Đề tài Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005

Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex) đặt ra mục tiêu phát triển đến năm 2010: “ Hướng ra xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, đồng thời chiếm lĩnh thị trường tiêu dùng trong nước với những sản phẩm phù hợp, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối CNH-HĐH đất nước”. Để thực hiện được những mục tiêu đã đề ra, đòi hỏi phải có một hệ thống giải pháp cho ngành Dệt may là cần thiết và cấp bách để từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu hội nhập trong đó đầu tư đổi mới công nghệ là công tác quan trọng hàng đầu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có và tạo ra những sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao trên thị trường.

doc43 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1122 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cáo kết quả khảo sát về đầu tư đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Đổi mới công nghệ là xu hướng tất yếu của ngành Dệt may Việt Nam để tìm được chỗ đứng vững chắc cho mình trên thị trường trong và ngoài nước.Nhìn vào kết quả điều tra trên có thể thấy rằng các doanh nghiệp đã đánh giá cao vai trò của việc đầu tư đổi mới công nghệ. Đây là một dấu hiệu đáng mừng hứa hẹn việc đầu tư trong tương lai sẽ được các doanh nghiệp xúc tiến. Từ những lý do trên, chúng ta đã thấy được sự cần thiết của việc đầu tư đổi mới công nghệ nhưng trên thực tế thì ở nước ta, tình hình đầu tư diễn ra như thế nào? Chúng ta đi vào phân tích thực trạng của đầu tư đổi mới công nghệ. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ I. KHỐI LƯỢNG VỐN ĐẦU TƯ VÀ NGUÒN VỐN ĐẦU TƯ CHO ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 1. Khối lượng vốn đầu tư Khối lượng vốn đầu tư toàn ngành trong những năm qua có xu hướng tăng và vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu vốn đầu tư, thường là 40-60%. Theo kết quả thống kê cho bảng sau: Bảng 3: Khối lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ Tổng công ty Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000-2005 Năm Tổng mức đầu tư (tỷ đồng) Vốn đầu tư đổi mới công nghệ (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) 2000 2.066,8 1.126,0 54,48 2001 3.157,0 1.774,0 56,19 2002 2.111,8 1.036,0 48,89 2003 1.245,3 598,0 48,02 2004 1.514,6 709,6 46,85 2005 1.863,4 808,9 43,41 Tổng 11.948,9 6.052,5 TB:50,65 Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex) Tình hình đầu tư ở Tổng công ty Dệt may Việt Nam cũng phản ánh tình hình chung toàn ngành. Tuy vốn đầu tư giai đoạn 2000-2005 có tăng so với giai đoạn trước nhưng xét về tỷ trọng vốn đầu tư dành cho đổi mới công nghệ thì có giảm. Tỷ trọng vốn tư cho đổi mới công nghệ 2000-2005 là trên 50% tổng mức vốn đầu tư trong khi ở giai đoạn 1996-2000 là 81,1%. Sở dĩ có sự giảm tỷ trọng như trên là do giai đoạn 1996-2000 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ với mọi tiềm lực để đầu tư hiện đại hóa máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất. Chính vì vậy từ năm 2000 đến nay ngành không phải đầu tư nhiều cho công nghệ nữa mà chủ yếu tập trung đầu tư theo chiều rộng. Trung bình mỗi doanh nghiệp dệt may giành 2,9% doanh thu để đầu tư để cho đổi mới công nghệ. Có khoảng 12 doanh nghiệp điển hình có tỷ lệ vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ trên tổng doanh thu lớn hơn 5%: Công ty dệt kim Đông Xuân (25%); Công ty Dệt nhuộm vải Phước Thịnh (24,61%); Công ty dệt 8/3 (11,2%); Công ty dệt may Hà Nội (9%). Có thể thấy quy mô vốn đầu tư toàn ngành cũng như từng doanh nghiệp đều tăng lên. 2. Nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ Nếu với các nước phát triển trên thế giới thì kênh huy động vốn hiệu quả là thị trường chứng khoán và đầu tư trực tiếp nước ngoài thì ở Việt Nam do thị trường chứng khoán chưa phát triển nên chủ yếu chúng ta huy động thông qua nguồn tích lũy trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy cần xem xét các kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp dệt may bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong nước gồm có vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn tự có và khấu hao của doanh nghiệp. Nguồn vốn nước ngoài gồm có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. 2.1. Nguồn vốn trong nước 2.1.1. Nguồn vốn ngân sách nhà nước Nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho những dự án đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Trong lĩnh vực dệt may nó bao gồm: -Vốn cấp cho doanh nghiệp nhà nước dệt may để đầu tư chiều sâu, mở rộng các cơ sở sản xuất -Vốn nhà nước đầu tư mới các cơ sở dệt may -Vốn nhà nước liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài Tuy nhiên ở nước ta do vốn ngân sách còn hạn hẹp mà có rất nhiều khoản phải chi do đó đây chưa phải là nguồn chính để giúp các doanh nghiệp dệt may đầu tư đổi mới công nghệ. Theo Bộ Công Nghiệp thì tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành đến năm 2006 cần 900 nghìn tỷ đồng nhưng huy động ngân sách chỉ chiếm 7%, còn lại phải do các doanh nghiệp tự tìm kiếm. Như vậy, mặc dù dệt may Việt Nam nằm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhưng vốn đầu tư từ ngân sách còn quá ít ỏi. Dù có tăng theo các năm nhưng xét về mặt tỷ trọng thì tỷ trọng hiện nay không vượt quá 0,6% lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ. 2.1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, nguồn vốn này ngày càng khẳng định vị trí trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chính sách đầu tư của chính phủ. Đây là hình thức cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, được áp dụng cho các dự án trong lĩnh vực ưu tiên của kế hoạch ngân sách nhà nước. Do đặc điểm lãi suất thấp, thời gian vay dài nên đây cũng là nguồn vốn nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may đổi mới công nghệ Trên thực tế nguồn vốn này biến động mạnh và không theo chiều hướng nhất định. Giai đoạn 1991-1997 là 236 tỷ đồng, trung bình là 26,2 tỷ/năm. Đến năm 2001 nguồn vốn này tăng đột biến từ 81,2 tỷ đồng lên 224,0 tỷ đồng trong năm 2000 và 2001. Trong hai năm tiếp theo nguồn vốn này chững lại và giảm xuống còn 135,4 tỷ đồng vào năm 2004; 144,6 tỷ đồng vào năm 2005. Bảng 4: Vốn trong nước đầu tư đổi mới công nghệ của Vinatex Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tín dụng nhà nước 81,2 224,0 224,5 220,2 135,4 144,6 Ngân sách nhà nước 4,9 9,3 3,9 4,2 4,7 5,0 Nguồn khác 68,1 75,3 70,7 96 73,5 74,6 Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam 2.1.3. Nguồn vốn tự có và khấu hao của doanh nghiệp Nguồn vốn tự có là nguồn từ tiết kiệm dân cư và tĩch lũy của doanh nghiệp đưa vào sản xuất. Vốn khấu hao là toàn bộ số tiền trích khấu hao được tích lũy lại. Vốn khấu hao không thuộc sản xuất kinh doanh mà là nguồn vốn để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định. Ở Việt Nam, đối với mỗi doanh nghịêp thì tỷ lệ vốn khấu hao được quy định khác nhau và luôn được đề cao nhằm phát huy đổi mới tính tự chủ của doanh nghiệp trong ngành và nâng cao hiệu quả đầu tư. Thường thì các doanh nghiệp nhà nước được sự đầu tư ban đầu của nhà nước sẽ có tiềm lực vốn khá hơn doanh nghiệp tư nhân. Để huy động vốn trong nước phục vụ cho đầu tư đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cho riêng mình: dựa vào tiềm lực của mình là vốn tự có và khấu hao, vay tín dụng nhà nước hay ngân sách nhà nước. Đây là câu hỏi lớn đối với các doanh nghiệp trong quá trình đầu tư đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn có thể hy vọng vào nguồn khác triển vọng hơn là nguồn vốn từ nước ngoài. 2.2. Nguồn vốn nước ngoài Đây là nguồn vốn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các nước đang phát triển. Một mặt nó giải quyết tình trạng thiếu vốn cản trở quá trình đổi mới công nghệ, mặt khác nước nhận đầu tư sẽ thu được lợi ích từ việc chuyển giao công nghệ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm mục đích nhằm mục đích lợi nhuận với ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nếu chúng ta kêu gọi và khuyến khích đầu tư FDI đúng hướng phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội nước ta, phát huy được lợi thế so sánh của nước ta và tạo điều kiện giúp chúng ta có thể tiếp thu những công nghệ kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại của thế giới. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là khoản viện trợ hoàn lại hoặc vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vay lớn của các chính phủ, tổ chức tài chính tiền tệ thế giới. ODA cho ngành dệt may thời gian qua chủ yếu là dành cho xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng cho ngành và hỗ trợ công tác xuất khẩu. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại là nguồn vốn các doanh nghiệp vay từ các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài lãi suất cao, thời hạn trả nợ nhanh đáp ứng mục tiêu đầu tư ngắn hạn như: hỗ trợ nhập khẩu hàng hoá, nguyên liệu nước ngoài, thâm nhập thị trường, nhập khẩu máy móc thiết bị Giai đoạn 1991-1996, đầu tư nước ngoài đạt 985,76 triệu USD; trong đó hình thức liên doanh liên kết có tổng vốn đầu tư là 126,77 triệu USD chiếm 87,14%. Đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may có 88 dự án với tổng vốn đầu tư là 189,46 triệu USD; hình thức liên doanh liên kết chiếm 35,13%, loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 64,87%. Trong năm 2006 hứa hẹn sẽ có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam. Điển hình là hội nghị tài trợ và đầu tư cho ngành dệt may lần đầu tiên tổ chức vào 2/6/2006 tại thành phố Hồ Chí Minh với sự tham gia của 30 ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, 150 doanh nghiệp Dệt may Việt Nam và các nhà cung cấp thiết bị nước ngoài với mục đích chính là xúc tiến đầu tư vào Dệt may Việt Nam. Theo hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), Tập đoàn Pamatex Berhad (Malaixia) với vốn đầu tư hơn 100 triệu USD đã được cấp phép đầu tư vào khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam), Công ty Daewon (Hàn Quốc) quyết định đầu tư xây dựng 1 nhà máy may xuất khẩu trị giá 8 triệu USD tại khu công nghiệp Hòa Khánh (Đà Nẵng) sau khi đã đầu tư 1 nhà máy may tại khu công nghiệp Vĩnh Lộc ( thành phố Hồ Chí Minh) và một nhà máy dệt tại khu công nghiệp Nhơn Trạch I (Đồng Nai). Qua các sự kiện trên cho thấy triển vọng huy động vốn cho ngành từ đầu tư nước ngoài là rất lớn. Hiện nay, trong tất cả các nguồn vốn trong và ngoài nước thì vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất, vốn tín dụng thương mại chiếm 30%, ODA là 20%, vốn tự có và ngân sách là thấp nhất. II. PHƯƠNG THỨC ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ Đa số các doanh nghiệp sử dụng kết hợp nhiều phương thức, rất ít doanh nghiệp chỉ sử dụng một phương thức đổi mới công nghệ. Trong đó, tự tổ chức nghiên cứu được tiến hành song song với việc mua công nghệ mới nhằm mục đích tăng hiệu quả ứng dụng và vận hành công nghệ. Bảng 5: Phương thức đầu tư đổi mới công nghệ của 64 doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Phương thức đầu tư Tỷ lệ (%) Tự tổ chức nghiên cứu và thiết kế trong nội bộ doanh nghiệp 32 Hợp tác với cơ quan khoa học nước ngoài 26 Hợp tác với cơ quan khoa học trong nước 5 Bắt chước thiết kế lại theo mẫu 54 Mua công nghệ từ trong nước 20 Mua công nghệ từ nước ngoài 54 Liên doanh liên kết với doanh nghiệp trong nước 20 Liên doanh liên kết với doanh nghiệp nước ngoài 23 Thuê tư vấn trong nước 18 Thuê tư vấn nước ngoài 3 Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu trên thấy rằng đa số các doanh nghiệp lựa chọn hình thức khép kín, ít có sự giao lưu hợp tác với nước ngoài. Phương thức được áp dụng nhiều nhất là mua công nghệ từ nước ngoài và bắt chước thiết kế lại theo mẫu đều được 54% doanh nghiệp áp dụng. Hai phương thức này có chung một ưu điểm là đều tiết kiệm được thời gian và chi phí nghiên cứu. Đặc biệt với phương thức mua công nghệ từ nước ngoài thì có thêm một số ưu điểm như: Tạo được sự tiến bộ đáng kể về thương mại và kỹ thuật thông qua việc mua công nghệ từ nước ngoài: Khi mua công nghệ thì các doanh nghiệp sẽ có cơ hội nhận được sự cung cấp tài liệu và huấn luyện đầy đủ để nâng cao kiến thức của mình trong vận hành và sử dụng công nghệ, từ đó tăng khả năng sản xuất của máy móc thiết bị và áp dụng quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm một cách thành công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài chính, tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm của bên cung cấp còn mở ra một khả năng thương mại cho các doanh nghiệp của chúng ta. Được tiếp xúc, trao đổi thông tin và kinh nghiệm với bên cung cấp công nghệ nhằm phục vụ cho lợi ích của mình: Ngoài khả năng có những tiến bộ trực tiếp về thương mại và công nghệ, sự hợp tác này còn đem lại cho các doanh nghiệp dệt may sự tiếp xúc và đối thoại thường xuyên với nhà cung cấp nước ngoài. Các doanh nghiệp sẽ có địa chỉ của nhà cung cấp để giải đáp những thắc mắc của mình và có nguồn thông tin để giải quyết những vấn đề khác, được phổ biến tình hình thực tế về những cải tiến và sáng kiến, các thị trường và xu hướng phát triển. Các doanh nghiệp nên tận dụng những thông tin có giá trị đó. Ngoài ra bên nhận công nghệ còn có thể sử dụng kinh nghiệm của bên cung cấp để sử dụng công nghệ có hiệu quả. Có thể có được những điều khoản hợp đồng có lợi: Việc đàm phán hợp đồng tiếp nhận công nghệ có thể tạo ra nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên,việc mua công nghệ từ nước ngoài cũng có nhiều hạn chế, có thể gây cho các doanh nghiệp dệt may nhiều rủi ro Thứ nhất, bên nhận công nghệ sẽ trở nên thụ động, bị lệ thuộc vào cơ quan nước ngoài đến khi nào nắm vững đầy đủ và thích ứng tới mức cần thiết công nghệ với điều kiện của mình. Mua công nghệ đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không tự nghiên cứu trong nội bộ và như vậy thì doanh nghiệp sẽ đánh mất sự chủ động sáng tạo, công tác tổ chức nghiên cứu sẽ không thể phát triển được. Thậm chí còn xảy ra tình trạng doanh nghiệp phải thay đổi điều kiện của mình để có thể tiếp nhận công nghệ. Thứ hai, có thể có rủi ro, thất bại về kỹ thuật khi được chuyển giao: Với trường hợp mua công nghệ đã qua sử dụng thì rủi ro mua phải công nghệ đã quá lạc hậu là rất lớn. Còn đối với công nghệ mới thì mặc dù đã được xem xét cẩn thận vẫn còn có những rủi ro do những thiếu sót trong công nghệ. Các doanh nghiệp phải hết sức thận trọng khi đánh giá năng lực sở tại hiện có và khả năng của mình để tiếp nhận và làm chủ công nghệ được chuyển giao. Chỉ có sự đánh giá đầy đủ ưu, nhược điểm của công nghệ và bên cung cấp kỹ thuật mới có thể giúp đỡ để hạn chế thấp nhất rủi ro. Thứ ba là rủi ro xuất phát từ bản thân bên cung cấp công nghệ về kiến thức, kinh nghiệm Thứ tư là rủi ro do các điều khoản bất lợi trong hợp đồng: Trước khi đi đến kết luận cuối cùng, bên nhận phải nhận định xem các điều khoản đàm phán có lợi cho mình không. Việc giữ bí mật về các vấn đề đã thảo luận này thường cản trở các nhà kinh doanh nhận công nghệ tham khảo ý kiến của luật sư, cố vấn. III. NỘI DUNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ Nói đến đầu tư đổi mới công nghệ luôn bao gồm cả phần cứng và phần mềm. Phần cứng là các máy móc thiết bị ngành dệt may còn phần mềm là nguồn nhân lực để vận hành máy móc đó. Các doanh nghiệp nên chú trọng cả hai vấn đề này thì việc đầu tư đổi mới công nghệ mới có kết quả. Trước hết chúng ta xem xét về phần cứng. Trong 5 năm 2000-2005, số lượng máy móc thiết bị của toàn ngành và Vinatex có sự thay đổi đáng kể được trình bày ở bảng sau. Bảng 6: Nội dung đầu tư đổi mới công nghệ ngành dệt may và Vinatex Danh mục Đơn vị Năm 2000 Năm 2005 Toàn ngành Vinatex Toàn ngành Vinatex Năng lực sản xuất -Bông -Sợi -Vải -Khăn -Sản phẩm may tấn tấn triệu m tấn triệu sp 8.000 85.000 304 25.000 400 6.400 75.000 139 5.200 110 16.750 260.000 800 32.000 1.200 16.000 118.700 205.000 8.500 360 Trang thiết bị -Kéo sợi nồi cọc -Kéo sợi OE -Dệt vải -Dệt kim -May cọc sợi rôto máy dệt máy dệt kim máy may 1.050.000 3.520 14.000 1.110 190.000 900.000 2.000 6.320 130 28.000 2.487.000 17.870 17.437 4.972 145.300 1.274.000 11.300 5.015 720 41.460 Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam 1. Thiết bị kéo sợi Được đầu tư nâng cấp từng giai đoạn với lượng vốn đầu tư khác nhau.Giai đoạn 1991-1995, ngành dệt đầu tư 39,96 triệu USD để thay mới, thay thế đồng bộ và cục bộ các máy cũ của Tây Âu và nâng cấp cải tạo các cọc sợi bên cạnh việc mua mới 201.906 cọc sợi. Do đó sợi dệt công nghệ mới đạt chất lượng cao. Đến giai đoạn 1996-2004 thiết bị kéo sợi tiếp tục được đầu tư đổi mới đáp ứng yêu cầu của ngành gồm nhiều chủng loại, xuất xứ từ Tây Âu, Nhật Bản20,2% thiết bị từ Italy; 19,97% từ Thụy Sỹ; 18,25% từ Trung Quốc; 16,65% từ Đức với tổng vốn đầu tư là 1.976,5 triệu USD. Năm 2005, ngành dệt có 2.487.000 cọc sợi (17.870 rôto) trong đó đầu tư mới 502.000 cọc sợi, sản xuất 260.000 tấn sợi một năm. Tuy nhiên theo đánh giá của các chuyên gia thì trình độ công nghệ của tiểu ngành vẫn ở mức trung bình và lạc hậu đòi hỏi phải đầu tư hơn nữa. 2. Thiết bị, công nghệ dệt thoi Giai đoạn 1991-1995 vốn đầu tư cho thiết bị dệt thoi là 14,09 triệu USD chủ yếu thay mới các thiết bị đã quá cũ và lạc hậu so với khu vực và thế giới, đầu tư nâng cấp những thiết bị đã qua sử dụng nhưng năng lực thực tế vẫn chấp nhận được.Thiết bị chủ yếu có xuất xứ từ Hàn Quốc, Nhật BảnTừ năm 1996 đến nay toàn ngành có 6000 thiết bị mới được đầu tư với lượng vốn đầu tư là 78,5 triệu USD. Hiện nay có 17.437 máy dệt sản xuất 800 triệu m vải, 32.000 tấn khăn bông nhưng chất lượng vải còn hạn chế. Vải dệt thoi xuất khẩu và cung cấp cho may xuất khẩu chỉ khoảng 13-14%. Nguyên nhân là do trình độ công nghệ ở mức trung bình không đáp ứng được yêu cầu vải xuất khẩu. Vì vậy, tăng đầu tư cho thiết bị dệt thoi sẽ góp phần tăng giá trị xuất khẩu. 3. Thiết bị, công nghệ dệt kim Vào giai đoạn 1996-2000, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã đầu tư dây chuyền công nghệ dệt kim mới của châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc kết hợp với đầu tư sửa chữa máy móc đã qua sử dụng, phát huy hiệu quả cao và năng lực sản xuất đã tăng lên với 1.110 máy dệt kim, đạt hơn 70.000 tấn sản phẩm mỗi năm. Từ năm 2000 đến nay, để đáp ứng chất lượng hang hoá xuất khẩu vào các thị trường khó tính như Mĩ, tiểu ngành dệt kim đã tăng tốc trong việc cải thiện trình độ công nghệ. Đến năm 2005, toàn ngành có tới 4.972 máy dệt kim và được đánh giá là trình độ công nghệ trung bình khá và đã cải thiện được một số vấn đề về công nghệ như giảm tỷ lệ tiêu hao nguyên liệu, thay đổi mặt hàng, sản xuất các loại vải mật độ cao, ổn định kích thước, ít lỗi 4. Thiết bị, công nghệ ở khâu in nhuộm, hoàn tất Theo thống kê của Vinatex, giai đoạn 2000-2004, các doanh nghiệp thành viên đã đầu tư khoảng 1.208,67 tỷ đồng cho việc thay mới và bổ sung, nâng cấp thiết bị công nghệ in, nhuộm, hoàn tất. Trong đó, đa số thiết bị được nhập từ các nước Tây Âu với tổng giá trị 321,5 tỷ đồng, chiếm 56% tổng giá trị; tiếp đó là máy móc Đài Loan với tổng giá trị 102,4 tỷ đồng, chiếm 16% và Nhật Bản với tổng vốn đầu tư khoảng 68,2 tỷ đồng, chiếm 14% ... Các thiết bị công nghệ mua ở thị trường trong nước rất ít, chỉ khoảng 1,984 tỷ đồng chiếm 0,3% tổng vốn đầu tư mới. 5. Đầu tư cho thiết bị, công nghệ ngành may Nếu như ngành dệt chủ yếu sản xuất đầu vào cho ngành may thi ngành may lại là ngành trực tiếp tạo ra sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu. Vì vậy vấn đề nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm là hết sức cần thiết. Giai đoạn 1991-1995, ngành may đã đầu tư 267,3 tỷ đồng với 19.527 máy may. Các máy may mới đều là những máy khá hiện đại so với thiết bị may thế giới và khu vực, có tốc độ cao, bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh, Bước sang giai đoạn 1996-2005,toàn ngành lại tiếp tục đầu tư cho máy móc thiết bị ngành may. Trong giai đoạn này, Vinatex đã đầu tư 356,8 tỷ đồng cho thiết bị công nghệ ngành may, chiếm 28,7% tổng vốn đầu tư của Tổng công ty; trong đó, tổng đầu tư của các doanh nghiệp may là 260,2 tỷ đồng, chiếm 87% tổng vốn đầu tư cho thiết bị công nghệ may mặc và các doanh nghiệp dệt đầu tư cho may là 50,3 tỷ đồng, chiếm 13%. Đầu tư máy móc thiết bị ngành may hiện nay dịch chuyển theo hướng tăng cường các sản phẩm cao cấp, hướng vào các thị trường mục tiêu. Trong thời gian qua, những doanh nghiệp đi đầu trong việc đầu tư đổi mới công nghệ phải kể đến doanh nghiệp may Việt Tiến, May 10, may Nhà Bè Nhìn vào các con số thống kê có thể thấy rằng, các doanh nghiệp dệt may đã tập trung một lượng vốn lớn cho đầu tư hiện đại hoá và đổi mới trang thiết bị công nghệ của ngành. Những nỗ lực đó đã mang lại nhiều kết quả khả quan như năng lực sản xuất tăng lên, công nghệ và thiết bị được hiện đại hóa, cải thiện kim ngạch xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường quốc tế. Trong năm 2005, toàn ngành đã thực hiện và triển khai được nhiều dự án đổi mới công nghệ như dự án đầu tư mới và mở rộng của công ty Dệt Đông Á, đầu tư mới tại công ty dệt may Hà Nội tăng năng lực sản xuất thêm 2.494 tấn sợi/năm; công ty May 10 đã đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại để tăng năng lực thêm 200.000 bộ veston/năm, ngoài ra còn có các dự án bổ sung dây chuyền kéo sợi của công ty dệt may Hòa Thọ, đầu tư máy móc thiết bị mới tại công ty dệt Phong Phú, dệt Thành Công, dệt may Nha Trang Năm 2006, tập đoàn dệt may Việt Nam dành 1773 tỷ đồng cho đầu tư đổi mới công nghệ dệt may. Trong đó, nội dung đầu tư gồm đầu tư nâng cấp và mở rộng khâu hoàn tất vải dệt thoi như nâng cấp và mở rộng các nhà máy nhuộm của Dệt Nam Định, Dệt May Thắng Lợi, Dệt Việt Thắng trên cơ sở cổ phần hóa hoặc liên doanh với các đối tác nước ngoài. Đẩy nhanh tiến độ di dời kết hợp hiện đại hóa các công ty dệt 8/3, Dệt Nam Định, Dệt kim Đông Xuân,Nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới và sản phẩm dệt thoi trên cơ sở vải cotton CLC, vải spandex, vải thời trang; các sản phẩm dệt đa chức năng, kỹ thuật và nhóm sản phẩm nội thất: vải bọc, đồ dùng gia đình, xe hơi, thảm trải sàn,Tập đoàn dệt may Việt Nam cũng đầu tư nâng cao năng suất lao động trọng tâm vào khâu kéo sợi, dệt thoi, may mặc với chỉ tiêu tăng 20-30% so với hiện nay. Cùng với việc đầu tư vào máy móc thiết bị thì các doanh nghiệp cũng không quên đầu tư vào đội ngũ công nhân kĩ thuật là những người vận hành máy móc thiết bị đó. 6. Đầu tư nguồn nhân lực ngành dệt may Ngành Dệt may Việt Nam hiện đang sử dụng gần 1,1 triệu lao động trong các dây chuyền công nghệ (riêng ngành may là trên 900.000 người). Ngoài ra còn khoảng 1 triệu lao động đang tham gia trong các hộ gia đình và hợp tác xã chưa kể đến số lao động trong ngành trồng bông và dâu tơ tằm. Tuy nhiên, chất lượng lao động lại đặt ra nhiều vấn đề đối với doanh nghiệp dệt may, nguồn nhân lực hiện đại trình độ chưa cao song khả năng đào tạo lại rất hạn chế. Do đặc trưng của ngành là lao động cần cù, khéo léo và tỉ mỉ nên lao động nữ chiếm số đông. Trong toàn ngành dệt may, lao động nam ngành dệt chiếm 5,72%, lao động nam ngành may chiếm 17,3%; lao động nữ ngành dệt chiếm 12,28% ,lao động nữ ngành may chiếm 64,7%. Tỷ lệ lao động nữ ngành dệt gấp đôi nam; ngành may thì sự chênh lệch này còn lớn hơn là gấp 3 lần. Điều này đặt ra một nhu cầu đối với các doanh nghiệp phải tổ chức làm việc hợp lý, phù hợp với sức khỏe nữ giới. Một thực tế nữa là mặc dù ngành thu hút nhiều lao động nhưng chất lượng lao động là quá thấp. Trong ngành dệt, lượng lao động qua đào tạo chỉ chiếm 35,1%; trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học chỉ chiếm 7%. Trong ngành may, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp hơn, chiếm 18,24% tổng số lao động; trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học chỉ dừng lại ở mức 4,16%. Bảng 7: Trình độ lao động trong các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam. Trình độ lao động Tỷ lệ trong các doanh nghiệp dệt (%) Tỷ lệ trong các doanh nghiệp may (%) Lao động phổ thông 65,9 81,76 Công nhân 19,2 6,53 Kỹ thuật viên 3,3 3,92 Trung cấp 4,6 3,63 Đại học và cao đẳng 6,9 4,15 Trên đại học 0,1 0,01 Đối với lao động trực tiếp sản xuất, phần lớn là người ngoại tỉnh lao động phổ thông (trên 60%), trình độ văn hóa thấp, trình độ khi vào doanh nghiệp là dưới cơ bản. Hầu hết các doanh nghiệp đều phải tự đào tạo công nhân trước khi đưa vào dây chuyền sản xuất. Do đó, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong quản lý và tổ chức sản xuất: - Nhận thức về pháp luật, chính sách lao động, nội quy kỉ luật, đặc biệt là kỹ thuật công nghệ hiện đại của người lao động rất hạn chế - Trình độ văn hóa và tay nghề của cán bộ quản lý hạn chế dẫn tới việc tổ chức sản xuất kém hiệu quả, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém. Điều này dẫn tới thu nhập của người lao động thấp, lại phải tăng giờ tăng ca để kịp hợp đồng. - Thời gian eo hẹp nên việc tổ chức học tập văn hóa, nâng cao tay nghề cũng như tổ chức một cuộc sống cân đối giữa lao động và nghỉ ngơi, tái sản xuất sức lao động cho người lao động hầu như không thể thực hiện được. Bảng 8: Đặc điểm lao động ngành Dệt may thành phố Hồ Chí Minh Yếu tố phân tích Tỷ lệ (%) Yếu tố phân tích Tỷ lệ (%) 1. Nguồn lao động - Lao động nhập cư - Lao động nữ 59 76 4. Chuyên môn (LĐ quản lý) - Trung cấp - Cao đẳng - Đại học - Không có bằng cấp chính quy 10,5 8,2 6,5 74,8 2. Độ tuổi Dưới 20 tuổi Từ 21-30 tuổi Từ 31-40 tuổi Trên 40 tuổi 23 47 24 6 5. Hình thức đào tạo - Chính quy trước khi nhận việc - Đào tạo tại chức - Đào tạo ngắn hạn - Chưa được đào tạo trước 12,5 12,7 14,5 60,3 3. Trình độ văn hoá - Cấp I - Cấp II - Cấp III - Tốt nghiệp cấp III 21 61 14 4 Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex). Với đặc điểm nguồn lao động như vậy là một cản trở lớn cho quá trình đầu tư đổi mới công nghệ. Chúng ta có một thế mạnh là lao động tuổi đời còn rất trẻ, có sức khoẻ tốt, dễ tiếp thu kiến thức mới. Theo điều tra, trong ngành may, lao động dưới 30 tuổi chiếm 64,2% còn trong ngành dệt thì số lao động này thấp hơn là 38,3%. Tuy nhiên, những lao động này lại thiếu kinh nghiệm, rất cần sự hướng dẫn của những thế hệ đi trước, đặc biệt trong tình trạng đa số các doanh nghiệp vẫn lựa chọn hình thức tự đào tạo. Điều đáng quan tâm trong nguồn nhân lực các doanh nghiệp dệt may là nguồn nhân lực công nghệ. Họ là một trong những nhân tố quan trọng không những quyết định sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn là hạt nhân của quá trình đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Nhưng thực tế lại cho thấy lực lương này còn quá ít. Đồng thời, do hạn chế về trình độ nên năng lực chỉ dừng lại ở vận hành và tiếp thu công nghệ một cách thụ động, thiếu sáng tạo. IV. HẠN CHẾ TRONG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 1. Hạn chế Nhờ việc đầu tư đổi mới công nghệ mà hàng dệt may của chúng ta đã có chỗ đứng vững chắc hơn trên thị trường.Mặc dù hàng dệt may của ta chưa rẻ và mẫu mã đẹp như hàng của nước bạn Trung Quốc nhưng cũng đã được nhiều nước bạn hàng có nhận xét là chất lượng khá tốt. Rõ ràng việc đầu tư đổi mới công nghệ mang lại kết quả cuối cùng là sức cạnh tranh của hàng hóa tăng lên, song các doanh nghiệp còn mang rất nhiều hạn chế. 1.1. Lượng vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp còn thấp Tuy các doanh nghiệp đã có nhận thức mới về tầm quan trọng của đổi mới công nghệ nhưng theo khảo sát tại 64 doanh nghiệp dệt may thì tỷ lệ đầu tư cho đổi mới công nghệ trung bình trong 3 năm 2001-2003 chỉ đạt khoảng 3% trong tổng doanh thu. Tính trung bình cho một doanh nghiệp có tiến hành đổi mới công nghệ, số vốn mà doanh nghiệp bỏ ra là 5 tỷ đồng một năm. Trong đó, tỷ trọng vốn đầu tư cho phần cứng cao hơn phần mềm. Theo số liệu thống kê của tổng công ty dệt may Việt Nam, trong năm 2005, có 29 dự án đầu tư đổi mới công nghệ chuyển tiếp, trong đó chỉ có 3 dự án trên 100 tỷ đồng, còn lại số vốn khá nhỏ. 1.2. Đầu tư đổi mới công nghệ vẫn thiếu đồng bộ Hiện nay, một trong những chủ trương của ngành dệt may là đầu tư thiết bị công nghệ đồng bộ nhưng trên thực tế chúng ta chưa làm được điều này. Trong 29 dự án đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp thành viên của Vinatex thì có 3 dự án rất nhỏ lẻ, chỉ đầu tư một dây chuyền sản xuất như dự án máy nhuộm cao áp của doanh nghiệp dệt Phong Phú (tổng số vốn 3,7 tỷ đồng), dự án máy Compact của doanh nghiệp dệt Thành Công (2,3 tỷ đồng), dự án thiết bị lẻ đánh máy ống của doanh nghiệp Nha Trang (8,45 tỷ đồng). Trong số 29 dự án đó chỉ có duy nhất một dự án đầu tư vào công nghệ phần mềm là xây dựng mạng thông tin quản lý của công ty May 10. 1.3. Hiệu quả của vốn đầu tư đổi mới công nghệ còn thấp Xét về hiệu quả vốn đầu tư thì ngành may đạt hiệu quả cao hơn ngành dệt. Với mỗi đồng vốn đầu tư cho ngành dệt thì thu về 2,53 đồng doanh thu thì ở ngành may sẽ thu về 4,14 đồng doanh thu (2005). Nguyên nhân là do công nghệ của ngành dệt rất phức tạp nên đầu tư phải với lượng vốn lớn, mà sản phẩm dệt hiện nay chất lượng còn thấp, chưa cạnh tranh được với các nước khu vực đặc biệt là Trung Quốc. Trên đây là những hạn chế còn tồn tại trong ngành dệt may mà nếu không được giải quyết nhanh chóng sẽ trở thành thách thức đối với sự phát triển của ngành. Muốn tìm được giải pháp phù hợp và hiệu quả thì ngành phải tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó. 2. Nguyên nhân 2.1. Khó khăn về vốn đầu tư Không chỉ đối với ngành dệt may mà đối với hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam, vấn đề thiếu vốn là vấn đề nan giải. Trong điều kiện phải cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng của các nước xuất khẩu dệt may lớn thế giới, ngành dệt may Việt Nam đòi hỏi lượng vốn đầu tư khá lớn hàng năm. Tuy nhiên khả năng vốn tự có của mỗi doanh nghiệp để phục vụ cho đầu tư đổi mới công nghệ chỉ đạt khoảng 10-15%, khoảng 20% vốn do ngân sách nhà nước cấp (đối với doanh nghiệp nhà nước), còn lại các doanh nghiệp phải tự lo bằng cách vay với lãi suất cao nên năng lực của ngành rất hạn chế. 2.2. Sự liên kết giữa ngành dệt và may chưa hiệu quả Mặc dù ngành dệt và may là hai ngành cần có sự liên kết hiệu quả vì đầu ra của ngành dệt là nguyên liệu của ngành may. Để đầu tư có hiệu quả thì các doanh nghiệp không thể không chú trọng đến sự liên kết này vì như vậy thì đầu tư mới đồng bộ, mới tận dụng được hết công suất của máy móc thiết bị. Nhưng trên thực tế thì sự gắn kết giữa hai ngành này còn lỏng lẻo, sự đầu tư cho ngành may chưa hẳn là đầu tư cho đầu ra của ngành dệt và ngược lại. 2.3. Chưa có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực công nghệ đúng đắn Lợi thế của chúng ta là nguồn nhân lực dồi dào nhưng lao động của ta chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, thiếu lao động lành nghề Vì vậy khi muốn đầu tư mua mới dây chuyền công nghệ doanh nghiệp phải đồng thời đầu tư cho công tác đào tạo nguồn nhân lực mà khoản phí đào tạo không phải là nhỏ. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng gặp phải khó khăn đó và hiện nay ngành cũng chưa có chiến lược đào tạo tương xứng với tầm vóc và triển vọng phát triển của ngành. Xét về số lượng thì số trường đào tạo kỹ sư chuyên ngành dệt may còn thiếu, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của ngành. Xét về chất lượng thì kiến thức cơ bản của chuyên ngành cung cấp cho sinh viên còn yếu, thiếu trầm trọng, chưa cập nhật trình độ khoa học công nghệ của sản xuất. Bên cạnh đó cơ sở vật chất của các trường đào tạo quá yếu, thiếu sự thực hành và giao lưu trao đổi với cán bộ kỹ thuật trong và ngoài nước. 2.4. Ngành công nghiệp phụ trợ còn yếu Các ngành công nghiệp phụ trợ như ngành cơ khí chưa được đầu tư phát triển hợp lý nên ngành dệt may hiện nay vẫn phải nhập máy móc thiết bị với giá cao để phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, các ngành sản xuất nguyên phụ liệu chưa được đầu tư đúng hướng, phải nhập nhiều nguyên phụ liệu đã làm cho doanh nghiệp thụ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ I. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 1. Định hướng Theo chiến lược “tăng tốc” phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010 nhằm giải quyết việc làm và nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp nên chú trọng đầu tư các công nghệ mới nhất với thiết bị hiện đại nhằm tạo ra một bước nhảy vọt về chất lượng và số lượng. Mặt khác, các doanh nghiệp cần coi trọng tận dụng các thiết bị đã qua sử dụng với các công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển, thế hệ từ những năm 90 trở lại đây. Chiến lược cũng chỉ rõ rằng các doanh nghiệp nên đầu tư phát triển dệt may theo hướng chuyên môn hóa cao theo từng loại công nghệ.Có như vậy mới tạo ra bước nhảy vọt về chất lượng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần thiết phải làm chủ một vài loại công nghệ để tạo ra những mặt hàng tạo ra những mặt hàng mới chất lượng cao, xây dựng mối cung cầu giữa các doanh nghiệp trên cơ sở hợp tác thương mại. 2. Mục tiêu Đảng và nhà nước ta đặt ra mục tiêu chiến lược phát triển ngành dệt may tới 2015 là “phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới”. Bảng 5: Các chỉ tiêu chủ yếu ngành Dệt may Việt Nam 2005-2020 Chỉ tiêu Đơn vị Thực hiện Mục tiêu 2004 2005 2010 2015 2020 1. Doanh thu Nội địa Xuất khẩu triệu $ triệu $ triệu $ 5566 1180 4386 6100 1300 4800 10800 2800 8000 18500 5500 13000 31000 10000 21000 2. Sử dụng lao động 1000 người 2000 2100 2450 2850 3280 3. Sản phẩm chính Bông xơ Sợi tổng hợp Sợi Vải lụa Sản phẩm dệt kim Sản phẩm may 1000 tấn 1000 tấn 1000 tấn triệu m triệu sp triệu sp 10,0 - 239 518,2 142,2 926 11,0 - 260 600 150,2 1100 20,0 260,0 350 1000 230 1800 40,0 400,0 500 1500 300 2850 60,0 600 650 2000 400 4000 4. Tỷ lệ nội địa hóa % 31,8 38 45 55 65 Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam (Vinatex) Chúng ta đặt mục tiêu đến năm 2020: - Dịch chuyển và tái cơ cấu lại nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các khu vực, hình thành khu vực kinh tế, dịch vụ, thương mại dệt may nhằm lôi cuốn phát triển sản xuất các khu vực khác. - Đảm bảo doanh nghiệp phát triển bền vững với việc giữ gìn môi trường trong sạch. - Hướng tới sản xuất kinh doanh các sản phẩm dệt may có giá trị cao phục vụ xuất khẩu và đáp ứng tiêu dùng trong nước. - Tăng trưởng dệt may hàng năm 14-16% ; tăng trưởng xuất khẩu 10-12%. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP 1. Giải pháp huy động vốn đầu tư Nhu cầu vốn đầu tư cho dệt may là rất lớn, khoảng 3 tỷ USD giai đoạn 2005-2010, đây không phải là nguồn vốn nhỏ nên để có thể huy động được cần phải thực hiện nhiều giải pháp. Thứ nhất, nhà nước và các doanh nghiệp cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cả trong và ngoài nước. Muốn làm được điều này đòi hỏi phải có sự kết hợp từ cả hai phía.Về phía nhà nước, cần hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cả về hạ tầng cứng và hạ tầng mềm.Về phía các doanh nghiệp, cần phát triển uy tín, thương hiệu, chất lượng để việc huy động vốn từ các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính... Thứ hai, đẩy mạnh kênh huy động vốn là thị trường chứng khoán. Trên thực tế thì ở nước ta thị trường chứng khoán tuy đã có nhiều thay đổi nhưng nhìn chung quy mô còn nhỏ bé, hoạt động chưa sôi động và hiệu quả.Vì vậy để phát triển kênh huy động vốn này thì cần có thời gian và thực hiện đồng thời nhiều biện pháp. Tuy nhiên trong thời gian tới đây sẽ là kênh huy động vốn có hiệu quả và là giải pháp quan trọng với tất cả các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng. Do đó, các doanh nghiệp cần tiến hành ngay việc nghiên cứu và áp dụng các hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ. Thứ ba, phát huy hiệu quả hoạt động của công ty tài chính dệt may,tăng vốn pháp định để tăng khả năng cho các doanh nghiệp dệt may vay trung và dài hạn, đa dạng hoá khách hàng, điều chỉnh lãi suất phù hợp để huy động vốn. Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động thuê tài chính. Đây là giải pháp cần thiết và rất hiệu quả cho các doanh nghiệp thiếu vốn. Thuê tài chính là hình thức đầu tư tín dụng trung và dài hạn bằng hiện vật đối với các doanh nghiệp thiếu vốn trên cơ sở lựa chọn các máy móc thiết bị phù hợp với yêu cầu sử dụng của doanh nghiệp mình. Kết thúc thời gian thuê, bên thuê có thể mua lại máy móc thiết bị theo giá thoả thuận. 2. Giải pháp lựa chọn phương thức đầu tư Hiện nay, các doanh nghiệp dệt may chủ yếu mua công nghệ từ nước ngoài, một số doanh nghiệp tuy có tự tổ chức nghiên cứu nhưng đa số vẫn là khép kín, việc liên doanh liên kết với nước ngoài và với các đơn vị chuyên môn còn rất hạn chế. Điều này tất nhiên sẽ làm cho việc nghiên cứu của các doanh nghiệp ít thành công. Mà giải pháp mua công nghệ từ nước ngoài có rất nhiều hạn chế như phần trên đã trình bày. Vì vậy, về lâu dài thì giải pháp tốt nhất mà các doanh nghiệp nên lựa chọn là tự nghiên cứu nhưng có sự hợp tác với cơ quan khoa học trong và ngoài nước, hoặc có thể thuê tư vấn về chuyên môn. Chúng ta có một đội ngũ khoa học là các sinh viên trong các trường đại học được đào tạo về chuyên ngành dệt may nhưng họ lại không được đầu tư thích đáng để đạt được trình độ đáp ứng được nhu cầu của ngành. Một bài học lớn từ hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài là sự liên kết chặt chẽ của họ với các trường đại học để có thể có những dự án được các sinh viên đại học thực hiện từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường và những dự án khả thi sẽ được đưa vào thực tiễn. Ở nước ta các doanh nghiệp có thể liên kết với Trường đại học Bách Khoa Hà Nội, Trường đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, Viện nghiên cứu kĩ thuật Dệt may để tiến hành các nghiên cứu về công nghệ. 3. Giải pháp đổi mới công nghệ 3.1. Về công nghệ 3.1.1. Công nghệ nhập từ nước ngoài Để có được các mặt hàng chất lượng cao, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm thì khi nhập những công nghệ, trang thiết bị tiến tiến, ngành phải chú ý xem xét các vấn đề sau: - Công nghệ nhập có phù hợp với tình hình đất nước và chính sách khoa học công nghệ không. - Công nghệ nhập có lợi ích cho việc nâng cao trình độ khoa học công nghệ và trinh độ phát triển sản xuất hay không, có kết hợp được với việc nghiên cứu khoa học, sản xuất, và nâng cao khả năng tự mình khai thác phát triển ở trong nước hay không. - Về tiêu chuẩn của công nghệ nhập, có thể trực tiếp sử dụng tiêu chuẩn quốc tế, hoặc tiêu chuẩn thông dụng quốc tế hay không; có thể xây dựng, kiện toàn hoặc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn công nghệ nhập trong nước hay không. - Về lợi ích kinh tế xã hội của công nghệ nhập, công nghệ đó phải phát huy được lợi thế tài nguyên của nước ta, là công nghệ sạch không gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề ở đây là chúng ta phải chọn đúng công nghệ mà ta đang cần và có thể đẩy mạnh được sản xuất phát triển, đồng thời tiếp thu và làm chủ được công nghệ nhập. Từ nay đến năm 2010, ngành dệt may nên coi trọng công nghệ nhập để tạo ra bước phát triển đột phá cho toàn ngành. Về phía các doanh nghiệp nên có sự lựa chọn kỹ, chủ động tìm kiếm thông tin về công nghệ hoặc thông qua tư vấn. Các doanh nghiệp cũng phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện và tiền đề để sẵn sàng đón nhận công nghệ mới và nhanh chóng đưa vào hoạt động khai thác có hiệu quả. Đồng thời cần cải tiến và thích ứng công nghệ với điều kiện của nước sở tại. Mỗi công nghệ sinh ra trong một môi trường và ít nhiều phụ thuộc vào môi trường đó. Vì vậy phải có những cải tiến để công nghệ đó thích nghi với điều kiện địa phương. Sự cần thiết và tính hợp lý của hoạt động này được giải quyết tốt nhất bằng cách thử nghiệm và thí nghiệm trong nước. Các doanh nghiệp cần phải thu thập thông tin, cung cấp tài liệu thích hợp và cộng tác với cơ quan nghiên cứu và triển khai của nhà cung cấp để tìm ra những giải pháp thích hợp. Một kinh nghiệm cho thấy các doanh nghiệp không nên nhập những công nghệ quá tối tân nhưng lại có khoảng cách khá xa với trình độ của công nhân ở doanh nghiệp mình vì như thế sẽ không làm chủ được công nghệ và cản trở quá trình vận hành. Ngoài ra, cũng cần phải tổ chức tốt khâu thẩm định, kiểm tra khi nhập công nghệ, tránh tình trạng nhập công nghệ đã cũ và lạc hậu. Bên cạnh đó còn phải chú ý việc tổ chức tốt đội ngũ cán bộ, công nhân để có thể tiếp thu tốt các công nghệ nhập, đưa công nghệ vào sản xuất ổn định. Khi đã nhập công nghệ mới thì doanh nghiệp cũng nên tự sản xuất một số phụ tùng thay thế để phát huy hết công suất của thiết bị và khả năng của công nghệ, tạo sản phẩm giá trị cao. 3.1.2. Công nghệ trong nước Để phát huy tính chủ động và nâng cao khả năng sáng tạo của doanh nghiệp, đồng thời với công nghệ nhập doanh nghiệp cũng nên đẩy mạnh các hoạt động sáng kiến, sáng chế để tạo ra các giải pháp công nghệ, bí quyết sản xuất nâng cao năng suất, chất lượng, tạo mặt hàng có giá trị cạnh tranh cao. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải: - Đẩy mạnh hoạt động khoa học của các viện nghiên cứu, trường đào tạo, phòng thí nghiệm, trung tâm thông tin, tư vấn để nâng cao hay bổ sung kiến thức, thông tin khoa học công nghệ cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật. - Nghiên cứu những thiết bị công nghệ cần mở rộng cải tiến mà Việt Nam có thể tự giải quyết được. - Phục hồi, nâng cao các kỹ thuật, công nghệ cổ truyền, mặt hàng truyền thống để tạo ra sản phẩm đặc thù của Việt Nam. - Nâng cao trình độ, công nghệ quản lý. - Đẩy mạnh hoạt động của lĩnh vực thiết kế thời trang và mẫu mốt, sớm hòa nhập với khu vực và thế giới. Ngoài các giải pháp trên, việc chuyển giao công nghệ không nên chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà nên mở rộng ra mọi thành phần kinh tế. Đồng thời, thực hiện việc chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp có vốn lớn sang doanh nghiệp có vốn nhỏ để tiết kiệm chi phí tạo thị trường chuyển giao công nghệ sôi động và liên tục trong nội bộ ngành. 3.2. Về đào tạo nguồn nhân lực Trong bất cứ quá trình chuyển giao công nghệ nào thì việc đào tạo một đội ngũ kỹ thuật đủ sức tiếp cận công nghệ, từ công nhân lành nghề đến kỹ thuật viên, kỹ sư, kỹ sư có trình độ cao để làm chủ công nghệ mới đều không thể thiếu được bởi vì: Thứ nhất, công nghệ là do con người tạo ra nên dù công nghệ có hiện đại đến mức nào đi chăng nữa thì cũng cần phải có sự điều khiển của con người. Thứ hai, khi doanh nghiệp nhập công nghệ mới thì chắc chắn sẽ phải nhập các công nghệ tiên tiến, hiện đại hơn công nghệ vốn có của mình nên các cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp phải nâng cao trình độ để thích ứng kịp với công nghệ đó, tránh tình trạng công nghệ đã nhập về mà không thể hoạt động hoặc hoạt động không thông suốt. Thứ ba, doanh nghiệp cần có một đội ngũ chuyên gia có trình độ để thẩm tra máy móc thiết bị trước khi đi đến quyết định mua công nghệ và các kỹ sư làm chủ công nghệ trong quá trình hoạt động, giảm tối thiểu sự phụ thuộc vào bên cung cấp. Thứ tư, với sự phát triển như vũ bão của nền công nghệ thế giới, muốn nâng cao trình độ khoa học công nghệ chung của ngành cũng như của đất nước thì điều tất yếu là phải nâng cao trình độ của chính con người, nếu không chúng ta sẽ nhanh chóng bị tụt hậu. Nhưng trên thực tế, lượng các trường đào tạo công nghệ kỹ thuật đến cán bộ trung học, đại học, cao học chuyên ngành dệt may còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng, không đáp ứng được yêu cầu về nhân lực của ngành. Toàn ngành chỉ có 4 trường đại học, năng lực mỗi năm khoảng 2000 công nhân, không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp, khi về doanh nghiệp phải tự đào tạo lại. Vì vậy, các doanh nghiệp chủ yếu lựa chọn phương thức tự đào tạo tại đơn vị, đào tạo không có bài bản nên số lao động thay thế hàng năm chất lượng thấp. Số lượng các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật được đào tạo đáp ứng được nhu cầu thực tiễn còn ít hơn. Bởi vậy, cần phải có sự kết hợp giữa doanh nghiệp và nhà trường để đào tạo đồng bộ nguồn nhân lực; từng bước đào tạo lại cán bộ, công nhân cho phù hợp với công nghệ mới, khuyến khích các cơ sở địa phương tự đào tạo trên cơ sở các tiêu chuẩn thống nhất. Cụ thể: -Xây dựng các cơ sở nghiên cứu, đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật trên phạm vi cả nước nhằm phục vụ cho nhu cầu về nhân lực tại chỗ của các doanh nghiệp trên địa bàn hoạt động. Nhà nước cũng cần giao nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể cho các cơ sở để phát huy tính chủ động sáng tạo. - Mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành dệt may: Xây dựng mới trường đào tạo cán bộ quản lý kinh tế- kỹ thuật chuyên ngành dệt may với các nội dung tập trung cho quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, phát triển sản phẩm, thương hiệu và kỹ năng bán hàngĐào tạo hệ cao đẳng, đại học, trung học chuyên nghiệp và kỹ thuật viên các ngành: kỹ thuật công nghệ ngành may, kỹ thuật thiết kế thời trang, sửa chữa khai thác thiết bị cơ khí, điện công nghiệp và dân dụng, tin học ứng dụng, quản trị ngành may Ngoài ra, phải thường xuyên mở lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, công nhân, tổ trưởng, chuyền trưởng ngành, chánh phó quản đốc của các doanh nghiệp. Thường xuyên cử giảng viên đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, có tinh thần trách nhiệm, đủ điều kiện để quản lý. Xây dựng, phát triển các trường theo hướng chuẩn hóa, đảm bảo đủ cơ sở vật chất cho công tác học tập và nghiên cứu bằng việc trang bị đủ các thiết bị tiên tiến, hiện đại; xây dựng chương trình, giáo trình dựa trên cơ sở chương trình khung của Bộ Giáo dục và đào tạo. Tích cực khai thác và học hỏi các giáo trình, chương trình mới của các viện, trường quốc tế thuộc cùng lĩnh vực để bổ sung các môn học có cùng nội dung. Cử cán bộ đi thực tế, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy tại các viện, trường và doanh nghiệp trong và ngoài nước. - Hợp tác, liên kết đào tạo với thị trường trong và ngoài nước. Một thực tế là các học viên của tất cả các loại hình đào tạo dệt may ở nước ta đều đang ở trong tình trạng “học chay” tức là học lý thuyết nhiều hơn thực hành. Vì thế khi ra ngoài thực tế sẽ rất khó khăn để làm quen với công nghệ, hạn chế tính sáng tạo. Do đó, các cơ sở đào tạo cần thiết lập các mối quan hệ mật thiết với thị trường để tìm kiếm sự hỗ trợ về kinh phí đào tạo và trang bị kiến thức thực tế cho sinh viên và các học viên nhiều hơn nữa. Ngoài ra, biện pháp này còn có thể đem lại cho sinh viên những cơ hội việc làm lớn khi đã tốt nghiệp. Về phía doanh nghiệp sẽ thu được rất nhiều lợi ích như tận dụng được chất xám trong nước, phát hiện và nuôi dưỡng nhân tài từ khi họ còn ở trên ghế nhà trường, tiết kiệm chi phí tuyển dụng và đào tạo, có được chương trình đào tạo phù hợp với điều kiện doanh nghiệp mình Các doanh nghiệp và nhà trường cũng nên có những chính sách khuyến khích sinh viên theo học các ngành thuộc lĩnh vực dệt may (công nghiệp dệt, sợi, nhuộm, hoá) và chú trọng phát triển đội ngũ thiết kế thời trang. - Ngoài các hình thức đào tạo chính quy nên mở thêm các loại hình đào tạo khác thường xuyên để nâng cao trình độ cho cán bộ đương chức, cập nhật kiến thức, thông tin mới nhất trong và ngoài nước. Việc bổ túc theo chuyên đề nhằm bồi dưỡng cán bộ về kỹ thuật công nghệ cần thiết cho công tác hiện tại hoặc để giải quyết theo yêu cầu một vấn đề chuyên môn cần tháo gỡ. Như vậy thời gian qua, việc đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp dệt may đạt được nhiều thành tựu như: giá trị sản xuất dệt may hàng năm liên tục tăng lên, cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng dệt may với các nước xuất khẩu dệt may lớn. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế mà nguyên nhân bao gồm ngay từ các đơn vị chủ quản đến mỗi doanh nghiệp: bản thân doanh nghiệp thì thiếu vốn đầu tư, mối liên kết giữa ngành dệt và may còn rất lỏng lẻo, cơ quan chủ quản thiếu chiến lược đào tạo nguồn nhân lực công nghệ, ngành công nghiệp phụ trợ còn yếu. Do đó, để hoàn thiện hơn nữa hệ thống hoạt động của ngành dệt may, em xin đề xuất một số kiến nghị mang ý kiến chủ quan. Kiến nghị Thứ nhất, về phía các doanh nghiệp: Một là, trang bị thêm hệ thống thông tin quản lý hiện đại hơn nữa để tăng hiệu quả quản lý trong doanh nghiệp mình. Hai là, chú trọng hơn nữa khâu lựa chọn công nghệ với công nghệ phải bảo đảm được các yêu cầu sau: - Công nghệ lựa chọn phải là công nghệ từ tiên tiến trở lên, nghĩa là sau khi đưa vào sản xuất 4-5 năm vẫn chưa bị lạc hậu - Công nghệ lựa chọn phải đảm bảo yêu cầu đề ra của sản xuất về chất lượng sản phẩm, năng suất, giá thành sản phẩm. - Công nghệ lựa chọn phải phù hợp với trình độ quản lý của ta, tránh đầu tư công nghệ quá hiện đại khi ta chưa đủ người quản lý và điều hành. Nếu đầu tư hiện đại thì doanh nghiệp phải chuẩn bị kỹ về con người, tổ chức quản lý, điều hành - Công nghệ lựa chọn phải phù hợp với khả năng tiền vốn đầu tư. Doanh nghiệp nên chọn công nghệ mà lượng vốn tự có của doanh nghiệp có khả năng chi trả khoảng 50%. - Công nghệ lựa chọn không gây ô nhiễm môi trường, nếu có chất thải công nghiệp thì phải có hệ thống xử lý chất thải. Thứ hai, về phía nhà nước Tiếp tục thực hiện quá trình cải cách kinh tế vĩ mô, hoàn thiện môi trường pháp lý theo hướng kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Sớm hình thành và phát triển mạnh “Bảo hiểm đầu tư” để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ mới nhưng có rủi ro cao. Hỗ trợ vốn từ ngân sách cho các trường, viện, trung tâm đào tạo cán bộ đáp ứng nguồn nhân lực cho nhu cầu phát triển tăng tốc của ngành dệt may. Đối với một số doanh nghiệp đang còn khó khăn về tài chính, do tồn tại một số khoản nợ các Ngân hàng thương mại từ trước năm 1995 trước khi thành lập Tổng công ty như Công ty dệt 8/3, Công ty dệt Nam Địnhđề nghị Bộ tài chính tổ chức đánh giá các khoản nợ của một số doanh nghiệp đã được khoanh nợ để xử lý dứt điểm các khoản nợ đã mất giúp các doanh nghiệp lành mạnh về tài chính. KẾT LUẬN Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể với tốc độ xấp xỉ 20%/năm, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Tính đến hết năm 2005, toàn ngành có khoảng 2000 doanh nghiệp với khoảng 2 triệu lao động. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may ước đạt 5,8 tỷ USD, tăng khoảng 20% so với năm 2005. Có được những kết quả khả quan như trên không thể không kể đến vai trò của công tác đầu tư đổi mới công nghệ trong ngành Dệt may. Các doanh nghiệp không chỉ tập trung đầu tư máy móc thiết bị hiện đại mà còn phải quan tâm đến đào tạo nguồn nhân lực công nghệ, nhất là lao động quản lý giúp họ làm chủ công nghệ và tiến tới sáng tạo công nghệ mới. Với sự nỗ lực của các doanh nghiệp Dệt may và sự hỗ trợ thích đáng của Nhà nước, chúng ta có thể hoàn toàn có thể tin tưởng rằng, trong tương lai ngành sẽ tiếp tục giữ vững vai trò nòng cốt của mình và tạo được những bước đột phá mới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư - NXB Thống kê - ĐHKTQD - 2005. 2. Giáo trình kinh tế phát triển - NXB Lao động xã hội - ĐHKTQD - 2004. 3. Tạp chí Công nghiệp Tháng 4/2006. 4. Tạp chí Công nghiệp Tháng 10/2006. 5. Tạp chí Kinh tế và dự báo Tháng 9/2006. 6. Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2010. 7. Báo cáo kết quả khảo sát đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam 2004. 8. Báo tuổi trẻ online 11/9/2006. 9. Báo Người lao động 6/2/2006. 10. Chiến lược tăng tốc phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến 2010. Website tham khảo www.vnexpress.com.vn www.gso.gov.vn www.nxbthongke.com.vn www.vinatex.com.ViÖt Nam MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4799.doc
Tài liệu liên quan