Đề tài Đầu tư đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước

Trong những năm đổi mới các doanh nghiệp nhà nước đã có những tiến bộ quan trọng, điều này thể hiện ở một số kết quả sau: -Doanh nghiệp nhà nước đã được tổ chức , sắp xếp lại thông qua việc cổ phần hoá, thành lập các tổng công ty 90 và 91 . Đó là tiến bộ quan trọng trong việc cơ cấu lại và tổ chức lại DNNN theo hướng trung vào những ngành , lĩnh vực và địa bàn quan trọng, tăng qui mô và thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu qủa. - Hoạt động liên doanh liên kết giữa các DNNN với các thành viên kinh tế khác , nhất là với nước ngoài phát triển mạnh mẽ. Qua đó nâng cao năng lực công nghệ, tiếp thu kỹ năng quản lý tiên tiến, tăng mức đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo nhiều việc làm cho người lao động. - Công nghệ, phương pháp sản xuất kinh doanh và quản lý của một số doanh nghiệp ngày một hiện đại, quy mô hơn. - Các doanh nghiệp công ích của nhà nước hoạt động có kết quả tốt hơn đáp ứng được nhu cầu với quy mô ngày càng tăng, chất lượng cao và kịp thời hơn cho sản xuất kinh doanh.

doc50 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh nghiệp. Ngược lại, hiệu quả của đầu tư phát triển cũng tác động mạnh mẽ đến quá trình đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư có hiệu quả sẽ tạo ra tiềm lực mới cho đổi mới công nghệ. Tiềm lực cho đổi mới công nghệ ở đây có thể diễn giải như sau: thứ nhất là nguồn vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ bao gồm đầu tư mua công nghệ hoặc đầu tư phát triển công nghệ; thứ hai là năng lực công nghệ của doanh nghiệp nói riêng và năng lực công nghệ của nghành, của đất nước nói chung. Năng lực công nghệ lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của Quốc gia và trình độ phát triển khoa học , công nghệ của từng nghành, từng doanh nghiệp. Cụ thể hơn, các hoạt động nghiên cứu, triển khai, nguồn nhân lực về khoa học, công nghệ sẽ quyết định năng lực công nghệ của một nghành và rộng hơn là của một quốc gia nào đó. Đây cũng là một điểm khác biệt cơ bản giữa các nước công nghiệp hoá và các nước đang phát triển. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, đầu tư và gắn liền với nó là hiệu quả đầu tư chính là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng khoa học, công nghệ. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ mới và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là phương án không khả thi. Nói một cách chính xác, đổi mới công nghệ phải đi đôi với việc nâng cao hiệu quả đầu tư nhằm mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 6.Những yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới công nghệ. 6.1. Đổi mới công nghệ phải tạo ra sự chuyển biến về chất trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Xét về quá trình sản xuất, kinh doanh, đổi mới công nghệ cần đạt được yêu cầu: tăng cường cơ khí hoá, tự động hoá, tin học hoá một phần hay toàn bộ qui trình sản xuẩt, từng bước sử dụng máy móc thay thế con người ở những công việc nặng nhọc, nguy hiểm và theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động giản đơn, tăng tỉ trọng lao động phức tạp, lao động mang nhiều yếu tố chất xám; cải tiến và tối ưu hoá hệ thống tổ chức và công nghệ trong khu vực sản xuất kinh doanh cũng như trong khu vực quản lí...nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Xét về sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ phải cho kết quả là hàm lượng công nghệ trong gía trị gia tăng của sản phẩm ngày càng chiếm tỷ trọng cao, thể hiện ở chỗ: giá trị mới của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ sau đổi mới công nghệ sẽ làm cho hàm lượng các yếu tố đầu vào truyền thống (nguyên vật liệu, nhiên liệu..) giảm đi, hàm lượng công nghệ tăng lên. Đây là một yêu cầu rất quan trọng nhằm mục tiêu tăng năng lực cạnh tranh cũng như khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp. Thí dụ trong các doanh nghiệp cửa các nước phát triển, đầu tư phi vật chất (đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, đào tạo, tin học,viễn thông tiếp thị ...) tăng nhanh và là loại đầu tư cho trí tuệ, hiện đã chiếm tới khoảng 40%vốn cố định. Tại Mỹ đã tổng kết đóng góp cửa yếu tố cơ bản vào tăng thu nhập quốc dân với tỷ lệ: đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ đóng góp 71,4%, trong đó áp dụng các sáng chế 37,1%, tăng chất lượng lao động 28,5%, hiệu quả của cải tiến hệ thống tổ chức quản lý 5,8%. Những năm gần đây, chính vì phát triển các nghành sử dụng ít nguyên liệu -nhiên liệu hơn, nên mặc dù giai đoạn từ tháng 2-1999 đến đầu năm 2000 giá dầu thô tăng gấp 3 lần từ trước đến nay từ mức 10USD/thùng tăng đến 30 USD /thùng, giá hàng tiêu dùng thế giới nhìn chung vẫn không tăng vọt do thị trường sản phẩm phụ thuộc vào dầu lửa đã giảm hơn 40% so với 25 năm trước đây. Xét về mặt cơ cấu nguyên liệu - năng lượng truyền thống so với nguyên liệu mới, đổi mới công nghệ phải nhằm tăng dần tỷ lệ sử dụng các công nghệ truyền thống đang dần phải thay đổi mục tiêu của mình do sự giới hạn của nguồn tài nguyên (người ta dự đoán rằng, khoảng năm 2040-2045, nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ bị cạn kiệt và chấm dứt nền văn minh công nghiệp dầu mỏ). Thực tể hiện nay cho thấy, cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 3 đang định hình với những đặc trưng mới về chất như: có tính tự động cao, là sự kết hợp giữa công nghệ điện tử, công nghệ tin học, công nghệ có tính tự động hoá cao, công nghệ vũ trụ và đáy đại dương cùng các công nghệ chế biến chiều sâu không có phế liệu, sử dụng nguyên liệu nguyên liệu mới có khả năng tái sinh không gây ô nhiễm môi trường... Đầu tư đổi mới thị trường công nghệ chính là nhằm đấp ứng những yêu cầu đó. Xét về tính chất đổi mới công nghệ phải nhằm mục tiêu làm cho danh mục, chủng loại chất lượng mẫu mã, công dụng và giá cả của sản phẩm đó được đổi mới hoạc cải tiến theo chiều hướng đa dạng hơn, tinh xảo hơn, tiết kiệm năng lượng và rẻ hơn, tiến tới tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn mới. 6.2. Đổi mới công nghệ phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược công nghệ quốc gia đóng vai trò quan trọng trong định hướng phát triển công nghệ trong từng doanh nghiệp một mặt có được những ưa điểm và hỗ trợ nhất định (về vốn, về thông tin ...) của Chính phủ, mặt khắc đảm bảo cho doanh nghiệp có được hướng đi đúng, tiết kiệm nguồn lực, tránh được những rửi ro không đáng có. 6.3. Đổi mới công nghệ phải nhằm mục tiêu từng bước bắt kịp trình độ công nghệ so với các nước trong khu vực và trên thế giới, tiến tới chủ động sáng tạo công nghệ theo mô hình Nghiên cứu (R)_ Triển khai (D). Tại Việt Nam hiện nay, hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 5 thế hệ, mức tiêu hao nhiên liệu cao gấp 1,5 đến 2 lần , năng suất lao động công nghiệp chỉ đạt 30% so với thế giới. Một lao động nông nghiệp chỉ nuôi được 3 người trong khi đó ở Mỹ là 30 người, các loại vật liệu mới chỉ chiếm 5% tổng số các loại vật liệu, hệ số cơ giới hoá trong công nghiệp chỉ bằng 50% so với thế giới, nghành công nghiệp maý lạc hậu từ 50-100 năm so với các nước phát triển cao.Vì vậy ở những năm đầu, con đường duy nhất là tiếp thu công nghệ hiện đại, thông qua chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó tích cực chuẩn bị các điều kiện vật chất kỹ thuật con người ...để tiến tới thực hiện nghiên cứu sáng tạo công nghệ mới cho chính chúng ta. 6.4.Đổi mới công nghệ phát triển phải gắn liền với phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững. Một mục tiêu quan trọng của đổi mới công nghệ là thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế thường xuyên và ở mức cao. Tuy nhiên, đạt được điều đó thôi chưa đủ, đổi mới công nghệ còn phaỉ nhằm nâng cao trình độ trí tuệ của người lao động làm cho họ thích nghi và làm chủ máy móc thiết bị công nghệ mới, đồng thời có khả nãng sáng tạo hơn trong hệ thống sản xuất kinh doanh. 7. Các tiêu thức đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư đổi mới công nghệ. Mục đích của mỗi doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ là để sản xuất ra những hàng hoá, dịch vụ có chất lượng cao hơn, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng doanh thu, lợi nhuận...Để thực hiện được mục tiêu này thì doanh nghiệp cần lựa chọn những công nghệ, thiết bị tốt, nhưng phải đặt trong mối quan hệ với những ràng buộc về điều kiện tài chính, trình độ kĩ thuật và quản lí hiện có của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu qủa kinh tế của việc đầu tư đổi mới công nghệ, người ta có nhiều chỉ tiêu xem xét. Một số chỉ tiêu cơ bản thường được sử dụng là: - Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV) của phương án công nghệ: theo chỉ tiêu này, nếu phương án có giá trị hiện tại ròng không âm thì được coi là có hiệu quả. Chỉ tiêu tỷ số lợi ích/ chi phí( B/ C): Phương án công nghệ được chấp nhận khi tỷ số này không nhỏ hơn 1. Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ(IRR): giá trị này phải thoả mãn điều kiện lớn hơn chi phí cơ hội của vốn đầu tư. Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn(T): phương án công nghệ có thời gian thu hồi vốn càng nhỏ càng tốt. 7.1.Giá trị hiện tại ròng của phương án công nghệ(NPV). Giá trị hiện tại ròng chính là giá trị cộng dồn của dòng lợi ích thu được trong thời hạn công nghệ hoạt động đã được tính qui đổi về mặt bằng thời gian hiện tại theo một mức lãi suất chiết khấu lựa chọn. NPV chính là hiệu số của giá trị hiện tại của dòng thu nhập trừ đi giá trị hiện tại của dòng chi phí theo lãi suất chiết khấu lựa chọn. NPV được tính theo công thức sau: Trong đó: NPV là giá trị hiện tại ròng của phương án công nghệ. Bi là lợi ích thu được từ công nghệ ở năm thứ i. Ci là chi phí năm thứ i của phương án công nghệ; r là tỉ suất chiết khấu, cho phép đánh giá chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn vào phương án công nghệ mới. n- thời hạn công nghệ hoạt động. Theo phương pháp này, nếu phương án có giá trị hiện tại ròng không âm thì được coi là có hiệu quả và được chấp nhận. Nếu NPV nhỏ hơn 0 thì phương án không được chấp nhận. 7.2. Tỷ số lợi ích/ chi phí(B/C). Tỷ số lợi ích/ chi phí được tính theo công thức sau: Tỷ số lợi ích/ chi phí chính là tỷ lệ giữa tổng lợi ích qui về hiện tại và tổng chi phí qui về hiện tại. Phương án công nghệ có hiệu qủa khi tỷ số này không nhỏ hơn 1. Chỉ tiêu này cho thấy mức thu nhập ứng với một đồng chi phí. Nhược điểm của chỉ tiêu này là không cho ta biết được lãi ròng của phương án. Do đó có thể xảy ra trường hợp một dự án nhỏ, giá công nghệ rẻ tiền thì tỷ lệ B/C lớn nhưng thực tế thì lãi không cao. 7.3. Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ(IRR). IRR chính là mức lãi suất mà nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của phương án công nghệ về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu sẽ cân bằng với tổng chi. IRR được xác định theo công thức sau: Nếu IRR>= r(tỷ suất chiết khấu) thì phương án công nghệ chấp nhận được. Khi đó, phương án cho phép nhận được tỷ lệ lợi tức về vốn cao hơn chi phí cơ hội của vốn. 7.4.Thời gian thu hồi vốn(T). Đây chính là thời gian cần thiết để thu hồi số vốn đầu tư đã bỏ ra cho phương án công nghệ bằng các khoản lợi nhuận thuần và khấu hao thu hồi hàng năm. Nếu không tính đến yếu tố giá trị thời gian của tiền, thời gian thu hồi vốn được xác định như sau: Giá trị của T phải thoả mãn: Trong đó: T: thời gian thu hồi vốn(năm). (W+D)i: lợi nhuận thuần và khấu hao năm thứ i. Iv0: vốn đầu tư ban đầu. Nếu tính đến yếu tố thời gian của tiền, thời gian thu hồi vốn được xác định như sau: Trong đó: (W+D)iPV là lợi nhuận và khấu hao năm thứ i quy về hiện tại. Chỉ tiêu này không cho biết phần thu nhập sau khi hoàn vốn. Nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu này thì có thể chọn lầm phương án có thời gian thu hồi vốn nhanh nhưng tổng thu nhập cả đời phương án lại thấp. Chỉ tiêu này cần được sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu khác. Chương II:Tình hình công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước I. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. 1. Kết quả bước đầu. Trong những năm đổi mới các doanh nghiệp nhà nước đã có những tiến bộ quan trọng, điều này thể hiện ở một số kết quả sau: -Doanh nghiệp nhà nước đã được tổ chức , sắp xếp lại thông qua việc cổ phần hoá, thành lập các tổng công ty 90 và 91 . Đó là tiến bộ quan trọng trong việc cơ cấu lại và tổ chức lại DNNN theo hướng trung vào những ngành , lĩnh vực và địa bàn quan trọng, tăng qui mô và thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu qủa. - Hoạt động liên doanh liên kết giữa các DNNN với các thành viên kinh tế khác , nhất là với nước ngoài phát triển mạnh mẽ. Qua đó nâng cao năng lực công nghệ, tiếp thu kỹ năng quản lý tiên tiến, tăng mức đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo nhiều việc làm cho người lao động. - Công nghệ, phương pháp sản xuất kinh doanh và quản lý của một số doanh nghiệp ngày một hiện đại, quy mô hơn. - Các doanh nghiệp công ích của nhà nước hoạt động có kết quả tốt hơn đáp ứng được nhu cầu với quy mô ngày càng tăng, chất lượng cao và kịp thời hơn cho sản xuất kinh doanh. - Tốc độ tăng trưởng chung của DNNN nhanh hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tỷ trọng trong GDP và tích luỹ của DNNN cao nhất trong các thành phần kinh tế và đang chi phối sự phát triển của các thành phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước xác định. -Số lượng DNNN hoạt động có hiệu quả tăng nhiều , hiệu quả sử dụng vốn cao hơn, nộp ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất so với các thành phần kinh tế khác. - Những tiến bộ trên có thể minh hoạ bằng những số liệu sau : Theo báo cáo của ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương số lượng DNNN đã giảm 1200 (1990) xuống còn 5280 doanh nghiệp (đầu năm 2000 ) đã cổ phần hoá được 306 doanh nghiệp với tổng số vốn gần 1000 tỷ đồng, thành lập 17 tổng công ty 91 và 76 tổng công ty 90. Thời kì 91- 95, tốc độ tăng trưởng của DNNN bình quân là 11,7%, bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế (8,2% ) và gần gấp đôi tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế ngoai quốc doanh. _ Tỷ trọng của khu vực kinh tế Nhà nước trong GDP tăng từ 33.3% năm 91 lên 40,07% năm 96 ; 41,23% năm 98 . Tỷ lệ nộp ngân sách Nhà nước trên vốn Nhà nước năm 93 là 14,7%, năm 98 là 27,89%. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm 93 là 6,8%, năm 98 là 12,31%. Năm 99, các DNNN làm ra 40,2% GDP, trên 50% giá trị xuất khẩu, đóng góp 39,25% ngân sách nhà nước. DNNN đang sử dụng khoảng 15% lực lượng lao động trong các ngành nghề phi nông nghiệp. Doanh nghiệp Nhà nước đã có những tiến bộ về chất trong hoạt động, về cơ bản đã xoá bỏ cơ chế sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh trên giao,vai trò tổ chức kinh doanh tự chủ tài chính được xác lập mở rộng doanh nghiệp được giao vốn, tự chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn ..., Nhà nước từng bước quản lý doạnh nghiệp bằng pháp luật, môi trường và hành lang pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp được rõ ràng hơn. 2.Những tồn tại của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay. Trong việc phát huy vai trò chủ đạo của DNNN còn những mặt tồn tại chưa thưc sự làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định chưa giải quyết được những vấn đề cơ bản về mặt xã hội đang đặt ra ,vai trò mở đường, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác và vai trò đối tác chính của doanh nghiệp trong liên doanh còn yếu chưa tạo đủ vật chất để đảm bảo vững chắc những cân đối lớn của nền kinh tế và để doanh nghiệp thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tình trạng lãng phí, tham nhũng trong các DNNN còn phổ biến . Những tồn tại trên chưa đươc khắc phục vì DNNN còn có những yếu kém sau : 2.1. Số lượng DNNN còn quá lớn và dàn trải: Tuy số lượng các doanh nghiệp đã giảm đáng kể song thực tế cho thấy số lượng như vậy vẫn còn nhiều. Các DNNN chồng chéo lên nhau theo cơ quan quản lý ngành nghề. Trong số các DNNN hiện nay thì có đến 25% doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng VN, trong số đó 50% có số vốn dưới 500 triệu VNĐ, thậm chí có tỉnh, thành phố có doanh nghiệp có vốn dưới 100 triệu VNĐ. 2.2. Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN chưa cao và đang có nguy cơ giảm dần. Tốc độ tăng trưởng bình quân năm của DNNN từ trên 11% năm 1991-1995 nay giảm xuống còn 8-9% năm 1998 -1999. Hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995 một đồng vốn tạo ra 3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận. Tỷ lệ tương ứng của năm 1998 là 2,9 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận. Cá biệt, ngành công nghiệp 1 đồng vốn chỉ làm ra 0,02 đồng lợi nhuận. Số DNNN thua lỗ, hoà vốn còn lớn, nhất là các DNNN địa phương, tỷ lệ doanh nghiệp có nợ khó đòi, không có khả năng trả nợ ngày càng nhiều, một số doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. 2.3. Mặt hàng đơn điệu, cơ cấu sản xuất hàng hoá không hợp lý năng suất chất lượng hàng hoá thấp, số doanh nghiệp vi phạm pháp luật tăng . 2.4. Liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài bị thua thiệt lớn, một số doanh nghiêp Nhà nước thậm chí bị mất vốn . 2.5. Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trongdoanh nghiệp . Trong các doanh nghiệp hiện nay một bộ phận không nhỏ cán bộ bị thoái hoá biến chất, vi phạm cơ chế quản lý gây thất thoát tài sản, tiền vốn của nhà nước, một số cán bộ lớn tuổi bảo thủ thiếu năng động nhưng vẫn giữ những chức vụ quản lý trong DNNN. Ngoài ra còn có một số cán bộ quản lý thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu kiến thức về kinh tế thị trường và kinh doanh, chưa được đào tạo lại nên điều hành sản xuất kinh doanh kém hiệu quả ... Số lượng công nhân trong các doanh nghiệp tuy lớn nhưng trình độ văn hoá và trình độ kĩ thuật còn thấp, đặc biêt thiếu công nhân lành nghề ,một số bộ phận thiếu trách nhiệm, do đó năng suất lao động không cao . 2.6 Chính sách đầu tư đổi mới công nghệ, hiện đại hoá trang thiết bị chưa được sự quan tâm đúng mức . Trình độ công nghệ thiết bị của các doanh nghiệp VN nói chung và DNNN nói riêng hiện nay về cơ bản là rất thấp so với khu vực và thế giới. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng sản xuất kém hiệu quả, sức cạnh tranh kém hiệu quả của các DNNN. Thực trạng vấn đề này sẽ được trình bày chi tiết ở phần sau. II. Thực trạng công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước. Từ khi đất nước đổi mới nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trugn sang cơ chế thị trường, các DNNN đã có nhiều tiến bộ, tích cực trong đổi mới toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, thích nghi và khẳng định thị phần của mình trong cạnh tranh. Theo đánh giá chung thì từ khi đổi mới cơ chế đến nay, dưới áp lực của cạnh tranh thị phần của các doanh nghiệp nói chung và các DNNN nói riêng, đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài đã có đổi mới đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của sản xuất, sự cạnh tranh trụ vững với các sản phẩm của các doanh nghiệp nước ngoài ở một số lĩnh vực như quạt điện, bóng đèn , sản phẩm may mặc, thực phẩm... Công nghệ được đổi mới đã góp 20- 30% tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp, thậm chí trong một số DNNN, tỷ lệ cao hơn từ 50-60 % trong các ngành như bưu chính viễn thông, năng lượng, điện tử tin học... Sự đổi mới công nghệ này không chỉ về máy móc, thiết bị ( phần cứng ) mà còn cả về phương pháp tổ chức, quản lý sản xuất , kỹ năng, trình độ nghề nghiệp của người lao động. Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được trong việc đôỉ mới công nghệ ở một số ngành, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước công nghệ vẫn ở trình độ thấp so với khu vực và quốc tế. Hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ cho đến nay chưa phải là rộng khắp và có chiều sâu, năng lực cạnh tranh dựa trên công nghệ của các DNNN còn yếu. Có nhiều doanh nghiệp được tiếp quản từ chế độ cũ , doanh nghiệp được xây dựng từ những năm 1950 -1960 , trong thời kỳ bao cấp máy móc thiết bị đã bị khấu hao hết. Trong số những năm đổi mới, công nghệ thiết bị, máy móc trong sản xuất kinh doanh đã được hiện đại hơn tuy nhiều nước sản xuất, thiếu đồng bộ nên khi hư hỏng thì thiếu phụ tình thay thế, nếu sửa chữa hiện đại gặp nhiều khó khăn. Theo số liệu của tổng cục thống kê đã có tới 51 % tài sản cố định sử dụng từ 18 năm trở lên, trong đó 3,2 % sử dụng trên 30 năm, chỉ có 5 % mua mới từ năm 1990 . Qua nhiều lần đánh giá lại giá trị còn lại của tài sản cố định chỉ còn 60% so với nguyên giá, thiết bị lạc hậu từ 2-3 thế hệ ( 10- 20 năm) có một số ngành lạc hậu từ 3-5 thế hệ như đường sắt, đóng tàu . Các DNNN địa phương còn lạc hậu hơn: có đến trên 70% lao động thủ công... Thực trạng này cho thấy rằng hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ trong thời gian qua chưa đem lại những thay đổi đáng kể về trình độ công nghệ trong các DNNN. Tuy nhiên điều đặc biệt cần lưu ý là những năm gần đây, trong khi tình trạng mặt bằng công nghệcủa nền kinh kế còn quá thấp như một nguy cơ, thì ở một số DNNN vẫn còn tiếp tục chuyển giao những công nghệ lạc hậu ( do thiếu hiểu biết , thiếu thông tin, trục lợi...) nhiều khi được coi là " rác thải công nghiệp " làm cho trình độ công nghệ vốn đã lạc hậu nay càng lạc hậu hơn. Thực trạng này nếu không được chấn chỉnh thì sự tụt hậu nhanh của DNNN trong những năm tới là điều không thể tránh khỏi. Trình độ công nghệ trong các doanh nghiệp VN trong đó có DNNN cũng được các chuyên gia nước ngoài đánh giá tương tự như tình hình thực tế. Một cuộc thăm dò ý kiến của 24 công ty Nhật hoạt động ở 10 nước ASEAN về môi trường kinh doanh của các nước này cho thấy trình độ công nghệ ở các doanh nghiệp VN là 1,9 ( thang điểm 5 ) , chỉ trên 3 nước chậm phát triển nhất khu vực là Myama(1,8), Lào(1,5), Campuchia (1,3 ). III. Thực trạng công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp Nhà nước trong một số nghành. 1. Nghành cơ khí. Nghành cơ khí là nghành chủ chốt của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng đã lạc hậu từ 50 đến 100 năm so với các nước phát triển, 30 đến 50 năm so với các nước trung bình trên thế giới. Từ năm 1955- 1985, trong vòng 30 năm, nghành cơ khí đầu tư khoảng 500 triệu USD cho tài sản cố định, đến nay đánh giá lại còn khoảng 250-300 triệu USD(không kể vốn của các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài). Bình quân giá trị tài sản cố định của một DNNN nghành cơ khí vào khoảng 0,61 triệu USD là quá nhỏ bé. Hiện trạng của một số công nghệ cơ bản như sau: Công nghệ đúc còn lạc hậu, phổ biến đúc bằng khuôn cát, mẫu gỗ trên nền cát cố định... Các công nghệ đúc khuôn kim loại, đúc khuôn tháo vỏ mỏng, đúc mẫu chảy, đúc áp lực tuy đã được sử dụng nhưng quy mô còn nhỏ. Công nghệ rèn chủ yếu vẫn là rèn tự do trên máy búa, công nghệ rèn khuôn hở có được áp dụng nhưng quy mô nhỏ. Công nghệ hàn hiện nay đang được sử dụng trong nghành chế tạo máy chủ yếu vẫn là hàn hồ quang, thủ công với các máy hàn cũ, lạc hậu. Công nghệ cắt gọt thì phần lớn máy công cụ là máy vạn năng thông dụng, có độ chính xác gia công thấp. Công nghệ chế tạo khuôn, cối, dụng cụ cắt đòi hỏi các vật liệu đặc biệt có cơ, lí tính cao, chịu mài mòn, chịu nhiệt, chịu axit chịu mặn chỉ mới bắt đầu được nghiên cứu và ứng dụng... Cơ khí xe đạp là một ví dụ khá điển hình cho thực trạng nêu trên của các DNNN nghành cơ khí. Nghành cơ khí sản xuất xe đạp ở Việt Nam hình thành từ những năm 46- 50. Sau năm 1954, ở miền Bắc, cơ khí xe đạp phát triển nhanh, đặc biệt vào những năm 60- 70. Sau năm 1975, cơ khí xe đạp càng phát triển. Thiết bị sản xuất xe đạp của các doanh nghiệp được nhập từ nhiều nguồn: Liên Xô, Đông Âu và Trung Quốc... Ngoài một số dây chuyền phụ tùng của Pháp, Nhật Bản mới được trang bị, còn lại, tất cả các thiết bị, dây chuyền đều được sản xuất từ những năm 50- 60. Trên các thiết bị cũ, lạc hậu, sản phẩm không theo một tiêu chuẩn thống nhất, ít khả năng lắp lẫn. Hao phí gia công lớn: Ví dụ tỷ lệ trọng lượng thô/ tinh của sản xuất đùi, đĩa là 2/ 1, của mayơ là 1,5/1... Trong một vài năm gần đây, các doanh nghiệp sản xuất xe đạp đã có nhiều cải tiến về mẫu mã, kiểu dáng xe, tuy nhiên, chất lượng xe đạp do các doanh nghiệp này sản xuất còn chưa cao nên rất khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Nhật... Trong thời gian qua, một số DNNN nghành cơ khí đã có những bước tiến lớn trong việc đổi mới công nghệ. Nhà máy chế tạo máy công cụ số 1 cùng với viện máy và dụng cụ công nghiệp đã bắt đầu hiện đại hoá một số máy công cụ có giá trị cao như máy doa W 250, máy tiện dụng SKJ, máy tiện nằm SUT 160. Nhà máy chế tạo bơm Hải Dương đã đầu tư nhập thiết bị phân tích nhanh thành phần nấu luyện thép trung tần của Mỹ... Tuy nhiên, xét trong phạm vi toàn nghành, mức độ đổi mới công nghệ còn thấp. Hiện nay, bình quân tài sản của một doanh nghiệp cơ khí không vượt quá 1 triệu USD, đầu tư hàng năm cho nghành cơ khí còn thấp, lại phân tán . Trong giai đoạn 1991- 1995 các doạnh nghiệp nhà nước nghành cơ khí chỉ đầu tư 180 tỉ VNĐ, những năm gần đây, vốn đầu tư có lớn hơn song vẫn chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nghành cơ khí cũng khó khăn, tuy nhiên, hơn 50% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào nghành này lại thuộc lĩnh vực lắp ráp ô tô, xe máy cùng những mặt hàng tiêu dùng cơ khí khác, đầu tư cho sản xuất tư liệu sản xuất rất thấp. Theo dự báo của Bộ công nghiệp thì nhu cầu sản phẩm cơ khí bình quân từ năm 2001- 2010 sẽ là 11 tỷ USD/ năm, Để đáp ứng nhu cầu đó, cùng với việc nhập khẩu, các doanh nghiệp cơ khí phải nâng cao năng lực sản xuất, đầu tư mạnh vào đổi mới thiết bị, công nghệ để sản xuất ra những sản phẩm cơ khí có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đi liền với mục tiêu là chính sách kinh tế, việc tổ chức quy hoạch phát triển phải được xác định một cách hợp lí. 2. Các doanh nghiệp nghành điện. Tại nước ta, nghành điện là một nghành kinh tế do Nhà nước độc quyền. Các nhà máy thuỷ điện đều đạt trình độ khá về công nghệ, nhưng các nhà máy nhiệt điện thì lạc hậu, hiệu suất sử dụng nhiệt thấp(dưới 30%), trong khi hiệu suất nhiệt bình quân của các nhà máy nhiệt điện ở Hàn Quốc năm 1993 là 38%, nhà máy nhiệt điện sử dụng khí hoá lỏng theo chu trình hỗn hợp của Hàn Quốc đạt hiệu suất 50%. Tỷ lệ tổn thất điện năng ở Việt Nam hiện nay là trên 20 %, ở Hàn Quốc chỉ khoảng 6%. 3. Các doanh nghiệp nghành xi măng. Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu xây dựng cơ bản ở nước ta là rất lớn, do đó, nhu cầu sử dụng xi măng là rất cao. Trong những năm qua, nghành xi măng đã có những bước phát triển đáng kể về chất lượng, số lượng, đã có nhiều nhà máy xi măng được xây dựng mới cùng với việc tiếp thu những công nghệ mới. Các nhà máy xi măng Bút Sơn, Nghi Sơn, Chingfon, Hoàng Mai... được xây dựng mới đã góp phần giải quyết nhu cầu về xi măng ngày càng tăng của thị trường. Tuy nhiên, công nghệ sản xuất xi măng ở nước ta vẫn còn lạc hậu so với các nước tiên tiến trên thế giới. Ví dụ: xi măng Hoàng Thạch có mức tiêu thụ 1000-1200 kilo calo/ 1 kg clinke, năng suất lao động là 5000 tấn xi măng /người, năm... 4.Các doanh nghiệp nghành dệt, may. Trước năm 1990, thiết bị dệt, may của các doanh nghiệp được nhập về từ nhiều nguồn, ban đầu là các máy đạp chân, rồi máy may của Liên Xô, Trung Quốc. Sau năm 1990, nghành may đã đầu tư mạnh mẽ thông qua việc tiếp nhận thiết bị và công nghệ mới, trở thành một nghành xuất khẩu quan trọng của nước ta. Công nghệ máy móc, ở các công đoạn chuẩn bị sản xuất, thiết kế, cắt, may, đóng gói tương đối khá. Trong giai đoạn 1991-1995, Tổng công ty dệt may đã đầu tư 1485 tỷ VND để đổi mới máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ. Trong đó vốn nước ngoài là 419,38 tỷ đồng(28%), vốn vay trong nước chiếm 47%, các nguồn khác là 22%, vốn ngân sách là 3%. Khoản mục Đơn vị tính Tổng số Phía Bắc Phía Nam A.Tổng vốn đầu tư -Tỷ VND -Triệu USD 1485 135 827 75,2 658 59,8 Đầu tư cho dệt 1218 682 536 Đầu tư cho may Tỷ VND 267 146 121 B. Các loại thiết bị -Dây chuyền sợi Cọc 121222 62014 59208 - Máy dệt vải Cái 1087 538 549 -Máy dệt kim Cái 366 150 216 -Khâu nhuộm (năng lực) Triệu mét 32 32 - - Thiết bị may Cái 19527 7992 11510 -Trong đó: + Các công ty dệt +Các công ty may Cái Cái 5163 14384 1703 6289 3435 8075 Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam. Việc đổi mới thiết bị trong nghành may có nhiều thuận lợi hơn so với nghành dệt. Lí do trước hết là thiết bị may rẻ tiền hơn, chỉ cần 1 triệu USD là có thể trang bị đủ một dây chuyền may xuất khẩu. Trong nghành may, tất cả các doanh nghiệp đều đổi mới 100% thiết bị, đầu tư mở rộng sản xuất, hình thành thêm nhiều cơ sở sản xuất dưới hình thức các xí nghiệp thành viên, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp vệ tinh. Điển hình là các công ty may Việt Tiến, May 10, may Đức Giang, may Hải Dương ... Đầu tư phát triển nghành may trở thành một nghành xuất khẩu quan trọng là một bước đi hợp lí, là một hướng mở rộng thị trường cho nghành dệt phát triển. Tình hình công nghệ và đổi mới công nghệ trong các DNNN nghành dệt may được đánh giá như sau: - Về thiết bị: nghành dệt may trong vài năm trở lại đây đã có những bước chuyển mình về đổi mới công nghệ và thiết bị sản xuất, vượt qua giai đoạn khó khăn. Tỷ lệ thiết bị có trình độ trung bình đạt 45%, các doanh nghiệp có tỷ lệ thiết bị hiện đại cao là Công ty dệt len Vĩnh Thịnh(thành phố Hồ Chí Minh): 80%, công ty dệt Thành Công: 70%, công ty may 10: 75%... Tuy nhiên, do hạn chế về tài chính nên phần lớn các thiết bị mới nhập chỉ là những máy thông dụng nhất, ít máy chuyên dụng. Máy và công nghệ hiện đại điều chỉnh theo chương trình tự động (CAD) còn ít. Thiết bị đổi mới còn thiếu đồng bộ, nhất là các thiết bị phụ trợ(60- 70% là các thiết bị cũ gồm nhiều chủng loại). - Mức hao phí về nguyên vật liệu và năng lượng để sản xuất một đơn vị sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chi phí sản xuất. Hệ số chi phí năng lượng cho một đơn vị sản phẩm dệt may bình quân là 6,12%, trong đó nghành may là 3- 5%. Hệ số chi phí nguyên vật liệu cho một sản phẩm ở các doanh nghiệp may là 5%, dệt là 64%. Có sự chênh lệch này chủ yếu là do hiện nay các doanh nghiệp may chủ yếu nhận may gia công. - Về con người: cán bộ, công nhân của các doanh nghiệp có khả năng vận hành, tiếp thu công nghệ nhanh, 50% số doanh nghiệp có khả năng chủ trì các dự án đổi mới thiết bị, công nghệ. Tuy nhiên, đại bộ phận các doanh nghiệp thiếu các bộ chuyên môn sâu và khả năng quản lí còn yếu. - Về thông tin: các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường công nghệ, nhất là điều kiện tiếp cận với thị trường quốc tế. Việc liên kết giữa doanh nghiệp với các cơ quan nghiên cứu, thiết kế chưa chặt chẽ trên cơ sở tổ chức và cơ chế hợp tác có hiệu quả. 5. Các doanh nghiệp chế biến nông sản. Các doanh nghiệp xay xát, chế biến gạo. Hàng năm, nước ta sản xuất trên 20 triệu tấn thóc và xuất khẩu từ 3 đến 4 triệu tấn gạo, do đó nhu cầu xay xát, chế biến gạo là rất lớn. Hiện nay, tổng công suất xay xát, chế biến là 14- 15 triệu tấn thóc/năm, trong đó DNNN chiếm 35%. Các doanh nghiệp xay xát có công suất lớn nhưng do thiết bị cũ nên chỉ huy động được 15- 20% công suất. Do công nghệ xay xát không hiện đại nên làm giảm chất lượng gạo chế biến, do đó gía trị gạo xuất khẩu của nước ta thường thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của các nước xuất khẩu gạo khác. Các doanh nghiệp nghành mía đường. Hiện nay nước ta có khoảng trên 300000 ha mía với sản lượng 15 triệu tấn mía cây. Hầu hết các nhà máy đường đều có công suất trung bình và thấp Các nhà máy đường Quảng Ngãi, Bình Dương, Hiệp Hoà, Lam Sơn có công suất trên 1000 tấn/ngày. Phần lớn các nhà máy trong tình trạng công nghệ chế biến lạc hậu , thiết bị cũ nên mới chỉ ép được 25% sản lượng mía cây. Phần còn lại do các lò đường thủ công đảm nhiệm, hiệu suất và chất lượng chế biến thấp . Trong vài năm gần đây, để thực hiện mua tiêu sản xuất 1 triệu tấn đường trên một năm, chúng ta đã xây dựng thêm hàng chục nhà máy đường Đại bộ phận máy móc thiết bị của các nhà máy mới này đều nhập từ Trung Quốc. Các thiết bị kĩ thuật đều tính đến khả năng mở rộng công suất, được cung cấp về vật tư, vật liệu phụ cho lắp ráp vận chuyển, có chuyển giao công nghệ, đào tạo công nhân ... Về giá cả thì suất đầu tư mua thiết bị khoảng 5000 USD cho một tấn mía công suất bằng 60% giá thiết bị của úc và bằng 50% của Tây Ba Nha . Các nhà máy đường mua thiết bị Trung Quốc đều dùng công nghệ sunfít hoá là phương pháp thông dụng trên thế giới, chất lượng đường phù hợp với thị trường tiêu thụ. Việc lựa chọn thiết bị Trung Quốc với quy mô công suất mức độ cơ khí hoá ,tự động hoá nói chung là thích hợp. Trình độ kĩ thuật đạt mức tiên tiến, giá cả hợp lí, phù hợp với quy mô vùng nguyên liệu ... c. Các doanh nghiệp chế biến chè Hiện nay diện tích chè nước ta có khoảng 80000 ha, sản lượng chè búp tươi là 300000 tấn/ năm. Hiện có 24 nhà máy chế biến chè trung ương với công suất bình quân là 15-40 tấn một ngày. Ngoài ra còn các doanh nghiệp chế biến chè của các địa phương Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ ,Tuyên Quang, Lâm Đồng ... Nhìn chung, công nghệ chế biến lạc hậu, thiết bị cũ nên không thể huy động hết công suất, chất lượng thấp. Gần đây đã có một số thành công trong đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị, công nghệ phân loại chè bằng khí động học, đóng gói, công cụ vo chè VC 40 ... 6.Các doanh nghiệp nghành điện tử Hiện nay chúng ta đã có một số DNNN (chủ yếu là liên doanh ) sản xuất lắp ráp hang điện tử cao cấp, tập trung phần lớn ở Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Biên Hoà ( Hanel ,Viêt tronic ...). Các doanh nghiệp đã từng bước làm chủ công nghệ, tăng dần tỉ lệ nội địa hoá sản phẩm. Tuy nhiên thực tế vẫn trong giai đoạn tiếp nhận công nghệ điện tử thế hệ những năm 70-80 của các nước công nghiệp mới (NIC) như lắp ráp CKD, SKD, sản xuất đèn hình, chế tạo linh kiện bán dẫn đơn giản . 7. Các doanh nghiệp bưu chính viễn thông Trong những năm qua, nghành bưu chính viễn thông Việt Nam đã thực hiện chiến lược đi thẳng lên công nghệ cao, sử dụng công nghệ kĩ thuật số, kết nối dài rộng với quốc tế với chiến lược đó, các doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng một số trang bị viễn thông khá mạnh và kĩ thuật hiện đại, được số hoá đạt mức tương đương với các nước tiên tiến với 8 trạm vệ tinh mặt đất và trục đường bắc nam bằng cáp quang và vô tuyến chuyển tiếp(VIBA ) có thể duy trì được hàng ngàn kênh cộng với tuyến cáp quang trên đường dây tải điện 500 KV, đạt tốc độ truyền 2,5 GB/s. Ngoài ra, đường cáp ngầm dưới biển TVH được sử dụng từng bước chuyển từ đường PDH sang SDH ( công nghệ phổ cập trên mạng viễn thông của các nước phát triển ), đã sử dụng mạng tín hiệu số 7 để quản lý mạng GSM. Triển khai các công nghệ mới đáp ứng các dịch vụ khác của mạng viễn thông hiện đại như chuyển mạng gói, truyền dữ liệu... Công nghệ chế tạo thiết bị viễn thông đang ở mức lắp ráp CKD, tổng đầu tư số máy điện thoại tăng nhanh qua các năm: Năm 1992 : 150.000 chiếc Năm 1993 : 300.000 chiếc Năm 1995 : 600.000 chiếc Năm 1997 : 1,6 triệu máy Hiện nay khoảng 2,5 triệu máy. III.Đánh giá chung về tình hình đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Nhà nước trong những năm gần đây. 1. Những kết quả đạt được: Trong một thời gian dài, các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng nhiều tiến bộ kĩ thuật vào việc đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ, bước đầu nâng cao trình độ công nghệ của nhiều doang nghiệp, thể hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động & chất lượng sản phẩm, mở rộng thị phần trong & ngoài nước. Chúng ta có thể đơn cử một số doanh nghiệp trong những nghành tiêu biểu: Nghành bưu chính - Viễn thông là một nghành đi tiên phong trong việc đầu tư đổi mới công nghệ. Hiện nay, trình độ công nghệ của nghành này đã đạt mức tiên tiến của thế giới. Doanh số của nghành bửu chính viễn thông tăng liên tục qua các năm, năm 1994: 2700 tỉ VND, hiện nay vào khoảng trên 10000 tỉ đồng. Nghành dầu khí nhờ kĩ thuật tiên tiến đã tăng lượng khai thác từ 40000 tấn năm 1986; 7 triệu tấn năm 1994; 15 triệu tấn năm 1999; năm 2001 ước đạt trên 20 triệu tấn; kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỉ USD. Nhờ sử dụng các thiết bị gia công khuôn mẫu hiện đại của Anh, Nhật, Đức, nghành cơ khí Việt Nam đã chế tạo được các sản phẩm dùng cho chế biến dầu thô. Hiện tại nước, 50% máy công cụ, 20% máy loại nhẹ phục vụ nông nghiệp, 30% máy XD & Khai thác mỏ, 60% thiết bị điện, 25% phương tiện vận tải... Các doanh nghiệp dệt may là những doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực đầu tư đổi mới công nghệ. Nhờ đầu tư đổi mới công nghệ, sử dụng các thiết bị nhập của Tây Âu và Nhật Bản, năng suất, sản lượng & chất lượng sản phẩm đều tăng. Giá trị sản phẩm của các doang nghiệp thuộc Tổng công ty dệt may tăng bình quân năm là 11%(giai đoạn 1991-1995),12% giai đoạn (1996-2000). Sau năm 1995, đã có nhiều sản phẩm đạt chất lượng xuất khẩu trong đó có nhiều mặt hàng được ưa chuộng có uy tín cao trên thị trường thế giới như các sản phẩm của công ty dệt Thành công, dệt Hà Nội, dệt Phong phú.Các sản phẩm may của công ty may Việt Tiến, may 10... Nhờ vậy, kim nghạch xuất khẩu tăng nhanh: Năm 1991 đạt 116 triệu USD; năm 1995 đạt 950 triệu USD; năm 1996 đạt 1.1 tỉ USD; năm 1997 đạt 1,5 tỉ USD, năm 1999 đạt 1,7 tỉ USD, năm 2000 đạt mức 2 tỉ USD... Việc đổi mới công nghệ không những làm tăng năng lực sản xuất, mở rộng mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế mà còn đào tạo nên một đội ngũ cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lí và đội ngũ công nhân phù hợp với công nghệ mới. Các DNNN đã từng bước phát huy tốt tính chủ động, sáng tạo trong việc đầu tư đổi mới công nghệ. Từ khi chuyển đổi cơ chế kinh tế bao cấp sang cơ chế thị trường. Các DNNN đã khắc phục dần dần tâm lí ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước và nhận thức được rằng để đứng vững. Không còn con đường nào khác là phải mở rộng mặt hàng, nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm để mở rộng thị trường cho hàng hoá của mình. Muốn vậy thì nhất thiết phải đổi mới công nghệ. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa, các doanh nghiệp có nhiều điều kiện tiếp xúc với thị trường công nghệ quốc tế, từ đó khai thác các nguồn vốn, các hình thức liên doanh, liên kết... để mua công nghệ mới cho sản xuất. Các doanh nghiệp đã khai thác được nhiều nguồn công nghệ bước đầu xâm nhập thị trường công nghệ thế giới. Có hai hướng chủ yếu để công nghệ mới xâm nhập vào các doanh nghiệp: Một là, các doanh nghiệp hợp tác với các cơ quan khoa học nghiên cứu sáng chế & nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới từ những nghiên cứu nhỏ và từ những nghiên cứu cơ bản. VD: Trong các năm 1995 -1997. Sở khoa học, công nghệ - môi trường TPHCM đã triển khai được một số đề tài: Công nghệ lọc condensate có công suất 1000 tấn/ngày (tiết kiệm 22$/tấn) Chế tạo thành công lò nấu thép trung tần bán dẫn, đạt các chỉ tiêu Kinh tế - Kĩ thuật tương đương hàng ngoại nhập, giá thành bằng 1/3. ứng dụng phần mềm mosoflon vào công nghệ ép phun trong kĩ thuật làm khuôn mẫu, tối ưu hoá được các thông số kĩ thuật trong gia công các sản phẩm chất dẻo, hạ giá thành sản phẩm... Hai là, các doanh nghiệp nhập công nghệ từ nước ngoài dưới nhiều hình thức như: Đầu tư trực tiếp NN, liên doanh, mua dây chuyền công nghệ theo hình thức chìa khoá trao tay, mua licence hoặc cử người ra nước ngoài đào tạo. Hiện nay, Khoảng 80 - 90% công nghệ đang sử dụng là nhập từ nước ngoài, nhìn chung, công nghệ được chuyển vào trong nước thời gian qua có trình độ cao hơn công nghệ ta hiện có. Thông qua các hợp đồng mua công nghệ, các doanh nghiệp đã làm quen với công nghệ quốc tế. Trong đó chúng ta cũng đã có nhiều bài học thành công cũng như thất bại. 2. Những tồn tại cần tiếp tục xem xét giải quyết. Việc đổi mới công nghệ nhìn chung còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế. Hệ số đổi mới công nghệ ở các DNNN chưa cao, chỉ đạt 10 - 11%, trong đó nghành cơ khí, chỉ đạt 7 - 8%. Hiện tại, nghành cơ khí chỉ mới có khả năng trang bị khoảng 10% nhu cầu trong nước. Nghành dệt - may là một trong những nghành có nhiều cố gắng đầu tư đổi mới công nghệ, những đến nay, tỷ lệ thiết bị hiện đại trung bình mới chỉ đạt 45%. Nhìn chung, cơ cấu trình độ công nghệ còn thấp, chậm đổi mới trong nhiều nghành. Công nghệ tiên tiến đạt 20 - 30%; công nghệ trung bình đạt 50%; một số doanh nghiệp ở một số nghành có tỷ lệ công nghệ lạc hậu chiếm trên 50%...(cao su, chế biến lương thực, thực phẩm). Trong quá trình mở cửa, hợp tác đầu tư với nước ngoài, yếu tố chuyển giao cộng nghệ còn chiếm tỷ trọng thấp, không ít trường hợp công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ cũng được nhập vào nước ta, gây ảnh hưởng xấu đến năng suất lao động và môi trường sinh thái. Như trên đã nêu, số máy móc , thiết bị trong các DNNN đạt trình độ trung bình của thế giới còn ít. Số công nghệ đạt trình độ tiên tiến lại càng ít. Nguyên nhân của hiện trạng này có cả từ phía chuyển giao và phía nhận chuyển giao công nghệ. Về phía chuyển giao công nghệ, các đối tác nước ngoài vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao nên ít chuyển giao những công nghệ tiên tiến, đắt tiền. Thậm chí trong một số trường hợp, họ đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết hoặc là sự thiếu trách nhiệm của đại diện phía Việt Nam để trục lợi. Theo ý kiến đánh giá của các chuyên gia có tới "25% trong số hàng vạn thiết bị nhập về đã qua sử dụng, được tân trang lại và nâng cấp bằng các cơ cấu điều kiển bán tự động hoặc tự động" và "trong số các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam vẫn còn khá nhiều dây chuyền sử dụng nhiều lao động thủ công hoặc cố trình độ cơ khí thấp". Một số cuộc điều tra gần đây tại 14 doanh nghiệp liên doanh về tình trạng ô nhiễm môi trường cho thấy: ở nghành vật liệu xây dựng, nồng độ bụi gây ô nhiễm vượt tiêu chuẩn cho phép 1,2 lần, ở nghành hoá chất, nồng độ hơi khí độc và bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép 4,8 lần... Về phía nhận chuyển giao công nghệ , thường là các doanh nghiệp NN có những nguyên nhân sau: Tâm lý ỷ lại, trông chờ nhiều vào Nhà nước. Trình độ hiểu biết về công nghệ mới còn hạn chế. Động cơ trục lợi cá nhân của các cán bộ quản lí & đàm phán chuyển giao công nghệ. Thụ động trong tìm kiếm công nghệ và trong đàm phán, kí kết... Thiếu định hướng lâu dài về SXKD. Việc quản lí xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, quy chế giám định công nghệ chưa chặt chẽ nên thiết bị cũ, lạc hậu được nhập vào nước ta với gía cao hơn so với trình độ và chất lượng của nó, gây tổn thất lớn về kinh tế cho đất nước. Vai trò hướng dẫn, quản lí của nghành Kinh tế - Kĩ thuật, của các cơ quan quản lí của Nhà nước về Khoa học và công nghệ trong cơ chế thị trường còn nhiều bất cập. Trên tầm vĩ mô, còn thiếu một chiến lược phát triển Khoa học và công nghệ dài hạn. Với những quan điểm định hướng cho việc đổi mới công nghệ và phối hợp đổi mới công nghệ ở cấp bộ, nghành, và doanh nghiệp. Các bộ, nghành Kinh tế - Kĩ thuật chưa có những chính sách và ưu tiên trong đổi mới công nghệ. Do vậy, chưa có sự hỗ trợ cần thiết về chính sách cơ chế cũng như các hỗ chợ khác (những ưu đãi hoặc bảo hộ, hệ thống thông tin về công nghệ...) cho đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ rời rạc. Tình trạng nay thể hiện trên một số khía cạnh. Chưa có cơ chế phù hợp để gắn kết doanh nghiệp vơí cơ quan nghiên cứu triển khai, nên nhiều sản phẩm nghiên cứu chưa được ứng dụng vào sản xuất kinh doanh. Lực lượng cán bộ Khoa học - Kĩ thuật ở các DNNN còn mỏng và trình độ chưa cao (cán bộ có trình độ đại học chỉ chiếm khoảng 9%). Đầu tư cho nghiên cứu - triển khai còn thấp (mức đầu tư bình quân cho một cán bộ khoa học - kĩ thuật chỉ khoảng 1000 $/năm, trong khi bình quân của thế giới là 56000 $/người/năm, Thái Lan:19000$/người/năm, Singapore: 53000$...). f) Sự quan tâm cũng như tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lí của các DNNN đối với hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ chưa cao. Hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ ở các doanh nghiêp Nhà nước phải dựa trên những chiến lược cũng như chính sách đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, do đó cần phải có sự quan tâm đúng mức và tinh thần trách nhiệm cao của đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lí. Tuy nhiên, do bản chất cũng như cơ chế quản lí của các DNNN đó là sự tách biệt giữa chủ thể quản lí và chủ thể sở hữu nên chưa gắn chặt được trách nhiệm và quyền lợi của người quản lí doanh nghiệp với hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ nói riêng. Đặc biệt trong việc mua bán, chuyển giao công nghệ với các đối tác nước ngoài, các cán bộ DNNN phần vì thiếu hiểu biết, trình độ,nhưng phần lớn do trục lợi cá nhân và thiếu tinh thần trách nhiệm đã bị phía nước ngoài mua chuộc, hối lộ. Do đó họ đã không bảo vệ lợi ích của phía ta trong quá trình đàm phán mua bán, có khi chấp nhận giá cao để hưởng hoa hồng của phía nước ngoài, mua về những công nghệ, thiết bị đã cũ, chất lượng kém, gây thiệt hại, lãng phí tiền vốn của doanh nghiệp và Nhà nước. Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà Nước 1. Những quan điểm chi phối quá trình lựa chọn và đổi mới công nghệ. Việc đổi mới công nghệ ở các DNNN phải được đặt trong chiế lược về khoa học công nghệ chung của đất nước Phát huy tinh thần tự chủ và mở rộng hợp tác quốc tế trong đổi mới công nghệ. Đổi mới công nghệ phải nhằm mục tiêu kinh tế - xã hội tối đa. 2. Những giải pháp từ phía Nhà nước. Nhà nước cần có chiến lược tổng thể về Khoa học - Công nghệ làm cơ sở cho việc hoạch định cụ thể chiến lược công nghệ gắn với chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lí, chính sách trong sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ nói riêng, cụ thể là: Tăng cường sự quản lí (kể cả việc quy định nghiêm ngặt hơn và xử lí nghiêm minh đối với các vi phạm) hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp, mặt khác, tạo đIều kiện rộng rãi hơn nữa cho các DNNN chủ động nhiều hơn trong sản xuất kinh doanh và đổi mới công nghệ. Nhưng ách tẵc, cản trở trong các cơ chế, chính sách quản lí của nhà nước đối với hoạt động này cần được tháo gỡ và xoá bỏ (Ví dụ: Chế độ khấu hao, thuế, cơ chế tín dụng cho hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ...) Tạo những áp lực cần thiết, thậm chí gay gắt hơn nữa để các doanh nghiêp Nhà nước nhanh chóng tiếp cận mới và đổi mới công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Các nghiên cứu trong và ngoài nước đều chỉ ra rằng, hiện tại những áp lực này còn chưa đủ lớn bởi vẫn còn những hỗ trợ ưu đãi không cần thiết đối với các DNNN (Về tín dụng, giá cả, thị trường). Khuyến khích và hướng mạnh các dòng đầu tư trực tiếp NN (FDI) vào chuyển giao công nghệ mới, tiên tiến, nhằm nhanh tróng đổi mới công nghệ trong các DNNN liên doanh với nước ngoài. Theo phương hướng này cần tiếp tục cải thiện môi trường thương mại và đầu tư. Điều này có liên quan trước hết tới việc cải tiến chế độ phê duyệt đầu tư phức tạp bằng một quy trình đăng kí đầu tư đơn giản hơn. Tạo dựng hệ thống dịch vụ hỗ trợ việc chuyển giao, tiếp tục và đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp. Sự yếu kém trong dịch vụ hỗ trợ là một cản trở lớn, thậm chí trong nhiều trường hợp còn gây thiệt hại về kinh tế cho các doanh nghiệp trong hoạt động đổi mới công nghệ, cần phảI sớm được khắc phục. Việc tạo dựng hệ thống dịch vụ hỗ trợ nay trước hết nhằm: Tạo dựng mạng lưới cung cấp các thông tin đầy đủ, kịp thời về công nghệ và thị trường công nghệ trong nước và quốc tế. Xây dựng hệ thống tư vấn, thẩm định về công nghệ. Đào tạo cán bộ và nhân viên kĩ thuật. Thành lập các quỹ hỗ trợ, đầu tư cho hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. Các cơ quan quản lí Nhà nước, Bộ, nghành cần nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Thẩm định các dự án đầu tư nói chung và các dự án đầu tư đổi mới công nghệ nói riêng là một vấn đề quan trọng, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để quản lí hoạt động này. Tuy nhiên, thực tiễn công tác thẩm định vẫn còn nhiều điều bất cập: -Nội dung thẩm định công nghệ còn sơ sài, chưa đi sâu vào cụ thể, từ đó dẫn đến những tiêu cực về kinh tế, để lọt lưới nhiều công nghệ lạc hậu. - Vấn đề bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức trong quá trình thẩm định. - Thẩm định kĩ thuật chưa gắn liền với thẩm định hiệu quả kinh tế- xã hội. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án đổi mới công nghệ, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau: Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hóa đầu tư, dự báo chính xác về khả năng nguồn vốn, hướng dẫn đầu tư tập trung vào các chương trình, dự án trọng đIểm, các lĩnh vực ưu tiên. Hoàn thiện môi trường pháp lí, qui định về sự phối hợp giữa giữa các Bộ, nghành trong quá trình thẩm định dự án. 3. Các giải pháp từ phía các doanh nghiệp Nhà nước. 3. 1. Các DNNN mà cụ thể là các cán bộ quản lí doanh nghiệp cần nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu tư đổi mới công nghệ, từ đó có những chủ trương, biện pháp cụ thể phù hợp cho từng doanh nghiệp. 3.2. Khai thác, sử dụng triệt để, nắm vững những công nghệ mới về tính năng, khả năng sử dụng. 3.3. Đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động kĩ thuật, cán bộ quản lí kĩ thuật và cán bộ quản lí kinh tế để họ có khả năng tiếp thu, đánh gía và dự đoán xu hướng phát triển của những loại công nghệ có liên quan, có khả năng chọn được những công nghệ cần thiết, phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tế. 3.4.Thực hiện các biện pháp kinh tế, kĩ thuật nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, ổn định và mở rộng thị trường của doanh nghiệp để tạo cơ sở cho sự đổi mới công nghệ sau này. 3.5. Tạo lập và củng cố mối quan hệ với các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ kĩ thuật và công nghệ, phát triển những quan hệ này theo chiều sâu, đồng thời tạo cho mình một lực lượng thích hợp để có thể thường xuyên cải tiến, đổi mới công nghệ. Kết luận Để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và thực hiện mục tiêu đưa nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 thì toàn bộ nền kinh tế cũng như mỗi doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những biến đổi mang tính chất căn bản về công nghệ và đổi mới công nghệ. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với vị trí của mình trong nền kinh tế, các DNNN đóng một vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, năng lực về mọi mặt, đặc biệt là năng lực công nghệ, thiết bị của các DNNN hiện nay chưa đủ mạnh để đáp ứng được những đòi hỏi đó cùng với những thách thức đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, các doanh nghiệp Nhà nước cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị. Bởi vì, trong thời đại ngày nay, cùng với những tiến bộ khoa học kĩ thuật, hàm lượng công nghệ cấu thành sản phẩm chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, việc đổi mới công nghệ sẽ góp phần làm tăng năng suất lao động, tăng hiệu qủa sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, qua đó các doanh nghiệp Nhà nước thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế. Danh mục tàI liệu tham khảo. Kinh tế và quản lý công nghiệp của GS. TS. Nguyễn Đình Phan – NXB giáo dục 1999 Kinh tế đầu tư- PGS. TS Nguyễn Ngọc Mai(chủ biên)- NXBGD- 1998. Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường và vận dụng vào Việt Nam- TS. Đặng Kim Nhung -NXB Nông nghiệp 1994. Công nghệ và quản lí công nghệ- Bộ môn quản lí công nghệ- Đại học Kinh tế Quốc dân-1999. Đàm Văn Nhuệ- Lựa chọn công nghệ thích hợp ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam- NXB Nông nghiệp 1998. Phan Đăng Tuất- Doanh nghiệp Nhà nước trong thời kì đổi mới- NXB Chính trị Quốc gia - 2000. Tạp chí Công nghiệp Việt Nam- số 22/2000. Thời báo kinh tế Việt Nam 1999- 2000, 2000- 2001. Tạp chí Kinh tế phát triển, số 5/1999. Báo đầu tư các số năm 98, 99, 2000. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0168.doc
Tài liệu liên quan