Để tăng cường năng lực sản xuất phôi thép, sau khi hoàn thành dự án cải tạo mở rộng sản xuất công ty gang thép Thái Nguyên do Trung Quốc giúp đỡ với công suất khoảng 250.000t/năm vào năm 2002, Tổng công ty thép Việt Nam cần xúc tiến đầu tư hai trung tân sản xuất phôi thép một ở Miền Bắc và một ở Miền Nam với công suất mỗi nhà máy là 500.000 tấn phôi thép/năm.
Trong chiến lược lâu dài cần tiến hành đầu tư xây dựng nhà máy thép liên hợp công suất 4-5 triệu tấn thép/năm trong giai đoạn sau năm 2010 nhằm tạo ra một quả đấm thép cho sự phát triển của Tổng công ty thép Việt Nam.
Tiến hành nghiên cứu quy hoạch khai thác các mỏ quặng sắt Thạch Khê và Quý Xa để cung cấp nguyên liệu cho khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên và nhà máy thép liên hợp tương lai
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng công ty thép Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngân sách, Tổng công ty còn góp phần không nhỏ vào việc tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và tiết kiệm ngoại tệ cho quốc gia.
Chương III
Những phương hướng và một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của tổng công ty thép việt nam trong thời gian tới
I. Những tồn tại trong hoạt động đầu tư ở Tổng công ty thép Việt Nam thời gian qua.
1. Những tồn tại.
Mặc dù hoạt động đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng công ty thép Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Song tổng công ty còn gặp phải không ít những khó khăn.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị công nghệ lạc hậu.
+ Khó khăn trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên trong nước.
+ Mất cân đối trong việc sản xuất phôi thép và thép cán.
+ Đội ngũ lao động đông và trình độ chuyên môn thấp.
+ Khó khăn trong việc huy động vốn đâu tư.
+ Thị trường ngày càng bị thu hẹp.
* Thứ nhất, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, hầu hết các thiết bị thuộc thế hệ cũ kém hiện đại và được đầu tư từ những năm 60,70, quy mô nhỏ, chất lượng sản phẩm còn hạn chế, sức cạnh tranh đang giảm dần.
Trong thời gian qua Tổng công ty thép Việt Nam đã đầu tư đổi mới máy móc thiết bị nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm, nhưng mức độ đầu tư còn thấp, chưa tạo được động lực thực sự mạnh để có thể cạnh tranh được với các đối thủ khác, đặc biệt là khâu tiêu thụ, hệ thống bán hàng và phân phối sản phẩm còn nhiều hạn chế, hoạt động quảng cao, tiếp thị chưa phát triển.
* Thứ hai, khó khăn trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên trong nước do các mỏ tài nguyên phân bố rải rác, điều kiện khai thác, vận chuyển rất khó khăn, lượng sử dụng còn nhỏ bé chưa đủ đầu tư cho các dự án khai thác quy mô lớn. Mặc dù nguồn tài nguyên của nước ta rất phong phú tuy nhiên lại phân bố rất rải rác không tập trung và rất khó khăn cho việc khai thác và sử dụng. Các mỏ quặng sắt thường phân bố ở vùng miền núi hoặc ngoài biển trong khi đó các nhà máy sản xuất thép lại thường được xây dựng trong đất liền do vậy khả năng khai thác để sản xuất là rất khó khăn và khoản chi phí đầu vào là rất lớn do vậy giá thành sản phẩm cao sản phẩm sản xuất ra thường không có khả năng cạnh tranh.
* Thứ ba, mất cân đối giữa khả năng sản xuất phôi và cán thép, khả năng cung cấp thép phế quá nhỏ bé so với nhu cầu.
Ta biết rằng thép cán của Tổng công ty thép Việt Nam được sản xuất từ phôi thép sản xuất trong nước và phôi thép nhập khẩu. Tuy nhiênlượng phôi thép được sản xuất trong nước lại rất hạn chế và không đủ cho nhu cầu sản xuất thép cán. Trong những năm qua để khắc phục tình trạng thiếu phôi thép để sản xuất thép cán thì Tổng công ty đã tiến hành nhập khẩu phôi thép, giá phôi thép nhập khẩu thường rất cao do vậy sản phẩm công ty sản xuất ra không có khả năng cạnh tranh mà phôi thép trong nước thì chất lượng lại rất thấp. Cùng với việc nhập phôi thép Tổng công ty cũng phải nhập thép phế để sản xuất phôi thép vì thép phế trong nước chất lượng thấp và số lượng không đủ để sản xuất phôi thép phục vụ sản xuất thép cán.
*Thứ tư, lực lượng lao động quá lớn, năng suất lao động thấp, dư thừa nhiều lao động. Một tồn tại lớn của Tổng công ty đó là hiện tượng dư thừa lao động và trình độ kỹ thuật của lao động không được cao do vậy năng lực sản xuất thấp hơn nữa chi phí sản xuất cao.
* Thứ năm, đó là khả năng huy động vốn của Tổng công ty trong thời gian qua là rất khó khăn, vốn Nhà nước cung cấp ngày càng giảm sút, hơn thế nữa nguồn vốn huy động từ nước ngoài cũng ngày càng khó khăn. Trong thời gian gần đây hoạt động đầu tư của Tổng công ty thép Việt Nam hiệu quả không cao do vậy lợi nhuận giữ lại để tiếp tục tái đầu tư không nhiều.
* Thứ sáu, thị phần thép của Tổng công ty trong giai đoạn qua có xu hướng giảm rõ rệt, dành chỗ cho các liên doanh và các nhà máy sản xuất thép tư nhân mới được đâu tư trong thời gian gần đây. Nguy cơ mất dần thị trường không chỉ dừng lại ở đây mà nó còn tiếp tục nếu như Tổng công ty không có những giải pháp cụ thể.
Hoạt động đầu tư thu hút nước ngoài giảm sút. Trong 14 liên doanh cán thép và gia công sau cán đi vào hoạt động năm 1997 thì cho đến nay vẫn chưa thành lập được liên doanh mới. Chứng tỏ môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn được các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư liên doanh.
Điều này hạn chế khả năng về vốn và công nghệ của Tổng công ty rất nhiều.
2. Nguyên nhân
Sự yếu kém trong công tác đầu tư của Tổng công ty bắt nguồn từ một số nguyên nhân chính sau:
+ Vốn đầu tư cho ngành thép quá thiếu. Trong các dự án, vốn ngân sách Nhà nước giảm, vốn tín dụng ưu đãi và ODA cũng giảm. Do đó để thực hiện các dự án là rất khó khăn và không có hiệu quả.
+ Môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn, các dự án có hiệu quả không nhiều, dẫn đến nguồn huy động vốn để tự đầu tư là rất ít. Trong thời gian qua chủ yếu là đầu tư nhỏ giọt, dàn trải không có trọng điểm.
+ Thị trường tiêu thụ thép ở Việt Nam phát triển chậm, nhu cầu đa dạng nhưng khối lượng nhỏ, rất khó đáp ứng. Trong khi đó tình hình sản xuất thép trên thế giới cũng gây khó khăn lớn cho ngành thép ở chỗ cung vượt quá cầu, giá thép luôn biến động và giảm mạnh. Thị trường tiêu thụ bị co hẹp cả trong và ngoài nước.
+Xu hướng hội nhập và cạnh tranh quốc tế ngoài việc mang lại những thuận lợi cũng sẽ gây ra cho Tổng công ty những khó khăn không nhỏ. Tổng công ty phải đương đầu với nhiều đối thủ cạnh tranh hơn trong khi sức cạnh tranh của Tổng công ty hiện tại lại rất yếu kém.
+ Công tác quản lý của Tổng công ty còn nhiều hạn chế, mối quan hệ giữa các đơn vị sản xuất và lưu thông không chặt chẽ, gây lên tình trạng thiếu đồng bộ trong sản xuất, kinh doanh.
+ Năng lực đội ngũ cán bộ còn yếu kém. Tổng công ty còn thiếu những người thực sự giỏi về chuyên môn trong sản xuất cũng như kinh doanh.
Nhận biết được những nguyên nhân chính gây nên tình trạng cạnh tranh yếu kém là điều hết sức cần thiết đối với Tổng công ty giai đoạn hiện nay. Từ đó, tổng công ty có thể điều chỉnh, khắc phục những khó khăn hiện tại để dần dần nâng cao khả năng cạnh tranh chủ động hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới.
II. Phương hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của tổng công ty thép việt nam trong thời gian tới.
1. Mục tiêu:
Phát triển ngành thép đến năm 2010 để trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm của nền kinh tế, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước tiến tới xuất khẩu, đẩy mạnh sản xuất, tạo nhiều việc làm góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới .
*Tốc độ tăng trưởng bình quân 10 năm (về công suất)
-Sản suất thép thô( phôi thép)tăng bình quân 15%/ năm.
-Sản suất thép cán:tăng bình quân 10%/ năm.
*Vế cơ cấu đầu tư:
Phát triển cân đối giữa hạ nguồn cán kéo, gia công sau cán và thượng nguồn (khai thác quặng sắt , sản xuất phôi ), từng bức đáp ứng về cơ bản phôi thép cho sản xuất cán kéo .
Kết hợp đa dạng hoá chủng loại, quy cách sản phẩm để phù hợp với nhu cầu thị trường, với việc phát triển có chọn lọc một số sản phẩm thép đặc biệt cho công nghiệp quốc phòng.
Phát triển sản xuất thép và khai thác sử dụng nguồn tài nguyên trong nước (trước hết là quặng sắt) phải đảm bảo hợp lý và có hiệu quả .
*Về công nghệ :
Sử dụng công nghệ hiện đại, tự động hoá ở mức cao tiết kiệm nguyên, nhiên liệu điện năng, đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường, để sản suất được thép chất lượng cao, giá thành hạ tăng năng suất lao động, đủ sức cạnh tranh với thép trong khu vực và trên thế giới.
Công nghệ lựa chọn phaỉ đảm bảo bên lâu linh hoạt dễ dàng trong nguồn cung cấp , hiện đại hoa khi cần thiết , thay thế công nghệ lạc hậu ,kém hiệu quả và tác động xấu đến môi trường .
*Về huy dộng các nguồn vốn đầu tư :
Huy động mọi nguồn vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế , tham gia đầu tư phát triển ,tranh thủ đầu tư nước ngoài một cách hợp lý (trớc hết là công nghệ thiết bị ) đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp trong nứơc sản xuất thép .
*Về phát triển nguồn nguyên liệu .
Trong kế hoạch 5 năm2001-2005tập trung nghiên cứu để có kết luận chắc chắn và khoahọc về trữ lượng thơng mại ,khả năng khai thác và sử dụng các nguồn quặng sắt trong nước ,trọng tâm là hai mỏ Quý Xa và Thạch Khê .Khai thác tối đa các mỏ quặng sắt nhỏ để sản xuất gang ,tận thu nguồn thép phế liệu trong nước ,đồng thời tìm nguồn thép phế nhập khẩu ổn định để sản xuất phôi thép bằng lò điện đạt hiệu quả .
*Về thị trường :
Ngành thép làm chủ thị trường trong nước về chủng loại ,chất lựng quy cách các loại thép thông dụng , giá cả và tìm được thị
trường tieu thụ .Từng bước đáp ứng nhu cầu về thép tấm ,thép lá và thép đặc biẹt phục vụ cho cơ khí chế tạo .Phấn đấu đến năm 2010 sản xuất thép trong nước đạt 75-80%nhu cầu tiêu dùng thép trong nước ,trong đó riêng tổng công ty thép Việt Nam (kể cả phần trong các liên doanh ) chiếm tỷ trọng trên50% về thép xây dựng và khoảng 70% về thép tấm , thép lá .
*Về phát triển nguồn nhân lực :
Chú trọng công tác đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ kỹ sư luyện kim,
các bộ quản lý ngành, công nhân kỹ thuật lành nghề, đầu tư nghiên cứu khoa học, công nghệ đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành thép.
Các chỉ tiêu cần đạt được :
Bảng 20: Các chỉ tiêu cần đạt được trong giai đoạn 2001-2010
Các chỉ tiêu về công suất thiết kế
Sản xuất phôi thép
Sản xuất thép cán
Gia công sau cán
Đến năm 2005
(tr.tấn/năm)
Đến năm 2010
(tr.tấn/năm)
1,5
4,2
1,0
1,8 đến 2,0
6,5
1,6
Các chỉ tiêu về sản lượng
Phôi thép(thép thô)
Thép cán các loại
Sản phẩm gia công sau cán
Đến năm 2005(tr.tấn/năm)
Đến năm 2010(tr.tấn /năm )
1,2 đến1,4
2,5-3
0,6
1,8
4,5-5
1,2-1,5
Các chỉ tiêu về nhu cầu vốn
Tổng vốn đầu tư
Đến năm 2005(tỷ đồng)
Đến năm 2010(tỷ đồng)
16.000
44.444
Nguồn: Phòng kế toán tài chính (Bộ phận đầu tư)
2. Phương hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của tổng công ty thép Việt Nam trong thời gian tới.
2.1 Tích cực chủ động trong hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế với hình thức và bước đi phù hợp.
Kể từ khi nền kinh tế đất nước chuyển sang áp dụng cơ chế thị trường, Tổng công ty thép đã nỗ lực vươn lên và trưởng thành nhanh chóng. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng để đáp ứng nhu cầu hội nhập nền kinh tế thế giới Tổng Công ty vẫn còn nhiều hạn chế khá cơ bản như công nghệ lạc hậu, thiết bị có quy mô nhỏ và cũ, quản lý yếu kém, lực lượng lao động quá đông nhưng chất lượng không cao, chủng loại sản phẩm còn hạn chế, chất lượng và mẫu mã sản phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, giá thành cao, sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế còn rất thấp.
Một tâm lý phổ biến hiện nay của các nhà quản lý doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có cả Tổng Công ty Thép Việt Nam là muốn Nhà nước vừa duy trì dài hơn các biện pháp bảo hộ vừa có chính sách trợ cấp ưu đãi đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Rõ ràng những tư tưởng đó sẽ không thể thực hiện được nữa trong một thời gian tới. Vì vậy, các nhà quản lý của Tổng Công ty cần phải mạnh dạn và nhanh chóng thay đổi nhận thức, phải chấp nhận “luật chơi” của thị trường. Doanh nghiệp phải có chương trình chủ động tham gia hội nhập kinh tế thế giới với bước đi và hình thức phù hợp, vừa không chần chừ, do dự để lỡ thời cơ vừa không chủ quan, nóng vội với phương châm “muốn tập bơi thì phải nhảy xuống nước”. Điều đó đòi hỏi Tổng Công ty Thép Việt Nam phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của mình thông qua các biện pháp đồng bộ về cả kinh tế và xã hội.
2.2. Nhanh chóng nắm bắt và áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ sản xuất thép tiên tiến trên thế giới vào quá trình sản xuất.
Khoa học công nghệ là chìa khoá quyết định sức cạnh tranh của một doanh nghiệp. Xu thế hiện nay trên thị trường thế giới là hàm lượng khoa học và công nghệ trong giá trị sản phẩm thép ngày càng gia tăng. Trong những thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ 20, ngành công nghệ thép thế giới đã có nhiều đột phá trong lĩnh vực công nghệ sản xuất thép, nhiều thành tựu khoa học được áp dụng cho sản xuất thép. Nhiều công nghệ mới như Midrex, Hyl, Hismelt, Corex, Rometl, Dry Iron ... được nghiên cứu và áp dụng trên thế giới.
Để chủ động nâng cao khả năng cạnh tranh, Tổng Công ty cần nhanh chóng nắm bắt cơ hội áp dụng các công nghệ mới trong sản xuất và kinh doanh của mình. Việc vận dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh đòi hỏi Tổng Công ty cần thực hiện một loạt các biện pháp: nắm bắt thông tin và lựa chọn công nghệ, thiết bị, có lực lượng lao động phù hợp, xây dựng phương thức tổ chức và quản lý tốt thì việc vận dụng khoa học kỹ thuật mới tạo ra sức cạnh tranh cao.
2.3 Giữ vững và mở rộng thị trường và đảm bảo vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong ngành công nghiệp thép.
Là một Tổng Công ty Nhà nước lớn, nhiệm vụ quan trọng của Tổng Công ty Thép Việt Nam trong thời gian tới là đảm bảo được vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế. Để thực hiện được mục tiêu đó, phương hướng tới của Tổng Công ty Thép Việt Nam là lấy mục đích phục vụ nhu cầu trong nước là chính nhưng từng bước chuyển dần từ mô hình thay thế nhập khẩu cả về chất lượng và chủng loại sản phẩm sang mô hình thay thế nhập khẩu kết hợp với xuất khẩu để hình thành ngành công nghiệp thép theo hướng hội nhập.
Mục tiêu chiến lược của Tổng Công ty Thép Việt Nam trong thời gian tới là giữ vững và tăng thị phần ở mức ít nhất bằng 40% thị trường thép trong nước. Về chiến lược sản phẩm, ngoài các sản phẩm thép xây dựng và dân dụng, ngành thép phải sản xuất thêm mặt hàng thép tấm cán nóng, thép tấm cán nguội, tôn mạ thiếc, thép đặc biệt và một phần thép hợp kim trên cơ sở hình thành khu liên hợp thép khép kín đi từ nguồn quặng trong nước.
2.4 Tăng cường đầu tư tăng năng lực luyện thép nhằm tạo ra sự cân đối giữa các công đoạn sản xuất thép.
Như đã phân tích ở trên, sản xuất của ngành thép nước ta nói chung và Tổng Công ty Thép Việt Nam nói riêng đang ở tình trạng mất cân đối giữa năng lực luyện thép và năng lực cán thép. Năng lực sản xuất phôi thép còn nhỏ bé, các cơ sở cán thép trong nước còn phụ thuộc nhiều vào nguồn phôi nhập khẩu. Toàn bộ sản phẩm cán dẹp trong nước chưa sản xuất được, phải nhập khẩu toàn bộ.
Do vậy, một trong những ưu tiên phát triển của Tổng Công ty Thép Việt Nam trong thời gian tới là đồng thời với việc đầu tư hiện đại hoá, tăng công suất cán thép xây dựng, Tổng Công ty cần đẩy mạnh đầu tư các dự án sản xuất phôi thép để đáp ứng nhu cầu phôi thép cho các nhà máy cán, hạn chế việc phải nhập khẩu trong nước.
Đầu tư khai thác nguồn nguyên liệu quặng sắt, than và các vật tư khác đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất có hiệu quả của khu liên hợp gang thép Thái Nguyên. Khai thác tối đa nguồn thép phế trong nước để cung cấp đủ nguyên liệu cho các lò điện.
2.5 Phân bố lại hợp lý các cơ sở sản xuất - kinh doanh hiện có và đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp.
Phân bố lại hợp lý các cơ sở sản xuất, mạng lưới lưu thông trên toàn quốc theo hướng chuyên môn hoá theo mặt hàng, khu vực địa lý, tạo sự liên kết thực sự giữa sản xuất và lưu thông phân phối.
Trong chu trình sản xuất thép, chi phí vận tải chiếm một tỉ lệ khá cao trong giá thành sản phẩm thép. Do vậy theo kinh nghiệm của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc địa điểm các nhà máy thép thường được bố trí ở các khu vực dọc bờ biển nơi có các cảng nước sâu để giảm chi phí vận tải nguyên liệu và sản phẩm. Do lịch sử để lại, phần lớn các cơ sở sản xuất lớn của Tổng công ty thép được phân bố sâu trong nội địa điển hình là Công ty Gang thép Thái Nguyên. Việc này dẫn đến việc sản phẩm của công ty ở thế kém cạnh tranh về chi phí do chi phí vận tải cao hơn so với các cơ sỏ sản xuất thép khác. Vì vậy trong chiến lược phân bố các cơ sở sản xuất theo chúng tôi cần có sự dịch chuyển các nhà máy của Tổng công ty đến những khu vực ven biển, nơi có những cảng nước sâu như Quảng Ninh, Hải Phòng, các tỉnh ven biển ở Miền Trung, Bà Rịa Vũng Tàu.
Đẩy mạnh công tác đổi mới tổ chức và quản lý doanh nghiệp theo hướng tạo nhiều quyền chủ động trong quyết định sản xuất kinh doanh cho các đơn vị thành viên, cải tiến các thủ tục đầu tư xây dựng, mở rộng uỷ quyền cho đơn vị thành viên đi đôi với công tác kiểm tr giám sát của Tổng công ty. Luôn coi trọng cải tiến công tác quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính.
Bảng 21:Danh mục các dự án đầu tư giai đoạn 2001-2005
TT
Tên dự án và công trình
Hình thức đầu tư
Công suất thiết kế(1000 tấn/năm
Sản phẩm
Tiến độ và địa điểm
1
Các dự án đầu tư chiều sâu :công ty GTTN,công ty thépMN, công ty thépĐà Nẵng
Tự đầu tư
Phôi:500
Cán :700
Sản phẩm dài
2000-2002
2
Nhà máy cán thép nguội Phú Mỹ
Tự đầu tư
Cán :205
Băng cuộn cán nguội
2000-2004
Bà rịa Vũng tàu
3
Nhà máy thép Phú Mỹ
Tự đầu tư
Phôi:500
Cán:300
Phôi thép và sản phẩm dài
2002-2005
4
Nhà máy thép Miền Bắc
Tự đầu tư hoặc liên doanh
Phôi :500
Cán :300
Phôi thép và sản phẩm dài
2002-2005 Quảng Ninh hoặc Hải Phòng
5
Nhà máy cán tấm nóng
Tự đầu tư hoặc liên doanh
1000
Tấm và băng cán nóng
2003-2007
6
GTTN giai đoạn hai
Tự đầu tư
300
Sản phẩm dài
Từ 2002
7
Các mỏ nguyên liệu Quý Xa ,Thạch Khê và nhà máy thép liện hợp
Làm công tác chuẩn bị đầu tư
Quặng sắt cho phát triển thượng nguồn
2002-2005
8
Các dự án thép ngoài quốc doanh
Tư nhân
Khoảng 1000
Sản phẩm dài
Nguồn :Quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam đến năm 2010,VSC
Bảng 22: Danh mục các dự án đầu tư giai đoạn 2006 -2010
TT
Tên dự án và công trình
Hình thức đầu tư
Công suất thiết kế (1000 tấn/năm
Sản phẩm
Tiến độ và địa điểm
Nhà máy thép liên hợp 4,5 triệu tấn/năm
1.1
Bước 1 cán nóng và cán nguội
Tự đầu tư hoặc liên doạnh
Cán nóng :1500
Cán nguội:600
Tâm băng cán nóng và cán nguội
2007-2010
Miền Trung
1.2
Bước 2: lò cao, lò thép đúc liên tục
Tự đầu tư
2500
Phôi dẹt
2008-2012
Miền Trung
2.
Mỏ thạch khê
Tự đầu tư hoặc liên doanh
10000
Quặng sắt
2007-201
Hà Tĩnh
3.
Nhà máy thép đặc biệt
Tự đầu tư
100
Thép đặc biệt cho cơ khí
2006-2008
Phía Bắc
4.
Nhà máy phôi Vinakyoei
Liên doanh
500
Phôi thép
2006-2008
Bà Rịa Vũng Tàu
Nguồn:Phòng kế toán tài chính (bộ phận đầu tư)
III. Những giải pháp đầu tư và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng công ty thép Việt Nam trong thời gian tới
1. Một số giải pháp
Phát huy những thành tựu đã đạt được trong những năm qua và thực hiện với những phương hướng đã nêu ở trên, theo chúng tôi để nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng công ty thép trong giai đoạn tới, cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
1.1. Đi đôi với việc đầu tư mới một số nhà máy cán thép hiện đại là từng bước đầu tư các nhà máy sản xuất phôi thép.
Để tăng khả năng cạnh tranh với các nhà máy cán thép liên doanh và các nhà máy cán thép mới có công nghệ hiện đại do các thành phần kinh tế khác đầu tư, Tổng công ty cần tăng cường năng lực công nghệ và sản xuất các cơ sở cán hiện tại bằng các giải pháp sau:
Mạnh dạn xoá bỏ những dàn cán cũ có công nghệ lạc hậu, quy mô nhỏ.
Như ta biết rằng phần lớn những công nghệ mà các nhà máy của Tổng công ty đang vận hành thường được đầu tư từ những năm 1960 hay1970 dó đó những công nghệ này hiện nay có công suất có thể nói là rất nhỏ so với công suất của các nhà máy của các đơn vị liên doanh, các đơn vị mới được đầu tư trong thời gian gần đây và các nhà máy trên thế giới. Nếu những công nghệ, máy móc thiết bị này vẫn tiếp tục được sử dụng trong quá trình sản xuất thì không những chi phí sản xuất cao, gây ô nhiễm môi trường mà sản phẩm của Tổng công ty sẽ không thể cạnh tranh nổi các sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Do đã đến lúc phải thay thế các thiết bị này. Để làm được điều đó thì ban lãnh đạo của Tổng công ty phải mạnh dạn và quyết đoán, phải có kế hoạch cụ thể trong việc lựa chọ sản phẩm thay thế. Phải lựa chọn công nghệ phù hợp với khả năng và trình độ cũng như phù hợp với môi trường văn hoá xã hội của đất nước. Ngoài việc lựa chọn công nghệ phù hợp còn phải lựa chọn nhà cung cấp máy móc thiết bị đồng thời phải chuẩn bị công tác đàm phán một cách rất kỹ lưỡng có như vậy mới có kết quả. Ngoài ra Tổng công ty còn phải có kế hoạch huy động vốn để thực hiện việc đầu tư đó. Đầu tư thay thế công suất bị xoá bỏ bằng những dây chuyền cán hiện đại với quy mô công suất khoảng 300.000t/năm ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam.
Giải pháp cho việc khai thác và sử dụng tài nguyên trong nước.
Ta biết rằng nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm của Tổng công ty không có khả năng cạnh tranh trong thời gian qua đó là chi phí sản xuất quá lớn mà một trong những yếu tố góp phần tạo nên chí phí sản xuất của Tổng công ty lớn đó là chi phí vận chuyển của Tổng công ty cũng rất lớn nguyên nhân do các nhà máy sản xuất phôi thép được xây dựng không hợp lý. Các nhà máy sản xuất phôi thép của Tổng công ty thường được xây dựng sâu trong đất liền trong khi đó địa điểm được khai thác các mỏ quặng sắt thường lại nằm ở biển hoặc ở vùng núi cao. Đây là một điều rất bất hợp lý chính vì vậy trong thời gian tới Tổng công ty cần phải có kế hoạch xây dựng các nhà máy sản xuất phôi thép gần với địa điểm khai thác hơn tức là gần ven biển hơn để giảm chi phí sản xuất. Đồng thời phải có kế hoạch khai thác hợp lý không được khai thác bừa bãi vì các mỏ này không phải là những tài nguyên có thể tái tạo được.
Đầu tư xây dựng nhà máy cán nóng, cán nguội để sản xuất cuộn cán nóng, cán nguội phục vụ thị trường trong nước đang có nhu cầu ngày càng gia tăng.
Trong giai đoạn qua Tổng công ty thép Việt Nam mới chỉ sản xuất được các sản phẩm thép tròn trơn, tròn vằn, thép dây và một số sản phẩm thép gia công khác mà chưa sản xuất được các sản phẩm thép dẹp cán nóng, cán nguội. Để khắc phục tình trạng thiếu hụt đó trong thời gian qua Tổng công ty đã thực hiện việc nhập khẩu các sản phẩm đó phục vụ nhu câù trong nước. Hơn nữa gía cả nhập khẩu sản phẩm thép dẹp cũng rất đắt do vậy đây không phải là giải pháp lâu dài. Trong khi đó nhu cầu cho sản phẩm thép dẹp ở trong nước ngày càng gia tăng và có thể nói sản phẩm thép dẹp sẽ là một thị trường tiềm năng mà bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu biết nhìn xa trông rộng, biết có kế hoạch sản xuất sản phẩm đó.
Đối với Tổng công ty thép Việt Nam là một doanh nghiệp chủ lực trong ngành thép Việt Nam do vậy để tồn tại và phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thì Tổng công ty không thể không nghĩ tới việc đầu tư cho các nhà máy sản xuất các sản phẩm thép dẹp cán nóng và cán nguội. Vấn đề là Tổng công ty phải có kế hoạch cụ thể, phải tiến hành lập dự án khả thi và phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng trong việc tìm nguồn vốn đầu tư để thực hiện dự án. Để có được nguồn vốn cùng với công nghệ tiên tiến thì một giải pháp có thể khả thi đó là kêu gọi đầu tư nước ngoài thông qua hình thức liên doanh. Bởi vì khi liên doanh thì công ty có thể tận dụng được nguồn vốn đóng góp của nước ngoài thông qua chuyển giao công nghệ khi đó Tổng công ty sẽ không phải mất nhiều vốn vào đầu tư cho công nghệ. Mặt khác khi tiến hành liên doanh thì doanh nghiệp còn có thể học hỏi được những kinh nghiêm quản lý tiên tiến của nước bạn.
Đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất phôi thép có công suất lớn.
Năng lực sản xuất phôi thép của Tổng công ty thép Việt Nam trong thời gian qua có thể nói là rất thấp lượng phôi thép không đủ để sản xuất thép cán do vậy Tổng công ty phải tiến hành nhập khẩu phôi thép để bù vào sự thiếu hụt đó. Nguyên nhân dẫn đến năng lực sản xuất phôi thép không đủ để sản xuất thép cán đó là các nhà máy sản xuất phôi thép đã được đầu tư từ rất lâu do vậy công nghệ đã trở nên rất lạc hậu, tiêu tốn nhiều nguyên, nhiên liệu chi phí sản xuất rất lớn, khả năng thu hồi thép lỏng rất thấp. Cùng với công nghệ của các nhà máy sản xuất phôi thép đã lạc hậu là lượng thép phế trong nước cũng không đủ để sản xuất phôi thép. Do vậy để đảm bảo lượng thép phế phục vụ cho sản xuất thép cán trong giai đoạn tới Tổng công ty thép cần phải tiến hành một số các công việc như: tiến hành đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất phôi thép có công suất lớn gần với nơi khai thác các loại quặng sát để giảm thiểu chi phí. Thay thế các nhà máy sản xuất phôi thép đã cũ và lạc hậu. Việc thực hiện đầu tư có thể bằng hai hình thức đó là tự đầu tư hoặc liên doanh. Về nguồn vốn thực hiện có thể vay ưu đãi vốn tín dụng của Nhà nước và huy động vốn từ nước ngoài có thể nói đây là hai nguồn vốn chủ yếu ngoài ra còn có thể huy động một số nguồn vốn khác như vốn tự có hoặc vốn trên thị trường tài chính.
Để tăng cường năng lực sản xuất phôi thép, sau khi hoàn thành dự án cải tạo mở rộng sản xuất công ty gang thép Thái Nguyên do Trung Quốc giúp đỡ với công suất khoảng 250.000t/năm vào năm 2002, Tổng công ty thép Việt Nam cần xúc tiến đầu tư hai trung tân sản xuất phôi thép một ở Miền Bắc và một ở Miền Nam với công suất mỗi nhà máy là 500.000 tấn phôi thép/năm.
Trong chiến lược lâu dài cần tiến hành đầu tư xây dựng nhà máy thép liên hợp công suất 4-5 triệu tấn thép/năm trong giai đoạn sau năm 2010 nhằm tạo ra một quả đấm thép cho sự phát triển của Tổng công ty thép Việt Nam.
Tiến hành nghiên cứu quy hoạch khai thác các mỏ quặng sắt Thạch Khê và Quý Xa để cung cấp nguyên liệu cho khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên và nhà máy thép liên hợp tương lai.
1.2. Thực hiện việc tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp, đổi mới tổ chức và quản lý doanh nghiệp.
Thực hiện cơ chế đổi mới, cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp thành viên theo hướng đảm bảo cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, chuyên môn hoá cao. Đối với Công ty Gang thép Thái Nguyên, nơi có nhiều bộ phận sản xuất và phục vụ, lực lượng lao động đông vượt con số 10.000 lao động mặc dù đã có nhiều nỗ lực sau hai năm tinh giảm biên chế, cần tiến hành một cách triệt để và kiên quyết các phương thức sắp xếp lại doanh nghiệp như cổ phẩn hoá, giao khoán, bán khoán và cho thuê các bộ phận không cần thiết đến dây chuyền sản xuất chính hoặc các bộ phận mang tính xã hội do lịch sử để lại.
Đối với hệ thống các công ty thương mại thành viên của Tổng công ty, vốn trước đây là những công ty kim khí thuộc Tổng công ty kim khí được sát nhập vào Tổng công ty thép Việt Nam, cần có một kế hoạch sắp xếp lại hợp lý hơn theo hướng ít đầu mối, tập trung và chuyên môn hoá, tạo sự gắn kết thực sự giữa sản xuất và phân phối. Khối này bao gồm 8 đơn vị, quản lý hơn 300 tỉ đồng vốn nhà nước, tuy nhiên quy mô không đồng đều có những đơn vị chỉ quản lý khoảng 10 tỉ đồng, phân bố ở ba miền Bắc, Trung, Nam tập trung phần lớn ở phía Bắc ( 5 đơn vị). ở trong phạm vi bán kính không quá 200 km, lấy Hà Nội làm trung tâm tập trung tới 5 đơn vị lưu thông đó là Kim khí Hà Nội, Công ty kinh doanh thép và vật tư Hà Nội, Công ty Kim khí Quảng Ninh, Công ty Kim khí Hải Phòng và công ty Kim khí Bắc Thái. Các mặt hàng kinh doanh của 5 đơn vị này không khác biệt lắm, bao gồm thép cán sản xuất trong nước, nhập khẩu phôi thép, thép tấm lá bán cho các hộ tiêu thụ trong nước. Sự phân bố không hợp lý này dẫn đến sự chồng chéo trong kinh doanh, hiệu quả chuyên môn hoá không cao. Thực tế hoạt động trong những năm qua của những đơn vị này đã minh chứng cho điều trên. Hiệu quả kinh doanh của những đơn vị này rất thấp, công nợ khó đòi phát sinh tăng. Những điều này gợi ý cho chúng ta phải xem xét một giải pháp sắp xếp các đơn vị này theo hường chỉ giữ 1 hoặc cùng lắm là 2 đơn vị thực hiện nhiệm vụ phân phối sản phẩm thép, những đơn vị còn lại hoặc cổ phần hoá để thu hồi vốn tập trung cho các dự án hiện đại hoá sản xuất hoặc sát nhập vào những đơn vị được giữ lại. Chúng tôi cho rằng phương án cổ phần hoá nên được lựa chọn.
Sự bất hợp lý trong cơ cấu tổ chức cũng được bộc lộ ở những đơn vị khu vực Miền Trung, nơi có 2 công ty: công ty thép Đà Nẵng và công ty kim khí Miền Trung. Cả hai đơn vị đều có quy mô nhỏ. Công ty thép Đà Nẵng chuyên về sản xuất có 2 lò điện công suất 1.5t/mẻ và dây chuyền cán công suất 40.000t/năm. Mặc dù là một công ty thương mại, nhưng công ty kim khí Miền Trung cũng có một dây chuyền cán công suất 30.000t/năm. Thiết bị và công nghệ của cả hai đơn vị này đều lạc hậu. Cho dù hiện nay Công ty thép Đà Nẵng đang đầu tư hiện đại hoá khâu luyện kim bằng thay thế các lò 1.5 t/mẻ bằng lò điện 15t/mẻ, song trình độ công nghệ không cải thiện được là bao. Sự đầu tư ở hai công ty này trong cùng một thị trường nhỏ như thị trường Miền Trung là điều bất hợp lý, không hiệu quả. Vì vậy theo chúng tôi, để đảm bảo hiệu quả kinh tế theo quy mô các thiết bị luyện kim, tránh sự phân tán nguồn lực, chúng tôi thấy cần thiết phải sát nhập 2 đơn vị này thành một trung tâm luyện-cán thép hiện đại có quy mô bước đầu khoảng 300.000 t/năm và có khả năng mở rộng khi thị trường cho phép.
Đối các công ty sản xuất và lưu thông ở khu vực Miền Nam cũng cần tiến hành phân loại, sắp xếp lại doanh nghiệp, tiến hành cổ phần hoá, giao khoán, bán hoặc cho thuê những bộ phận không cần thiết hoặc không có hiệu quả.
Để có thể tạo ra một doanh nghiệp linh hoạt có khả năng đối phó nhanh với những thay đổi của môi trường kinh doanh, Tổng công ty cần phải thực hiện cải tiến phương thức quản lý doanh nghiệp áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại theo hướng trao nhiều quyền tự chủ cho các đơn vị dưới quyền, tạo ra một môi trường mà có thể phát huy tối đa sức sáng tạo của cá nhân, áp dựng tiêu chuẩn quản lý ISO 9000 trong công tác quản lý doanh nghiệp.
Nghiên cứu và tiến tới áp dụng những hình thức kinh doanh mới như kinh doanh thương mại điện tử khi điều kiện hạ tầng cho phép.
1.3. Giải pháp đầu tư mạnh mẽ đổi mới thiết bị và công nghệ
Do lịch sử để lại, các thiết bị của Tổng công ty phần lớn được trang bị từ những năm 1960, 1970 nên đã cũ , lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu ngày càng gia tăng về chất lượng, mẫu mã và chủng loại sản phẩm của thị trường. Trong những năm 1990, các đơn vị thành viên của Tổng công ty đã tiến hành đầu tư chiều sâu hiện đại hoá các dây chuyền hiện có, áp dụng các biện pháp kỹ thuật, nhưng không đồng bộ, còn phân tán. Những hoạt động đầu tư này đã mang lại hiệu quả tích cực: nâng cao năng suất lao động và sản lượng; hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, hiệu quả của đầu tư chiều sâu đã phát huy hết giới hạn của mình. Thực tế này đòi hỏi, để tồn tại và có khả năng cạnh tranh, Tổng công ty phải đổi mới công nghệ, trang thiết bị hiện đại. Chỉ có con đường đó doanh nghiệp mới có thể phát triển được.
Để thực hiện công tác đổi mới công nghệ và thiết bị có hiệu quả trước hết cần tiến hành phân loại trang thiết bị hiện có thành những nhóm:
Thiết bị có quy mô nhỏ, lạc hậu. Đối với nhóm này cần mạnh dạn dẹp bỏ, thanh lý;
Thiết bị có quy mô nhỏ, vừa đã được đầu tư hiện đại hoá hiện vẫn phát huy hiệu quả. Đối với loại này cần tận dụng sử dụng trong thời gian đến 5 năm, sau đó phải tiến hành thay thế bằng thiết bị có quy mô lớn hơn và hiện đại.
Thiết bị mới đầu tư thuộc loại hiện đại.
Trên cơ sở đó xây dựng chiến lược thay thế và đầu tư mới theo nguyên tắc quy mô thiết bị phải là quy mô phù hợp có hiệu quả kinh tế, công nghệ thiết bị phải đồng bộ và hiện đại.
Thực hiện lựa chọn công nghệ theo quy chế đấu thầu hiện hành, tổ chức đấu thầu quốc tế rộng rãi hoặc ưu tiên đấu thầu trong phạm vi Nhà nước cấp tín dụng ưu đãi.
Ưu tiến đấu thầu mua các thiết bị đã sản xuất được trong nước đạt yêu cầu của dự án.
Đảm bảo thiết bị đồng bộ, hiện đại đạt trình độ chung trên thế giới, giá cả hợp lý kèm theo chuyển giao công nghệ đầy đủ ,dễ nắm bắt sử dụng.
Có thể nhập và sử dụng một số thiết bị đã qua sử dụng theo đúng quy định của Bộ KHCN và MT để tiết kiệm vốn đầu tư song vẫn đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tiên tiến .
Tổng công ty cần thông qua các tổ chức tư vấn để lựa chọn thiết bị công nghệ phù hợp ,tránh chọn phải các công nghệ đã cũ, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp trong khi giá thành lại cao, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của tổng công ty.
Đối với công ty Gang thép Thái Nguyên, sau khi hoàn thành dự án cải tạo hiện do chính phủ Trung Quốc giúp đỡ, cần phát huy hết hiệu quả đầu tư của dự án này.Tuy nhiên cần phải nói rằng dù dự án này có đưa vào hoạt động thì toàn bộ công nghệ thiết bị của công ty vẫn thuộc loại có quy mô nhỏ, lạc hậu mà ngay cả Trung Quốc đang thực hiện kế hoạch dẹp bỏ. Do vậy, để phát triển lâu dài Tổng công ty thép cần phải có một chiến lược được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn đối với sự tồn tại và phát triển của công ty Gang thép Thái Nguyên.
Sau năm 2010, kế hoạch xây dựng một khu thép liên hợp luyện kim lớn với công nghệ thiết bị hiện đại được xây dựng ở khu vực ven biển với tư cách là xương sống của ngành thép Việt Nam cần được ưu tiên xem xét. Tuy nhiên đối với một dự án lớn với số vốn đầu tư khoảng 4-5 tỉ USD, việc huy động vốn là một bài toán khó giải đối với một nền kinh tế còn nhỏ bé như nước ta. Việc huy động vốn nước ngoài để đầu tư vào ngành có mức sinh lời không cao như ngành thép là điều rất khó.
1.4. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Đảng ta là lấy con người làm trung tâm. Con người là vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. Điều đó nói nên tầm quan trọng số một của chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho một doanh nghiệp. Theo chúng tôi những chiến lược đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý sẽ trở thành trên giấy nếu không có những con người tốt thực hiện chúng. Hơn thế nữa, nếu không có con người tốt thì sẽ không có một chiến lược tốt.
Chúng ta biết rằng xã hội ngày nay đang hướng tới một xã hội tri thức. Điều này có nghĩa rằng khả năng cạnh tranh của những cá nhân hoặc các tập đoàn sẽ được xác định bởi tri thức mà họ có được. Theo cách nhièn này, thì khả năng có được và sử dụng tri thức sẽ ảnh hưởng đến tương lai của doanh nghiệp.
Để chuẩn bị hành trang cho thế kỷ 21, chúng ta phải đầu tư mạnh mẽ vào con người. Theo như Tom Petters “ Tương lai sẽ thuộc về doanh nghiệp được trang bị phần trí tuệ hơn là phần cứng. Có nghĩa là con người là nguồn gốc của khả năng cạnh tranh.
Nhận thức được tầm quan trọng số một của nguồn nhân lực đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, Tổng công công ty thép cần có chiến lực đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. Chiến lược đó phải bao gồm các vấn đề tuyển chọn, bố trí sử dụng và đào tạo cán bộ.
Nguồn nhân lực của Tổng công ty tuy đông về số lượng, song chất lượng không cao, mất cân đối giữa lao động kỹ thuật và lao động giản đơn, giữa các ngành nghề. Trong những năm gần đây có xu hướng số lượng sinh viên ngành luyện kim, nguồn cung ứng lao động chuyên ngành cho ngành thép, giảm sút một cách đáng báo động. Sự thiếu hụt cán bộ kỹ thuật cho ngành luyện kim đã và đang là mối lo cho các doanh nghiệp sản xuất thép. Vì vậy, Tổng công ty cần có sự liên kết đào tạo nhân lực với các cơ sở đào tạo cho sự phát triển của mình, đặc biệt là nhân lực cho các dự án đầu tư mới trong tương lai. Công tác đào tạo nguồn nhân lực phải đi trước một bước.
Các đơn vị thuộc tổng công ty cần ký hợp đồng với các cơ sở đào tạo, để đào tạo có địa chỉ và theo lịch triển khai các công trình.
Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường và đội ngũ giáo viên đào tạo công nhân để đủ sức đáp ứng nhu cầu của tổng công ty. Mặt khác phải coi trọng hình thức đưa đi đào tạo, huấn luyện ở nước ngoài và mời chuyên gia đào tạo, bổ túc tại nhà máy. Con người là một nhân tố quyết định sự phát triển. Chính vì vậy công tác đào tạo rất cần thiết được tổng công ty quan tâm giải quyết sớm .
Đối với các cơ sở đang dư thừa nhiều lao động cần có biện pháp sắp xếp lại, tinh giảm biên chế, tiến hành đào tạo, bổ túc nâng cao trình độ cho số lao động còn làm việc, mở thêm ngành nghề để thu hút số lao động dư thừa, đông thời vẫn phải tuyển thêm lao động trẻ, khoẻ đã qua đào tạo có trình độ khá để thay thế dần dần lớp cán bộ công nhân lớn tuổi.
Với chính sách đầu tư cho nguồn lao động một cách hợp lý tổng công ty sẽ có được một lợi thế lớn, là nguồn nội lực để tổng công ty vững bước đi lên trong sản xuất kinh doanh.
Hiện nay kinh phí đào tạo hàng năm của Tổng công ty còn rất thấp, tuy chưa có một thống kê chính xác, xong con số này ước chừng khoảng 0.2%. doanh thu. Trong khi đó chi phí đào tạo hàng năm của công ty thép POSCO, Hàn Quốc là khoảng 3% doanh thu. Trong những năm tới cấn tăng chi phí đầu tư cho đào tạo nhân lực, ít nhất phải tăng kinh phí đào tạo lên khoảng 1% doanh thu.
Ngoài chính sách đào tạo, Tổng công ty cần xây dựng chính sách sử dụng cán bộ hợp lý, cải tiến chế độ đãi ngộ và khuyến khích người lao động có như vậy mới thu hút và sử dụng được cán bộ giỏi.
1.5. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ
Như trên đã phân tích, ngày nay khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển khoa học và công nghệ là yếu tố quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Thực trạng công tác nghiên cứu khoa học của Tổng công ty thép hiện nay rất đáng phải bàn. Trong doanh nghiệp hiện nay có một viện nghiên cứu, tuy nhiên lực lượng cán bộ nghiên cứu rất mỏng, cơ sở vật chất nghèo nàn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của Tổng công ty trong giai đoạn mới.
Trong khi đó hiện nay khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển một cách hết sức mạnh mẽ các nước phát triển là những nước có khả năng chế tạo ra được công nghệ, công nghệ đó được áp dụng vào trong quá trình sản xuất và tạo ra mức tăng trưởng rất cao. Khi sản phẩm đó đã bão hoà cũng là lúc công nghệ đó không còn phát huy được tác dụng ở nước mà sinh ra nó cũng là lúc công nghệ đó được bán hoặc được chuyển giao sang nước khác mà hình thức phổ biển là quá trình chuyển giao công nghệ thông qua hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, hoặc liên doanh. Như vậy ta có thể thấy rằng công nghệ được chuyển giao đó có thể nói là đã lạc hậu ở các nước phát triển tuy nhiên nó vẫn còn tốt với các nước đang phát triển. Mặc dù vậy nếu Tổng công ty không có kế hoạch cho việc nghiên cứu, chế tạo ra công nghệ thì có thể nói sản phẩm của Tổng công ty trong tương lai rất khó có thể cạnh tranh được với các sản phẩm của các nhà sản xuất thép được đầu tư mới trong nước chứ chưa nói đến vịêc cạnh tranh với các nhà sản xuất thép trên thế giới.
Vấn đề đặt ra đối với Tổng công ty thép Việt Nam hiện nay là phải có sách lược trong việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học sáng chế ra công nghệ để tự phục vụ trong quá trình sản xuất. Phải tiến hành đầu tư xây dựng các viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu và triển khai công nghệ. Tổng công ty phải có chế độ bồi dưỡng thoả đáng cho các nhà nghiên cứu khoa học để động viên và khích lệ họ đồng thời phải tiến hành việc đầu tư các trang thiết bị hiện đại phục vụ quá trình nghiên cứu có như vậy trong tương lai doanh nghiệp mới có thể có được những thành quả tốt đẹp.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh , Tổng công ty cần phải tập trung đầu tư xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển mới thông qua việc tăng ngân sách để đầu tư cho cán bộ nghiên cứu và cơ sở vật chất kỹ thuật.
1.6. Giải pháp đầu tư mở rộng và chiếm lĩnh thị trường .
Thị trường là một yếu tố quan trọng mà bất kỳ nhà đầu tư nào cũng phải quan tâm. Một dự án đầu tư có đạt được kết quả hay không còn tuỳ thuộc vào thị trường đầu ra cho sản phẩm của dự án đó. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, Tổng công ty cần phải có những giải pháp lớn về thị trường như sau:
Thứ nhất, chỉ đầu tư sản xuất khi có thị trường chắc chắn và nhu cầu lớn hơn công suất dự kiến hoặc có khả năng xuất khẩu.
Thứ hai, lựa chọn mặt hàng sản xuất đang có nhu cầu cấp bách có khả năng cạnh tranh cao để đầu tư sản xuất trước, tạo tích luỹ, mở rộng mặt hàng sản xuất.
Thứ ba, đầu tư thiết lập hệ thống lưu thông tiêu thụ thép rộng khắp, đủ tin cậy cao thuận lợi tối đa cho khách hàng.
Thứ tư, đầu tư đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo để thu hút khách hàng và để họ hiểu được chất lượng thép của tổng công ty, nâng cao uy tín của tổng công ty trên thị trường.
Thứ năm, đặc biệt quan tâm cho dịch vụ bán hàng và phương thức bán hàng để giữ uy tín đối với khách hàng truyền thống và thu hút các khách hàng tiềm năng. Với các dịch vụ thanh toán, Tổng công ty cấn hết sức linh hoạt, tránh cứng nhắc, chấp nhận mọi phương thức thanh toán trong khả năng của Tổng công ty để tạo điêù kiện thuận lợi nhất cho khách hàng nhằm khuyến khích tiêu thụ sản phẩm.
Nhìn chung muốn tăng sức mạnh tiêu thụ của tổng công ty trong thời gian tới thì cùng với việc đầu tư để xây dựng một chiến lược phát triển lâu dài về thị trường, để các sản phẩm của tổng công ty tham gia toàn diện vào thị trường mà không cần sự bảo hộ của Nhà nước, phát triển sản xuất ,tăng thị phần và lợi nhuận là mục tiêu cơ bản để nâng cao sức cạnh tranh của Tổng công ty.
1.7. Các giải pháp về tài chính
Phải thừa nhận rằng trở ngại lớn nhất trong việc phát triển của Tổng công ty thép trong giai đoạn hiện nay là thiếu các nguồn vốn để thực hiện các dự án đầu tư. Chi phí cho một nhà máy thép hiện đại có thể lên đến vài trăm triệu đô la Mỹ và việc xây dựng một nhà máy thép liên hợp công suất 4-5 triệu tấn/năm sẽ tiêu tốn vài tỉ đô la Mỹ.
Do ngân sách nhà nước và lợi nhuận tích luỹ của Tổng công ty thép Việt Nam còn rất hạn chế, việc tìm ra một giải pháp tài chính tối ưu là một bài toán khó. Để có đủ nguồn tài chính thực hiện các mục tiêu của Tổng công ty thép Việt Nam cần kết hợp các giải pháp huy động vốn như sau:
Chính phủ cho ngành thép được hưởng quy chế của một ngành được ưu tiên và cho hưởng những khoản vay ưu đãi lớn.
Tìm kiếm đối tác nước ngoài để liên doanh.
Đối với các dự án lớn khả năng huy động vốn đối với Tổng công ty là rất khó khăn, vốn tự có cũng rất thấp trong khi đó nguồn ngân sách ngày càng giảm và không đáng kể đối với các dự án lớn. Ngoài việc tiến hành vay ưu đãi vốn tín dụng Nhà nước thì doanh nghiệp cần phải nghĩ tới một giải pháp có tính khả thi đó là có thể huy đông từ nước ngoài thông qua hình thức liên doanh, hoặc đầu tư thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh. Tuy nhiên do nguồn vốn đầu tư nước ngoài rất quan trọng trong việc giải quyết thiếu hụt vốn phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế. Do vậy các quốc gia ngày càng tìm cách thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp này về phía mình.
Để Tổng công ty có thể thu hút tối đa nguồn vốn từ nước ngoài, đề nghị Nhà nước hỗ trợ và bảo lãnh cho phép tổng công ty được thế chấp tài sản để vay vốn đầu tư. Tổng công ty cùng với Nhà nước không ngừng cải thiện môi trường đầu tư để các nhà đầu tư nước ngoài có thể đến đâu tư vào ngành thép bởi đây là một ngành các nhà đầu tư thường không ưa thích đầu tư vào vì lợi nhuận kiếm được thường không cao.
Mặt khác Nhà nước cũng tạo điều kiện cho Tổng công ty tăng tích luỹ nội bộ bằng chính sách để lại khấu hao cơ bản, lợi nhuận trước thuế để tái đầu tư ...Ngoài ra Tổng công ty còn phải tăng cường các kênh huy động huy động vốn để tạo nguồn vốn kinh doanh chẳng hạn như tham gia vào thị trường chứng khoán nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức khác.
Huy động vốn vay thương mại.
Tổng công ty cũng có thể vay vốn của các ngân hàng thương mại để phục vụ cho hoạt động đầu tư. Tuy nhiên vì đây là nguồn vốn của các ngân hàng thương mại do vậy Tổng công ty sẽ phải chịu mức lãi suất cao và thời gian hoàn trả vốn lại ngắn. Do vậy đây không phải là giải pháp dài hạn mà chỉ là giải pháp ngắn hạn trong tình trạng thiếu vốn không nhiếu có thể vay. Nguồn vốn này Tổng công ty nên sử dụng vào các dự án đầu tư có thể thu hồi vốn nhanh để có kế hoạch trả nợ và đầu tư vào những dự án quy mô nhỏ ít vốn đầu tư.
Huy động vốn từ công chúng thông qua các hính thức phát hành cổ phiếu và trái phiếu.
Đối với nguồn vốn này có thể nói là rất hạn chế bởi vì hiện nay thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa phát triển còn đang trong thời kỳ sơ khai tuy nhiên trong tương lai đây cũng là nơi mà mọi doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách có hiệu quả vì vậy Tổng công ty cũng cần phải chuẩn bị trước.
2. Một số kiến nghị.
Về phía Nhà nước.
Để thực hiện thành công kế hoạch đầu tư và phát triển trong thời gian tới của tổng công ty thép Việt Nam ngoài lỗ lực rất lớn của tổng công ty, cần phải có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước ,trước hết về các cơ chế chính sách ưu tiên cho dự án mới .
Chính phủ thông qua quy hoạch phát triển ngành thép và khẳng định tầm quan trọng và quan tâm phát triển ngành thép Việt Nam trong đó tổng công ty thép Việt Nam là lực lượng chi phối toàn ngành.
Đề nghị Nhà nước cấp vốn ngân sách cho tổng công ty thép Việt Nam lập báo cáo nghiên cứu khả thi các dự án đầu tư mới, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm mỏ quặng sắt Thạch Khê và nhà máy thép cán liên hợp 4,5 triệu tấn/năm.
Nhà nước cấp tín dụng đặc biệt ưu đãi cho các dự án thượng nguồn (sản xuất nguyên liệu và sản xuất phôi thép).
Nhà nước cho vay ưu đãi cho các dự án sản xuất thép khác (cán nóng, cán nguội, cải tạo, mở rộng cơ sở cũ).
Nhà nước trực tiếp đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ các dự án sản xuất thép và nguyên liệu cho luyện kim: đường giao thông ,cảng biển ,hệ thống cấp nước, cấp điện và cho tổng công ty thép thuê lại với giá ưu đãi.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, đề nghị Nhà nước duy trì mức thuế nhập khẩu tối đa đối với sản phẩm cán và sau cán, bảo hộ sản xuất đến năm 2006 (đối với ASEAN) và đến năm 2010 đối với WTO.
Riêng đối với phôi thép đề nghị đánh thuế nhập khẩu 10 -15 % để bảo hộ sản xuất phôi thép nhập khẩu trong nước và góp phần điều tiết, hạn chế việc đầu tư ồ ạt các nhà máy cán thép nhập khẩu .
Nhà nước có chính sách ưu đãi về giá điện ,giá nhiên liệu và giá khí thiên nhiên,cước vận tải... đối với các dự án thượng nguồn (luyện gang, thép, sản xuất nguyên liệu cho gang, thép, đặc biệt cho các nhà máy thép lò điện được hưởng giá điện không quá 700 đồng/kw để sản xuất phôi thép).
Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện để tổng công ty thép Việt Nam nhập khẩu thép phế và các loại nguyên liệu, vật liệu phục vụ sản xuất phôi thép đồng thời cho hưởng thuế suất bằng 0.
Nhà nước tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm thép ngăn chặn hàng giả, hàng kém chất lượng, không đạt tiêu chuẩn và để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh trong ngành thép.
Về phía tổng công ty thép Việt Nam cần thực hiện tốt các công việc sau
Thức nhất, tổng công ty thép phải chủ động trong việc tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư và sử dụng nó một cách có hiệu quả tránh lãng phí. Thực hiện tốt công việc tổ chức lập dự án đầu tư , thẩm định dự án để từ đó có thể loại bỏ được những dự án không có tính khả thi đồng thời tránh được những hậu quả không đáng có, hạn chế rủi ro trong đầu tư .
Thứ hai, tổng công ty thép Việt Nam cần phải thường xuyên tinh giảm đội ngũ lao động ,tinh giảm đội ngũ cán bộ quản lý, tổ chức tuyển chon một khắt khe trong công tác tuyển dụng để có được đội ngũ lao động có đủ trình độ chuyên môn có thể thực hiện công việc một cách tốt nhất .
Thứ ba, tổng công ty phải có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực và tiến hành đào tạo lại.
Ngoài ra trong việc thực hiện đổi mới máy móc thiết bị cần tổ chức đầu thầu quốc tế để lựa chọn được nhà cung cấp công nghệ có chất lượng đồng thời hạn chế được chi phí đầu vào.
Đối với việc tiêu thụ sản phẩm cần phải quan tam hơn nữa công tác tiếp thị ,quảng cáo khuếch trương để khách hàng được biết đến sản phẩm của công ty và có những chính sách sau bán hàng để sản phẩm dễ tiêu thụ hơn đồng thời vẫn gia tăng được lợi nhuận cho công ty. Cần phải có sự phối hợp một cách gắn kết giữa hai khối sản xuất và lưu thông để tạo lên sức mạnh tổng thể.
Kết luận
Trong thời gian qua, ngành thép Việt Nam nói chung và Tổng công ty thép Việt Nam nói riêng đã có nhiều cố gắng trong công tác khai thác, cải tạo và mở rộng cơ sở sản xuất cũ và liên doanh với nước ngoài để tăng năng lực sản xuất và sản lượng thép hàng năm với tốc độ nhanh. Hoạt động đầu tư của tổng công ty trong thời gian qua cũng đã đạt được những thành quả đáng kể, thể hiện ở các chỉ tiêu kết quả và hiệu quả. Tuy nhiên so với các liên doanh và các nhà máy sản xuất thép trên thế giới thì năng lực sản xuất của tổng công ty còn thấp xa. Vì vậy để thành công trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đặc biệt là nâng cao sức cạnh tranh của tổng công ty trong thời gian tới Tổn công ty còn phải lỗ lực hơn nữa trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động đầu tư phát triển nói riêng để từ đó tạo được thế đứng vững chắc cho Tổng công ty trên thị trường trong và ngoài nước.
Do khả năng và thời gian có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cũng như các bạn để bài viết này được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Từ Quang phương và các thầy cô trong bộ môn đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Mục lục
Trang
Lời mở đầu 1
Chương I: Lý luận chung về đầu tư và cạnh tranh 3
I. Cơ sở lý luận về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 3
1. Khái niệm về đầu tư và phát triển trong doanh nghiệp 3
1.1 Khái niệm đầu tư 3
1.2. Khái niệm đầu tư phát triển 3
2. Vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 4
2.1. Khái niệm về vốn đầu tư 4
2.2. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp 4
2.2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước 4
2.2.2. Nguồn vốn nước ngoài 5
3. Những đặc điểm của hoạt động đầu tư 6
4. Đầu tư và vai trò của đầu tư trong doanh nghiệp 7
4.1. Đầu tư trong doanh nghiệp 7
4.2. Vai trò của đầu tư trong doanh nghiệp 9
5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp 10
6. Đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp 10
6.1. Kết quả của hoạt động đầu tư 10
6.1.1. Khái niệm vốn đầu tư thực hiện 10
6.1.2. Phương pháp tính khối lượng vốn đầu tư thực hiện 10
6.1.3. Khái niệm tài sản cố định huy động 11
6.1.4. Phương pháp tính 11
6.2. Hiệu quả đầu tư 12
6.2.1. Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp 12
6.2.2. Hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư trong
doanh nghiệp 14
II. Cơ sở lý luận về cạnh tranh 15
1. Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh 15
2. Các loại hình cạnh tranh 16
3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 17
III. Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 20
1. Đầu tư vào tài sản cố định, đổi mới máy móc thiết bị công nghệ 20
2. Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm 21
3. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 22
4. Đầu tư cho công tác tiếp thị, bán hàng 22
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0058.doc