Sự phát triển nhanh, mạnh, vững chắc của Việt nam đã và đang khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Nó vừa đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng sau nhiều năm chiến tranh, vừa góp vào sự ổn định và thịnh vượng chung của khu vực. Bằng nỗ lực của chính mình và cùng với sự giúp đỡ và hợp tác của bạn bè trên thế giới, chúng ta tin tưởng rằng Việt nam sẽ xây dựng được một đất nước giàu mạnh, góp phần vào việc tăng cường hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển ở Châu á cũng như trên toàn thế giới.
Xây dựng Việt nam đang là một ngành cần phải chú ý và là một trong những ngành phát triển nhất Việt nam hiện tại để phục vụ cho quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng cho quá trình CNH-HĐH đất nước. Việc tìm ra hướng đi phù hợp cho các doanh nghiệp xây dựng trong quá trình cạnh tranh tự do này là một yếu tố rất cần thiết cho xu hướng phát triển của xã hội.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng Đấu thầu ngành xây dựng Việt nam. Đề tài đã cho chúng ta thấy được một cái nhìn tổng quan nhất về ngành và từ đó đưa ra được những giải pháp kịp thời để góp phần đưa công ty xây dựng Hồng Hà thành một doanh nghiệp xây dựng vững mạnh, cạnh tranh được với các nhà thầu trong khu vực và trên thế giới.
92 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1715 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đấu thầu và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu tại công ty xây dựng Hồng Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để công ty có thể đánh giá một cách chính xác hiệu quả công tác đấu thầu của mình.
Thứ hai: Nâng cao chất lượng công trình.
Trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. Trong đấu thầu thì cạnh tranh giữa các nhà thầu là hết sức khốc liệt và để giành được thắng lợi thì các nhà thầu phải thể hiệu sức cạnh tranh của mình thông qua chất lượng công trình, tiến độ thực hiện dự án, giá thành công trình và nhiều yếu tố khác. Vì vậy thông qua hình thức đấu thầu các nhà thầu lựa chọn được các giải pháp kỹ thuật cho công trình một cách tối ưu mà bản thân bên mời thầu không nghĩ ra, đem lại hiệu quả cao hơn cho dự án. Mặt khác khi nhà thầu đã giành được hợp đồng thì họ phải thực hiện dự án theo đúng yêu cầu về chất lượng và tiến độ, nếu không sẽ ảnh hưởng đến uy tín của nhà thầu đó. Hơn nữa do sự rằng buộc trong hợp đồng khiến cho nhà thầu phải luôn luôn bám sát theo hợp đồng từ đó chất lượng cũng như tiến độ luôn được theo dõi và giám sát chặt chẽ đảm bảo được yêu cầu của bên mời thầu mà cụ thể là công ty xây dựng Hồng Hà, đồng thời nó cũng mang lại tính khả thi hơn cho dự án bởi vì tính khả thi của dự án do nhiều yếu tố kết hợp lại như giải pháp kỹ thuật, biện pháp thi công, phương pháp bố trí thực hiện, khả năng về vốn, nguồn vốn, lao động, tiến độ thực hiện và kết quả này đã phần nào đã thực hiện trong các năm qua tại công ty.
Thứ ba: Đấu thầu mang lại tính minh bạch cho dự án đầu tư
Do các đối tác tham gia thực hiện mọi nguồn vốn đều thông qua những thoả thuận hợp đồng kinh tế và có sự giám sát của các bên, bao gồm các phòng ban liên quan, ban giám đốc và tổng công ty xây dựng Sông Hồng. Thông qua đấu thầu thì các dự án được trình bày công khai đảm bảo không bị lạm dụng vốn của công ty để nhằm vào các mục đích riêng của các cán bộ trong công ty.
Thứ tư: Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ
Thông qua các cuộc đấu thầu, đội ngũ cán bộ có liên quan đã tiếp thu được những kiến thức cũng như kinh nghiệm trong nước và quốc tế, được tôi luyện học hỏi phong cách làm việc của các tổ chức quốc tế. Có thể xem việc tổ chức mỗi gói thầu là một bài học kinh nghiệm cho cán bộ công ty để áp dụng cho các gói thầu sau. Không thể lượng hoá được hiệu quả do gói thầu đem lại dưới góc độ nâng cao trình độ cán bộ một cách chính xác nhưng chúng ta có thể thấy được hiệu quả đó thông qua hiệu quả tài chính đấu thầu về mặt chi phí hay nói cách khác là hiệu quả liên đới, hiệu quả dây truyền đối với các gói thầu sau.
* Xét trên góc độ đóng góp cho nền kinh tế - xã hội.
Khi tổ chức đấu thầu công ty xây dựng Hồng Hà luôn đứng ra với tư cách là chủ đầu tư, tức là đơn vị bỏ vốn tuyển chọn người có năng lực để thực hiện việc sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả nhất. Nhưng đây là một doanh nghiệp nhà nước có phạm vi hoạt động rộng lớn do vậy mà có thể hiểu chủ đầu tư ở đây cũng chính là nhà nước, hiệu quả kinh tế xã hội cũng được đặt ra là một mục tiêu song song với hiệu quả tài chính: đó là đáp ứng chất lượng các công trình xây dựng, giải quyết công ăn việc làm nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, nâng cao năng lực xây dựng công trình trên cơ sở vốn đầu tư mà đơn vị đã sử dụng.
Thứ nhất đấu thầu góp phần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu. Thứ hai góp phần phát triển hoạt động đấu thầu nước nhà. Thứ ba tăng năng lực phục vụ và khả năng đáp ứng nhu cầu cơ sở hạ tầng: Khoa học và tiết kiệm nguồn lực. Cùng những đóng góp khác cho xã hội mà chúng ta khó định lượng được giá tri thực tế của nó.
2. Những tồn tại trong quá trình tổ chức đấu thầu của công ty
Bên cạnh những hiệu quả đấu thầu mang lại còn nhiều tồn tại nhiều yếu tố làm suy giảm tính hiệu quả vốn có của nó. ở đây ta xem xét cả những vấn đề tồn tại nói chung trên tầm vĩ mô và cả những vấn đề tại đơn vị để thâý rõ những gì đang quan tâm ở cả hai phía khách quan và chủ quan.
2.1. Những tồn tại nói chung.
2.1.1. Trên góc độ khách quan.
* Hành lang pháp luật:
Có thể nói pháp luật là vấn đề chung nhất mà bất cứ hoạt động trong cơ chế hiện nay đều phải quan tâm. một hệ thống pháp luật ổn định chặt chẽ và thống nhất sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động khác phát triển. Riêng về đấu thầu kể từ khi bắt đầu xuất hiện đã có không ít văn bản, quy chế…dành riêng cho lĩnh vực này. tuy nhiên, vấn còn nhiều vấn đề phải xem xét lại trong các quy luật đó. Vấn đề đầu tiên nằm trong quy chế đấu thầu.
- Trong quy chế đấu thầu hiện hành ban hành kèm theo NĐ 88/CP dù đã có thông tư hướng dẫn nhưng vẫn cong nhiều vướng mắc chưa được hướng dẫn một cách cụ thể phản ánh hết những nảy sinh trong thực tế gây nhiều lúng túng cho các cấp trong quá trình thi hành. Đó cũng là cơ sở cho những hoạt động không lành mạnh tông tại và tính chất không chặt chẽ dễ bị hiểu sai một cách cố tình nhiều nội dung đang đặt ra về vấn đề này như quy định đối tượng áp dụng, phân cấp theo hướng tự chịu trách nhiệm trong đấu thầu, các biện pháp chế tài ngăn chặn các vi phạm trong đấu thầu, ví dụ các chế tài xử lí vi phạm quy chế đấu thầu bằng vật chất cũng như các hình thức khác, xử lí các tình huống chào giá quá thấp, đền bù khi huỷ thầu, giải quyết khiếu nại trong đấu thầu …
- Việc quy định chủ đầu tư phải trình duyệt các bước tổ chức thực hiện dự án như nghị định 52/CP và 12/CP là tương đối rườm rà và làm giảm hẳn tính chủ động, trách nhiệm chủ đầu tư trước quyết định đầu tư và cơ quan pháp luật.Theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng đấu thầu phải thực thi trong khuôn khổ đã định sẵn mà không thể khác được. Ngay đến giá trúng thầu ( một trong những tiêu chí quan trọng của đấu thầu ) cũng không được vượt quá tổng mức đầu tư, tổng dự toán hay dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Còn chưa xây dựng tiêu chuẩn năng lực nhà thầu Việt nam.
Trong những năm gần đây, khối lượng đầu tư đặc biệt là đầu tư nước ngoài tăng lên rõ rệt, nhiều công trình quy mô có công nghệ kĩ thuật mới được triển khai mà các nhà thầu nước ngoài đã được cấp giấy phép đấu thầu. Tuy nhiên, chúng ta thiếu hẳn các quy định về tiêu chuẩn năng lực nhà thầu, do đó chủ đầu tư gặp những gói thầu mà các nhà thầu Việt nam không đủ năng lực tham dự. Đồng thời, các nhà thầu Việt nam cũng không biết xác định tiêu chuẩn nào để tham gia dịch vụ ở các nước khác. Đây là một vấn đề cần xem xét sớm khi đất nước gia nhập ASEAN và tiến tới gia nhập WTO.
* Sự thiếu thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Hiện tượng có quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về mọi khía cạnh hoạt động của nền kinh tế nói chung đã dẫn đến tình trạng các văn bản chồng chéo, không thống nhất gây khõ lhăn cho người thực hiện. Trong lĩnh vực đấu thầu ngoài quy chế đấu thầu TTCP còn có một số văn bản khác cũng quy định về đấu thầu như Quy chế Quản lí đầu tư và xây dựng, quy chế mua bán tàu biển…điều này thực sự đã trở thành lực cản để công tác đấu thầu đạt đến mục tiêu tốt đẹp đặt ra ban đầu.
2.1.2. Về góc độ chủ quan.
* Bên mời thầu:
Thực tế vì nhiều lí do khác nhau mà sự hiểu biết về quy chế đấu thầu của một số cán bộ còn hạn chế, điều này vừa gây khó khăn cho quá trình thực hiện vừa hiện tại cho bên mời thầu.
Một số cán bộ quản lí, cán bộ tham gia vào công tác đấu thầu còn yếu trong nhiều khâu. Một phần vì hậu quả để lại của quá trình chuyển đổi kinh tế, một phần do đội ngũ cán bộ còn non trẻ.
Ngoài ra việc tổ chức hướng dẫn thực hiện quy chế đấu thầu chưa thật sâu rộng và chưa thành hệ thống. Nội dung tài liệu hướng dẫn chưa thật đầy đủ và bám sát nội dung quy chế đấu thầu hoặc chưa phản ánh được đặc thù của lĩnh vực, ngành mình.
* Nhà thầu:
Trình độ các nhà thầu của Việt nam nhìn chung chưa cao, họ khó thắng thầu trong các gói thầu lớn và kĩ thuật phức tạp, vì vậy nhiều dự án ta phải phụ thuộc các nhà thầu lớn, điều này gây ra nhiều hạn chế cho các nhà thầu nhỏ ở Việt nam.
Một tư tưởng nặng nề của các nhà thầu là tìm mọi cách để thắng thầu, tình trạng này dẫn đến dự án đầu tư không thực hiện đúng tiến độ, chất lượng công trình không được đảm bảo gây thiệt hại cho chủ đầu tư.
Ngoài ra, vẫn còn tồn tại hiện tượng các nhà thầu cấu kết với nhau làm cạnh tranh diễn ra không lành mạnh, gây thiệt hại cho các bên mà thiệt hại hơn cả là bên mời thầu cả về vốn và cả về chất lượng công trình.
2.2. Những tồn tại tại công ty.
Trong suốt những năm qua được sự chỉ đạo sát sao của ban Giám đốc công ty, sự quan tâm của Tổng công ty xây dựng Sông Hồng và sự nỗ lực của các đơn vị xây dựng, công tác đấu thầu ở công ty đã có nhiều tiến bộ góp phần mang lại lợi ích cho công ty, Tổng công ty và toàn bộ nền kinh tế. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại thiếu sót mà công ty cần phải quan tâm nhiều hơn nữa để phát huy vai trò của mình,
* Về công tác chuẩn bị trước khi phát hành Hồ sơ mời thầu.
Đây là cơ sở pháp lí quan trọng đối với các cuộc thảo thầu, trước khi nghiệm thu Hồ sơ mời thầu do tư vấn lập cần kiểm tra kĩ chất lượng hồ sơ nhưng có đơn vị quên không sửa lại theo Hồ sơ mời thầu đã được duyệt mà vẫn phát hành, khi xét thầu lại không căn cứ vào Hồ sơ mời thầu đã phát hành mà lại dựa vào bản thiết kế Hồ sơ mời thầu thì nội dung đó phải được cấp thẩm quyền chấp nhận bằng văn bản và phải được gưỉ tới các nhà thầu trước ngày mở thầu. Có trường hợp khi thẩm định kết quả xét thầu công ty mới biết có sự thay đổi trong Hồ sơ mời thầu …ngoài ra còn hiện tượng bán Hồ sơ mời thầu sai quy định thời gian hoặc không đủ Hồ sơ mời thầu để bán cho các nhà thầu.
* Mở thầu:
Mở thầu công khai là việc cần thiết bắt buộc của mỗi nhà thầu, khi mở thầu phải tuôn thủ theo các trình tự đã được quy định nhưng một số đơn vị thực hiện chưa tốt. Có một số trường hợp khi chưa nhận được tiêu chuânt xét thầu vẫn cho mở thầu mà lẽ ra chủ nhiệm điều hành dự án đòi hỏi phê duyệt tiêu chuẩn xét thầu hoặc công ty xây dựng Hồng Hà. một số biên bản nội dung ghi chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, rồi khi mở thầu mới phát hiện ra. Thậm chí còn có quên lấy chữ kí của nhà thầu mà dẫn đến phải đàm phán lại.
* Xét thầu:
- Ngay sau khi mở thầu đơn vị phải niêm phong hồ sơ sự thầu để gửi ngay cấp trên kèm theo báo cáo mở thầu nhưng một số đơn vị chưa thực hiện khi công ty kiểm tra mới nộp, thậm chí khi nộp không còn bộ hồ sơ niêm phong.
- Đánh giá bước 1 (vòng sơ bộ) xem xét chủ yếu các vấn đề pháp lí nhiều hơn đơn vị không nghiên cứu kĩ vấn đề này nên vẫn để lọt vào vòng sau, những nhà thầu là đơn vị hạch toán phụ thuộc không có uỷ quyền của cấp trên.
- Trong đăng ký kinh doanh chứng chỉ hành nghề không có nội dung hành nghề theo Hồ sơ mời thầu.
- Đơn dự thầu người ký không đủ tư cách pháp nhân, không có thời hạn hiệu lực của hồ sơ dự thầu hoặc thời hạn không đủ theo quy định của quảng cáo đấu thầu hiện hành.
- Kiểm tra lỗi số hoạc và sai lệch các việc cần thiết trong vòng sơ bộ, có những cuộc nhà thầu A khi mở thầu có giá trị thầu thấp nhất nhưng khi kiểm tra lỗi số học nhà thầu khác lại có giá trị thấp hơn. nhiều đơn vị khi kiểm tra lỗi số học không trao đổi nhà thầu để xác định nhà thầu cuối, như vậy số kiểm tra chưa có cơ sở để xem xét.
- Trong quá trình xét thầu việc trao đổi với các nhà thầu để làm rõ những điều chưa rõ ràng là cần thiết, song cần nghiên cứu kĩ cần làm rõ điều gì đó có đúng quy định của pháp luật hay không. Có những trường hợp tổ chuyên gia đòi hỏi nhà thầu khẳng định lại về giá trị bỏ thầu đã được ghi biên bản công khai về giá trị bỏ thầu trong khi giá bỏ thầu đã không bỏ lỡ cơ hội trả lời sai với nhà thầu khi mở thầu khi họ biết giá bỏ thầu thấp có khả năng trúng thầu, mà trúng thầu thì thi công chắc không hiệu quả thậm chí sẽ lỗ. Như vậy, theo quy định nhà thầu sẽ bị loại mà không bị mất tiền bảo lãnh dự thầu.
- Có những trường hợp tổ chuyên gia đòi hỏi quá về đơn giá chi tiết và dưa trên trả lời các nhà thầu để đánh trượt lhông theo quy định nào hết.
- Trong vòng chấm chi tiết:
+ Các nhà thầu theo nguyên tắc phải chỉ rõ cụ thể địa chỉ khai thác nguồn vật tư thiết bị, trong hay ngoài nước, nhà máy nào, tiểu chuẩ ra sao… có như vậy thì sau khi xét thầu mới có sự thay đổi chủng loại quy cách.
+ Tiếp thu nhanh các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu
+ Quan tâm hơn nữa về công tác đào tạo cán bộ về đấu thầu
+ Kiện toàn bộ máy quản lí công tac đấu thầu từ Tổng công ty đến từng đơn vị đảm bảo tính công bằng và khách quan cho các cuộc đấu thầu
+ Đào tạo và tuyển dụng các chuyen gia về đấu thầu có trình độ chuyên môn cao phục vụ cho công tác đấu thầu.
* Công ty - một số nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đấu thầu.
- Thứ nhất, việc lập giá dự thầu còn chưa sát thực tế, vấn đề lựa chọn mức giá bỏ thầu còn chưa linh hoạt làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty.
- Thứ hai, công ty có một năng lực mạnh về máy móc, thiết bị nhưng việc sử dụng không hiệu quả khối lượng máy móc thiết bị, này dẫn đến chi phí thi công bị tăng lên, hạn chế công ty đưa ra mức giá dự thầu hấp dẫn.
- Thứ ba, vốn lưu động của công ty luân chuyển chậm, hạn chế công ty mạnh dạn đưa ra những biện pháp cạnh tranh trong đấu thầu.
- Thứ tư, công ty xây dựng Hồng Hà chưa thực sự tận dụng hết nguồn vốn hỗ trợ từ tổng công ty khi đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác công ty luôn được sự quan tâm của các chuyên viên có nhiều năm kinh nghiệm ở nước ngoài, sẵn sàng tư vấn, giúp đỡ những sự khai thác này là chưa triệt để đứng về phía công ty xây dựng Hồng Hà
- Thứ năm, tuy quản lý rủi ro dự án đã được cán bộ lãnh đạo công ty đưa vào nhằm trợ giúp đưa ra dự toán hợp lý. Song vấn đề này chưa được sự quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó.
Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu của công ty xây dựng Hồng Hà
I. Phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới
1. Định hướng mục tiêu, chiến lược của ngành xây dựng Việt Nam
Với mục tiêu năm 2020 đất nước ta trở thành một nước công nghiệp thì ngành xây dựng luôn phải đi hàng đầu để tiếp nhận các cơ hội cũng như. Trên cơ sở nắm vững những công nghệ cơ bản, trong thiết bị mới và áp dụng thành thạo những công nghệ tiên tiến, hiện đại tạo ra được những năng lực cần thiết để có thể có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Các Tổng công ty, công ty dần tự cổ phần hoá và tạo ra sự cạnh tranh trong đấu thầu đi tới tổng thầu (EPC).
Trong điều kiện cụ thể của nước ta. Cơ sở hạ tầng còn thấp kém đòi hỏi ngành xây dựng phải nỗ lực mạnh mẽ tạo ra một cơ sở hạ tầng vững chắc để tiếp nhận những thách thức mới. Chúng ta không những chú trọng các công trình lớn mà phải đi sâu vào thực trạng của đất nước.
- Quy hoạch sắp xếp lại ngành xây dựng trong cả nước. Trên nguyên tắc đặt lợi ích tổng thể của nền KTQD lên lợi ích cục bộ của ngành vùng, địa phương. Sắp xếp và sát nhập các Công ty tạo ra sự chuyên môn hoá dựa trên năng lực của từng Công ty với những công nghệ sẵn có để nâng cao hiệu quả thắng thầu trong và ngoài nước.
- Phải xây dựng được một kế hoạch phát triển cụ thể ngành xây dựng Việt Nam. Trong đó xác định cụ thể được các giai đoạn phát triển, các mục tiêu bắt buộc phải đạt được qua các thời kỳ. Cụ thể đến năm 2005 nước ta phải đầu tư xây dựng và hình thành các tổng thầu (EPC). Xây dựng các Tổng công ty xây dựng có phương pháp cạnh tranh lành mạnh dựa trên quy mô và năng lực của công ty. Đến năm 2010 đất nước ta tương đối hoàn thiện các cơ sở hạ tầng, và các Tổng công ty có từ các năng lực để thắng thầu trên thế giới.
- Rà soát lại cơ cấu đầu tư để có một cách hợp lý thoả đáng cho ngành xây dựng Việt Nam. Đào tạo năng lực cán bộ chuyên môn sâu cũng như nghiên cứu tạo ra được máy móc thiết bị công nghệ phù hợp với năng lực ngành xây dựng Việt Nam.
2. Các mục tiêu, chiến lược của Công ty xây dựng Hồng Hà.
2.1. Mục tiêu từ nay đến 2005:
Công ty xây dựng Hồng Hà tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đảm bảo thực hiện các mục tiêu các công trình mà Tổng công ty giao cho và các công trình đầu tư của Công ty căn cứ kế hoạch định hướng 5 năm 2001 – 2005 của Tổng công ty.
Cụ thể: Tổng giá trị sản xuất hàng năm phải tăng khoảng 35% so với năm trước, mức doanh thu tăng 30%, các khoản nộp Nhà nước là tăng 18%, lợi nhuận tăng khoảng 15% và thu nhập bình quân / đầu người/ tháng là 13%.
Mở rộng đầu tư phát triển của Công ty cũng như đầu tư hiệu quả lĩnh vực xây dựng cơ bản. Nhanh chóng lựa chọn, xây dựng chính quy một tổ chức trong việc tính thầu, đánh giá thầu xây lắp một cách hiệu quả với cơ chế, tổ chức và cán bộ hợp lý để tổ chức này hoạt động có hiệu quả, góp phần tích cực trong việc làm qua đấu thầu và thắng thầu.
- Mua sắm, cải tạo căn bản một số thiết bị cần thiết cho xây lắp như cần trục tháp, trạm trộn bê tông công suất lớn với các trang thiết bị định hướng tự động, xe vận chuyển bê tông, hệ thống cốt pha thép, giàn giáo máy trắc đạo, công cụ cầm tay.
2.2. Mục tiêu chiến lược năm 2003.
Từ mục tiêu chung của Tổng Công ty, nhiệm vụ của công ty trong thời gian tới là tổ chức vận động Công nhân viên chức lao động thi đua thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đơn vị: thực hiện tốt các chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến nghĩa vụ và tập thể người lao động, đảm bảo việc làm từng bước nâng cao đời sống cho CBCNV. Phát huy quyền làm chủ tập thể của người lao động, tham gia quản lý doanh nghiệp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công nhân viên chức lao động vững về chính trị, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, đẩy mạnh các hoạt động xã hội, nhân đạo từ thiện, tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ đoàn viên vận động cán bộ nhân viên – lao động tham gia xây dựng Đảng – xây dựng công ty và tổ chức công đoàn vững mạnh.
* Nhiệm vụ cụ thể trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị năm 2003 với các chỉ tiêu.
+ Giá trị sản lượng: 90 tỷ đồng tăng 30% so với 2002
+Doanh thu: 70 tỷ đồng tăng 30%
+ Lợi nhuận: 600 triệu
+ Nộp ngân sách 3.692 triệu tăng 14%
+ Lương bình quân 1.150.000đ/ tháng
* Đẩy mạnh các phong trào thi đua lao động giỏi. Phong trào luyện tay nghề thi thợ giỏi “đảm bảo và nâng cao chất lượng công trình sản phẩm”.
*Tất cả các công trình có trị giá từ 5 tỷ trở lên đều đăng ký công trình đạt chất lượng cao ngay từ khi khởi công.
* Các chỉ tiêu đăng ký và phấn đấu đạt các danh hiệu cụ thể như sau:
+ Tập thể lao động xuất sắc: 1
+ Tập thể lao động giỏi: 2
+ Chiến sĩ thi đua cơ sở: 2 -3 người
+ Thực hiện ký kết thoả ước lao động và hợp đồng lao động
+ Xây dựng nội quy lao động của đơn vị.
* Tổ chức khám sức khoẻ hàng năm.
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu của công ty xây dựng Hồng hà
Đứng trước sự phát triển đất nước về cơ sở hạ tầng, các công ty xây dựng được thành lập ngày càng tăng và phát triển. Công trình xây dựng thì có hạn, vì vậy đấu thầu xây lắp ngày nay không còn là thủ tục thuần túy mà đã trở thành một vấn đề quan trọng mang tính cạnh tranh trong các DN xây dựng. Bất kỳ một công ty xây dựng nào giải quyết được thành công vấn đề đấu thầu là giải quyết được vấn đề có việc làm, có lợi nhuận và sẽ phát triển.
Dù công ty xây dựng Hồng Hà đã có nhiều có gắng trong công tác đấu thầu song vẫn còn một số hạn chế. Do đó, để nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu công ty cần có một số giải pháp sau:
Giải pháp 1: Tham gia hiệp hội các nhà thầu
Trên thực tế hiện nay ở Việt Nam vấn đề đấu thầu còn mang tính hình thức. Vì vậy, một mình độc lập đơn phương hoạt động trên thị trường để dành lấy công
trình là một việc vô cùng khó khăn. Bởi vì một công trình xây dựng thường thông báo là đấu thầu rộng rãi. Như vậy số lượng đơn vị muốn tham gia đấu thầu là rất nhiều, để thắng thầu đòi hỏi công ty phải có một năng lực đặc biệt mạnh nhằm đưa ra mức giá thầu thấp nhất. Mặt khác, các nhà thầu sẽ kèn cựa nhau làm cho giá dự thầu giảm xuống dẫn đến lợi nhuận sẽ rất thấp.
Khi tham gia hiệp hội các nhà thầu thì ta hiểu với nhau rằng ở đây sẽ có sự thương lượng, góp phần giảm được khả năng cạnh tranh của đối phương trong giới hạn một số công trình, giá dự thầu có thể sẽ được nâng lên hàng loạt.
Việc tham gia hiệp hội các nhà thầu nhằm tạo ra sự thống nhất về giá dự thầu (về phía người bán hàng) để luôn đảm bảo mức lợi nhuận an toàn cho đơn vị thắng thầu. Tránh được cơ bản tình trạng các đơn vị dự thầu họ giảm giá dự thầu xuống mức thấp nhất gây nên tình trạng giá sản xuất xuống mức quá thấp. Điều này có lợi cho chủ đầu tư nhưng hạn chế sự phát triển của các nhà thầu
Việc tham gia hiệp hội các nhà thầu, tuy nhiên không phải sự thống nhất các nhà thầu mà nó chỉ phục vụ cho việc thống nhất giới hạn giá có thể chấp nhận được phía các nhà thầu nhưng nó vẫn có sự cạnh tranh bình thường giữa các đơn vị tham gia đấu thầu. Vì vậy mối quan hệ giữa các đơn vị không phải là mối quan hệ mở và chỉ được thông qua những người có trách nhiệm, chỉ trao đổi trong giới hạn nhằm bảo vệ thông tin khác sẽ đưa ra trong Hồ sơ dự thầu.
Giải pháp 2: Đẩy mạnh công tác tiếp thị
Khi thị trường xây dựng không còn mở ra dễ dàng cho các doanh nghiệp thì hoạt động marketing đóng vai trò quan trọng. Trong thời gian qua công tác tiếp thị, đặc biệt là chính sách khuyếch trương, giao tiếp của công ty còn hạn chế. Do vậy để đáp ứng tình hình phát triển của thị trường đòi hỏi phát triển của công ty. Công ty cần:
- Hoàn thiện quy chế tiếp thị nội bộ trên cơ sở xác định mức thưởng, trích nộp cũng như hình thức thưởng, trích nộp cho phù hợp nhằm khuyến khích hơn nữa sự tham gia của mọi cán bộ công nhân viên trong công ty.
- Đẩy mạnh công tác tiếp thị, khuyếch trương giao tiếp ở các tỉnh thành trên cả nước. Huy động những cán bộ đã từng hoạt động trong địa bàn chủ chốt mà công ty chú ý tham gia đề xuất ý kiến cho kế hoạch phát triển mở rộng thị trường của công ty.
- Duy trì quan hệ khách hàng truyền thống dù nhu cầu xây dựng là không liên tục với một khách hàng cụ thể.
Nói chung hoạt động marketing cơ bản của công ty là:
- Duy trì và mở rộng khách hàng.
- Việc duy trì và tìm nguồn giúp cho doanh nghiệp có đủ thông tin trên thị trường xây dựng nhằm lựa chọn dự án phù hợp và nhanh chóng tiếp cận hay ra quyết định trong việc tranh thầu cũng như việc loại bỏ các thông tin sai lệch hoặc quyết định không tranh thầu sớm đảm bảo cho doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và giảm các hao phí khác.
- Giới thiệu khuếch trương hoạt động của công ty.
- Việc quảng cáo mang tính độc lập tương đối với quá trình đấu thầu song nó rất quan trọng đối với tất cả các đơn vị kinh doanh không chỉ riêng lĩnh vực xây dựng. Qua công tác quảng cáo, giới thiệu đơn vị sẽ tạo ra được những cái nhìn chung cho khách hàng về quy mô, đặc điểm, thế mạnh của mình giúp cho khách hàng hiểu rõ và qua đó hỗ trợ tốt khi tham thầu.
- Quy chế nội bộ (chính sách của công ty)Quy chế thưởng nội bộ nhằm khuyến khích và khai thác mọi khả năng tiềm tàng không chỉ bên trong đơn vị. Việc sử dụng lợi ích kinh tế này giúp cho việc thu thông tin nhanh, chính xác và hiệu quả hơn trong toàn bộ quá trình từ khi hình thành đến khi đấu thầu dự án, kích thích tính tích cực và tạo ra hiệu quả chung.
Giải pháp 3: Xác định chiến lược đấu thầu tổng hợp
Đấu thầu ngày nay không chỉ đơn thuần là cạnh tranh về giá. Yếu tố cạnh tranh ngày nay càng gay gắt trên thị trường đòi hỏi công ty phải có một chiến lược tổng hợp thì mới có khả năng thắng thầu cao nhất. Do đó bên cạnh yếu tố giá công ty cần chú ý.
- Chiến lược công nghệ và tổ chức xây dựng. Đây là chiến lược quan trọng có độ tin cậy cao việc nghiên cứu áp dụng công nghệ tiên tiến và phù hợp luôn luôn là hoạt động có tính chiến lược của đơn vị. Thực chất của chiến lược này là lập hồ sơ dự thầu, công ty phải dốc toàn lực vào việc thiết kế tổ chức xây dựng hợp lý dựa trên các công nghệ xây dựng hiệu quả. Nếu công ty đưa ra được công nghệ độc đáo duy nhất mà chủ đầu tư đang cần cho việc xây dựng công trình của mình thì ưu thế cạnh tranh về hiệu quả thầu của công ty sẽ tăng lên gấp bội lần.
- Chiến lược liên kết: việc liên doanh liên kết bao giờ cũng tạo ra một nhà thầu mạnh hơn so với nhà thầu riêng rẽ. Đương nhiên một nhà thầu chỉ có thể mạnh ở một hay một vài mặt (so với yêu cầu tranh thầu) như về thiết bị hay tính chuyên môn hay về tài chính hoặc công nghệ...
Sự liên doanh liên kết nhằm phối hợp bù trừ các ưu nhược điểm của từng nhà thầu. Tạo nên một nhà thầu với nhiều ưu điểm đồng thời đảm bảo tính hợp lệ tranh thầu của Nhà nước và tạo ra các nhà thầu đủ mạnh đảm bảo chất lượng công trình. đáp ứng được các yêu cầu của chủ đầu tư. Đặc biệt là đối với các dự án lớn và có nguồn vốn nước ngoài. Ngoài ra sự liên doanh, liên kết còn tạo ra mối quan hệ lâu dài giữa các đơn vị. Điều này hỗ trợ các đơn vị có điều kiện duy trì công việc kinh doanh ổn định hơn.Theo chiến lược này công ty có thể liên doanh để tranh thầu và thực hiện công trình. Trong trường hợp có thế yếu, công ty có thể tranh thủ khả năng làm thầu phụ cho một doanh nghiệp xây dựng khác có khả năng thắng thầu hơn cả.
- Chiến lược thay đổi thiết kế công trình
Trường hợp ngoại lệ cho phép và công ty có khả năng thiết kế tốt, sau khi nhận được hồ sơ của bên mời thầu công ty có thể đề xuất phương án thay đổi thiết kế hợp lý hơn và đem lại lợi ích lớn hơn cho chủ đầu tư. Để thực hiện điều này đòi hỏi nhà thầu phải có vốn kinh nghiệm lớn, đủ khả năng thuyết phục chủ đầu tư cũng như các cấp có thẩm quyền phê duyệt, thẩm định...Thiết kế thay đổi phải hơn hẳn về cấu trúc và kết cấu đáp ứng tốt hơn mục đích xây dựng của chủ đầu tư đồng thời không làm ảnh hưởng đến dự toán vốn đầu tư dự tính ban đầu.
Trong trường hợp này, chủ đầu tư có thể dành cho công ty thực hiện công trình với sự kiểm tra nhất định của cơ quan thiết kế và tư vấn có uy tín.
Giải pháp 4: Hoàn thiện công tác tính giá dự thầu
Yếu tố xác định giá dự thầu là yếu tố quan trọng nhất mà tất cả các công ty xây dựng nói chung và công ty xây XDHH nói riêng đặc biệt chú ý, đó là sự cạnh tranh gay gắt về giá. Một mặt của yếu tố đó là:
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật trong xây dựng chậm phát triển và khó giữ được bí mật.
- Tính dễ dàng tham gia vào thị trường xây dựng
- Số lượng các doanh nghiệp lớn và hầu hết có quy mô nhỏ.
Nhưng mặt khác còn do những thay đổi trong quy định của Nhà nước. Nếu như trước đây các Hồ sơ dự thầu được đánh giá theo từng tiêu chuẩn (kỹ thuật, kinh nghiệm, chất lượng nhà thầu, tài chính giá cả thi công) sau đó tổng hợp đánh giá toàn diện. Bên mời thầu sử dụng giá xét thầu, giá sàn do chủ đầu tư dự kiến trước để xét thầu thì nay theo quy chế mới ( Nghị định 88). Bên mời thầu không được sử dụng giá xét thầu, giá sàn mà sử dụng giá gói thầu theo kế hoạch đấu thầu được duyệt. Sau bước đánh giá kỹ thuật nhà thầu trúng thầu là nhà thầu có đánh giá thấp nhất. Điều đó có nghĩa là không có mức giá cụ thể (dù chỉ là dự toán) để công ty xác định mức giá dự thầu của mình như trước. Và yếu tố giá ngày càng quan trọng trong xét thầu. Do đó để thắng thầu hiệu quả không có cách nào khác công ty phải có một chiến lược giá cụ thể để tranh thầu phải đủ lớn để đủ trang trải chi phí và bảo đảm lợi nhuận mục tiêu nhưng phải đủ nhỏ để khả năng trúng thầu cao nhất.
Để đạt được điều này trước tiên công ty phải điều chỉnh lại cách tính giá dự toán xây lắp công trình. Cho đến nay việc chọn giá dự thầu của công ty vẫn sử dụng đơn giá địa phương. Trong nhiều trường hợp giá địa phương không phản ánh đúng sự biến đổi giá liên tục trên thị trường làm cho giá dự thầu của công ty hoặc quá cao hoặc quá thấp dẫn đến thua lỗ nếu trúng thầu.
Nhìn chung, do giới hạn về cách tính giá là việc tính giá được thực hiện trên cơ sở định mức, đơn giá của Nhà nước, đơn giá vật liệu của địa phương thực chất cũng là do Nhà nước ban hành dẫn đến kết quả tính giá cũng bị hạn chế, do các quy định của Nhà nước thường ban hành rất chậm và khác xa so với sự biến động về giá cả, chủng loại vật tư, công nghệ xây dựng trên thị trường. Sự hạn ché này gây ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập (trong trường hợp công ty thắng thầu) do chênh lệch vè giá. Để đảm bảo an toàn, đơn vị tham gia đấu thầu phải xuất phát từ khả năng thực tế về việc cung cấp vật tư, nhân công, thiết bị, các dịch vụ sẵn có khác tại địa điểm nơi xây dựng công trình so sánh với yêu cầu và đặc điểm thiết kế của chủ đầu tư.
Thông tin về khả năng thực tế này phải là thông tin chắc chắn và được cập nhật hàng ngày. Các thông tin này giúp nhà thầu biết được chính xác phạm vi cho phép về giá nhằm điều chỉnh giá tham dự thầu hợp lý tuỳ theo từng loại công trình cũng như tùy theo mức độ cạnh tranh đối với từng gói thầu, từng dự án.
Trong một số trường hợp đặc biệt, địa phương nơi xây dựng không có một hay một vài vật liệu thoả mãn yêu cầu thiết kế. Thông tin về nguồn và giá cung cấp ngày càng quan trọng hơn đối với các nhà thầu. Chi phí vật liệu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: số lượng nhà cung cấp tính phổ biến của vật liệu, khoảng cách và sự thuận lợi của giao thông, chất lượng vật liệu, độ tin cậy của người bán hàng, nhân công...
Để khắc phục được tình trạng giá dự thầu quá thấp hoặc quá cao, công ty đưa ra các dự thầu riêng của mình trên cơ sở điều chỉnh cách xác định đơn giá tổng hợp bằng cách cập nhật thường xuyên giá những nguyên vật liệu để kịp thời nắm bắt những nguồn thông tin về giá. Muốn vậy một công trình dự thầu công ty cần phải:
- Nghiên cứu kỹ đặc điểm công trình, đặc điểm điều kiện khí hậu, địa hình khu vực.
- Nghiên cứu kỹ thị trường xây dựng, mạng lưới cung ứng nguyên vật liệu tại công trình, địa phương, khu vực lân cận, mạng lưới giao thông vận tải.
- Nghiên cứu kỹ nguồn lao động địa phương.
Ngoài ra việc giảm giá dự thầu của công ty còn chủ yếu dựa trên những yếu tố bên trong như: khả năng tiết kiệm chi phí chung, chi phí máy thi công, chi phí cốt pha...mà bỏ qua các yếu tố bên ngoài như: những thuận lợi về giá cả vật liệu hay địa hình công trình thuận lợi cho thi công...Do vậy, nhiều khi đã có giảm giá nhưng giá dự thầu của công ty vẫn cao.Để khắc phục điều này cùng với việc nghiên cứu công trình dự thầu nhóm kỹ thuật cần chú ý những chi phí có thể gia tăng hay chi phí có thể giảm thực sự và có thể tăn gói thầu hay giảm bao nhiêu mà vẫn đảm bảo công ty không bị thua lỗ và có lãi.
Trong chiến lược giá, công ty nên phân loại thị trường theo yếu tố địa lý thành thị trường xây dựng thành thị, thị trường xây dựng nông thôn để có thể đưa ra mức giá hợp lý cho từng khu vực hay phân loại thị trường theo từng loại xây dựng thành thị trường xây dựng dân dụng, thị trường xây dựng công nghiệp. Bởi mỗi loại thị trường có yêu cầu về công nghệ, kỹ thuật khác nhau mà cấu thành giá cả xây dựng cũng rất khác nhau.
Tuy nhiên chiến lược giá của công ty không nhất thiết bao giờ cũng là chiến lược giá thấp. Trường hợp những công trình yêu cầu chất lượng cao, đòi hỏi nhà thầu phải có kinh nghiệm...tùy vào đối thủ cạnh tranh mà công ty có thể áp dụng chiến lược giá cao chất lượng cao.
Giải pháp 5: Chú trọng phân tích rủi ro dự án xây dựng
Quản lý dự án truyền thống bao gồm các mặt quản lý tiến độ, quản lý chất lượng, quản lý chi phí (giá thành)...đã góp phần không nhỏ vào sự thành công của các dự án đầu tư đã được thực hiện trên đất nước ta. Tuy nhiên trong quá trình quản lý dự án thường xuyên xuất hiện các yếu tố ngẫu nhiên tiêu cực không lường trước được, ảnh hưởng tới tiến độ thi công và kết quả thực hiện của dự án xây dựng mà chúng ta thường gọi đó là rủi ro. Vì vậy công ty cần nghiên cứu, đánh giá, phân loại và tìm phương hướng quản lý các rủi ro này. Bởi thực tế cho thấy nếu không chú trọng đến vấn đề có thể làm ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả dự án đầu tư xây dựng, thông thường kéo dài thời gian thực hiện dự án tới 20-30%, cá biệt có những dự án kéo dài tới 200-300% thời gian làm việc hoặc bị thất bại hoàn toàn về mặt tài chính do các rủi ro không lường trước được.
Vì vậy giai đoạn của công trình xây dựng công ty cần phải làm rõ mục tiêu cần phải quản lý rủi ro. Trên cơ sở đó xác định các rủi ro và giải quyết các rủi ro đó. Nhà thầu phải lựa chọn phương pháp chính thức để giải quyết rủi ro có thể xảy ra. Có thể lựa chọn các phương thức để giải quyết rủi ro như sau:
- Xác định các phương pháp phòng ngừa, tránh rủi ro hoặc giảm nhẹ ảnh hưởng của nó.
- Đưa ra kế hoạch dự phòng đối phó với rủi ro khi nó xảy ra.
- Cân nhắc để chuyển giao các rủi ro cho công ty bảo hiểm.
- Cân nhắc để phân bổ các rủi ro trong hợp đồng.
- Lập ra các cơ cấu quản lý và tổ chức cần thiết.
- Chuẩn bị về mặt công nghệ.
- Dự trù tài nguyên và lao động.
Trong xây dựng rủi ro được quan tâm quản lý đối với từng công việc, từng giai đoạn đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Quản lý rủi ro được thực hiện không chỉ trong quá trình thực hiện dự án mà nó được thực hiện ngay từ đầu trong giai đoạn lập hồ sơ dự thầu, đặc biệt là ở một số công tác quan trọng quyết định đến chất lượng của hồ sơ dự thầu.
Các rủi ro chủ quan trong khâu lập hồ sơ dự thầu thường xuất hiện ở một số vấn đề sau:
+ Nắm bắt không hết các yêu cầu đối với Hồ sơ dự thầu. Các yếu tố và điều kiện của công trình dẫn đến Hồ sơ thiết kế thậm chí cả dự toán đấu thầu bị sai lệch làm giảm khả năng thắng thầu của công ty.
+ Bóc tách khối lượng và chi phí giá thiếu hoặc sai do thiếu kinh nghiệm hoặc không nắm bắt được thông tin dẫn đến thua lỗ sau khi thi công thực tế.
+ Chủ quan không lường trước một cách tổng hợp biến động của khả năng tài chính dẫn đến để lỏng điều kiện thanh toán gây khó khăn khi đầu tư trong quá trình thực hiện dự án.
Việc quản lý tốt các rủi ro trong xây dựng có ý nghĩa rất quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả đấu thầu của công ty.
Giải pháp 6: Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định
Trong xây dựng tài sản cố định, đặc biệt là máy móc thiết bị là một phần tất yếu và chi phí máy chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng chi phia thi công công trình. Việc đầu tư mua sắm thiết bị có ý nghĩa rất lớn ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý cũng như tiết kiệm chi phí đối với đơn vị.
Nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc, tiếp tục đầu tư mua sắm thiết bị công nghệ mới nhằm nâng cao năng lực thi công, nâng cao nữa chất lượng công trình và tiến độ thi công.
Trong xây dựng các doanh nghiệp xây dựng cần một khối lượng lớn máy móc thiết bị nên việc sử dụng hiệu quả khối lượng máy móc này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng công trình hạ giá thành sản phẩm xây dựng cũng như khả năng nâng cao thắng thầu. Vì vậy trong sử dụng máy móc thiết bị thi công công ty cần chú ý tới:
- Giải quyết vấn đề như lựa chọn phương án cơ giới hóa xây dựng tối ưu, phân phối máy móc hợp lý theo tiến độ thi công, phân bố máy móc theo các địa điểm xây dựng và mặt bằng hợp lý, điều phối máy móc giữa các công trường...
- Có kế hoạch cải tiến sử dụng máy móc, nhằm nâng cao hệ số sử dụng máy theo công suất theo thời gian và đầu máy đưa vào hoạt động.
- Xác định hình thức sử dụng máy móc hợp lý như kết hợp tốt nhất giữa phương án mua sắm và phương án đi thuê,giữa phương án sử dụng máy tập trung hay phân tán các hình thức sử dụng máy, vừa có hiệu quả lại vừa đảm bảo máy móc lâu hư hỏng, các hình thức khoán sản phẩm nội bộ.
- Liên kết doanh nghiệp nhằm sử dụng nâng cao năng lực sản xuất thừa của nhau. Đặc biệt công ty phải có kế hoạch tận dụng máy móc trong thời gian tạm thời nhàn rỗi do chưa kiếm được hợp đồng xây dựng bằng cách đi làm thầu phụ hay cho thuê.
- Lựa chọn phương án khấu hao phù hợp với kế hoạch sao cho có thể vừa bảo toàn vốn lại vừa bảo đảm tính cạnh tranh của giá thành sản phẩm cũng như tạo điều kiện để đổi mới kỹ thuật sản xuất của công ty.
Trong đầu tư mua sắm thiết bị mới công ty nên chú trọng đến máy móc công nghệ thi công các loại công trình hạ tầng nhằm nâng cao năng lực thi công các loại công trình này.
Giải pháp 7: Bố trí sắp xếp và sử dung hợp lý, tăng cường nâng cao năng lực trình độ đội ngũ cán bộ
Đây là vấn đề có tính chiến lược lâu dài, có ý nghĩa kinh tế sâu sắc mà mọi nhà quản lý đều quan tâm. Năng lực của một tập thể mạnh hay yếu phụ thuộc hoàn toàn vào năng lực của từng cá nhân và tính thống nhất của hệ thống bộ máy làm việc. Khả năng phối hợp giữa các cá nhân, bộ phận mang tính quyết định. Giải pháp này được tập trung trong các vấn sau:
- Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cả về lý thuyết lẫn thực hành tay nghề cho cán bộ công nhân viên trong toàn công ty về các mặt như: nghiên cứu mới, làm thực tế...
- Đầu tư nâng cao trình độ ngoại ngữ tin học: ngoại ngữ chuyên môn, áp dụng nghiên cứu các phần mềm xây dựng, phần mềm quản lý dự án...
- Công trình đầu tư thường có giá trị lớn, nếu xây dựng không đảm bảo chất lượng sẽ gây lãng phí tiền của xã hội. Vì vậy phải xem người giao việc, không thể để tự do ai muốn làm cũng được mà cần phải xem xét năng lực. Ben cạnh đó, phải có sự phân công bố trí sắp xếp đối tượng người lao động theo đúng nghành nghề đúng trình độ chuyên môn. Có làm tốt được việc này mới cho phép khai thác tốt nhất năng lực của đội ngũcán bộ, công nhân.
-Bố trí đúng người đúng việc sẽ tiết kiệm được các yếu tố lao động sống, nâng cao năng suất lao động sống, giảm chi phí nhân công, nâng cao hiệu quả đấu thầu góp phần nâng cao hiệu quả vốn đầu tư công ty.
- Cần có các biện pháp kích thích người lao động kể cả chuyên gia làm việc với tinh thần tự giác thực thi trách nhiệm, Việc cải tiến ché độ tiền lương và quy định trách nhiệm cho người lao động phải gắn liền với chất lượng sản phẩm mà người lao động đã tạo ra.
- Quy trình hóa công tác lập Hồ sơ dự thầu.
Công tác lập Hồ sơ dự thầu như chúng ta đã biết là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng tranh thầu. Công tác lập Hồ sơ dự thầu được tiến hành tùy từng loại dự án khác nhau trong đó biện pháp công nghệ, giá, điều kiện thanh toán là các nội dung cơ bản nhất đòi hỏi phải có nhiều thời gian và chi phí để đảm bảo thông tin là đủ điều kiện tin cậy và phù hợp với năng lực tài chính, kỹ thuật của công ty.
Công ty xây dựng Hông Hà trải qua một thời gian kinh nghiệm thực hiện nhiều loại dự án khác nhau, đã có đủ cơ sở để xây dựng quy trình lập Hồ sơ đấu thầu nhằm giảm bớt các hao phí và tiết kiệm thời gian lập hồ sơ.
Việc quy trình hóa này cũng như một sự đầu tư cần phải có sự quan tâm của lãnh đạo và những người có trách nhiệm đồng thời nó đòi hỏi một sự chuẩn bị đồng bộ về dữ liệu và thiết bị đồng bộ không chỉ ở bộ phận kỹ thuật-nơi lập dự án.
Quy trình hóa cần thiết tạo ra một sơ đồ tổng hợp hay từng bước đơn vị riêng biệt. Các nội dung phải đảm bảo được thực hiện và kiểm tra nhằm tránh sai, thiếu sót không cần thiết của Hồ sơ dự thầu tránh sửa chữa bổ sung.
- Chuyên môn hóa các cán bộ đấu thầu về giá, tiếp thị và thi công:
Tăng cường đào tạo bồi dưỡng các kiến thức về kinh tế- tài chính, pháp luật...các kỹ năng ngoại ngữ tin học cho cán bộ tham gia công tác đấu thầu của công ty nhằm nâng cao chất lượng hồ sơ dự thầu, nâng cao khả năng trực tiếp tham gia dự thầu những công trình có vốn đầu tư nước ngoài. Hồ sơ đấu thầu có khả năng thể hiện rõ nét năng lực của đơn vị cũng như ý đồ chiến lược của công ty được đưa ra tùy theo từng lần đấu thầu và những đặc điểm riêng khác nhau.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức công ty cần chú trọng đến lực lượng cán bộ gián tiếp và lực lượng công nhân kỹ thuật ở các đội, ban quản lý công trình lực lượng lao động này tuy không trực tiếp tham gia vào quyết định đến công tác đấu thầu nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong quá trình thi công công trình quyết định đến chất lượng công trình, đến uy tín công ty( Đội ngũ lao động có thể nói là một nửa của giải pháp thi công). Riêng đối với cán bộ gián tiếp ở các đội do nhiều yếu tố như: hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vi chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các công trình thi công nên có lúc không nắm hết những chủ trương, đường lối những quy định mới của công ty. Vì vậy không chỉ ban hành các quy định quy chế tới các đơn vị mà công ty cần có lớp đào tạo tập huấn giúp cho lực lượng cán bộ ở các đơn vị nắm rõ vấn đề, tránh những bất đồng có thể có trong cách làm việc giữa các đơn vị và các phòng ban công ty gây trở ngại cho công việc, cho sự phát triển của công ty.
* Đẩy mạnh công tác hoán công, nghiệm thu góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính của công ty
Do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan mà công ty phải đối phó với tình trạng vốn bị ứ đọng. Công trình đã giao, chủ đầu tư đã đưa vào sử dụng nà công ty vẫn chưa thu đủ tiền về có thể do sự chậm trễ của bên A nhưng mặt khác còn do lỗi của nhà thầu như: quyết toán sai khối lượng hoặc thiếu văn bản hợp lệ ghi nhận khối lượng phát sinh nên gây ra những thiệt hại về tài chính ảnh hưởng đến khả năng tranh thầu của công ty.
Vậy để hoạt động tài chính được an toàn, đáp ứng yêu cầu phát triển công ty cần chú ý
- Trong thi công, trước khi nghiệm thu cán bộ kỹ thuật phải chuẩn bị đầy đủ bản vẽ có liên quan. Moi hoạt động công trình sau khi thi công xong đều phải hoàn thành về tim, cốt, về kích thước hình học theo đúng quy định thiết kế. Sau khi kết thúc hạng mục chính ban chỉ huy công trình phải đệ trình bản vẽ hoàn thành cho cơ quan quản lý cấp trên sau đó sẽ chuyển giao cho ba quản lý công trình với nội dung:
+ Kích thước hình học theo thiết kế.
+ Độ sai lệch của tim, trục theo hai phương.
+ Những thay đổi khác so với thiết kế.
Chỉ nhận lại biên bản nghiệm thu có đủ chữ ký của các thành phần có liên quan, khi đó mới được phép thi công người tiếp. Tất cả những thay đổi bổ sung đều phải báo cáo ngay với ban quản lý. Chỉ khi được phép bằng văn bản của ban quản lý nhà thầu mới được phép thi công tiếp. Có nhật ký công trình và mẫu văn bản kèm theo để ghi chép, theo dõi và lưu trữ. Mọi sự thay đổi đều phải được xác nhận ngay giá trị tăng hoặc giảm so với thiết kế và có sự chấp nhận của ban quản lý và các cấp có thẩm quyền.
- Trong điều kiện có thể tăng cường tân dụng các nguồn vốn được tam ứng trước từ chủ đầu tư. Phòng tài vụ phối hợp với các phòng ban công ty lên tiến độ cung cấp và thu hồi vốn cho từng công trình trước và sau vốn chủ đầu tư để có kế hoạch cụ thể trong thu hồi vốn.
Giải pháp 8-Quản lý chất lượng đồng bộ
Có 3 điều kiện để đo lường khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp xây dựng, đó là: chất lượng, giá cả và tiến độ thi công. Lý thuyết về chi phí cho chất lượng chứng minh rằng khi chất lượng được nâng lên cao thì giá thành sẽ hạ xuống nhờ giảm được các tổn phí vì hư hao và chi phí cho thẩm định chi phí. Đảm bảo thoả mãn cho khách hàng cả về chất lượng và giá cả thì sẽ có lợi cho việc nâng cao tỷ lệ chiếm lĩnh thi trường. Hơn nữa, không còn có những vướng mắc về chất lượng thì sẽ không cần đến các “hoạt động ngầm” nhằm sử lý những hư hỏng hay phế thải.
Tuy nhiên vấn đề chất lượng từ trước đến nay ở công ty xây dựng Hồng Hà cũng như nhiều công ty khác chỉ mới chú ý đến chất lượng thi công công trình mà chưa quan tâm đến chất lượng đồng bộ nên kết quả mang lại trong đấu thầu nói riêng trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung còn hạn chế.
Sở dĩ chất lượng phải đồng bộ trong mọi lĩnh vực chức năng bởi mọi bộ phận, mọi hoạt động, mọi người trong công ty đều ảnh hưởng đến nhau. Các sai lầm thường hay nhân lên và có một bộ phận hoặc lĩnh vực không đáp ứng được các yêu cầu thì sẽ gây ra khó khăn ở các nơi khác, dẫn đến nhiều sai lầm, nhiều khó khăn hơn. Nếu ở mọi nơi đều tìm cách xử lý ngay từ đầu thì sẽ có lợi rất lớn.
Cụ thể là chát lượng không chỉ trong thi công. Chất lượng trong các báo cáo tài chính, các số liệu kế toán hay chất lượng trong các kế hoạch tổ chức...nếu được quan tâm một cách đồng bộ sẽ góp phần nâng cao khả năng thắng thầu rất lớn của công ty. Bởi đấu thầu không chỉ có các giải pháp thi công. Nếu những điều cơ bản nhất của Hồ sơ dự thầu không được đáp ứng thì công ty sẽ bị loại ngay từ đầu. Nếu số liệu tài chính nhầm lẫn sơ suất thì Hồ sơ dự thầu của công ty cũng có thể bị mất điểm trong xét thầu.
Hơn nữa quản lý chất lượng đồng bộ với những chứng chỉ chứng nhận còn là một minh chứng tin cậy khi công ty muốn mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác.
III. Một số kiến nghị
Đối với cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu:Cần sửa đổi một số nội dung trong hành lang pháp luật về đấu thầu. Việc ban hành quy chế đấu thầu mới (Nghị định 88/01/1999/NĐ-CP) và các thông tư bổ sung (Thông tư số 04/2000/TT-BKH ngày 26/05/2000, Thông tư số121/2000 TT-BTC ngày 29/12/2000, Thông tư số 17/2001/TT-BTC ngày 21/03/2001...) đã đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn, khắc phục được rất nhiều các bất cập của quy chế đấu thầu cũ như Nghị định số 43/CP ngày 16/7/1996 của Chính phủ sau đó được thay thế bởi Nghị định 14/2000/NĐ-CP, cùng với việc ban hành Thông tư 04/2000/BKH của bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy tầm quan trọng của công tác đấu thầu, vì vậy Nhà nước đã phải kịp thời ban hành các văn bản liên quan nhằm điều chỉnh mọi hành vi, hoạt động trong lĩnh vực này đi đúng hướng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế nước nhà.
Tuy nhiên, đấu thầu cũng là một lĩnh vực còn tương đối mới mẻ đối với nước ta, bởi vậy không thể tránh khỏi những bất cập thiếu sót như đã nêu trên. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải nhìn nhận một cách nghiêm túc, thẳng thắn những tồn tại đó để đưa ra những đối sách phù hợp nhằm làm cho các quy chế đấu thầu thực sự trở thành công cụ tích cực trong quá trình quản lý đầu tư của Nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho người thực hiện để đưa vốn đầu tư thực sự phát huy tác dụng mang lại hiệu quả cho nền kinh tế.
Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản, thông tư hướng dẫn kiểm tra việc tổ chức đấu thầu một cách cụ thể. Về quy chế đấu thầu cần xem xét lại thủ tục trình duyệt (trình duyệt kết quả sơ tuyển nhà thầu, nội dung hồ sơ mời thầu, phê duyệt kết quả đầu tư và nội dung hợp đồng của các cấp quản lý từ Thủ tướng Chính phủ đến Bộ quản lý ngành, Chủ tịch UBND tỉnh, Thành phố) nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội các nhà thầu. Đối với bên mời thầu cần có những giải pháp cụ thể để kiểm soát quá trình thực hiện hoạt động tư vấn cũng như hành vi các đơn vị cá nhân tham gia mời thâù. Nếu việc nghiêm cấm thông tin qua lại của nhà tư vấn và của nhà thầu chỉ dựa vào đạo đức nghề nghiệp, vào những qui định rất chung chung và vào kết quả thẩm định thì rất có thể ngăn cản được những hành vi vi phạm. Nên chăng các cơ quan có thẩm quyền đặc biệt là các cấp có thẩm quyền phê duyệt kết quả đấu thầu cần phải có những biện pháp thường xuyên kiểm tra mọi hoạt động ngay từ những ngày đầu: Cử một số cán bộ với số lượng và trình độ cụ thể tuỳ qui mô của từng gói thầu nhất định, thường xuyên theo dõi để hướngdẫn và kiểm tra giám sát, chỉ cần vi phạm là phải đình chỉ và có hình phạt thích đáng đối với những đơn vị có hành vi trái phép theo qui định trong qui chế một cách kịp thời.
Nhà nước cũng cần phải xem xét lại những qui định về giá, quan tâm nghiên cứu để xây dựng tiêu chuẩn năng lực nhà thầu của Việt Nam đáp ứng tiến trình hội nhập, cạnh tranh lành mạnh bình đẳng.
Nhà nước cần có các biện pháp quản lý các đối tượng tham gia đấu thầu, đầu tư hơn nữa cho hoạt động đấu thầu để đấu thầu phát huy được vai trò quan trọng của mình trong cơ chế hiện nay.
Nhà nước nên xem xét và cấp vốn lưu động đủ định mức cho Công ty và cho vay vốn lưu động với lãi suất thấp, nhưng phải giao cho Công ty tự quyền quyết định số vốn đó.
Kiến nghị với Nhà nước xem xét cho công ty xây dựng trong nước được hưởng chế độ đặc cách về thuế thu nhập và được giữ lại thuế thu nhập trong thời gian 5 năm để tăng vốn sản xuất kinh doanh.
Đề nghị Nhà nước điều tra khảo sát kỹ lưỡng các công trình xây dựng cơ bản xây dựng các cơ sở hạ tầng tránh sự thất thoát vốn và công trình không đảm bảo chất lượng, nhất là các khâu đấu thầu.
Về phía công ty và tổng công ty: thì Nhà nước phải chia thành nhiều gói thầu. Trong đó có gói xây lắp riêng, các điều kiện đấu thầu cần đưa ra điều kiện phù hợp cho nhà thầu trong nước.
- Về tồn đọng nợ: Nhà nước, tổng công ty phải có biện pháp dứt khoát để khoanh nợ và buộc trả nợ không thì không cho vay tiếp.
- Vì thuế VAT đề nghị Nhà nước áp dụng chính sách thuế VAT của ngành xây lắp là 5%.
Kết luận
Sự phát triển nhanh, mạnh, vững chắc của Việt nam đã và đang khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Nó vừa đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng sau nhiều năm chiến tranh, vừa góp vào sự ổn định và thịnh vượng chung của khu vực. Bằng nỗ lực của chính mình và cùng với sự giúp đỡ và hợp tác của bạn bè trên thế giới, chúng ta tin tưởng rằng Việt nam sẽ xây dựng được một đất nước giàu mạnh, góp phần vào việc tăng cường hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển ở Châu á cũng như trên toàn thế giới.
Xây dựng Việt nam đang là một ngành cần phải chú ý và là một trong những ngành phát triển nhất Việt nam hiện tại để phục vụ cho quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng cho quá trình CNH-HĐH đất nước. Việc tìm ra hướng đi phù hợp cho các doanh nghiệp xây dựng trong quá trình cạnh tranh tự do này là một yếu tố rất cần thiết cho xu hướng phát triển của xã hội.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng Đấu thầu ngành xây dựng Việt nam. Đề tài đã cho chúng ta thấy được một cái nhìn tổng quan nhất về ngành và từ đó đưa ra được những giải pháp kịp thời để góp phần đưa công ty xây dựng Hồng Hà thành một doanh nghiệp xây dựng vững mạnh, cạnh tranh được với các nhà thầu trong khu vực và trên thế giới.
Mặc dù đã làm hết sức mình nhưng luận văn không tránh khỏi sự thiếu sót và hạn chế. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô và những ai quan tâm đến đề tài.
Cuối cùng em xin cảm ơn cô giáo Phan Thu Hiền và các cô chú trong phòng Tổng Hợp, Phòng Kinh tế Kĩ thuật và các phòng khác đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Đức Liêm
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước- TS Mai Văn Bưu Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật 1998 - trang (226-267).
2. Nghị Định 88/1999/NĐ-CP hướng dẫn về quy chế đấu thầu.
3. Hồ sơ giới thiệu về Công ty xây dựng Hồng Hà.
4. Tạp Chí Xây dựng:
+ Vận dụng phương pháp dùng chỉ tiêu tổng hợp để ra quyết định tranh thầu-Trần Văn Tấn- số 8/2000- trang 13.
+ Rủi ro thường gặp trong thiết kế kết cấu công trình xây dựng - TS Trần Chủng - số 7/2001 - trang 14.
+ Quy chế đấu thầu và những vấn đề bức xúc - Trần Thịnh Tường - số 7/2001- trang 3.
+ Bàn giải pháp tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành xây dựng Ngọc Châu - số 8/2001- trang 38.
+ Các nhà thầu xây dựng Việt Nam cần dành được những dự án lớn- Lê Quang Huy- số 9/2001- trang 56.
+ Bỏ thầu giá thấp, hiện tượng không bình thường trong đấu thầu xây dựng - Vũ Gia Quỳnh- số 7/2001- trang 6.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29681.doc