ tăng nhanh. Tuy nhiên, khai thác thủy sản với tốc độ lớn, thiếu chọn lọc sẽ dẫn đến suy giảm nguồn lợi, ảnh hưởng đến sự phát triển của nghề cá trong tương lai. Bên cạnh đó, việc đánh bắt, khai thác thủy sản bằng các biện pháp hủy diệt hàng loạt như nổ mìn, xung điện, hoá chất, lưới quét không đạt tiêu chuẩn v.v. không những làm suy giảm nguồn lợi thuỷ sản mà còn làm suy thoái đa dạng sinh học, gây ô nhiễm và suy thoái môi trường biển, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển trong tương lai của nghề cá. Ngoài ra, sự rò rỉ đầu ra biển, sự xả thải nước xúc rửa tàu, nước thải sinh hoạt và sự tích tụ chất thải từ nhiều hoạt động khác trên biển và từ nội địa đổ ra biển sẽ làm cho biển quá tải, vượt quá khả năng tự làm sạch, hậu quả sẽ là không lường trước được. Để giải quyết được các vấn đề trên, bên cạnh tuyên truyền, vận động toàn dân, đặc biệt là cư dân nghề cá có ý thức trong việc khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản cũng như bảo vệ môi trường để duy trì và phát triển nguồn lợi thủy sản, cần phải sớm xây dựng đồng bộ các quy phạm pháp luật về bảo vệ nguồn lợi thủy sản kết hợp bảo vệ môi trường biển và các vùng nước đang bị khai thác mạnh, đồng thời áp dụng các biện pháp cưỡng chế mạnh buộc các đối tượng thường xuyên vi phạm phải tuân thủ nghiêm các quy định của nhà nước về bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam trong thời gian qua phát triển tương đối nhanh và tiếp tục sẽ phát triển nhanh trong các năm tới, có tác dụng tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều vùng nông thôn, nhất là nông thôn ven biển. Tuy nhiên, đi đôi với những con số trên là vấn đề môi trường. Rừng ngập mặn, các hệ sinh thái ven biển, các vùng nước tiếp tục sẽ bị tàn phá với tốc độ nhanh, nhiều vấn đề môi trường khác là hậu quả của nuôi trồng thủy sản như đã nêu ở trên sẽ trực tiếp tác động tiêu cực đến chính lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Nguyên nhân chính là do phát triển thiếu quy hoạch, phương thức nuôi chưa thân thiện với môi trường, chưa kiểm soát được hoá chất sử dụng trong nuôi trồng, thức ăn dư thừa, tích tụ dưới đầy ao làm ô nhiễm vùng nước v.v. Để phát triển bền vững lĩnh vực này, cần phải đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng, xây dựng quy hoạch nuôi trồng hợp lý, có các biện pháp kiểm soát việc chặt phá rừng, các hệ sinh thái đất ngập nước để nuôi trồng thủy sản v.v. cũng như hình thành hệ thống các quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản, làm căn cứ để cưỡng chế đối với các tổ chức cá nhân không chú trọng công tác bảo vệ môi trường gây ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của ngành.
Chế biến thủy sản cũng đang là thế mạnh của Việt Nam. Việc tăng nhanh số lượng và quy mô các cơ sở chế biến thủy sản không song hành với chú trọng đầu tư bảo vệ môi trường sẽ là gánh nặng cho môi trường và chính ngành thuỷ sản trong tương lai. Chế biến thủy sản là lĩnh vực mà vấn đề môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm được đăt lên hàng đầu trong thương mại quốc tế. Vì vậy, nếu ngành thuỷ sản không chủ động đầu tư khắc phục các vấn đề môi trường tồn đọng nêu trên sẽ ảnh hưởng lớn, thậm chí tạo nguy cơ đối với sự phát triển của ngành trong tương lai. Để khắc phục được tình trạng đó, việc giám sát, kiểm tra, thanh tra buộc các cơ sở chế biến thủy sản phải tuân thủ Luật bảo vệ môi trường, cần phải xây dựng và phát triển các quy định trong việc bảo vệ môi trường riêng cho lĩnh vực. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản cần phải nhanh chóng tìm hiểu và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng, môi trường theo các tiêu chuẩn quốc tế (ISO),
HACCP,v.v... để có thể quản lý chất lượng, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế tạo điều kiện và cơ hội tham gia rộng hơn thị trường quốc tế.
Chương II. Tổng quan về các quy định pháp luật bảo vệ môi trường đối với ngành thuỷ sản
1. Các quy định về môi trường trong hệ thống pháp luật liên quan đến nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản.
Pháp lệnh Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thuỷ sản và các văn bản hướng dẫn mới tập trung vào:
Bảo vệ môi trường sống của các loài thuỷ sản, bao gồm:
- Điều 8, Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản qui định nghiêm cấm các hành vi:
* Xả, thải, để rò rỉ các chất độc hại có nồng độ vượt quá giới hạn qui định (được thể hiện cụ thể bằng 2 bảng 1A và 1B trong Thông tư số 01/2000/TT- BTS ngày 28/4/2000 về sửa đổi, bổ sung một số điểm trong Thông tư số 04/TS - TT ngày 30/8/1990 của Bộ Thủy sản về việc hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.
* Phá các hệ sinh thái như rừng ngập mặn, rừng đầu nguồn, các rạn san hô và các bãi thực vật ngầm và các sinh cảnh đặc biệt khác (trừ trường hợp được phép của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).
* Xây mới phá dỡ, thay đổi các công trình liên quan đến vùng nước và môi trường sống làm thiệt hại lớn đến nguồn lợi thủy sản (trừ trường hợp được phép của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).
- Điều 4, Nghị định 48 - CP ngày 12/8/1996, qui định mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường sống của các loài thủy sản.
- Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000đồng, tịch thu tang vật đối với các hành vi vi phạm: phá bãi đá ngầm, bãi san hô, bãi thực vật ngầm; phá hoặc xây dựng trái phép các công trình nổi, công trình ngầm ở các vùng nước.
- Phạt tiền từ 2.000.0000 đồng đến 5.000.000đồng, nếu gây ô nhiễm đến 1ha vùng nước.
- Phạt tiền 5.000.000đồng/1ha, nếu gây ô nhiễm trên 1ha vùng nước.
- Đối với hành vi gây ô nhiễm vùng nước, ngoài mức phạt tiền qui định tại (b,c), người vi phạm còn bị buộc thực hiện các biện pháp khắc phục ô nhiễm.
Bảo vệ các loài thủy sản:
- Điều 9, Pháp lệnh BV & PTNLTS qui định cấm khai thác và cấm khai thác có thời hạn ở các khu vực bãi đẻ, nơi sinh sống tập trung của các loài thủy sản thời kỳ còn bé, có sức bổ sung lớn cho nguồn lợi thủy sản. Các khu vực cụ thể đã được qui định tại bảng 10 của Thông tư 01/2000/TT - BTS.
- Điều 10, pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản qui định: Bộ thủy sản qui định mức sản lượng (bảng 5 và 6 Thông tư 04/TS - TT) các đối tượng cấm khai thác (bảng 7A), cấm khai thác có thời hạn (bảng 8A) và kích thước khai thác (9A) trong Thông tư số 01/2000/TT - BTS.
- Điều 11, pháp lệnh qui định: Bộ Thuỷ sản qui định các nghề và phương tiện khai thác phải đăng ký (trừ các nghề qui định tại bảng 2A, thông tư 01/2000/TT - BTS), phân vùng phân tuyến sản xuất.
- Điều 12, pháp lệnh qui định: cấm đánh bắt, tổ chức tiêu thụ các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao, quí hiếm hoặc có nguy cơ tuyệt chủng trong danh mục các đối tượng được bảo vệ.
- Điều 5, Nghị định 48 - CP qui định mức xử phạt đối với những hành vi vi phạm về bảo vệ các loài thủy sản.
- Các loại thuỷ sản có kích thước nhỏ hơn kích thước cho phép khai thác, phạt tiền từ 10.000đồng đến 20.000đồng/1kg thủy sản nếu khai thác và từ 5.000đồng đến 10.000đồng/1kg nếu vận chuyển, tiêu thụ.
- Đối với các loài thủy sản đó trong thời gian cấm khai thác, phạt tiền từ 20.000đồng đến 50.000đồng/1kg thủy sản nếu khai thác và từ 10.000đồng đến 20.000đồng/1kg thủy sản, nếu vận chuyển, tiêu thụ.
- Đối với các loài thủy sản trong danh mục cấm khai thác phạt tiền từ 50.000đồng đến 100.000đồng/1kg thủy sản đối với người khai thác và 20.000đồng đến 30.000đồng/1kg đối với người vận chuyển, tiêu thụ.
- Ngoài mức phạt tiền như a, b, c người vi phạm còn buộc thả động vật, thuỷ sản trở lại môi trường nước nếu còn sống hoặc bị tịch thu nếu đã chết.
- Điều 6, Nghị định 48 - CP qui định các mức độ xử phạt đối với các hành vi gây thiệt hại đến các loài thủy sản, cụ thể:
- Phạt tiền từ 200.000đồng đến 1.000.000đồng đối với hành vi khai thác thủy sản không có giấy phép hoạt động nghề cá do cơ quan có thẩm quyền cấp.
- Phạt tiền từ 100.000đồng đến 200.000đồng đối với hành vi khai thác thủy sản không có giấy phép di chuyển, ở các ngư trường quy định phải có giấy phép di chuyển.
- Phạt tiền từ 200.000đồng đến 500.000đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
+ Đặt chà rạo, đăng, đáy, lồng, bè để khai thác thủy sản không đúng quy định, làm ảnh hưởng đến các nghề khai thác thủy sản hoặc cản trở đườgn di cư của các loài thủy sản trong mùa sinh sản của chúng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (116).doc