Đề tài Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty xây dựng Thăng Long

Bên cạnh việc đúc kết đánh giá thực trạng năng lực thi công đường bộ Tổng công ty cũng cần phải chuẩn bị các điều kiện về lực lượng sản xuất để có thể triển khai các công trình giao thông trong những năm tới cụ thể là: + Nâng cao năng lực thi công đường bộ của Tổng công ty. Đây là việc làm đang trở nên cấp bách vì Tổng công ty phải chuẩn bị mọi điều kiện thật tốt khi bước vào triển khai dự án Đường 5 kéo dài. Khâu công nghệ cần phải được quan tâm đặc biệt là năng lực thi công móng và mặt đường là 2 khâu hiện Tổng công ty đang rất yếu trong khi đây lại là khâu có hiệu quả cao nhất trong thi công đường. Cần phải nhanh chóng lập một dự án tổng thể trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng hiện nay một cách chính xác và đưa ra được lộ trình cụ thể và sớm được triển khai. + Lập đề án đầu tư công nghệ thi công đường hầm nhằm xác định tổng quát các bước triển khai sao cho trong vòng một vài năm tới Tổng công ty có thể chủ động thực hiện các dự án trong lĩnh vực này mà hiện nay Bộ Giao thông Vận tải đang tiến hành công việc chuẩn bị đầu tư. + Đầu tư công nghệ, thiết bị để thi công đường sắt trên cao.

doc97 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty xây dựng Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng bằng doanh thu/ tổng số lao động. Chỉ tiêu này phản ánh cứ một lao động thì có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Năm 2000, năng suất lao động là 78,63 triệu đồng/ người. Năm 2003, năng suất lao động tăng lên rất nhanh 169,27 triệu đồng/ người, tăng 115,27% so với năm 2000. Sang năm 2004, năng suất lao động giảm xuống còn 114,67 triệu đồng/ người, giảm 32,26% so với năm 2003 nhưng vẫn tăng 45,83% so với năm 2000. Năng suất lao động giảm sút trong năm 2004 cho thấy chất lượng lao động đang có xu hướng giảm xuống. Vì vậy, Tổng công ty cần phải tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp kịp thời khắc phục tình trạng này. Những thành tựu mà Tổng công ty đạt được trong thời gian qua là rất lớn. Vị thế, uy tín được củng cố, khả năng cạnh tranh được nâng cao. Nếu tiếp tục duy trì được tốc độ phát triển như hiện nay, Tổng công ty chắc chắn sẽ vững bước trên con đường đã trọn và trở thành một doanh nghiệp Xây dựng hàng đầu Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty trong thời gian qua cũng còn nhiều hạn cần khắc phục cụ thể là: 3.2. Một số mặt hạn chế trong công tác đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long Mặc dù đạt được nhiều thành tựu to lớn song hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long trong thời gian qua vẫn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục đó là: Vốn đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu ( toàn Tổng công ty chỉa có 35,01 tỷ đồng vốn lưu động). Để tiến hành đầu tư, Tổng công ty sử dụng chủ yếu bằng vốn vay. Năm 2004 lãi vay ngân hàng là 105 tỷ đồng, tương đương với Quĩ lương. Một số đơn vị đầu tư kém hiệu quả nguyên nhân quan trọng dẫn đến mất cân đối tài chính. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị chiếm hầu hết tổng mức vốn đầu tư của Tổng công ty trong khi đó vốn đầu tư cho các hoạt động khác chưa được thoả đáng đặc biệt là lĩnh vực khoa học công nghệ. Thiếu hệ thống mạng lưới thông tin về công nghệ và các dịch vụ hỗ trợ cần thiết nên nhiều máy móc thiết bị nhập khẩu với giá đắt, chất lượng không đảm bảo làm cho việc thu hồi vốn đầu tư gặp nhiều khó khăn. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực chưa được quan tâm thoả đáng. Hiện đang thiếu những cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, uy tín để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ. Trình độ đội ngũ cán bộ lập hồ sơ dự thầu, quản lý tiến độ thi công, chất lượng công trình xây dựng còn nhiều yếu kém. Trong khi đó lại đang thừa nhiều người thậm chí ở một vài đơn vị đang là áp lực cho công tác cán bộ. Thực tiễn này đòi hỏi Tổng công ty phải có chính sách thoả đáng về công tác đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Một số lãnh đạo ở các Công ty thua lỗ, mất uy tín, trì trệ kéo dài chưa được thay thế làm ảnh hưởng đến điều hành sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Một số công nghệ mới bắt buộc phải đầu tư cho các dự án như thiết bị đặc chủng cho thi công cầu dây văng, chế tạo dầm prebeam, sản xuất dầm thép khẩu độ lớn, sau khi xong công trình, chưa có công trình gối đầu dẫn đến khó khăn trong việc tạo nguồn vốn để hoàn trả vốn đầu tư. Nợ đọng vốn Xây dựng cơ bản lớn, tính đến 30/11/2004 các Chủ đầu tư địa phương còn nợ các Công ty thành viên của Tổng công ty là 318 tỷ đồng ( chưa kể 120 tỷ do các đơn vị thành viên là thầu phụ cho các thầu chính khác cũng đang bị các chủ đầu tư là địa phương nợ khối lượng Xây dựng cơ bản). Trong khi đó những dự án vốn ngân sách Nhà nước được chỉ định thầu như Đường Hồ Chí Minh, cầu Tạ Khoa quyết toán, thanh toán rất chậm. Về đầu tư kinh doanh các lĩnh vực khác, mở rộng ngành nghề chưa được tập trung chỉ đạo và chưa có hiệu quả. Một số đơn vị buông lỏng quản lý, sản xuất kinh doanh thua lỗ, dư nợ ngân hàng lớn, tình hình tài chính khó khăn, thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh đang là vấn đề bức xúc nhất hiện nay, cần phải được tháo gỡ. Trên đây là một số hạn chế trong công tác đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long thời gian qua. Những tồn tại, yếu kém này do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. Trong đó nguyên nhân khách quan là thị trường Xây dựng cơ bản đấu thầu cạnh tranh gay gắt, giá thầu thấp, vốn ít ỏi, sản xuất kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay, lãi vay bằng quĩ lương, nên hiệu quả thấp, thiếu vốn để mua vật tư, thiết bị phục vụ thi công kịp thời. Vì vậy, nên công trường chờ vật tư, chờ thiết bị... gây chậm trễ, trì trệ. Nguyên nhân chủ quan là tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ chưa cao. Chỉ đạo điều hành của các công ty, các Ban điều hành dự án chưa sát sao, chưa quyết liệt và xử lý chưa nghiêm minh. Năng lực thi công hạn chế, thiết bị không đồng bộ. Chương III: Một số giảI pháp đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh Của tổng công ty xây dựng thăng long I/ Cơ hội và thách thức đặt ra cho Tổng công ty trong thời gian tới Giai đoạn 2001-2010, Cán bộ công nhân viên Tổng công ty Xây dựng Thăng Long bước vào thực hiện nhiệm vụ kế hoạch với những thuận lợi cơ bản đó là: Năng lực về thiết bị, công nghệ, đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân lành nghề và kinh nghiệm hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành cho Tổng công ty niềm tin và sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn thử thách. Tuy các công trình tổng thầu vào đầu năm còn ít nhưng các công ty thành viên đã có nhiều cố gắng năng động tìm được nhiều dự án, các công trình tự nhận thầu tăng lên rõ rệt. Tổng công ty đang chuẩn bị triển khai một số dự án lớn tại Hà Nội, có qui mô lớn và sử dụng công nghệ mới ( cầu vòm, cầu treo dây văng). Đây sẽ là một điều kiện thuận lợi để chúng ta tập trung lực lượng thi công, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và khoa học quản lý nhằm tạo ra những bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển của Tổng công ty. Tổng công ty đã bước đầu thành công trong việc thực hiện dự án theo phương thức sử dụng quỹ đất tạo vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng. Đồng thời cũng đã hoạch định được chương trình kinh doanh địa ốc. Đây sẽ là những tiền đề để Cơ quan mở rộng ngành nghề tạo hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh... sẽ có nhiều dự án, công trình tạo cho chúng ta có việc làm. Bộ Giao thông Vận tải đã sớm triển khai nhiệm vụ kế hoạch năm 2005 với nhiều dự án lớn như: + Các dự án ODA: xây dựng 17 cầu đường sắt. + Các dự án vay tín dụng ưu đãi. + Các dự án trái phiếu chính phủ. + Các dự án BT, BOT. r Bên cạnh đó sự lãnh đạo của Đảng uỷ, Hội đồng quản trị Tổng công ty, sự phối hợp của Công đoàn, Đoàn thanh niên và sự đoàn kết nhất trí của Cán bộ công nhân viên Cơ quan là cơ sở để chúng ta phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn vững vàng trước mọi thử thách để hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch năm 2005. Mặc dù có nhiều thuận lợi song Tổng công ty cũng vấp phải những khó khăn sau đây: r Việc làm và vốn đang đang là 2 vấn đề nóng bỏng hiện nay. r Khó khăn trước tiên vẫn là sự cạnh tranh gay gắt của thị trường xây dựng ở Việt Nam. Nhiều công trình dự án lớn đã hoàn thành năm 2004, công trình chuyển tiếp sang năm 2005 còn rất ít ( chỉ còn 30% so với kế hoạch dự kiến năm 2005). Các dự án ODA ngày càng đòi hỏi cao về năng lực, kinh nghiệm của Nhà thầu đặc biệt là năng lực về tài chính, các dự án sử dụng vốn ngân sách Trung ương rất hạn chế do đó giải quyết việc làm sẽ là vấn đề bức xúc trong năm 2005. r Các công trình đang thương thảo, chuẩn bị đầu tư là các công trình BT, BOT ( như cầu Nhật Tân, đường 5 kéo dài, cầu Khuể Hải Phòng, cầu Niệm II Hải Phòng, đường 355 kéo dài, đường Sài Gòn- Trung Lương...). Vì vậy, nhu cầu về vốn thi công là rất lớn đòi hỏi phải tư duy mới, cách làm mới: chuyển từ Nhà thầu làm thuê sang Nhà đầu tư xây dựng. r Nền tài chính của một vài đơn vị thành viên thiếu vững chắc. Có những đơn vị trước đây mạnh nay cũng đang rơi vào tình trạng bấp bênh đòi hỏi phải có những pháp đột phá thích hợp để khắc phục. r Mấy năm vừa qua các công ty đã có đầu tư tăng nhanh nhưng hiệu quả chưa cao, không đồng bộ, đặc biệt là năng lực thi công mặt đường. r Khó khăn đột xuất trước mắt là giá cả, đặc biệt là vật liệu xây dựng như thép, xăng dầu, xi măng... tăng cao , không ổn định, làm cho Tổng công ty đã khó khăn lại càng khó khăn thêm. II/ Mục tiêu, phương hướng phát triển Giai đoạn 2001- 2010 1. Một số định hướng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long 1.1. Chiến lược huy động và sử dụng vốn r Trước mắt, Tổng công ty cần tìm mọi giải pháp để cung ứng vốn cho thi công các dự án BT, BOT như: + Tìm đối tác trong và ngoài nước để huy động vốn. + Tìm các nguồn vốn ưu đãi để vay, nhất là quĩ hỗ trợ đầu tư. + Xây dựng các đề án chuyển quĩ đất thành vốn. + Đề nghị Ngân hàng điều chỉnh hạn mức cho vay. r Có giải pháp để nâng cao nguồn vốn chủ sở hữu của Tổng công ty lên trên 500 tỷ đồng/ năm. Chỉ đạo quyết liệt việc nghiệm thu, thanh toán, điều chỉnh giá, bổ sung khối lượng phát sinh các công trình đã hoàn thành trong năm 2004 để thu hồi vốn. Tổng công ty đã thành lập một tổ công tác, các công ty phải cử một đồng chí trong Ban giám đốc và một tổ thường trực chỉ đạo nghiệm thu, thanh toán, kịp thời giải quyết những vướng mắc, rà soát các công trình, những khối lượng, những Chủ đầu tư còn nợ. Kiện toàn Ban quản lý các dự án đầu tư tài chính ( Ban BOT), bố trí cán bộ có năng lực và trách nhiệm để nhanh chóng khai thác nguồn vốn đất, huy động các nguồn tài chính phục vụ sản xuất kinh doanh. Tổng công ty sẽ tổ chức kiểm tra về vốn toàn Tổng công ty kể cả đất đai để đánh giá đúng và sử dụng có hiệu quả. Thực hiện chủ trương của Bộ Giao thông Vận tải, cương quyết thực hiện “3 không”. + Không bỏ giá thầu thấp bất hợp lý, gây thua lỗ + Không nhận những công trình không rõ về nguồn vốn hoặc chưa có kế hoạch vốn được cấp có thẩm quyền duyệt, gây nợ nần dây dưa. + Không đầu tư mua sắm máy móc thiết bị tràn lan, kém hiệu quả. + Các dự án có nguồn vốn ODA: Nâng cao tỉnh lộ 191, cầu Phù Đổng giai đoạn II, 17 cầu đường sắt giai đoạn II, 27 cầu đường sắt giai đoạn IV, cầu vượt Linh Đàm. + Các dự án có nguồn vốn trong nước: Dự án đường sắt Yên Viên- Phả Lại- Hạ Long, đặc biệt là các gói thầu thi công cầu Phả Lại, dự án đường cao tốc cầu Giẽ- Ninh Bình... + Các dự án có nguồn vốn trong nước theo hình thức chỉ định thầu: 5 dự án. 1.2. Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và đầu tư thiết bị - công nghệ là nội dung chủ yếu của hoạt động đầu tư trong thời gian tới Để có cơ sở thực hiện việc mở rộng ngành nghề, tạo tiền đề cho việc phát triển Tổng công ty theo hướng công nghiệp hóa, bên cạnh việc đầu tư các thiết bị chủ đạo, có vai trò quan trọng, quyết định đến việc hoàn thành các dự án mà đặc biệt là việc thi công móng đường và mặt đường có yêu cầu kỹ thuật cao. Tổng công ty sẽ quy hoạch và đầu tư các cụm công nghiệp và hậu cần. Dự kiến trong giai đoạn 2005- 2010 công tác đầu tư của Cơ quan Tổng công ty là: - Đầu tư mua sắm thiết bị mới: 200 tỷ đồng - Đầu tư sửa chữa thiết bị: 80 tỷ đồng - Đầu tư XDCB nội bộ: 250 tỷ đồng Thực tiễn triển khai một số dự án thi công đường trong thời gian qua và chiến lược phát triển giao thông trong cả nước nói chung và một số thành phố lớn nói riêng đã đặt Tổng công ty vào tình huống cần phải có những bước đi thích hợp trong lĩnh vực đầu tư thiết bị, công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất về chiều rộng và chiều sâu. Bên cạnh việc đúc kết đánh giá thực trạng năng lực thi công đường bộ Tổng công ty cũng cần phải chuẩn bị các điều kiện về lực lượng sản xuất để có thể triển khai các công trình giao thông trong những năm tới cụ thể là: + Nâng cao năng lực thi công đường bộ của Tổng công ty. Đây là việc làm đang trở nên cấp bách vì Tổng công ty phải chuẩn bị mọi điều kiện thật tốt khi bước vào triển khai dự án Đường 5 kéo dài. Khâu công nghệ cần phải được quan tâm đặc biệt là năng lực thi công móng và mặt đường là 2 khâu hiện Tổng công ty đang rất yếu trong khi đây lại là khâu có hiệu quả cao nhất trong thi công đường. Cần phải nhanh chóng lập một dự án tổng thể trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng hiện nay một cách chính xác và đưa ra được lộ trình cụ thể và sớm được triển khai. + Lập đề án đầu tư công nghệ thi công đường hầm nhằm xác định tổng quát các bước triển khai sao cho trong vòng một vài năm tới Tổng công ty có thể chủ động thực hiện các dự án trong lĩnh vực này mà hiện nay Bộ Giao thông Vận tải đang tiến hành công việc chuẩn bị đầu tư. + Đầu tư công nghệ, thiết bị để thi công đường sắt trên cao. 2. Định hướng phát triển sản xuất kinh doanh Trong giai đoạn 2001- 2010, Cán bộ công nhân viên Tổng công ty Xây dựng Thăng Long phát huy truyền thống và những thế mạnh sẵn có, khắc phục những khó khăn, yếu kém, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch sau đây: 2.1.Giá trị sản lượng: Sản lượng dự tính đạt 2713 tỷ đồng hàng năm, tăng 45% so với sản lượng thực hiện bình quân của giai đoạn trước ( trong đó có khoảng 200 tỷ đồng là sản lượng dự kiến của một số công trình tự nhận thầu của các đơn vị). Trong đó: + Tổng thầu: 1357 tỷ đồng + Tự nhận thầu: 1356 tỷ đồng Một số công ty đã ký được hợp đồng, có kế hoạch sản lượng lớn như: + Công ty cầu 1 Thăng Long: 255 tỷ đồng/ năm + Công ty cầu 3 Thăng long: 181 tỷ đổng/ năm + Công ty Xây dựng số 6 Thăng Long: 145 tỷ đồng/ năm + Công ty cầu 5 Thăng Long: 130 tỷ đồng/ năm + Công ty cầu 11 Thăng Long: 170 tỷ đồng/ năm + Công ty Cơ khí và Xây dựng Thăng Long: 120 tỷ đồng/ năm 2.2. Khối lượng công trình hoàn thành bàn giao Dự tính trong giai đoạn này sẽ hoàn thành bàn giao 100 công trình với giá trị gần 2000 tỷ đồng. - Tổng công ty tập trung chỉ đạo hoàn thành các công trình sau: + 3 cầu qua Vườn quốc gia Cúc Phương: 30/10/2005 + Dự án đường 188: 30/10/2005 Khởi công triển khai thi công các dự án có qui mô lớn, có ý nghĩa quan trọng đến phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và đặc biệt là của Thủ đô Hà Nội như: + Dự án Nội Bài- Bắc Ninh giai đoạn II + Cầu Vĩnh Tuy ( khởi công ngày 3/2/2005) + Đường dẫn bờ Vĩnh Long- cầu Cần Thơ + Đường dẫn bờ Thanh Trì- cầu Thanh Trì + Đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương + Cầu Nhật Tân + Đường 5 kéo dài + Gói thầu S4 - vốn dư quốc lộ 10 và nhiều công trình lớn do các công ty đã trúng thầu. 2.3. Mục tiêu về tài chính Các chỉ tiêu về tài chính dự tính đạt được như sau: + Tổng doanh thu : 1500 tỷ đồng/năm + Lợi nhuận trước thuế: 20 tỷ đồng/ năm + Nộp ngân sách: 100 tỷ đồng/ năm 2.4. Lao động và thu nhập Về lao động và thu nhập dự tính trong giai đoạn này như sau: + Tổng số lao động: 11.600 người + Thu nhập bình quân: 1,9 triệu đồng/ người / tháng + Tổng quĩ lương: 200 tỷ đồng / năm Trên đây là một số chỉ tiêu kế hoạch dự định thực hiện trong giai đoạn 2001- 2010. Để thực hiện được những mục tiêu phát triển đã đề ra, Tổng công ty cần đẩy mạnh hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời gian tới. Mặt khác, trong giai đoạn phát triển tiếp theo bên cạnh những cơ hội phát triển thì những khó khăn đặt ra đối với toàn ngành và với Tổng công ty là không nhỏ. Chính vì vậy, yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh lại càng trở nên cấp thiết. Căn cứ vào những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty trong thời gian qua, mục tiêu phát triển và phương hướng đầu tư của Tổng công ty, trong thời gian tới Tổng công ty cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: III/ Một số giảI pháp đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty xây dựng thăng long trong thời gian tới 1. Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp 1.1.Giải pháp về thu hút vốn Thiếu vốn đầu tư vẫn là một trong những khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty hiện nay. Có vốn đầu tư thì mới có thể thực hiện được các phương án đầu tư phát triển nói chung và đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh nói riêng. Để các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty có thể huy động vốn một cách có hiệu quả cho hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh cần thực hiện một số giải pháp sau: Một là: Phải khai thác tối đa các nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Nguồn vốn bên trong luôn được coi là nguồn vốn cơ bản và quan trọng nhất đối với mọi doanh nghiệp. Để tận dụng triệt để và hiệu quả nguồn vốn này thì nâng cao mức lợi nhuận dùng để tái đầu tư là biện pháp cần được ưu tiên hàng đầu. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải chú ý nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tức là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Khi làm ăn có lãi, doanh nghiệp cần dành một tỷ lệ lợi nhuận thích đáng cho mục đích đầu tư. Đồng thời về phía Nhà nước, chế độ phân phối lợi nhuận của DNNN cần thực sự khuyến khích hoạt động đầu tư từ nguồn vốn tự khai thác hơn là sử dụng nhiều vốn Nhà nước chỉ để tăng qui mô doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần sử dụng hiệu quả nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong doanh nghiệp để đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn khấu hao cơ bản. Phương pháp trích khấu hao phải đảm bảo được sự cân đối giữa mức chi phí tính vào giá thành sản phẩm và nhu cầu hoàn vốn để đối mới tài sản. Các tài sản không cần dùng hoặc hiệu quả sử dụng không cao cần được nhanh chóng thanh lý, nhượng bán để thu hồi vốn và giảm chi phí bảo quản sửa chữa. Để làm được việc này, doanh nghiệp phải tiến hành phân loại và đánh giá chính xác giá trị tài sản, so sánh cân nhắc cẩn thận giữa hai phương án: giữ tài sản để sử dụng và bán tài sản rồi đi thuê khi cần dùng, từ đó chọn ra phương án có lợi nhất cho doanh nghiệp ( có tính đến cả lợi ích trước mắt và lâu dài). Hai là: Phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp cần kết hợp nhiều nguồn vốn khác nhau để đạt hiệu quả sử dụng cao nhất. Mỗi nguồn vốn có ưu nhược điểm và chi phí sử dụng riêng. Tuỳ thuộc vào mục đích đầu tư và tình hình cụ thể tại doanh nghiệp ( khả năng tài chính, uy tín và hiệu quả kinh doanh...), chủ doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình nguồn vốn thích hợp nhất. Phương hướng chung là cùng một lúc sử dụng nhiều nguồn vốn một cách hài hoà để tận dụng tối đa ưu điểm và hạn chế bớt điểm bất lợi của các nguồn vốn đó. Đối với mỗi luồng vốn huy động, doanh nghiệp phải có một phương án thu hút riêng như cải thiện quan hệ với các tổ chức tín dụng để giảm bớt chi phí và thủ tục giao dịch khi vay vốn, đưa ra các hình thức phát hành và mức lãi suất hấp dẫn nếu muốn huy động vốn băng cổ phiếu, trái phiếu, đẩy mạnh công tác tuyên truyền thuyết phục để vay vốn Cán bộ công nhân viên chức... Tuy nhiên, dù doanh nghiệp huy động nguồn vốn nào thì uy tín và hiệu quả kinh doanh vẫn là yếu tố quyết định đến khả năng thành công của phương án huy động đó. Ba là : Xây dựng các dự án đầu tư và phương án kinh doanh có tính khả thi cao: Một trong những khó khăn lớn nhất khi huy động vốn là thiếu các dự án, phương án kinh doanh khả thi. Trong điều kiện hiện nay, tiềm lực vốn nhàn rỗi ở Việt Nam vẫn được đánh giá là chưa khai thác hết, nhưng nhiều nhà đầu tư không dám cho vay vốn hoặc ngần ngại khi góp vốn vốn vào doanh nghiệp vì không tin tưởng vào tính khả thi của các dự án đầu tư. Chính vì vậy, các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty cần đưa ra các dự án có tính khả thi cao trên cơ sở các căn cứ chắc chắn, có đủ sức thuyết phục. Để làm được điều đó các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố về thị trường, nguồn nguyên liệu, địa điểm xây dựng, kỹ thuật công nghệ, tính toán chính xác các chỉ tiêu hiệu quả của dự án....đảm bảo dự án có tính khả thi cao. Khi đã có các dự án có khả năng đem lại hiệu quả vững chắc các doanh nghiệp có thể dễ dàng huy động được vốn thông qua các tổ chức tín dụng, ngân hàng hoặc dễ dàng kêu gọi việc góp vốn của các nhà đầu tư. Trên đây là một số giải pháp tăng cường thu hút vốn cho Tổng công ty trong thời gian tới. Các giải pháp này phải được vận dụng linh hoạt trong mọi thời điểm và cùng với sự quan tâm của Nhà nước, Tổng công ty phải xác định rằng tạo lập vốn đầu tư trước hết là vì lợi ích của bản thân doanh nghiệp và doanh nghiệp không thể trông chờ vào bất kỳ ai khác ngoài sự tự vận động bằng nội lực của chính mình. 1.2. Một số giải pháp về sử dụng vốn 1.2.1. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư và kế hoạch hoá đầu tư Xây dựng chiến lược đầu tư và kế hoạch hoá đầu tư nhằm các mục tiêu: Xoá bỏ tình trạng “ ngẫu hứng” trong đầu tư. Các quyết định đầu tư vội vàng thiếu kế hoạch, vi phạm các quy trình đầu tư, khắc phục hiện tượng vừa thiết kế vừa thi công, để nâng cao chất lượng dự án, chất lượng thiết kế đảm bảo đầu tư có hiệu quả. Xoá bỏ tình trạng đầu tư dản trải, dẫn đến dự án thiếu vốn phải thi công kéo dài, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư và làm mất thời cơ kinh doanh. Xoá bỏ cơ chế xin- cho, nguyên nhân phát sinh tiêu cự, làm thất thoát vốn đầu tư, làm hư hỏng cán bộ do tham nhũng thoái hoá. Bản chất của kế hoạch hoá đầu tư là dựa trên chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; trên quy hoạch dài hạn và ngắn hạn của doanh nghiệp; dự báo thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước để định ra một “ bức tranh tổng thể” cho đầu tư của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó định ra kế hoạch đầu tư 5 năm và đầu tư hàng năm. Các kế hoạch này xác định thời gian cho việc nghiên cứu dự án. ở lĩnh vực nào đó, nếu thấy đầu tư sẽ dẫn đến mất cân đối trong tiêu thụ sản phẩm, hoặc cạnh tranh không lành mạnh thì doanh nghiệp không nên đầu tư đối với bất kỳ nguồn vốn nào. Điều này không chỉ có lợi cho doanh nghiệp mà còn có lợi cho toàn xã hội. 1.2.2. Đổi mới cơ cấu kỹ thuật của vốn đầu tư Theo cơ cấu kỹ thuật thì tổng mức vốn đầu tư được phân thành đầu tư xây lắp, đầu tư thiết bị và đầu tư xây dựng cơ bản khác. Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, cơ cấu kỹ thuật của vốn đầu tư cần được đổi mới theo hướng sau: Một là: Không phê duyệt các dự án đầu tư mà mức đầu tư xây lắp chiếm tỷ trọng trên 50% tổng mức vốn đầu tư. Hai là: Giảm tỷ trọng chi phí xây dựng cơ bản khác trong tổng mức vốn đầu tư xuống còn dưới 10%. Muốn vậy phải chú ý tìm giải pháp nâng cao chất lượng lập, thẩm định dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, lập dự toán và quyết toán công trình hoàn thành. Đồng thời phải thiết lập được một hệ thống tư vấn đầu tư và xây dựng có đủ năng lực, nhằm nâng cao chất lượng công tác tư vấn. 1.2.3. Đổi mới cơ cấu tái sản xuất của vốn đầu tư Theo cơ cấu tái sản xuất, tổng mức vốn đầu tư được phân thành: đầu tư xây dựng mới, đầu tư mở rộng hoặc đổi mới máy móc thiết bị ( đầu tư theo chiều sâu) và đầu tư để xây dựng lại, khôi phục năng lực sản xuất. Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, cơ cấu vốn đầu tư thường đặt trọng tâm vào việc đầu tư theo chiều rộng, tức là đầu tư xây dựng mới là chủ yếu. Thực tế, ngoài một số ít dự án đầu tư chiều sâu, phần lớn còn lại là đầu tư chiều rộng. Cơ cấu đầu tư như vậy trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá là hợp lý. Tuy nhiên, phải nhận thấy rằng nếu doanh nghiệp không chú ý ngay việc tập trung đầu tư chiều sâu để cải tiến công nghệ, đổi mới máy móc thiết bị, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư sẽ rất thấp. Vấn đề lại trở nên thách thức rõ rệt, khi Việt Nam tham gia hội nhập AFTA. Do đó, trong giai đoạn tới cơ cấu tái sản xuất của vốn đầu tư cần phải đổi mới, điều chỉnh theo hướng sau: Một là: Kiên quyết không đầu tư xây dựng mới các cơ sở sản xuất với công nghệ, thiết bị lạc hậu ( tạo ra những công trình có tính cạnh tranh kém). Tập trung đầu tư cải tiến công nghệ, thiết bị nâng cao chất lượng các công trình xây dựng. Hai là: Đối với những dự án xây dựng mới hoặc mở rộng, khi cần thiết phải đảm bảo đầu tư vào những thiết bị công nghệ tiên tiến, kết hợp hài hoà giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Việc xét duyệt các dự án cần chú ý lựa chọn các phướng án sử dụng những thiết bị công nghệ tiên tiến một cách hợp lý với phương châm đi tắt. Ba là: Chính sách đầu tư phải hướng vào hạn chế xây dựng mới và không được tiến hành đầu tư khi doanh nghiệp chưa sử dụng hết công suất của máy móc thiết bị đã có. Các nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp ( từ nguồn khấu hao và các nguồn tự bổ sung khác) phải ưu tiên cho việc đầu tư chiều sâu. Muốn vậy phải đánh giá chính xác tài sản doanh nghiệp. Thực hiện khấu hao nhanh những tài sản cố định cần thiết và khuyến khích doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới máy móc thiết bị. 1.2.4. Tiếp tục đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ Đầu tư đổi mới máy móc thiết bị- công nghệ là một trong những giải pháp quan trọng nhất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long. Đầu tư cho máy móc, thiết bị- công nghệ của Tổng công ty trong thời gian tới cần tập trung theo những hướng sau: Một là: Phải thường xuyên đổi mới thiết bị- công nghệ, đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất trong Tổng công ty. Đây là sự sống còn đảm bảo thắng thầu trong cơ chế đấu thầu hiện nay. Hiện tại đầu tư vào hai ngành nghề xây dựng cầu và đường như: khoan cọc nhồi đường kính lớn, cầu dây văng, dầm Prebeam, đúc hẫng cân bằng khẩu độ lớn, thi công đường theo qui trình AASHTO có thiết bị hiện đại như trạm bê tông át- phan, máy rải, đầm rung... Hai là: Quan điểm đầu tư lấy ngắn nuôi dài, mạnh dạn đầu tư nhưng phải khai thác triệt để. Tổng công ty có đủ dây truyền khép kín như: Nhà máy chế tạo dầm thép, dầm bê tông, sản xuất trạm trộn bê tông xi măng, trạm trộn bê tông nhựa nóng, xà lan, hệ nổi, sản xuất vật liệu xây dựng, trạm thí nghiệm, trường công nhân kỹ thuật, trung tâm y tế... Ba là: Việc đầu tư phải đồng bộ, đúng thủ tục, có hiệu quả. Việc mua sắm đầu tư thiết bị phải có luận chứng kinh tế kỹ thuật được duyệt qua Tổng công ty để thống nhất đồng bộ toàn Tổng công ty, tránh chồng chéo. Hạn chế việc mua thiết bị cũ, kém chất lượng, không đúng yêu cầu chất lượng mà dự án đang cần. Đầu tư phải gắn liền với dự án, công trình để hạch toán, khấu hao thu hồi vốn Bốn là: Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất kinh doanh. Trong thời gian qua Tổng công ty đã ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất điều hành như : thiết kế kỹ thuật, tính toán kết cấu, tính toán giá thành, thống kê báo cáo, truyền tin điều hành chỉ huy sản xuất. Song nhìn chung, thiết bị đã cũ, chưa xây dựng được một mạng toàn Tổng công ty, chưa ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý. Vì vậy, trong thời gian tới Tổng công ty phải đầy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất kinh doanh như: + Đầu tư một mạng để làm nền tảng cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu chung của Tổng công ty. + Đẩy mạnh việc ứng dụng Internet. + Mạnh dạn ứng dụng các chương trình quản lý chuyên ngành. + Kết hợp xây dựng các phần mềm theo đặc thù Tổng công ty ( quản lý nhân sự, quản lý công văn, quản lý thiết bị, quản lý tiền lương...). Năm là: Phải xác định chiến lược đầu tư hợp lý. Chiến lược đầu tư nâng cao năng lực máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ là một bộ phận của chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Mức độ đầu tư như thế nào, công nghệ ra sao? đòi hỏi phải tính toán, cân nhắc cho phù hợp. Khi xây dựng chiến lược này phải căn cứ từ nhu cầu thị trường, phải nắm bắt được chiều hướng phát triển và dự đoán mức độ cạnh tranh trên thị trường để đưa ra được chiến lược cụ thể, đảm bảo hợp lý bước đi trong từng giai đoạn. Hiện nay, tỷ lệ tài sản cố định chiếm từ 70- 75% tổng tài sản của Tổng công ty. Vì vậy, trong kế hoạch đầu tư máy móc thiết bị, trước hết cần soát xét lại máy móc thiết bị sẵn có, vạch ra kế hoạch sửa chữa, nâng cấp, nâng cao tính năng sử dụng và giảm các chi phí vận hành của máy móc cũ, thanh lý các máy móc lạc hậu, không còn đáp ứng được với yêu cầu cạnh tranh của Tổng công ty. Mặt khác, trên cơ sở tính toán nâng cấp các máy móc thiết bị sẵn có Tổng công ty phải có kế hoạch đầu tư mua sắm mới các thiết bị quan trọng, đặc chủng cả về số lượng và chất lượng. Đây là cơ sở nâng cao vị trí và uy tín, tăng sức cạnh tranh, tạo nên phong cách xây dựng riêng cho nhà thầu, và hơn nữa tạo ra sự tin cậy của các chủ đầu tư và các khách hàng tiềm năng. Khi đầu tư mua sắm máy móc thiết bị phải tính toán đến các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của việc đầu tư như: Khoa học kỹ thuật phát triển, máy móc thiết bị được sản xuất ra nhiều hơn, tính năng kỹ thuật cao hơn, chủng loại đa dạng hơn, mặt khác các quy trình công nghệ trong xây lắp cũng được đổi mới, những điều đó đều làm tăng độ hao mòn vô hình của máy móc thiết bị. Việc đầu tư bằng nguồn vốn vay sẽ làm tăng thêm khoản dư nợ cho Tổng công ty, đồng nghĩa với việc giảm tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn và như vậy cũng làm giảm tính chủ động của Tổng công ty. Một vấn đề quan trọng là phải gắn kết kế hoạch đầu tư với kế hoạch sản xuất kinh doanh, liên kết liên doanh của Tổng công ty, tránh tình trạng đầu tư máy móc xong thiếu việc làm. Đối với những công trình có tính đặc chủng về kỹ thuật, nếu đầu tư máy móc để đáp ứng yêu cầu xây dựng công trình sẽ dẫn tới khi thi công xong công trình thì máy móc thiếu việc làm và ứ đọng vốn. Sáu là: Phải lựa chọn phương thức đầu tư phù hợp. Khi đầu tư tăng năng lực thiết bị để nâng cao sức cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng, Tổng công ty cần phải căn cứ vào nguồn vốn, máy móc thiết bị hiện có, kế hoạch sản xuất kinh doanh và nghiên cứu thị trường để lựa chọn một trong các hình thức mua sắm sau: Tín dụng thuê mua; Thuê trực tiếp của các Tổng công ty khác Mua mới thiết bị Liên danh trong đấu thầu Để mua sắm thiết bị với mục đích có được thiết bị tốt, giá cả hợp lý, Tổng công ty cần nghiên cứu lựa chọn phương thức mua sắm cụ thể; có thể lựa chọn một trong hai hình thức là mua trực tiếp hoặc mua sắm thông qua đấu thầu. Nhìn chung với những thiết bị có giá trị lớn, tính năng kỹ thuật phức tạp cần phải đấu thầu mua sắm bảo đảm tính cạnh tranh công bằng và minh bạch trong quá trình đấu thầu để lựa chọn nhà thầu phù hợp, đạt hiệu quả kinh tế của dự án. Trong điều kiện thị trường thiết bị đa dạng, việc lựa chọn chính xác thiết bị thi công trong dự án đầu tư mua sắm thiết bị nhằm tiết kiệm chi phí đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng. Có thể sử dụng phương pháp đánh giá Hồ sơ dự thầu thông qua hệ thống chấm điểm vận dụng kinh nghiệm thể thức đấu thầu của Hiệp hội Kinh tế các kỹ sư tư vấn trên cơ sở thực tiễn thị trường Việt Nam. Hiệu quả của phương pháp này là đáp ứng được nhiều chỉ tiêu đặt ra, có ý nghĩa thực tiễn giúp cho Tổng công ty mua được thiết bị cần thiết với tính năng kỹ thuật, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. Theo quy định về phân cấp phê duyệt, quyết định các dự án đầu tư, các Tổng công ty Nhà nước được phép quyết định đầu tư các dự án quy mô nhóm A. Vì vậy, Tổng công ty trên quan điểm hiệu quả của việc đầu tư cần phải triển khai tổ chức hoạt động thẩm định giá thiết bị trong doanh nghiệp mình. Việc thầm định giá phải có các chuyên gia giỏi về thị trường, về kỹ thuật công nghệ cũng như về kinh tế. Trong quá trình triển khai cần tham khảo ý kiến các Bộ ngành chức năng như: Bộ Giao thông Vận tải, Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư... Tổ chức và xác định nội dung, phương pháp, quy trình thầm định hợp lý, phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Bộ máy thẩm định phải gọn nhẹ, linh hoạt, không làm ảnh hưởng đến biên chế, tiến độ đầu tư mua sắm và tiết kiệm chi phí thẩm định. Tóm lại, để nâng cao năng lực đấu thầu của Tổng công ty, vấn đề đầu tư máy móc thiết bị đồng bộ, hiện đại, đổi mới công nghệ thi công là giải pháp vừa có tính cấp bách vì đòi hỏi của thực tế, vừa có tính chiến lược cho việc phát triển của Tổng công ty. 1.2.5. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực Con người là một chủ thể, là một nhân tố đặc biệt trong số các nhân tố đầu vào của mọi hoạt động kinh tế. Nó khác biệt so với các nhân tố khác vì nó vừa là nhân tố động lực đảm bảo cho sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung, song đồng thời cũng là mục tiêu phục vụ mà các doanh nghiệp và cả xã hội phải hướng tới. Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp chịu tác động bởi nhiều yếu tố song công bằng mà nói thì nguồn nhân lực là nguồn lực cơ bản quyết định- chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quan trọng đối với cơ cấu sản xuất, khả năng cạnh tranh, đến hoạt động khoa học công nghệ, đến quản lý và đầu tư ... do đó quyết định tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp. Do vậy, trong thời gian tới, Tổng công ty cần nhìn nhận nghiêm túc và đầu tư đúng mức cho phát triển nguồn nhân lực theo các hướng sau: Thứ nhất: Không ngừng tạo điều kiện cho người lao động ( bao gồm cả công nhân lao động trực tiếp lẫn đội ngũ quản lý ở mọi cấp) được học tập, được đào tạo và đào tạo lại. Trong xã hội thông tin, việc không ngừng nâng cao cập nhật kiến thức là một nhu cầu tất yếu, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà sự phát triển của mọi quốc gia đều hướng tới nền kinh tế tri thức- một xã hội của tinh thần không ngừng học hỏi, rèn luyện và nâng cao kiến thức. Để nâng cao sức cạnh tranh thì việc đào tạo chuyên sâu là vô cùng cần thiết, vì có đào tạo chuyên sâu mới tạo ra được một đội ngũ quản lý giỏi. Ông cha ta đã từng nói “ Một người lo bằng một kho người làm”. Một khi có nhà lãnh đạo giỏi, họ là người am hiểu, nắm bắt được thực chất của vấn đề thì họ mới đặt ra được những yêu cầu cần phải thực hiện để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện để thực hiện được các yêu cầu đặt ra. Trong thực tế chúng ta thấy không ít trường hợp có nhiều doanh nghiệp được đầu tư cơ sở vật chất và nguồn vốn khá lớn song vẫn hoạt động không hiệu quả, tại sao nhiều doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản xong một khi chọn được giám đốc giỏi thì họ đã xoay chuyển được tình thế trên. Phải chăng lời giải ở đây chính là yếu tố con người. Chính vì vậy, việc đào tạo không thể chỉ được thực hiện một cách hình thức, chạy theo số lượng mà luôn phải cần chú ý đến chất lượng đào tạo. Để đào tạo chuyên sâu, cũng cần phải chọn đúng người để đào tạo và phải đào tạo đúng những ngành có nhu cầu. Người được cử đi học phải là những người có khả năng tiếp thu và là những người ham học, có tinh thần trách nhiệm cao trong học tập. Việc đào tạo chuyên môn cũng cần gắn liền với việc giáo dục phẩm chất, đạo đức và rèn luyện thể lực. Một cơ thể khoẻ mạnh, giàu sức sống cả về sức lực, trí tuệ và tinh thần sẽ là môi trường thuận lợi để hình thành và nuôi dưỡng nguồn tri thức tốt. Những hành động, quyết định của con người thông qua tri thức sẽ góp phần cải tạo, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển hoặc kìm hãm doanh nghiệp phát triển. Do vậy, nếu con người được đào tạo và rèn luyện với những phẩm chất tốt thì những hành động của họ sẽ mang tính nhân bản hơn và sẽ tích cực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Thứ hai: Một vấn đề cũng không kém phần quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh thông qua yếu tố con người là tạo môi trường thuận lợi để người lao động được phát huy mọi tiềm năng sức sáng tạo của mình, được cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển của doanh nghiệp. Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng, vì con người có được đào tạo tốt, song nếu không có môi trường để phát huy thì chẳng khác nào đố là một món hàng chỉ để trưng bày và rồi nó sẽ mai một theo thời gian, song nếu ngược lại, nếu có môi trường làm việc tốt thì những nhân tố này sẽ được phát huy và cống hiến nhiều hơn. Do vậy, để có thể cống hiến được thì con người phải có môi trường làm việc phù hợp và được đặt vào đúng vị trí theo khả năng của mình. Mặt khác, thông thường những người có tri thức là những người ham học hỏi thì ở một khía cạnh khác họ lại là những người mong được cống hiến và không chú ý nhiều đến vấn đề danh lợi. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để họ có thể phát huy khả năng đem những tri thức của mình cống hiến cho doanh nghiệp, tạo ra được nhiều sáng kiến góp phần nâng cao sức cạnh tranh. Có thể nói, sức sáng tạo của con người là nguồn sức mạnh vô tận đã giúp con người chinh phục, chiến thắng thiên nhiên và làm nên những kỳ tích to lớn để tồn tại và phát triển. Vấn đề là làm sao giải phóng được những tiềm năng và sức sáng tạo này, đừng vì những suy nghĩ hẹp hòi, ganh đua mà triệt tiêu động lực sáng tạo và sức cống hiến của họ. Thứ ba: Phải giải quyết thoả đáng chế độ tiền lương cho người lao động. Vấn đề này được đặt ra ở khía cạnh không phải chỉ là để tạo điều kiện cho họ an tâm làm việc mà còn được xét đến ở khía cạnh kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh. Thứ tư: Tăng cường công tác giáo dục nhằm nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm của người lao động trước cá nhân và tập thể, từ đó họ có thể hoàn thành tốt công việc được giao một cách tự giác, không cần phải thúc giục, ra lệnh. Thứ năm: Khuyến khích và tổ chức làm việc theo tổ, đội nhằm rèn luyện cho người lao động tinh thần làm việc hợp tác, qua đó phát huy tính năng đông, sáng tạo của cá nhân và tập thể người lao động. Thứ sáu: Kiến tạo văn hóa tổ chức dựa trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Một khi được tôn trọng, người lao động có động lực để rèn luyện, học tập và phát huy tối đa khả năng của mình, sẵn sàng vượt qua thử thách, trở ngại góp phần vào việc thực hiện thành công các chiến lược của doanh nghiệp. Bên cạnh những nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại đơn vị mình, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ về phí Nhà nước nhằm tạo một nguồn nhân lực có chất lượng trong xã hội để trên cơ sở đó các doanh nghiệp có điều kiện tuyển dụng nguồn nhân lực có chất lượng phù hợp với yêu cầu của mình. 1.2.6. Đầu tư thúc đẩy hoạt động Marketing Marketing là một trong những công cụ quan trọng bậc nhất quyết định sự thành bại của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Nó là phương tiện hữu hiệu giúp các doanh nghiệp đối mặt với thị trường, giải quyết các vấn đề của mình thích ứng với nhu cầu của thị trường, hướng tới lợi nhuận cao và tạo ra ưu thế trong cạnh tranh. Hiện nay, công tác marketing ở Tổng công ty Xây dựng Thăng Long chưa được thực hiện một cách bài bản dựa trên nguyên lý của môn khoa học này. Chi phí cho hoạt động marketing chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng mức vốn đầu tư. Mặc dù là một trong Tổng công ty Xây dựng cầu đường lớn nhất Việt Nam song, Tổng công ty chưa được nhiều nhà đầu tư biết đến. Do đó, trong thời gian tới, Tổng công ty cần phải chú trọng hơn nữa cho hoạt động marketing nhằm vào các hướng sau: Chiến lược phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu: Để thực hiện được chiến lược này, Tổng công ty phải tiến hành phân đoạn thị trường dựa trên những tiêu chí nhất định. Sau đây là một số cách phân đoạn thị trường cơ bản của Tổng công ty: Phân đoạn thị trường theo khu vực địa lý: thị trường xây dựng miền Nam, miền Bắc, miền Trung. Phân đoạn thị trường theo ngành: thị trường ngành xây dựng công nghiệp, ngành nông nghiệp, ngành giao thông vận tải. Phân đoạn thị trường theo tính chất xã hội: thị trường thành phố, thị trường nông thô, thị trường miền núi... Sau khi phân đoạn thị trường, Tổng công ty tiến hành lựa chọn thị trường mục tiêu là thị trường mà ở đó Tổng công ty có thể phát huy cao nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Xác định chiến lược cạnh tranh: Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể, Tổng công ty có thể lựa chọn một trong những chiến lược sau: Cạnh tranh về giá: Bằng việc bỏ giá thầu thấp nhưng vẫn phải đảm bảo mang lại lợi nhuận. Chiến lược đi đầu về chất lượng. Chiến lược cạnh tranh bằng tính thẩm mỹ của công trình. .v.v... Trên đây là một số định hướng nhằm nâng cao chất lượng công tác marketing ở Tổng công ty Xây dựng Thăng Long. 2. Một số kiến nghị từ phía Nhà nước 2.1. Hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Khó khăn đối với hầu hết các doanh nghiệp hiện nay là thiếu vốn nghiêm trọng. Nhu cầu đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh là rất lớn trong khi nguồn vốn lại eo hẹp. Chính vì điều này mà không ít doanh nghiệp đang phải đối mặt với tình trạng sản xuất kinh doanh thua lỗ do thiếu vốn. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần có những giải pháp thích hợp nhằm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp cụ thể là: - Đổi mới chế độ vay tín dụng của Nhà nước để DNNN có điều kiện tăng vốn đầu tư, giải quyết tình trạng thiếu vốn triền miên, phải vay vốn ngắn hạn của ngân hàng để đầu tư dài hạn trong DNNN hiện nay. Về phía ngân hàng, phải hạ lãi suất cho vay, giúp các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất tăng nhanh vòng quay của vốn. Hiện nay, có nhiều DNNN không đủ vốn để đảm bảo sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần có cơ chế để nắm bắt được đầy đủ thực trạng sử dụng vốn, tín dụng, việc bảo toàn vốn và cũng cần có các cơ chế, các chính sách cụ thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự huy động vốn trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, cần chú trọng công tác kiểm toán nội bộ và kiểm toán Nhà nước thông qua chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp. - Mở rộng hoạt động của thị trường vốn để làm phong phú và nâng cao tiềm lực tham gia thị trường vốn. Trong đó, hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn. Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư thông qua kênh tín dung ưu đãi của Nhà nước và Nhà nước gián tiếp hỗ trợ doanh nghiệp thông qua hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đối với các dự án đầu tư có hiệu quả. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp Nhà nước thông qua các Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và Quỹ bảo hiểm xuất khẩu theo hiệp hội ngành hàng, Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ...Đồng thời thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý, có thời hạn hàng sản xuất trong nước phù hợp với các hoạt động và tiêu chuẩn quốc tế. Tăng cường và thành lập mới các tổ chức dịch vụ tài chính hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện lành mạnh hoá tài chính của mình và tạo điều kiện cho họ phát triển, như củng cố và đổi mới hệ thống tín dụng, tăng cường các dịch vụ kiểm tóan, thông tin tư vấn tài chính, thành lập các Công ty mua bán nợ và tài sản thanh lý của doanh nghiệp, Công ty môi giới chứng khoán, Công ty đầu tư tài chính Nhà nước. 2.2. Tăng cường đầu tư, đổi mới và kiểm soát công nghệ trong Doanh nghiệp Nhà nước Đổi mới công nghệ chính là một trong những yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Nhà nước cần tập trung giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc huy động vốn đầu tư đổi mới công nghệ để tăng sức cạnh tranh của mình, đồng thời cũng cần đưa ra các yêu cầu kiểm tra, kiểm soát việc đổi mới trang thiết bị và công nghệ của DNNN thông qua một hệ thống các giải pháp sau: Một là: tiếp tục đổi mới và hoàn thiện môt trường thể chế, chính sách, cơ chế quản lý cho hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp hướng vào: - Một mặt tăng cường quản lý chặt chẽ hơn nữa ( kể cả việc quy định nghiêm ngặt hơn và xử lý nghiêm minh hơn đối với các vi phạm) hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp, mặt khác tạo điều kiện rộng rãi hơn nữa cho các DNNN chủ động nhiều hơn trong hoạt động đổi mới công nghệ. Những ách tắc cản trở trong các qui định chính sách và cơ chế quản lý Nhà nước đối với hoạt động này của doanh nghiệp cần được sớm tháo gỡ và xoá bỏ. Ví dụ như chế độ khấu hao, một số quy định về thuế, về tín dụng cho đổi mới công nghệ... Tạo những áp lực, sức ép cần thiết, thậm chí gay gắt hơn nữa đối với các DNNN nhanh chóng tiếp cận và đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. Các nghiên cứu trong và ngoài nước đều chỉ ra rằng hiện tại áp lực, sức ép này còn chưa đủ lớn bởi vẫn còn những hỗ trợ, ưu đãi không cần thiết đối với các DNNN ( về tín dụng, về giá, về thị trường...) do vậy tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước của các DNNN. Một nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra rằng các DNNN vẫn chịu ảnh hưởng nhiều hơn của quản lý hành chính ( Bộ, ngành, UBND tỉnh) so với những áp lực của thị trường. Khuyến khích và hướng mạnh các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chuyển giao công nghệ mới, tiên tiến, nhằm nhanh chóng đổi mới công nghệ trong các liên doanh với DNNN. Theo phương hướng này cần tiếp tục cải thiện môi trường thương mại và môi trường đầu tư mà ý kiến của các nhà đầu tư nước ngoài đến nay vẫn cho rằng là khó khăn. Điều này có liên quan trước hết tới việc thay đổi hệ thống phê duyệt đầu tư phức tạp bằng một quy trình đăng ký đầu tư đơn giản hơn, ít lắt léo, vòng vèo và không phân biệt hình thức sở hữu cũng như các quy định trong quan hệ với đối tác đầu tư nước ngoài. Hai là: tạo dựng hệ thống dịch vụ hỗ trợ việc chuyển giao, tiếp thu và đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp Sự yếu kém trong các dịch vụ hỗ trợ là một cản trở lớn, thậm chí trong nhiều trường hợp còn gây thiệt hại về kinh tế lớn cho các doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ, cần sớm được khắc phục. Việc tạo dựng dịch vụ hỗ trợ này trước hết nhằm tạo dựng: Mạng lưới cung cấp các thông tin đủ, kịp thời về công nghệ. Hệ thống tư vấn về công nghệ. Hệ thống thẩm định về công nghệ. Đào tạo cán bộ. Hệ thống nghiên cứu và triển khai về công nghệ. Hệ thống tài chính- tín dụng và ngân hàng phục vụ hoạt động đổi mới công nghệ ( các loại quỹ và ngân hàng chuyên dụng...) Mạng lưới xúc tiến đầu tư nước ngoài. 2.3. Đầu tư nâng cao trình độ cho những cán bộ chủ chốt Cán bộ chủ chốt không đáp ứng được yêu cầu căn bản về trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức là nguyên nhân cơ bản gây ra tình trạng DNNN hoạt động kém hiệu quả. Với thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện nay, DNNN đòi hỏi Nhà nước có chương trình, kế hoạch đẩy mạnh đào tạo bồi dưỡng đội ngũ này với nội dung sát hợp cho từng đối tượng cụ thể. Nhà nước cần kiện toàn và nâng cao năng lực cho các cơ sở bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý trên các mặt: đường lối, chính sách và pháp luật, kiến thức mới và kỹ năng hiện đại quản lý sản xuất kinh doanh trong điều kiện mới của cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; tư duy chiến lược trong sản xuất kinh doanh và năng lực đón bắt những xu thế hiện đại trong khoa học công nghệ, trong tổ chức quản lý doanh nghiệp, phong cách làm việc và phương pháp phát huy trí tuệ, nỗ lực của người lao động và phát triển sản xuất kinh doanh...Kết hợp bồi dưỡng, đào tạo trong nước và nước ngoài qua trường lớp với khuyến khích dám nghĩ, dám làm và trưởng thành qua hoạt động thực tiễn. 2.4. Xây dựng công ty Đầu tư tài chính Nhà nước ( ĐTTCNN) để xoá chủ quản đối với DNNN Theo đó thì sự quản lý của cơ quan chủ quản Nhà nước với DNNN sẽ không còn. Thay vào đó là việc sử dụng các công ty ĐTTCNN để: Thứ nhất là đổi mới mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp trên nguyên tắc phân định rõ quyền quản lý Nhà nước và quyền chủ sở hữu vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp. Thứ hai, chuyển đổi việc quản lý có vốn của Nhà nước từ phương thức hành chính hiện nay sang phương thức kinh doanh vốn phù hợp với cơ chế thị trường. Cụ thể là chuyển từ cơ chế bao cấp về vốn- cấp vốn không hoàn lại- sang đầu tư tài chính vào doanh nghiệp- tức là công ty hoá quan hệ tài chính Nhà nước và doanh nghiệp; chuyển quan hệ Nhà nước với doanh nghiệp mang tính chất xin- cho sang quan hệ đối tác: Nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp, là nhà đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Thứ 3, đảm bảo cho doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhà nước thực sự có quyền chủ động kinh doanh, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính. Theo tờ trình của Bộ tài chính, nguyên tắc chung là Nhà nước chỉ cấp vốn điều lệ, tức là giao vốn cho các công ty ĐTTCNN ( 100 đầu mối), còn lại khoảng 6000 DNNN được các nhà đầu tư vốn thông qua các công ty ĐTTCNN. Công ty ĐTTCNN là công ty tài chính, hoạt động theo luật DNNN, được Chính phủ uỷ quyền đầu tư vốn vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần, thực hiện quyền sở hữu của Nhà nước về số vốn đầu tư đối với các doanh nghiệp. Quyền này được quy định trong pháp luật và được cụ thể hoá bằng hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp về việc đầu tư vốn. Nguồn vốn của công ty ĐTTCNN dự kiến hình thành từ vốn Nhà nước giao cho công ty bao gồm: vốn Nhà nước hiện có tại các công ty đã cổ phần hoá, từ các DNNN độc lập thuộc các ngành, các bộ. Đây là kế hoạch được thực hiện từ năm 2002 đến 2005. Nếu phương án này được thực hiện thì sẽ là một cuộc cách mạng trong quản lý vốn Nhà nước, từ đó tạo ra một cú hích lớn cho hoạt động đầu tư. Kết luận Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, Việt Nam đã tích cực chủ động tham gia hội nhập với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập quốc tế đã tạo ra cơ hội thuận lợi để Việt Nam phát huy các thế mạnh mở rộng thị trường, tranh thủ nắm bắt được công nghệ và tiến bộ kỹ thuật hiện đại của thế giới để phát triển nhanh và bền vững, tạo ra thế mạnh về chất lượng và giá thành sản phẩm khi thực hiện cạnh tranh. Hội nhập quốc tế cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam về khả năng cạnh tranh, trình độ tay nghề người lao động, trình độ cán bộ quản lý.... Do vậy, doanh nghiệp của ta phải đủ mạnh để cạnh tranh thắng đối thủ trên “ sân chơi chung” bình đẳng. Thực tế này đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp việt Nam. Tổng công ty Xây dựng Thăng Long là một trong những doanh nghiệp Xây dựng cầu đường lớn nhất Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong những năm qua, Tổng công ty đã nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua các hoạt động đầu tư và đạt được nhiều thành tựu quan trọng như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, việc đầu tư như thế nào để đạt hiệu quả cao là một việc làm không đơn giản chút nào. Vì vậy, mặc dù có nhiều cố gắng song, hoạt động đầu tư của Tổng công ty cũng không tránh khỏi những tồn tại yếu kém cần khắc phục. Hy vọng rằng với các giải pháp đề ra sẽ giúp Tổng công ty ngày càng khẳng định được vị thế và uy tín của mình trên thị trường. Do khả năng và thời gian có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi những thiết sót. Vì vậy, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn cô giáo Phạm Thị Thêu và các thầy cô trong bộ môn đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Danh mục tài liệu tham khảo TS. Nguyễn Bạch Nguyệt- TS Từ Quang Phương- Giáo trình Kinh tế đầu tư- Bộ môn Kinh tế đầu tư PGS. TS. Phan Công Nghĩa- Giáo trình Thống kê Đầu tư và Xây dựng- Khoa Thống kê- Bộ môn Thống kê kinh tế Philip Koler- Giáo trình Quản trị marketing Tạp chí Ngiên cứu Kinh tế Tạp chí Kinh tế và Dự báo Tạp chí Xây dựng Tạp chí Phát triển kinh tế Tạp chí Thông tin lý luận Tạp chí Giao thông Vận tải Tạp chí Thị trường vốn Các Báo cáo Kết quả sản xuất kinh doanh và Báo cáo Đầu tư của Tổng công ty Xây dựng Thăng Long

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0059.doc
Tài liệu liên quan