Để có một nguồn nhân lực có sức khoẻ và thể lực tốt,đồng thời thích hợp với xu thế cạnh tranh và hội nhập,Nhà nước cần tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế,cải tiến chế độ tiền lương,diều chỉnh thu nhập bất hợp,các vùng.Đồng thời Nhà nước nên chú trọng đến đào tạo nghề hơn nữa để bảo đảm sự cân đối giữa những người có trình độ đại học và công nhân lành nghề.Đảng và Nhà nước cần chi thêm nguồn kinh phí cho cơ sở hạ tầng của giáo dục và đào tạo đã và đang xuống cấp hiện nay đặc biệt là trang thiết bị,thư viện,tài liệu phục vụ học sinh,sinh viên.Đối với mỗi học sinh,sinh viên thì phải tự mình trau dồi kiến thức,tu dưỡng bản thân để trở thành những người có đủ phẩm chất,đạo đức,trình độ bước vào xây dựng đất nước trong giai đoạn hội nhập.
41 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững người từ 16 tuổi trở lên, đánh giá về dinh dưỡng ở 6 vùng sinh thái (1987-1990) của viện dinh dưỡng cho thấy:
+ Số người gầy chiếm 48,7% và tăng theo lứa tuổi
+ Số người trung bình chiếm 50% và giảm theo lứa tuổi
+Số người béo chiếm 1,3% và giảm theo lứa tuổi
Trọng lượng và chiều cao ở các lứa tuổi thấp hơn các nước trong khu vực. Tỷ lệ suy dinh dưỡng cao, chính điều đó ảnh hưởng đến khả năng năng suất của lao động của nguồn nhân lực. Thêm vào đó có tới trên 80% nguồn nhân lực sống ở vùng nông thôn với phương thức lao động thủ công truyền thống, phân tán, thiếu công cụ, cơ sở hạ tầng kém phát triển, cơ cấu kinh tế thuần nông là chủ yếu, đời sống vật chất, tinh thần còn thấp...Vì vậy hạn chế nguồn nhân lực nước ta rất lớn.
Cũng phải nói thêm rằng chính sự gia tăng dân số nhanh những năm qua một mặt tạo ra một lực lượng lao động ngày càng lớn về qui mô thì lại dẫn tới nhiều hệ quả tiêu cực đối với sức khoẻ con người và xã hội. Đó là tình trạng dân số ít được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc y tế. Điều đáng quan tâm là hiện nay ở một số tỉnh vùng cao, vùng xa có 742 xã chưa có trạm y tế, đặc biệt có 52 xã “trắng” không có cả cán bộ y tế lẫn trạm y tế. Thực trạng này cho thấy những nhu cầu thiết yếu về khám chữa bệnh cho người dân còn vô cùng khó khăn, hạn chế. Như vậy để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tất yếu chúng ta phải quan tâm trước mắt tới chất lượng cuộc sống của dân số.
Một vấn đề quan trọng nữa khi nói đến chất lượng nguồn nhân lực đó là trình độ văn hoá của nguồn nhân lực. Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống, có mục đích đến sự hình thành và phát triển nhân cách, ý thức của mỗi người với yêu cầu phát triển kinh tế văn hoá và xã hội. Nhìn chung trình độ học vấn của lực lượng lao động là khá cao và luôn có nhiều chuyển biến tích cực. Theo số liệu thống kê của Việt Nam tỷ lệ biết chữ trong lực lượnglao động là 94,9% (1997). Tỷ lệ đến trường cao chỉ có 8,4% lực lượng lao động chưa bao giờ đến trường cơ cấu nguồn nhân lực phân theo bậc học cũng có những chuyển biến đáng kể: Tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học tăng nhanh từ 30,5% và 8,9%(1989) lên 60,51% và 14,14% (1997).Cơ cấu lực lượng lao động phân theo bậc học ở nông thôn và thành thị có xu hướng ngày càng hợp lý hơn.Tuy nhiên bên cạnh đó trình độ văn hoá của nguồn nhân lực còn nhiều bất cập.Tính chung toàn quốc năm 1997,trong tổng lực lượng lao động thì số người chưa biết chữ chiếm 5,1%,chưa tốt nghiệp cấp II chiếm 20,26%,đã tốt nghiệp cấp I chiếm 28,13%,đã tốt nghiệp cấp II chiếm 32,37%,đã tốt nghiệp cấp III chiếm 14,1.
So sánh giữa thành thị và nông thôn ,lực lương lao động ở thành thị có trình độ học vấn cao hơn hẳn ở nông thôn.Lực lượng lao động ở thành thị đã tốt nghiệp cấp II và cấp III chiếm 61,85%,còn tỷ lệ chung của toàn quốc là 46,51%,ở khu vực nông thôn tỷ lệ này chỉ chiếm 42,62%.Thêm vào đó ,tỷ lệ người chưa biết chữ trong lực lượng lao động ở nông thôn lên tới 22,14%,gấp đôi khu vực thành thị .Mức chênh lệch về trình độ học vấn của lực lượng lao động ở khu vực thành thị và nông thôn có xu hướng ngày càng lớn.
So sánh giũa lực lượng lao động nam và lao động nữ thì trình độ học vấn của nam tốt hơn.Tỷ lệ chưa tốt nghiệp của nữ chiếm 22,46% thấp hơn tỷ lệ chung của toàn quốc là 2,2%;tỷ lệ tốt nghiệp cấp II chiếm 31,15%,tỷ lệ tốt nghiệp cấp III chiếm 12,44% thấp hơn của toàn quốc là 1,7%.Các tỷ lệ theo các bậc học của lao động nam ở mức tích cực hơn .
Thực trạng học vấn trên cho thấy cơ sở để tiến hành đạo tạo nghề đối với mỗi vùng,mỗi giới là phải phù hợp trình độ tiếp cận kiến thức nghề nghiệp.Xét về thực trạng trình độ chuyên môn,kỹ thuật nguồn nhân lực,có thể đi sâu vào một số khía cạnh điển hình như :Mặc dù xét về tổng số,lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật đều tăng qua các thời kỳ song cơ cấu giữa các lực lượng lao động có chuyên môn kĩ thuật biến động theo hướng ngày càng bất hợp lý hơn.Nhìn chung cơ cấu lao động đang nổi lên nhiều bất cập.Thứ nhất,tỷ trọng lao động giản đơn còn quá cao.Thực hiện CNH-HĐH là chuyển đổi cơ bản,toàn diện các hoạt động sản xuất,kinh doanh,dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,phương tiện và phương pháp tiên tiến,hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.Thực chất đây chính là quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp.Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH,song tỷ trọng lao động giản đơn trong xã hội còn quá cao (88%),cơ cấu nguồn lao động còn quá lạc hậu so với nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp. Điều này có thể thấy rõ phân tích hai tháp dân số sau:
5%
0,5%
24,5%
35%
35%
Các nhà khoa học
kỹ sư
chuyên viên kỹ thuật
Lao dộng lành nghề
Lao động không lành nghề
2,7%
0,3%
3,5%
5,5%
88%
Tháp lao động Việt Nam Tháp lao động của các nước công nghiệp
Nguồn: Tạp chí LĐXH-số 198-2000
Nhìn vào hai tháp lao động trên ta thấy cơ cấu, trình độ nguồn lao động nước ta chủ yếu là lực lượng lao động không lành nghề.Trong khi lực lượng lao động lành nghề ở các nước công nghiệp chiếm tới 35% trong tổng lực lượng lao động xã hội thì ta chỉ có 5,5%. Lực lượng lao động có trình độ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư và các nhà khoa học của họ chiếm tới 30% còn ở ta mới có 6,5%. Chúng ta đang rất thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật. Đồng thời chúng ta cũng chưa thoát khỏi tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”. Ngay trong lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có cấu còn rất bất hợp lý. Có thể thấy tình trạng đó qua bảng sau:
Cơ cấu lực lượng lao động kỹ thuật ở Việt Nam (1979-1999).
(Số 166 tháng 9/2000-Tạp chí LĐXH).
1979
1989
1999
Số lượng
(1000 người)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(1000 người)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(1000 người)
Tỷ lệ
(%)
Tổng số
Công nhân kỹ thuật
Kỹ thuật viên
Đại học, cao đẳng
2474
1699
538
239
100
68,6
21,7
9,7
3295
1478
1161
656
100
44,9
35,2
19,9
3898
1591
1380
928
100
40,8
35,4
23,8
Theo kinh nghiệm của các nước thành công trong công nghiệp hoá thì cơ cấu lao động kỹ thuật phổ biến là một đại học,cao đẳng,4 trung học chuyên nghiệp và 10 công nhân kỹ thuật (1/4/10).Nhưng ở nước ta,tình trạng bất hợp lý của cơ cấu này ngày càng tăng lên; năm 1979(1/2,2/7,1); năm 1989(1/1/2,2); năm 1997(1/1,5/1,7).Theo báo cáo của bộ giáo dục và đào tạo trong 10 năm (1986-1996) số học sinh học nghề giảm 35%,số giáo viên dạy nghề giảm 31%,số trường dạy nghề giảm trên 40%;trong khi đó có tới 70-80%số sinh viên tốt nghiệp đại học ,cao đẳng ra trường không có việc làm ,riêng ngành y hiện có trên 3000 bác sĩ không có việc làm.Thứ ba,lực lượng lao động nông nghiệp là chủ yếu trong cơ cấu ngành.Cho đến nay nền kinh tế nước ta còn mang đậm dấu ấn một nền kinh tế thuần nông, thể hiện rõ trong cơ cấu nguồn lao động theo ngànhNăm 1998 cơ cấu lao động theo ngành là: lao động nông nghiệp chiếm 66%,lao động công nghiệp chiếm 13%,lao động dịch vụ 21%.
Khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn về tỷ trọng lao động chuyên môn kỹ thuật ngày càng tăng.Năm 1989 tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật của thành thị và nông thôn là 23,04% và 5,74%,đến năm 1997,con số này là 32%và 7,29%.Như vậy tốc độ gia tăng tỷ lệ có chuyên môn kỹ thuật ở thành thị lớn hơn nhiều ở nông thôn.Vấn đề nhân lực còn đặt ra nhiều thách thức cần khắc phục và giải quyết
III- Quy mô và cơ cấu đào tạo,phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay .
1. Sự mất cân đối giữa các ngành,vùng
Sự mất cân đối trong cơ cấu của lực lượng lao động ở Việt Nam đang góp phần hạn chế sự phát triển của nền kinh tế.Mặc dù các cấp,các ngành đều biết rõ thực trạng đó trong cơ cấu lao động nhưng chưa thực hiện triệt để các chính sách về đào tạo nghề,do đó tình trạng bất hợp lý trong cơ cấu lực lượng lao động vẫn gia tăng.Thực tế là liên tục trong nhiều năm quy mô đào tạo đại học,cao đẳng của nước ta mở rộng quá mức-gấp 2 đến 3 lần so với đào tạo trung học chuyên nghiệpvà gấp 6 đến 7 lần so với đào tạo công nhân kỹ thuật.Quy mô đào tạo nghề giảm mạnh. Ba năm gần đây mặc dù qui mô đào tạo đã được mở rộng(1997: 400000;1998: 550000;1999: 660000 học sinh)nhưng mức tăng quy mô đào tạo đại học,cao đẳng còn lớn hơn,nên tình trạng”thừa thầy,thiếu thợ”vẫn chưa được khắc phục.Một số ngành quy mô đang vượt mức nhu cầu như:Báo chí,luật,kinh tế...những ngành này vẫn chưa giảm chỉ tiêu tuyển sinh nên hàng năm một lực lượng lớn sinh viên ra trường không có việc làm hoặc phải làm trái nghề.Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công việc,gây nhiều tổn thất cho xã hội.Mặt khác một số ngành như như sư phạm,nông nghiệp thì còn thiếu cán bộ và chưa được tăng chỉ tiêu đúng mức,đặc biệt tại các vùng như đồng bằng sông Cửu Long,trung du miền núi phía Bắc.Công tác giám sát của Nhà Nước,chính phủ trong đào tạo vẫn còn lỏng lẻo,không chỉ đạo kịp thời;thể hiện ở chỗ có một số trường tự tiện tăng chỉ tiêu và sau một thời gian dài mới bị phát hiện,sau khi phát hiện ra hình thức xử lý vẫn mang tính hình thức,không cương quyết,không nghiêm minh (ĐH DL Đông Đô).
Về cơ cấu vùng cũng có nhiều bất cập.Bên cạnh những thành tựu đạt được trong phân bổ đào tạo phù hợp từng vùng như :Khuyến khích đào tạo cán bộ,công nhân kỹ thuật cho các vùng xa xôi,vùng núi nhằm sử dụng ngay chính lao động tại các vùng này,xây dựng kinh tế địa phương.Xây dựng các trường dạy nghề tại địa phương nhằm thu hút học sinh tại cơ sở,bên cạnh đó chính phủ còn khuyến khích mở các trung tâm dạy nghề do chính quyền địa phương,các tổ chức đoàn thể xã hội đầu tư để đào tạo nghề ngắn hạn.Hiện tại quá trình đào tạo tại các vùng xa trung tâm do nhiều nguyên nhân: Thiếu cơ sở vật chất,giáo viên nên chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu xã hội,do đó các trường ở đây chưa thực sự cuốn hút được nhiều học sinh.Hàng năm nhà nước có chính sách xét tuyển một số lượng học sinh ở vùng núi,dân tộc cho đi học đại học,cao đẳng với mục đích đào tạo xong đưa về quê hương hoạt động song số lượng sinh viên này ra trường lại không muốn về địa phương.Thực tế này cho thấy tình trạng đào tạo ngành nghề của Việt Nam chưa sát với nhu cầu của từng vùng.Chúng ta chỉ mới chú trọng đào tạo những ngành nghề phù hợp cho khu vực kinh tế ở Đồng Bằng,ở những nơi điều kiện địa lý thuận lợi,chưa có chính sách đầu tư lâu dài cho vùng sâu,vùng xa hợp lý.Chính vì vậy sự mất cân đối giữa các vùng ngày một rõ nét.
2. Đào tạo và phát triển chưa gắn liền với thực tế.
Bước vào thế kỷ 21,sự nghiệp đào tạo nghề đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn lao.Một nền kinh tế đang từng bước khôi phục,phát triển và chuẩn bị cho thời kỳ hội nhập đòi hỏi một lực lượng lao động có chuyên môn,kỹ thuật,tay nghề cao.Thực tế những năm qua,mặc dù qúa trình đào tạo đã chú trọng đến sự đồng bộ giữa lý thuyết và thực hành nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.Đặc biệt khi mà trên thế giới đang tiến đến một nền kinh tế tri thức,thì yêu cầu về lao động của chúng ta càng trở nên cấp bách.Hiện nay hệ thống đào tạo của chúng ta vẫn thường áp dụng tho phương pháp đào tạo cổ điển.Hình thức giảng dạy ở các trường đại học,cao đẳng,dạy nghề vẫn chưa chuyên sâu vào thực hành mà vẫn còn mang nặng tính lý thuyết.Chúng ta chưa có hình thức gắn kết giữa các cơ sở này với các doanhnghiệp sản xuất.Chính vì vậy học sinh,sinh viên sau khi tốt nghiệp chưa có kiến thức thực tế nhiều nên rất thụ động,dường như giữa kiến thức học và thực tế có một khoảng cách khá xa.
3. Tình trạng chảy máu chất xám
Có thể nói rằng tình trạng chảy máu chất xám là một trong những vấn đề nguy hiểm,kìm hãm sự phát triển của đất nước Việt Nam.Có lẽ đây là căn bệnh của những nước nghèo,chưa phát triển.Thực tế này diễn ra đã làm cho nền kinh tế lạc hậu,nhỏ bé như Việt Nam càng khó khăn trong sự nghiệp CNH-HĐH đất.Khi nước ta đang cần một lực lượng lao động lành nghề,có kỹ thuật,một đội ngũ cán bộ chuyên môn chất lượng cao để bắt tay vào xây dựng cho sự nghiệp của đất nước thì một lực lượng chuyên gia giỏi người Việt Nam lại đang định cư,cống hiến cho nước ngoài.Họ là những người được Nhà nước cử đi nghiên cứu,học tập tại các nước phát triển với mong muốn của nước nhà là đào tạo lực lượng này nắm bắt công nghệ hiện đại của các nước bạn về phục vụ cho đất nước.Song sau quá trình nghiên cứu nhiều người suất xắc ở lại đó không trở về quê hương để xây dựng nước nhà.Đây là tình trạng phổ biến và nguy hiểm đối với đất nước.
Tuy nhiên cũng phải công nhận một sự thật rằng:những nghiên cứu sinh suất xắc khi về nước lại mắc phải tình trạng không có điều kiện phát huy hết tài năng và kiến thức đã được học.Nếu họ về nước và làm việc trong môi trường,cơ sở vật chất thiếu thốn thì tài năng cũng thui chột dần theo thời gian.Đây là một khuyết tật lớn,là nguyên nhân quan trọng lý giải cho tình trạng người du học không muốn về nước.Như vậy tình trạng chảy máu chất xám cũng có nghĩa là nhân tài trong nước không được phát huy,bồi dưỡng chuyên môn,kỹ năng của mình.
Tình trạng chảy máu chất xám đang đặt ra những thách thức mới cho thời kỳ hội nhập.Nếu chúng ta không có chính sách hợp lý thu hút nhân tài thì sự hội nhập mới sẽ đưa Việt Nam vào tình trạng “nghèo” và nguồn nhân lực cao.
4. Hệ thống đào tạo nghề.
Hiện nay ở nước ta trong vòng 5 năm(1995-2000) quy mô đào tạo nghề bình quân hàng năm tăng khoảng 20,5% riêng đào tạo dài hạn tăng gấp 3 lần.Hệ thống mạng lưới cơ sở dạy nghề đang được quy hoạch lại và có xu hướng phát triển.Bước đầu đã hình thành hệ thống dạy nghề trên phạm vi cả nước,bao gồm các trường đào tạo nghề chính quy dài hạn của trung ương và địa phương,các trường dạy nghề trong các doanh nghiệp,cơ sở dạy nghề ngắn hạn ở khắp các địa phương,các tổ chức đoàn thể xã hội và các cơ sở dạy nghề ngoài công lập.Hệ thống chính sách và dạy nghề đã bổ sung và sửa đổi theo hướng xã hội hoá,kết hợp giữa đào toạ nghề chính quy và không chính quy,giữa cơ sở đào tạo nghề của nhà nước;các doanh nghiệp và tư nhân.
Đa dạng hoá các nguồn đầu tư,đặc biệt từ nhân dân,doanh nghiệp nhà nước đầu tư cho sự nghiệp đào tạo nghề các năm qua cũng không ngừng tăng lên,đây là nhân tố quan trọng để đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo nghề.Trong tổng số ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo thì ngân sách cho đào tạo nghề đã tăng lên 4,7% năm 2000.Tuy hệ thống đào tạo nghề ở Việt Nam trong những năm qua không ngừng cải tiến,mở rộng về quy mô và chất lượng song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội.Nhiều hệ thống các trường đào tạo chính quy sau một thời gian dài đã bị suy giảm mạnh,một số bị thuyên giảm:Từ 366 trường năm 1980 xuống còn 129 trường năm 1998,như vậy đã giảm mất 237 trường.
Về thực trạng hệ thống thiết bị dạy nghề cũng có nhiều bất cập.Theo đánh giá của tổng cục dạy nghề,thiết bị giảng dạy hiện nay ở các trường đã có bước phát triển rõ nét,tuy nhiên do đầu tư không đồng đều giữa các trường,các khu vực nên ở một số trường có dấu hiệu xuống cấp trầm trọng.Nếu so với nhiều nước trong khu vực như:Thái Lan,Malaysia...thì vẫn còn khoảng cách khá xa.Đi sâu vào một số nghề đào tạo ta thấy còn nhiều bất cập hơn.
Công nghiệp là nghành có qui mô đào tạo lớn. Hiện có 60 trường nghề tham gia đào tạo cơ khí, 77 trường đào tạo điện, điện tử và 2 trường đào tạo công nghệ hoá chất. Cuộc cách mạng công nghệ đã làm thay đổi về cơ bản các thiết bị, công cụ sản xuất tại các nhà máy. Trong khi đó, hầu hết thiết bị dùng giảng dạy đều được sản xuất từ những năm 70 của Liên Xô, Trung Quốc hoặc sản xuất trong nước. Việc tích hợp các phương pháp điều khiển tối ưu theo công nghệ vào thiết bị dạy học của các trường là chưa có. Điều này dẫn đến một thực tế là các doanh nghiệp không tin tưởng vào trình độ lao động được đào tạo ra.
Nông nghiệp là ngành đứng thứ 2 về tỉ trọng trong cơ cấu kinh tế của nước ta. Hơn thế nữa đây vẫn là ngành chiếm tỉ lệ lao động lớn nhất. Được sự quan tâm của nhà nước và các tổ chức nước ngoài cho tới nay ở một số trường lao động kỹ thuật nông nghiệp đã được đầu tư nhiều trang thiết bị mới như thiết bị cho vườn ươm,vườn thực nghiệm,các phòng chuyên môn...chính vì vậy trong những năm qua đã đào tạo được 12000 công nhân mía đường.Tuy nhiên sự đầu tư vào các nghề khối nông nghiệp vẫn còn bị đánh giá là chưa có sự phát triển đồng đều,một số ngành bị lãng quên và có nguy cơ bị tụt hậu,cần được quan tâm hơn.
Bên cạnh một số ngành như giao thông,thuỷ sản,thương mại,dịch vụ và du lịch cũng đang đòi hỏi những thay đổi trong hệ thống đào tạo.Một mặt là do nguồn vốn đào tạo còn hạn chế,một mặt sự liên kết giữa trường dạy nghề với các tổ chức,cơ sở sản xuất chưa cao.Chính vì vậy các trường cần có chương trình kết hợp giữa học và hành thông qua sự hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp nhằm tận dụng cơ sở vật chất và học hỏi những kỹ thuật tiên tiến,hiện đại phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp.
5. Chất lượng đào tạo.
Trong những năm qua Việt Nam đã không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo nghề đã được Đảng, nhà nước, xã hội quan tâm hơn, là nhu cầu quan trọng của sản xuất và thị trường lao động nhờ đó đã thu hút được nhiều người học nghề, tạo động lực nâng cao chất lượng đào tạo. Đặc biệt trong những năm gần đây công tác đào tạo nghề đã tập trung vào nâng cao cơ sở vật chất, bồi dưỡng và đào tạo giáo viên, nghiên cứu hoàn thiện nội dung chương trình giảng daỵ.
Trước hết để xét về chất lượng đào tạo chúng ta xét đến chương trình đào tạo. ở Việt Nam nhìn chung các chương trình đào tạo tương đối phong phú tạo điều kiện cho nhiều đối tượng học sinh, học viên, sinh viên được tham gia học tập thuận lợi. Chúng ta có các chương trình đào tạo chính quy, tại chức, đào tạo ngắn hạn, dài hạn, đào tạo tại các trung tâm theo quĩ thời gian hợp lý...Hiện nay mỗi công dân Việt Nam đều muốn xây dựng một xã hội học tập, học tập suốt đời. Tuy nhiên bên cạnh chương trình đào tạo vẫn tồn tại một số khuyết điểm, hạn chế. Đó là các chương trình đào tạo vẫn chưa sát với thực tế vẫn còn nặng tính lý thuyết, tỷ lệ thực hành so với tổng số giờ giảng còn quá ít. Chính điều này làm mất tính sáng tạo, tìm tòi thực tế của người học. Hầu hết các chương trình đào tạo đều tập trung phần lớn vào các đối tượng học sinh, sinh viên ở thành phố thị xã còn các chương trình đào tạo cho những người ở vùng nông thôn, vùng núi, hải đảo còn ít được quan tâm. Sự phân cách trong nhu cầu, quyền lợi được đào tạo của các vùng sẽ tạo nên sự phân cách xã hội. Vì vậy cần xây dựng một chương trình đào tạo hợp lý để khuyến khích được những đối tượng sản xuất nông, lâm nghiệp tham gia bởi lẽ bất cứ ngành nghề nào cũng cần có một trình độ, kiến thức nhất định.
Do qui mô các trường đang từng bước mở rộng nên số lượng học sinh đi vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp kỹ thuật đang tăng lên. Qui mô tuyển sinh dạy nghề tăng bình quân 20%/năm (năm 1997:44,7 vạn học sinh, năm 2000:82 vạn, năm 2001: 88,7 vạn). Song song với việc tăng qui mô thì chất lượng đầu ra của học sinh, sinh viên cũng được từng bước nâng cao ở khả năng tiếp cận với những dây truyền sản xuất hiện đại. Nhiều học sinh, sinh viên khá năng động, tìm tòi kiến thức xã hội trong thời kỳ mở cửa, hội nhập. Tuy nhiên đây cũng chỉ là những nét điển hình, phần lớn học sinh, sinh viên vẫn còn mang nặng tính thụ động, ngại khó, ít tính sáng tạo trong nghiên cứu, chưa tự tin trong học tập. Điều đó ảnh hưởng xấu tới khả năng làm việc sau này.
Về đội ngũ giáo viên dạy nghề: chúng ta đã tiến hành chuẩn hoá đội ngũ giáo viên, chú ý bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kiến thức và đổi mới phương pháp giảng dạy cho giáo viên dạy nghề. Đội ngũ giáo viên là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng đào tạo. Trong những năm gần đây ở các trường, cơ sở dạy nghề hàng năm cử giáo viên đi học thêm tin học, ngoại ngữ, đồng thời tổ chức các cuộc hội thảo và các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ.
Về chất lượng đào tạo chúng ta có thể lấy ví dụ về trường dạy nghề ở TP Hải Phòng. Do không ngừng đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy đặc biệt chú trọng khâu thực hành, kết hợp đào tạo với sản xuất, tỷ lệ học sinh khá giỏi của trường chiếm 45-50%. Số người được nhận vào làm việc tại các doanh nghiệp xây dựng hoặc tự tìm việc làm chiếm 85-90%. Đây là một trong những cơ sở dạy nghề có uy tín và thật sự đáng mừng cho sự nghiệp đào tạo của nước nhà.
Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hôị nhập kinh tế.
I- Mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực.
1. Đưa đất nước đi lên.
Nhân loại đang đứng trước ngưỡng cửa của kỳ nguyên xã hội thông tin và kinh tế tri thức mà đặc điểm nổi bật là diễn ra xu thế toàn cầu hoá. Kinh nghiệm lịch sử của kỷ nguyên công nghiệp trong thế kỷ này đã cho thấy rằng những quốc gia giải quyết thành công quá trình CNH đều là những nước tạo ra những hệ thống giáo dục phù hợp tại điểm gay cấn nhất trong quá trình chuyển đổi của nền văn minh. Cùng với sự phát triển kinh tế-nền kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hoá, với sự nhận định về phát triển nguồn nhân lực Việt Nam chịu tác động của nhiều yếu tố: Phát triển dân số, cách mạng KHCN, phát triển thị trường lao động và các yếu tố khác. Trong đó chính sách phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi toàn quốc, vùng miền, ngành nghề và trong những khoảng thời gian nhất định của sự phát triển kinh tế xã hội.
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực hết sức quan trọng và là yếu tố cơ bản để phát triển đất nước được Đảng và nhà nước hết sức chú trọng và được khẳng định từ ĐH VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đầy mạnh CNH-HĐH. Mục tiêu của CNH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,cơ cấu kinh tế hợp lý,quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hôị công bằng văn minh. Phấn đấu đến 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp. Vì vậy, việc bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người trên nền tảng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH-HĐH. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, hệ thống giáo dục hiện nay cần được đổi mới để: “Giáo dục-Đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “Phát triển giáo dục-Đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, những tiến bộ KHCN...”
2. Hội nhập kinh tế cùng thế giới rút ngắn khoảng cách phát triển.
Ngày nay nhiều chuyên gia giáo dục cho rằng nước nào giải quyết thành công công việc hội nhập công nghệ vào trong giáo dục sẽ là nước dẫn đầu trong việc định hướng tương lai của nền văn minh mới. Các nước trên thế giới đang cố gắng chạy đua để triển khai những tư tưởng cải cách trong giáo dục và coi giáo dục là nhân tố quyết định thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội; đào tạo phát triển nguồn nhân lực là lực lượng quyết định, sáng tạo ra thông tin, phát triển khoa học kỹ thuật văn hóa mới của nền văn minh.
Nguồn nhân lực Việt Nam cần được phát triển để đáp ứng CNH-HĐH với qui mô lớn, chất lượng cao, phát huy hiệu quả tích cực trong một thế giới có nhiều tác động bởi các xu thế phát triển chủ yếu của nền kinh tế đáp ứng các yêu cầu về chuyển dịch cơ cấu lao động và xuất khẩu lao động.
Hợp tác đầu tư xây dựng một số trung tâm công nghệ cao trong các trường đại học, nhập thiết bị khoa học tiên tiến để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Khuyến khích các chủ đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm, tiềm lực truyền thống và trình độ tiến tiến thành lập các cơ sở giáo dục 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với các đối tác Việt Nam để đào tạo đại học, dạy nghề, giáo dục từ xa, mở các khoá ngắn hạn có trình độ khu vực và quốc tế tại Việt Nam theo qui định của pháp luật Việt Nam. Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và quản lý tốt việc du học.
Đảng và Nhà nước đã và đang chủ trương thực hiện hợp tác quốc tế trong giáo dục. Ví dụ như cuộc gặp gỡ của thứ trưởng bộ giáo dục và đào tạo Trần Văn Nhung cùng phái đoàn Châu Âu hôm 24/9/2002 vừa qua, phía EU dự kiến hỗ trợ choViệt Nam 100 triệu EURO trong 3 năm tới, trước mắt dự kiến hỗ trợ 20 triệu EURO cho giáo dục và đào tạo. Đây là một trong những ví dụ thể hiện chiều hướng tích cực của sự phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực nhằm phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng cách phát triển cả về mọi mặt kinh tế xã hội, KHCN, văn hoá tư tưởng...
II- Đào tạo kiến thức phổ thông.
1. Đổi mới mục tiêu đào tạo, chương trình và phương pháp cho phù hợp với tình hình thực tế.
Mục tiêu đào tạo
Mục tiêu đào tạo của giáo dục phổ thông là từng bước chuẩn bị cho thế hệ trẻ tự tin, sáng tạo bước vào xã hội tương lai trên cơ sở được trang bị kỹ lưỡng và hoàn thiện về trình độ học vấn, kỹ năng lao động có đủ những yếu tố phẩm chất về lao động và chất lượng lao động.
Mục tiêu đào tạo giáo dục phổ thông thể hiện tính chất phát triển theo từng giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại có một yêu cầu cụ thể khác nhau và ngày càng cao hơn. Từ những người được đào tạo ở trung học cơ sở phải được học nghề cùng với những học vấn thu được để có thể định hướng được một phần nào đó công việc phù hợp với mình để chọn được những hướng đi thích hợp cho tương lai. Đến phổ thông trung học là những năm có vị trí cơ bản nhất trong giáo dục và đào tạo. Trước hết đó là những năm hoàn thiện vốn kiến thức về học vấn cũng như kỹ thuật nghề nghiệp phổ thông. Cùng với những kiến thức cao hơn thu được, học sinh đã có thể thực hiện chuyên môn hoá sâu hơn chọn được hướng đi phù hợp nhất cho bản thân, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Những người có đủ khả năng thì tiếp tục học lên để nâng cao trình độ.
Trên cơ sở những mục tiêu đã được đặt ra còn có những mục tiêu mới cần thực hiện cho phù hợp với tình hình của đất nước. Mục tiêu trong các năm tới là phát triển mạnh giáo dục đào tạo trên cả 3 mặt: qui mô, chất lượng và hiệu quả, nhằm trang bị cho nguồn nhân lực trong tương lai có được những kiến thức cơ bản nhất. Trình độ dân trí được nâng cao, nhận thức nghề nghiệp tốt hơn từ đó thực hiện được phân công lao động tốt hơn. Để thực hiện được mục tiêu này nhà nước phải có các chính sách cụ thể, áp dụng cho từng đối tượng từ tiểu học, trung học cơ sở đến trung học phổ thông. Tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của việc nâng cao dân trí. Đồng thời chính phủ phải có những chính sách hợp lý về chi tiêu cho ngành giáo dục để thực hiện mục tiêu mới ngày một khó khăn và quyết liệt hơn.
Đổi mới chương trình.
Từng bước thử nghiệm để tiến tới xây dựng chương trình thống nhất trong phạm vi cả nước phù hợp với những đổi mới của chương trình tiểu học năm 2000. Cụ thể như sau: Từ chương trình đào tạo với một khung chương trình cơ bản đảm bảo được tính phổ thông, bảo đảm được các mục tiêu nhưng vẫn đi sát xu thế thời đại đồng thời gắn với cuộc sống cộng đồng tạo điều kiện cho phổ cập giáo dục theo định hướng giảm bớt lý thuyết tăng cường thực tế, thực hành. Bên cạnh đó cùng với xu hướng hội nhập là một nguồn nhân lực phải có trình độ tin học và ngoại ngữ. Biên soạn, thí điểm một thí điểm một số những môn học mới, những nội dung mới và những môn học tự chọn cho phù hợp với từng ngành nghề, từng vùng miền cho từng định hướng và sự lựa chọn nghiệp của từng học sinh. Tuy nhiên đây là vấn đề mới mẻ nên phải cân nhắc trước khi thực hiện để không gây hậu quả như: Sự lựa chọn không phù hợp hay đi chệch hướng vào mục tiêu đào tạo.
Ngày càng hoàn thiện hơn chương trình đào tạo với các môn học thích hợp cho từng đối tượng học sinh.Ơ các mức nhận thức khác nhau, các trình độ khác nhau, phải thường xuyên đổi mới và hoàn thiện xây dựng các môn học tích hợp cho phù hợp đồng thời đội ngũ giáo viên phải được bồi dưỡng thường xuyên. Trang thiết bị dạy học của nhà trường phải đầy đủ, thích hợp và đáp ứng được nhu cầu. Hệ thống sách giáo khoa được đổi mới, tài liệu tạp chí chuyên ngành phải được phân phối kịp thời trên tất cả các vùng trong cả nước góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và phát hiện bồi dưỡng nhân tài.
Đổi mới phương pháp .
Phương pháp dạy học phải xuất phát từ mục tiêu đào tạo, nhằm đạt tới mục tiêu đào tạo phải gắn liền với nội dung, phù hợp tâm sinh lý học sinh, đồng thời :
Đổi mới tư duy độc lập , sáng tạo của học sinh. Chuyển nhanh việc giảng dạy theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, thầy tổ chức hoạt động giảng dạy để học sinh tiếp thu tri thức và có khả năng vận dụng sáng tạo tri thức vào thực tiễn.
Rèn và tạo điều kiện cho học sinh có khả năng biểu đạt vấn đề một cách rõ ràng, lưu loát : tăng thời gian cho việc trao đổi , tranh luận cũng như việc trình bày vấn đề của học sinh trước tập thể để học sinh không chỉ suy nghĩ tích cực, chủ động, sáng tạo mà còn có khả trình bày vấn đề, biểu đạt suy nghĩ một cách ngắn gọn, dễ hiểu, tự tin.
Từng bước tăng cường và nâng cao chất lượng việc sử dụng phương tiện dạy học trong giảng dạy để nâng cao hiêụ quả giờ học, phát triển năng lực thực hành ở học sinh. Hướng dẫn học sinh cách đọc sách, tham khảo tài liệu để tiến tới học sinh có thể tự học tự nghiên cứu có hiệu quả.
Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa phổ thông, đổi mới phương pháp dạy học Bộ đã nghiên cứu thí điểm việc đổi mới cách đánh giá, kết hợp với trắc nghiệm nhằm đảm bảo yêu cầu đáng giá khách quan,chính xác kết quả học tập của học sinh.
Bước đầu đổi mới cho thấy việc đổi mới đánh giá có tác động tốt đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy của thầy và khích lệ khả năng tự học của trò.
2. Định hướng nghề nghiệp.
Với cơ cấu dân số trẻ, hàng năm nước ta có 1,3-1,4 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Các chương trình cải cách kinh tế đã và đang làm cho một bộ phận lao động bị dư thừa. ở nông thôn nếu chỉ sử dụng 74% thời gian lao động. Trong khi đó yêu cầu của CNH-HĐH đòi phải có một lực lượng lao động có kỹ thuật giỏi, tay nghề cao nhưng ở Việt Nam thì lại đang thiếu trầm trọng. Thêm vào đó qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến thay đổi cơ cấu lao động đòi hỏi phải thay đổi nghề nghiệp, nơi làm việc mới tạo nên những khó khăn trong việc lựa chọn nghề nghiệp của người lao động. Vấn đề đặt ra là phải nâng cao chất lượng của hệ thống hướng nghiệp và dịch vụ việc làm nhằm thông tin cho người lao động nhất là lao động trẻ.
Một thực tế đào tạo hiện nay cho thấy có khoảng 85% học sinh tốt nghiệp phổ thông không được và đại học nhưng vẫn kiên trì theo đuổi mục tiêu này bởi một lý do chính đáng là cơ hội có được việc làm tốt hơn sẽ cao hơn nếu được đào tạo ở trình độ cao hơn thực tế đang thiếu rất nhiều lao động lành nghề. Do đó ngành giáo dục nước ta cần được phải phân hoá dạy học tích cực gắn với hướng nghiệp cho học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở. Đồng thời phân luồng hợp lý sau khi học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở: đa dạng hoá các loại hình trường phổ thông như công lập, dân lập, bán công và cần quan tâm để có tỷ lệ cân đối giữa số học sinh học lên phổ thông trung học và số học sinh vào trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề. Từ đó góp phần đưa tỷ lệ lao động được đào tạo nghề bằng các hình thức khác nhau trong tổng số lao động nước ta từ 20% hiện nay lên 30% vào năm 2010 và 40% vào 2020.
Việc cung cấp dịch vụ hướng nghiệp và sắp xếp việc làm là một thực tiễn chung, Điều đó được bắt đầu từ đánh giá trong đào tạo nghề ở phổ thông để học sinh có thể tập trung vào nghề và các môn học có liên quan tới nghề nghiệp sau này. Việc này được thực hiện với sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc cung cấp tin mới thích hợp mô tả việc làm và triển vọng của việc làm cũng như các cách đào tạo thông qua các ấn phẩm về hướng nghiệp,xây dựng trang web,thành lập ngân hàng dữ liệu...Các thông tin này phải được quản lý thống nhất và liên kết chặt chẽ giữa nhà nước và các trường,các ttung tâm dịch vụ việc làm.Phải có sự kết hợp chặt chẽ từ giáo dục phổ thông tới các dịch vụ hướng nghiệp với xu hướng phát triển ngành nghề trong tương lai,đặc biệt là kết hợp chặt chẽ với các trường đào tạo nghề.
Như vậy hệ thống hướng nghiệp và dịch vụ việc làm cùng với hệ thống giáo dục dạy nghề trở thành quy trình khép kín dẫn dắt người lao động từ khi lựa chọn nghề nghiệp đến lựa chọn chỗ làm việc một cách khoa học và hiệu quả nhất.Thậm chí nếu hệ thống này được xây dựng và hoạt động tốt góp phần giảm bớt sự mất cân đối nghiêm trọng về cơ cấu ngành nghề,nguyên nhân chính cho việc thừa thiếu lao động ở nước ta hiện nay.
3. Tăng cường đầu tư và sử dụng có hiệu quả trong giáo dục.
Để đảm bảo yêu cầu tối thiểu đổi mới chường trình giáo dục phổ thông ở các cấp học,bậc học ước tính cần khoảng 32370 tỷ đồng chi trong 10 năm(từ 2000 đến 2010) với những ưu tiên khác nhau trong từng thời kì theo tính chất của mỗi loại công việc:
-Chi về xây dựng chương trình sách giáo khoa khoảng 369 tỷ đồng
-Chi về xây dựng trường lớp khoảng 17684 tỷ đồng
-Chi về bổ sung và đổi mới thiết bị dạy học khoảng 14098 tỷ đồng
Thực hiện sự chỉ đạo của chính phủ tại công văn 459/CV-KG ngày 29/4/02 về việc triển khai chương trình giáo dục phát triển mới,Bộ và các địa phương đang khẩn trương xây dựng đề án kiên cố hoá trình Chính Phủ phê duyệt.Theo đề án này toàn ngành sẽ xoá lớp học ba ca vào năm 2003,phấn đấu đến 2004-2005 cả nước không còn phòng học tạm,thực hiện kiên cố hoá trường học theo hướng chuẩn hoá,hiện đại hoá,hoà nhập với khu vực và quốc tế.
Thực hiện song song với đầu tư về vật chất cần phải tăng cường đội ngũ giáo viên.Để đáp ứng yêu cầu về số lượng,ổn định theo vùng,đồng bộ về cơ cấu cần phải:Có dự báo nhu cầu giáo viên ở từng tỉnh,từng môn đào tạo để có kế hoạch đào tạo cho đủ lượng yêu cầu.Đa dạng hoá hình thức đào tạo,đào tạo phát triển theo từng giai đoạn.Có chính sách chế độ bổ nhiệm và phân phối đông bộ sao cho đội ngũ giáo viên có thể hoàn thành được nhiệm vụ dạy học đúng với chuyên môn.Điều đó được chính phủ và Bộ hết sức quan tâm.Chính phủ đã ban hành nghị định số 35/2001/NĐ-CP ngày 9/7/2001 về chính sách đối với nhà giáo,cán bộ quản lý giáo dục ở các trường chuyên biệt ở vùng kinh tế khó khăn.Để triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới tháng 9/2001 Bộ đã xây dựng quy hoạch đào tạo,bồi dưỡng giáo viên,tổ chức hội nghị triển khai kế hoạch bồi dưỡng giáo vien,cán bộ quản lý giáo dục.Kế hoạch thực thi như sau:cần phải quan tâm đồng bộ từ tuyển chọn,đào tạo trong các trường sư phạm,đẩy mạnh công tác bồi dưỡng giáo viên thường xuyên trong các trường phổ thông.Có kế hoạch bồi dưỡng nâng tỷ lệ cán bộ giảng dạy của các trường sư phạm có trình độ sau đại học lên 50% vào năm 2010 để các trường có đủ điều kiện đào tạo đội ngũ giáo viên đáp ứng những đòi hỏi của các trường phổ thông giai đoạn mới.Ưu tiên đầu tư củng cố và nâng cấp các trường sư phạm (đặc biệt các trường ở miền núi).Nâng cao chất lượng tuyển sinh vào các trường sư phạm,có chính sách thu hút những học sinh giỏi,có phẩm chất đạo đức tốt để đào tạo.Đổi mới chương trình đào tạo trong các trường sư phạm.Trường sư phạm phải thực sự cho sinh viên phương pháp tư duy và tri thức khoa học cơ bản và tri thức nghiệp vụ sư phạm.Xây dựng một số trường đại học sư phạm trọng điểm để đào tạo giáo viên có chất lượng cao.Có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với giáo viên từng cấp độ từng vùng.Ngoài ra cần phải đổi mới công tác quản lý giáo dục phổ thông.
III- Đào tạo kiến thức chuyên nghiệp.
1. Chú trọng nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập ở đại học,cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.
Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta là rất dồi dào nhưng chất lượng nguồn nhân lực còn rất thấp kém chưa đáp ứng nhu cầu của xu hướng hội nhập kinh tế và phát triển khoa học kỹ thuật
Mặc dù chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao trong công việc nâng cao chất lượng dạy và học của các trường đạI học và Trung học chuyên nghiệp vẫn được chú trọng, đặc biệt là lực lượng công nhân kỹ thuật trình độ cao đẳng và đại học.
Trước tiên cần đổi mới tổ chức quản lí, giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đạihọc. Bộ giáo dục đào tạo, các cơ quan quản lí Nhà nước tập trung thực hiện chức năng quản lí Nhà nước, xây dựng các chủ trương phát triển, các chế độ chính sách, quy chế về giáo dục kỹ thuật, nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đổi mới quản lí giáo dục theo hướng tăng quyềntự chủ cho các trường đại học và chuyên nghiệp với tăng cường tính chịu trách nhiệm. Về các trường đại học bao gồm các loại hình đại học đa lĩnh vực, đại học đa nghành, đại học mở, đại học công đồng và đại học dân lập. Củng cố các trường Quốc gia và khu vực, nhằm xây dựng một số trung tâm đào tạo chất lượng, uy tín cao dựa trên tiềm năng nổi trội của các cơ sở được lựa chọn sử dụng phương thức đào tạo từ xa, đào tạo và bồi dưỡng tại nơi làm việc, tạo cơ hội làm việc cho mọi người. Nhà nước cần cho phếp các tổ chức và cá nhân nước ngoài có uy tín trong lĩnh vực giáo dục mở trường đại học tại Việt Nam hoặc liên kết với các cơ sở đại học trong nước để đào tạo đại học.
Củng cố hoạt động của các trường đại học, tăng cường vật chấ, trang thiết bị, đội ngũ cán bộ quản lí và giảng viên thông qua hệ thống quản lí chung nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của sinh viên.
Về mạng lưới các cơ sơ giáo dục kỹ thuật và nghề nghiệp, cần hình thành các trường trọng điểm, nhằm mục tiêu đào tạo kỹ thuật viên và công nhân kỹ thuật lành nghề. Nó cần được đầu tư khoảng 25% - 30% Ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp để có thể ngangtầm với một số nước trong khu vực. Lựa chọn các trường trọng điểm nằm ở các địa bàn trọng điểm: Khu vực công nghiệp tập trung có nhu cầu lớn về lao động. Có cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất thuận lợi. Các trường này là các trường đa hệ, đa nghành, có đội ngũ cán bộ quản lí và giáo viên đạt tiêu chuẩn cần thiết như : Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, TP.HCM, Đà Nẵng, ....
Các trường khác: Sẽ do các bộ, nghành, các địa phương quản lí và trước mắt vẫn cần được đầu tư để hoạt động hết công suất. Các trường đào tạo dài hận và ngắn hạn cho các địa phương, trước mắt lựa chọn một số trung tâm dạy nghề có đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất tốt thành các trường dạy nghề. Sau đó tăng số sinh viên tốt nghiệp trung học cơ sở và phổ thông trung học vào các trường dạy nghề, Số này sẽ giảm dần khi nền kinh tế tăng trưởng đáng kể.
* Các loại hình trung tâm dạy nghề :
- Xây dựng mạng lưới trung tâm dạy nghề.
- Phát triển các cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật, trẻ em lang thang cơ nhỡ.
- Xây dựng một số cơ sở dạy nghề lưu động, đáp ứng nhu cầu học tập, nghề nghiệp của các vùng sâu, vùng xa.
Các trường lớp dạy nghề bán công, dân lập, tư nhân cần có chính sách tạo thuận lợi đẻ các doanh nghiệp mở các trường đào tạo nhân lực cho chính mình và cho xã hội. Khuyến khích người nước ngoài, Việt kiều đầu tư xây dựng trường trong nước.
Các loại hình khác chủ yếu để đảm bảo chỉ tiêu 22% -25% qua đào tạo và chủ yếu nhằm vào các khu vực nông thôn vì lao động nước ta tập trung chủ yếu ở nông thôn.
Ngoài ra cần nâng cao đội ngũ giáo viên, chất lượng giảng dạy. Quy hoạch và phát triển đội ngũ, cán bộ giảng dạy, xây dựng tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ giảng dạy ở các trường về các mặt trình độ, chức danh, cơ cấu tuổi tác giơí tính. Soạn thảo và hoàn thiên các quy trình đào tạo tiền nhiệm, sở, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ giảng dậy, đặc biệt chú ý bồi dưỡng cán bộ trẻ, chú trọng bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho giáo viên thực hành, áp dụng phương pháp dậy học tiên tiến. Xây dựng chế độ làm việc, chế độ thính giảng, nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng chuyên môn cho giảngviên tiến tới quy định trình độ thạc sĩ là bắt buộc. Cho những cán bộ giảng dậy ở bậc đại học. Có chế độ lương và phụ cấp thoả đáng để thu hút sịnh viên giỏi ở lại trường làm công tác giảng đậy. Tiếp tục đổi mới quy trình, nội dung, phương pháp đào tạo đại học và giáo dụcnghề nghiệp theo hướng mềm hoá, đa dạng hoá chương trình tạo điều kiện cho liên thông, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Sử dụng công nghệ thông tin vào các phương pháp tiên tiến trong dạy học, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhưng vẫn đảm bảo tính truyền thống kế thừa và phát triển. Bổ xung những nội dung cần thiết theop hướng đảm bảo kiến thức cơ bản, cấp nhật với tiến bộ khoa học - kỹ thuât, công nghệ. Tăng cường năng lực lành nghề, nănng lực tự học của người học, tiến tới hội nhập với chương trình giáo dục, kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đại học của các nước trong khu vực. Quan tâm giao dục thể chất và quốc phòng. Giáo dục lòng yêu nước. Tinh thần tập thể, tác phong công nghiệp trong thanh niên, học sinh - sinh viên.
Phải xác định lại mục tiêu đào tạo lại cho các văn bằng sau đại học. Mục tiêu đào tạo bậc học này là đào tạo chuyên sâu, đào tạo người giỏi, và bồi dưỡng nhân tài cho mọi lĩnh vực khoa học. tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng sau đại học, gắn đào ntạo với sử dụng, tránh tình trạng lãng phí tiền của, thời gian và giảm chất lượng đào tạo. Với trung học chuyên nghiệp và day nghề, Nhà nước cần phải tập trung xây dựng theo hướng: Phần cơ bản cho tất cả các ngành nghề. Một số nghề phổ biến cần có nội dung chuẩn. Phần cơ sở cho một số nghành nghề phổ biến và nghành nghề mũi nhọn. Cần xây dựng một trung tâm xây dựn chương trình. Phương pháp đào tạo phải gắn với sản xuất.
Đa dạng hoá và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Sử dụng có hiệu quả ngân sách Nhà nước, nghiên cứu cải tiến mô hình phân bố ngân sách, chuyển từ mô hình chính sang mô hình phân bổ trọn gói nhằm nâng khuyến khích các trường nâng cao hiệu quả đào tạo như: Giảm chi phí, tăng cường điều kiện cơ sở vật chất và thiết bị cho giảng dậy. Dựa trên có sở chuẩn quốc gia về trang thiết bị, xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm, trạm sản xuất thử với kỹ thuật hiện đại, phục vụ công tác đào tạo nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Tăng cường cách thức chia sẻ chi phí đào tạo bằng cách đóng góp của cộng đồng. Người sử dụng lao động, người học tăng cường khả năng của các cơ sở giáo dục phi công lập. Xây dựng môi trường pháp lí để bảo vệ các trường này. Có điều kiện nâng cao chất lượng. Tranh thủ tối đa sự hỗ trợ tài chính, kỹ thuật của các nước phát triển để phục vụ các chương trình đào tạo chất lượng cao và khuyến khích các trường tham gia vào các dự án hợp tác với nước ngoài. Dành vốn vay của Nhà nước để cử người giỏi đi học ở những nước có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến làm nòng cốt cho sự nghiệp xây dựng lâu dài.
Việc hỗ trợ tài chính cho học sinh, sinh viên được chuyển dần từ học bông sang cho vay. Huy động các lực lượng trong xã hội hỗ trợ. Xem xét và quy định các mức học phí thích hợp, vừa giảm bới được các gánh nặng cho Nhà nước vừa khuyến khích học sinh, sinh viên.
Liên kết chặt chẽ đào tạo, nghiên cứu khoa học và sản xuất. Nhà nước phát huy tiềm năng của đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao, cơ sở vật chất đã có để nâng cao chất lượng đào tạo, đưa khoa học kỹ thuất tiến bộ vào chương trình. Chú trọng đào tạo các lực lương lao động có chuyên môn kỹ thuật cùng với công nghệ cao trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, vừa chuyển giao công nghệ, vừa tạo điều kiện vật chất bổ sung cho đào tạo, xây dựng và thực hiên, gắn đào tạo với sử dụng. Quy định cho những người có bằng hoặc chững chỉ đào tạo nghề mới được hành nghề. Có đền bù chi phí khi người được đào tao không làm đúng cam kết sau khi tốt nghiệp. Thực hiện nguyên lý gắn đào tạo với sản xuất, quá trình đào tạo phải gắn với cơ sản xuất để một mặt tận dụng trang thiết bị, công nghệ sẵn có, mặt khác giúp cho họch sinh quen với vị trí lao động sau này.
2. Sử dụng có hiệu quả nguốn nhân lực có tri thức chuyên môn
Xuất khẩu lao động và chuyên gia được coi là mũi nhọn làm giàu cho đất nước, hoàn thiện tay nghề cho người lao động, xây dựng lực lượng lao động cho sự nghiệp CNH-HĐH và chống tụt hậu xa hơn về kinh tế, kỹ thuật. Tư tưởng lớn nhất, cái gốc của đổi mới tư duy, đó là giải phóng sức sản xuất. Phát huy mọi tiềm năng sức lao động, khơi dậy tiềm năng của mỗi người và cả cộng đồng. Tư tưởng đổi mới này là cơ sở định hướng cho cuộc cách mạng trong lĩnh vực lao động và việc làm. Trong khi đó thức trạng cơ cấu lao động của Việt Nam: Lao động chủ yếu trong nghành nông nghiệp ( Chiếm hơn 60% ) chuyển dịch cơ cấu diễn ra rất chậm. Nguồn lực phát triển phân bố không đồng đều giữa các vùng. Tốc độ tăng lực lượng lao động nhanh. Nước ta đang thiếu hụt nghiêm trọng lao động kỹ thụât cao thuộc các nghành kinh tế mũi nhọn, lao động thay thế các vị trí lao động của nước ngoài đang làm. Mặc dù có nguồn lao động dồi dào nhưng thực trạng về trình độ, chất lượng, còn thấp và sử dụng chưa hiệu quả. Vậy Nhà nước và giáo dục phải có những biện pháp tích cực để khắc phục. Đại hội Đảng IX đã xác định phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với chuyển dịch cơ cấu lại nền kinh tế. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm có hiệu quả, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đa dạng hoá loại hình đào tạo, linh hoạt năng động, thiết thực, quy hoạch các cơ sở dạy nghề công nghệ kỹ thuật cao. Đáp ứng yêu cầu các nghành kinh tế mũi nhọn, khu công nghiệp tập trung, khu vực xuất khẩu lao động và chuyên gia. Phấn đấu đến năm 2005 tỷ lệ lao động trình độ cao chiếm 15% lực lượng lao động. Tuyên truyền cho mọi người về nghề nghiệp nhằm định hướng lại giá trị xã hội với nghề nghiệp, trọng dụng người thợ có tay nghề chuyên môn kỹ thuật cao.
Để phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế cùng thế giới đòi hỏi phải có nhiều cách phát huy người tài mạnh mẽ hơn, sáng tạo hơn, cả tài nănng cá nhân và tài năng tập thể, đồng thời tránh thất thoát chất xám.
Nguồn lao động dồi dào, chuyển dịch cơ cấu, thay đổi hướng đầu tư trong các doanh nghiệp đã dẫn tới dôi dư lao động. Để giải quyết vần đề này cần kết hợp giải quyết lao động dôi dư với các chương trình, mục tiêu quốc gia về việc làm. Tổ chức tốt các chương trình hỗ trợ việc làm. Các trung tâm dịch vụ việc làm và đẩy mạnh xuất khẩu lao động, quan tâm đầu tư phát triển thị trường lao động. Tạo cơ chế chính sách thuận lợi hơn nữa để Nhà nước, xã hội và mỗi người dân tự mở mang việc làm. Sớm ban hành chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Đặc biệt chú ý đến phương án đầu tư phát trriển sản xuất, kinh doanh sao cho sử dụng triệt để số lao động có được. Đồng thời phải khuyến khích hơn nữa về quyền lợi để các doanh nghiệp thu hút càng nhiều lao động thì càng được ưu đãi, củng cố lòng tin của người lao động bằng những lợi ích riêng của người lao động.
3. Tăng cường hợp tác quốc tế
Tăng cường hợp tác quốc tế là một trong những hướng chién lược để tận dụng nguồn tài chính, cơ sở vật chất, công nghệ cao, chuyên gia giỏi cho công tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ vào giáo dục đào tạo. Đầu tư cho giáo dục, kỹ thuật nghề nghiêp rất tốn kém, vì vậy cần tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.
Nhà nước cần có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào việc xác định lại mục tiêu, đào tạo cho văn bằng sau đại học như thạc sĩ, tiến sĩ,khuyến khích các cơ sở đào tạo với nước ngoài để nhanh chóng hoà nhập tiếp cận với chuẩn đào tạo khu vực và thế giới cũng như tham gia vào đào tạo nhân lực cho các nước trong khu vực. Vay vốn của ADB, của WB, các tổ chức quốc tế các nước để phát triển giáo dục nghề nghiệp . Tranh thủ các dự án viện trợ kể cả các dự án tư vấn phát triển nghành nghề để xây dựng hệ thống chính sách động bộ và đưa công tác thông tin quản lí vào nề nếp, Trao đổi học tập kinh nghiệm của các nước trong khu vực, các nước công nghiệp phát triển.
Chính phủ và Bộ LĐTBXH có chủ trương xuất khẩu lao động nhằm giải quyết công ăn việc làm cho lao động trong nước, góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước, đáp ứng nhu cấu cấp bách về lao động của các doanh nghiệp nước ngoài. Thực hiện xuất khẩu lao động phải đảm bảo nghiêm túc theo đúng quy định có cơ cẩu tổ chức, hoạt động chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Tăng cường mối quan hệ, sự hợp tác giữa chính phủ Việt Nam với nước ngoài để tiếp tục tăng các hợp đồng xuất khẩu lao động. Ngoài ra chúng ta cần phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng cho lực lượng lao động, đồng thời kết hợp với tuyển chọn chặt chẽ, công khai để có được nguồn lao động xuất khẩu đáp ứng được yêu cầu của các nước nhập khẩu lao động.
Với cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng chưa phát triển là khó khăn cho việc đào tạo nguồn nhân lực. Vì vậy tăng cượng hợp tác với nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm, khuyến khích đàu tư xây dựng trường, trung tâm dậy nghề hoặc cùng hợp tác với nước ngoài xây dựng để tiếp thu được những kiến thức, mặt bằng của các nước tiên tiến để ngày càng nhanh chóng bắt kịp với chất lượng lao động thế giới, đáp ứng nhu cầu hiện nay của nền kinh tế đất nước.
kết luận
Cùng với dòng chảy của thế giới,Việt Nam cũng đang từng bước đưa nền kinh tế đi tới những đích cao hơn.Nguồn nhân lực Việt Nam cũng đang đứng trước thách đòi hỏi mới của thời đại.Tất cả đều vận động không ngừng với tốc độ cao hơn,liên hoàn hơn.Trong suốt quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chúng ta đã thu được không ít thành tựu,song bên cạnh đó vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế.Để phát huy những thành quả đạt được và khắc phục những khó khăn thì Đảng và Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Để có một nguồn nhân lực có sức khoẻ và thể lực tốt,đồng thời thích hợp với xu thế cạnh tranh và hội nhập,Nhà nước cần tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế,cải tiến chế độ tiền lương,diều chỉnh thu nhập bất hợp,các vùng.Đồng thời Nhà nước nên chú trọng đến đào tạo nghề hơn nữa để bảo đảm sự cân đối giữa những người có trình độ đại học và công nhân lành nghề.Đảng và Nhà nước cần chi thêm nguồn kinh phí cho cơ sở hạ tầng của giáo dục và đào tạo đã và đang xuống cấp hiện nay đặc biệt là trang thiết bị,thư viện,tài liệu phục vụ học sinh,sinh viên.Đối với mỗi học sinh,sinh viên thì phải tự mình trau dồi kiến thức,tu dưỡng bản thân để trở thành những người có đủ phẩm chất,đạo đức,trình độ bước vào xây dựng đất nước trong giai đoạn hội nhập.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình KTLĐ-trường ĐHKTQD
2. Tạp chí Cộng Sản :số 7/99;4/00;6/02
3. Tạp chí Châu á Thái Bình Dương :số 3/02;số5/02
4. Tạp chí Lao Động Xã Hội:số 187, 188,191,192,198/02
5. Tạp chí Lý Luận Chính Trị :số 4/01
6. Tạp chí Nghiên Cứu Kinh Tế:số 5/00;số 6/00
7. Tạp chí Kinh Tế và Dự Báo:số 10/99
8. Toàn cầu hoá kinh tế -NXBKHXH-2001
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35299.doc