Hiện nay, trên thế giới tồn tại hai mô hình cơ bản của CTCK là: mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán và tiền tệ và mô hình chuyên doanh chứng khoán.
1.1.3.1. Mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán và tiền tệ.
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này chia thành hai loại:
- Loại đa năng một phần: các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty độc lập hoạt động tách rời.
- Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ.
102 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tổng số hơn 100 CTCK hiện nay đang phải hoạt động cầm cự.
Sự biến động thất thường của TTCK thời gian qua đã khiến cho ngay cả các chuyên gia phân tích, tư vấn của các CTCK cũng khó có thể nhận định thị trường một cách chắc chắn được. Chính vì thế mà các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư cá nhân không dám mạo hiểm nên đã rút khỏi TTCK mà chuyển sang kênh đầu tư khác an toàn hơn. Lượng khách hàng sụt giảm chắc chắn sẽ kéo theo doanh thu giảm.
Môi trường pháp lý chưa thực sự hoàn thiện.
Mặc dù đã ra đời được gần 10 năm nhưng thực sự thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa đi vào quỹ đạo bởi thiếu một môi trường pháp lý hoàn thiện, hiệu lực pháp lý của các văn bản còn thấp. Phải sau gần 7 năm hoạt động, chúng ta mới xây dựng được luật chưng khoán. Tuy nhiên, nó lại chứa đựng nhiều bất cập và chưa sát với thực tế. Chẳng hạn như việc cấp phép tràn lan cho các công ty chứng khoán hay các điều kiện để niêm yết cổ phiếu trên sở giao dịch chứng khoán hay trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chưa được kiểm soát chặt chẽ dẫn đến những công ty không đủ điều kiện vẫn được thành lập và lên sàn. Thêm vào đó, còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí trái ngược nhau giữa các quy định của quy phạm pháp luật chuyên ngành và các quy phạm pháp luật chung có liên quan.
2.3.3. Những kết quả đạt được
2.3.3.1. Tiềm lực về vốn.
Năm 2000, là năm đánh dấu sự ra đời của những công ty chứng khoán lớn hiện nay như CTCK Sài Gòn (SSI), CTCK Bảo Việt (BVSC), CTCK ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BSC), CTCK ngân hàng công thương Việt Nam (Vietinbanksc), CTCK ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agriseco) và CTCK Thăng Long TSC được thành lập bởi ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam với số vốn điều lệ ban đầu là 9 tỷ đồng. Con số này so với thời điểm bây giờ là quá nhỏ, nhưng vào thời điểm năm 2000 khi thị trường chứng khoán mới thành lập thì không hề nhỏ chút nào. Bởi một CTCK lớn như công ty chứng khoán Sài Gòn thì vào thời điểm năm 2000 cũng chỉ có vốn điều lện là 6 tỷ đồng. Có thể quan sát bảng số liệu sau:
Bảng 2.14: Vốn điều lệ và tổng tài sản của một số CTCK
Đơn vị tính: tỷ đồng
CTCK
Năm thành lập
Vốn điều lệ ban đầu
Vốn điều lệ năm 2008
Tổng tài sản năm 2008
BVSC
11/1999
43
450
1438.5
SSI
4/2000
6
1366.7
5104.4
TSC
5/2000
9
420
2538
BSC
7/2000
27
700
5091.9
VIETINBANKSC
9/2000
34
500
5215.8
AGRISECO
12/2000
45
700
5491,7
Nguồn: tự tổng hợp từ nhiều nguồn
Tính đến thời điểm năm 2008 thì TSC vẫn giữ vững được vị thế và tiềm lực tài chính của mình. Trong suốt 8 năm hoạt động, TSC đã có nhiều lần tăng vốn điều lệ. Điều này cho thấy tiềm lực tài chính của TSC ngày càng được củng cố và vững mạnh. Gần đây nhất là vào tháng 12/2008 công ty tăng vốn điều lệ lên 420 tỷ đồng ( tăng gấp 46,7 lần so với năm 2000) và tổng tài sản năm 2008 đạt 2538 tỷ đồng, đã cho thấy tốc độ phát triển của TSC. Với con số này đã đưa TSC đứng ở vị trí thứ 7 trong tốp 10 công ty chứng khoán dẫn đầu thị trường.
2.3.3.2. Thị phần.
Tất cả những hoạt động đầu tư nói trên của TSC đã được đền đáp xứng đáng. Doanh thu của công ty liên tục tăng lên qua các năm, trung bình khoảng 200% - 300% / năm. Đặc biệt tăng mạnh vào năm 2006 và 2007, tăng hơn 4 lần. Tỷ lệ lợi nhuận / vốn chủ sở hữu luôn duy trì ở mức trên 25%. Mặc dù năm 2008 TTCK sụt giảm mạnh, có đến 70% số lượng CTCK làm ăn thua lỗ, song TSC vẫn thu được một khoản lãi hơn 2 tỷ đồng.
Bảng 2.15: Doanh thu và lợi nhuận sau thuế của một số CTCK
giai đoạn 2007 - 2008
Đơn vị tính: tỷ đồng
CTCK
Doanh thu
Lợi nhuận sau thuế
2007
2008
2007
2008
SSI
1243.83
1135.99
864.176
250.517
TP. Hồ Chí Minh (HSC)
224.706
231.374
132.145
23.543
Habubank
425.965
107.696
104.261
10.54
Nhấp và gọi
0.523
26.469
-1.32
7.107
TSC
208.750
84.391
134.16
2.673
BSC
306.146
478.923
114.32
-554.088
BVSC
374.929
162.841
214.591
-452.401
Kim Long (KLS)
193.898
302.017
126.249
-347.443
An Bình (ABS)
137.111
103.838
59.985
-94.417
VNDirect
323.383
204.781
95.877
-86.167
Euro Capital
0
17.373
0
-58.219
Gia Quyền (EPS)
10.846
13.227
0.111
-35.489
Đông Dương (DDS)
0.102
1.810
-3.383
-13.397
Nguồn: Tổng hợp từ HASTC
Biểu đồ 2.16: Lợi nhuận sau thuế của một số CTCK năm 2008
Qua bảng số liệu và biểu đồ có thể thấy, có đến quá nửa số CTCK làm ăn thua lỗ và mức thua lỗ không hề nhỏ. Không chỉ các CTCK nhỏ mới bị thua lỗ mà ngay cả các CTCK lớn cũng không tránh khỏi tình trạng này, thậm chí còn bị lỗ nặng hơn, chẳng hạn: BVSC bị lỗ 452,401 tỷ đồng, BSC lỗ 554,088 tỷ đồng Còn các công ty làm ăn có lãi thì quá ít và mức lãi cũng quá nhỏ. Chỉ có SSI là thu được khoản lợi nhuận tương đối lớn so với những CTCK khác nhưng cũng là quá nhỏ so với các năm trước. Xứng đáng là một trong số những CTCK dẫn đầu thị trường, năm 2008, TSC đã thu được khoản lãi hơn 2 tỷ đồng, vượt qua cả các CTCK lớn như BSC hay BVSC và được hội sở hữu trí tuệ Việt Nam và mạng thương hiệu Việt trao tặng danh hiệu “thương hiệu cạnh tranh” . Điều này đã cho thấy đường lối, chiến lược phát triển đúng đắn và khoa học của TSC. Thị phần của công ty ngày càng được mở rộng. Sau hơn 8 năm hoạt động. TSC đã thực sự khẳng định được thương hiệu, vị thế, chỗ đứng của mình trên thị trường.
Hoạt động môi giới
TSC luôn nằm trong tốp những CTCK dẫn đầu thị trường về thị phần môi giới. Đặc biệt, năm 2008 thị trường ảm đạm nhưng TSC đã vinh dự được nhận bằng khen là một trong năm công ty chứng khoán tiêu biểu có thị phần môi giới lớn nhất của trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Qua 8 năm hoạt động, số lượng tài khoản của khách hàng mở tại TSC không ngừng tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Công ty không chỉ giữ chân được khách hàng mà còn ngày càng thu hút thêm được khách hàng mới, tạo niềm tin đối với nhà đầu tư và nâng cao uy tín, vị thế của công ty trên thị trường.
Bảng 2.17: Tốc độ tăng số lượng tài khoản và giá trị giao dịch tại TSC
giai đoạn 2003 - 2008
Năm
Tài khoản
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Số lượng
360
960
1930
3593
12238
14200
Giá trị giao dịch (triệu đồng)
10129
13574
17358
19786
23682
24937
Nguồn: Công ty chứng khoán Thăng Long.
Qua bảng trên ta thấy, trung bình mỗi năm số lượng tài khoản của TSC tăng khoảng hơn 120%. Đặc biệt là vào năm 2007, số lượng tài khoản của TSC tăng 240.61% so với năm 2006 và tăng gấp gần 34 lần so với năm 2003. Sang năm 2008, thị trường giảm sút, số lượng nhà đầu tư tham gia giao dịch trên thị trường cũng sụt giảm đáng kể và được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng chậm của tổng số tài khoản trên thị trường. Tính đến đầu tháng 12/2008 trên thị trường có khoảng 510000 tài khoản được mở tại các CTCK, tăng 150000 tài khoản so với năm 2007. Cơ cấu tài khoản vẫn không có thay đổi nhiều so với các năm trước với tỷ trọng nhà đầu tư cá nhân trong nước chiếm đa số 97%, trong khi nhà đầu tư cá nhân và tổ chức nước ngoài chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn trên 2%. Nhưng số lượng tài khoản của công ty vẫn tăng mặc dù tăng chậm. Công ty có khoảng 14200 tài khoản trong đó có 1200 tài khoản cá nhân và 200 tài khoản tổ chức, tăng 16.03% so với năm 2007. Cùng với sự gia tăng của số lượng tài khoản là sự tăng lên của giá trị giao dịch. Con số này vào năm 2008 là 24937 triệu đồng, tăng gấp 2.5 lần so với năm 2003. Điều này cho thấy TSC đã có chiến lược đúng đắn và hiệu quả trong việc thu hút khách hàng.
Hoạt động tự doanh
Cũng giống như những CTCK khác, tự doanh chính là hoạt động đem lại nguồn thu chính cho TSC. Xác định được điều này, công ty chứng khoán Thăng Long đã chú trọng đầu tư cho công nghệ trong việc tìm kiếm, phân tích thông tin cũng như đội ngũ chuyên viên phân tích, tự doanh. Nhờ đó, mà doanh thu của hoạt động này không ngừng tăng lên qua các năm, cụ thể:
Bảng 2.18 : Doanh thu tự doanh của TSC giai đoạn 2005 -2008
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
Doanh thu tự doanh (tỷ đồng)
28,95
59,56
112,41
57,125
Tổng doanh thu (tỷ đồng)
61,78
125,17
208,75
134,16
Tỷ trọng doanh thu tự doanh/ tổng doanh thu (%)
46,86
47,58
53,85
42,58
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của TSC
Cùng với những biến động thăng trầm của thị trường chứng khoán Việt Nam, doanh thu từ hoạt động tự doanh của TSC cũng đã có nhiều thay đổi đáng kể. Doanh thu từ hoạt động tự doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu khoảng trên 45%. Năm 2005, doanh thu từ hoạt động này chỉ là 28,95 tỷ đồng, nhưng sang năm 2006, con số này đã tăng hơn hai lần lên 59,56 tỷ đồng, chiếm 47,58% so với tổng doanh thu. Và đặc biệt là vào năm 2007, TTCK Việt Nam phát triển mạnh với hàng loạt các chứng khoán lên sàn. Điều này đã giúp cho TSC mở rộng danh mục đầu tư của mình. Cùng với việc đầu tư cho công nghệ và đội ngũ chuyên viên phân tích đã làm cho doanh thu từ hoạt động tự doanh tăng lên đáng kể, tăng 88,7% so với năm 2006 và chiếm 53,85% so với tổng doanh thu. Sang năm 2008, do thị trường sụt giảm nghiêm trọng nên phần lớn các CTCK làm ăn thua lỗ trong hoạt động tự doanh. Tuy nhiên, TSC vẫn có được một khoản doanh thu từ hoạt động này là 57,125 tỷ đồng, mặc dù có giảm đi gần một nửa so với năm 2008 và chỉ chiếm 42,58% so với tổng doanh thu. Đây cũng là một kết quả mà nhiều CTCK mong muốn có được trong tình hình thị trường thời gian qua.
Hoạt động bảo lãnh phát hành
Đây là một hoạt động mà không phải CTCK nào cũng có đủ tiềm lực tài chính để thực hiện. Tuy nhiên, do có sự hỗ trợ tích cực về vốn từ phía cổ đông chiến lược là ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội mà TSC đã thực hiện nghiệp vụ này tư khá sớm và cũng khá thành công.
Bảng 2.19 : Doanh thu bảo lãnh phát hành của TSC giai đoạn 2005 - 2008
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
Doanh thu bảo lãnh phát hành (tỷ đồng)
13,95
12,83
11,29
10,75
Tổng doanh thu (tỷ đồng)
61,78
125,17
208,75
134,16
Tỷ trọng doanh thu bảo lãnh phát hành/ tổng doanh thu (%)
22,58
10,25
5,41
8,01
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của TSC
Nghiệp vụ này cũng đóng góp một phần nhỏ vào tổng doanh thu của TSC, chiếm trung bình khoảng 11% so với tổng doanh thu. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, doanh thu của hoạt động nghiệp vụ này có xu hướng giảm dần qua các năm, nhưng mức giảm không đáng kể, chỉ khoảng xấp xỉ 1 tỷ mỗi năm. Sở dĩ có sự giảm sút này không phải là do công ty làm ăn không hiệu quả hay không uy tín trong lĩnh vực này, mà là do TSC đã có sự điều chỉnh về cơ cấu vốn cho các nghiệp vụ, tập trung nhiều vốn hơn cho hoạt động tự doanh nên lượng vốn dành cho hoạt động bảo lãnh giảm. Và kéo theo doanh thu của hoạt động này cũng giảm chút ít. Tuy nhiên, đây cũng là con số tương đối lớn trên thị trường mà không có nhiều CTCK đạt được.
Hoạt động tư vấn.
Hoạt động này đã được TSC thực hiện ngay từ khi mới thành lập cùng với hoạt động môi giới. Trong suốt 8 năm hoạt động, cùng với việc đầu tư cho công nghệ hay nhân sự và không ngừng học hỏi tích lũy kinh nghiệm, công ty đã tư vấn cho nhiều doanh nghiệp lớn trên thị trường và đạt được nhưng thành công nhất định, đóng góp không nhỏ vào tổng doanh thu của công ty.
Bảng 2.20 : Doanh thu hoạt động tư vấn của TSC giai đoạn 2005 - 2008
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
Doanh thu tư vấn (tỷ đồng)
4,79
20,25
29,49
26,604
Tổng doanh thu (tỷ đồng)
61,78
125,17
208,75
134,16
Tỷ trọng doanh thu tư vấn/ tổng doanh thu (%)
7,75
16,18
14,12
19,83
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của TSC
Theo bảng số liệu trên ta thấy, doanh thu của hoạt động này có xu hướng tăng dần qua các năm và chiếm trung bình khoảng 14% so với tổng doanh thu. Nếu như năm 2005, doanh thu của hoạt động này chỉ là 4,79 tỷ đồng, chiếm 7,75% so với tổng doanh thu, thì sang năm 2006 doanh thu của nó đã tăng hơn 4 lần, lên mức 20,25 tỷ đồng và chiếm 16,18% so với tổng doanh thu. Và đặc biệt là vào năm 2007, thị trường chứng khoán phát triển mạnh, nhiều công ty tiến hành cổ phần hóa hay niêm yết cổ phiếu lên sàn Điều này đã làm tăng số lượng cũng như giá trị các hợp đồng tư vấn của TSC, kéo theo doanh thu từ hoạt động này tăng lên mức 29,49 tỷ đồng. Cùng với kinh nghiệm và uy tín gây dựng được trong lĩnh vực tư vấn đầu tư trong suốt 8 năm hoạt động của mình đã giúp cho TSC có được một khoản doanh thu là 26, 604 tỷ đồng trong năm 2008, một năm khung hoảng nghiêm trọng.
2.3.3.3. Chất lượng sản phẩm - dịch vụ.
Theo quan niệm của khách hàng, một sản phẩm chứng khoán có chất lượng phải đáp ứng được tốt nhất, nhiều nhất nhu cầu mong muốn của khách hàng, đem lại cho khách hàng một tập hợp tiện ích và lợi ích. Do vậy, khi đánh giá một sản phẩm chứng khoán có chất lượng, khách hàng thường dựa vào các tiêu chí sau:
Mức độ tham gia của khách hàng vào quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ ít và đơn giản.
Tốc độ xử lý nhanh.
Mức độ chính xác cao.
Hiệu quả đem lại cho khách hàng lớn.
Thái độ phục vụ tốt.
Trình độ công nghệ hiện đại.
Thực tế, trên thị trường ngày càng có nhiều CTCK cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Vì vậy, khách hàng có sự so sánh, đánh giá và quyết định lựa chọn công ty có sản phẩm chất lượng cao. Thậm chí, khách hàng thay đổi quan hệ từ công ty có sản phẩm chất lượng kém sang công ty có sản phẩm chất lượng tốt. Do đó, để cạnh tranh bằng chất lượng, các CTCK phải xây dựng thật tốt cơ sở hạ tầng hiện đại, nguồn nhân lực bên cạnh việc kế hợp chiến lược thị trường, chiến lược kinh doanh phù hợp. Chỉ có như vậy, các sản phẩm dịch vụ mà công ty cung cấp mới đáp ứng đúng và đầy đủ, kịp thời nhu cầu từ phía khách hàng.
Dịch vụ môi giới
Dịch vụ môi giới của TSC đã đươc chú trọng đầu tư ngay từ khi mới thành lập. Do đó, dịch vụ môi giới của TSC khá là vượt trội trên thị trường với một số ưu điểm như:
Đội ngũ nhân viên môi giới thân thiện, nhiệt tình với đầy đủ 3 chứng chỉ về chứng khoán.
Các giao dịch được thực hiện nhanh chóng, chính xác với mức phí môi giới hợp lý.
Cung cấp các thông tin về chứng khoán, tài khoản tại sàn, qua điện thoại và thư điện tử.
Thủ tục đơn giản, thuận tiện, thông tin giao dịch khách hàng đực giữ bí mật tuyệt đối
Nhiều hình thức ưu đãi hấp dẫn.
Chính những ưu điểm đó đã thu hút được sự quan tâm của khách hàng đối với dịch vụ này của TSC.Theo một cuộc thăm dò ý kiến khách hàng do TSC tiến hành đối với một nhóm khách hàng cho thấy có đến trên 50% số người tham gia cuộc thăm dò lựa chọn dịch vụ môi giới của TSC. Điều này đã cho thấy, TSC xứng đáng là một trong năm CTCK dẫn đầu thị trường về hoạt động môi giới chứng khoán.
Hoạt động tự doanh
Chất lượng hoạt động tự doanh phụ thuộc vào nhiều nhân tố như công nghệ, kỹ thuật phân tích, đội ngũ chuyên viên phân tích, quyết định của ban lãnh đạo hay tình hình thị trường. Và có lẽ tiêu chí rõ nhất để đánh giá về chất lượng hoat động tự doanh của một CTCK chính là dựa vào khoản doanh thu mà hoạt động này mang lại cho công ty. Theo như phân tích ở trên thì doanh thu mà hoạt động này mang lại cho TSC là tương đối lớn và luôn chiếm tỷ trọng trên 40% so với tổng doanh thu của công ty và tỷ trọng này có sự biến động không nhiều qua các năm. Điều này cho thấy chất lượng hoạt động tự doanh của TSC là tương đối tốt và ổn định.
Dịch vụ bảo lãnh phát hành
Dịch vụ này tuy không được TSC thưc hiện ngay từ khi mới thành lập nhưng cũng là một trong số những công ty tiến hành đầu tiên trên thị trường. Mặc dù doanh thu của hoạt động này có sự giảm sút qua các năm theo như phân tích ở trên nhưng chất lượng của nó thi không hề giảm, thậm chí còn tăng lên. Thể hiện ở chất lượng đội ngũ nhân sự tham gia ngày càng tăng cả về trình độ cũng như kinh nghiệm. Thêm vào đó là sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ trong việc tìm kiếm, phân tích thông tin và một quy trình bảo lãnh ngày càng được hoàn thiện. Tất cả đã tạo nên cho TSC một sản phẩm dịch vụ có chất lượng. Nhờ đó mà TSC đã thu hút được những khách hàng lớn sử dụng dịch vụ này của công ty.
Dịch vụ tư vấn
Cùng với dịch vụ môi giới chứng khoán, dịch vụ tư vấn của TSC cũng được thực hiện từ khi công ty thành lập cho tới bây giờ. Đây cũng được coi là một điểm mạnh của TSC với các ưu thế như:
Đội ngũ chuyên viên tư vấn có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, giàu kinh nghiệm, được đào tạo trong nước và ngoài nước.
Các loại hình dịch vụ tư vấn đa dạng, phong phú và biểu phí tư vấn phù hợp với từng loại hình.
Các báo cáo phân tích thị trường, phân tích ngành hay công ty có độ chính xác cao
Đến nay, dịch vụ tư vấn đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, vẫn là dịch vụ được cung cấp miễn phí cho khách hàng của công ty.
Với một số ưu điểm kể trên cũng đã giúp chúng ta có thể đánh giá được phần nào về chất lượng dịch vụ tư vấn của TSC. Cùng với các hoạt động đầu tư không ngừng của mình thì chất lượng dịch vụ tư vấn của TSC ngày càng nâng cao trên thị trường. Điều này đã giúp cho công ty có được một số lượng hợp đồng tư vấn tương đối lớn và một khoản doanh thu không nhỏ. Và cũng theo cuộc thăm dò ý kiến khách hàng do TSC tiến hành đối với một nhóm khách hàng vừa nêu ở trên cho thấy có đến trên 45% số người tham gia cuộc thăm dò lựa chọn dịch vụ môi giới của TSC. Điều này càng khẳng định thêm về chất lượng dịch vụ tư vấn của TSC.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN THĂNG LONG.
3.1. Triển vọng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới.
- Tập trung đẩy mạnh phát triển thị trường cả về quy mô và chất lượng hoạt động để TTCK thật sự đóng vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu niêm yết đạt khoảng 40-50% GDP vào cuối năm 2010.
- Gắn việc phát triển TTCK với thúc đẩy chuyển đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần.
- Mở rộng phạm vi hoạt động của TTCK có tổ chức, từng bước thu hẹp TTCK tự do nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư.
- Phát triển các định chế tài chính trung gian cho TTCK Việt Nam. Tăng quy mô và phạm vi hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, dịch vụ của các CTCK; khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ điều kiện thành lập CTCK, khuyến khích các CTCK thành lập thêm các chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh ở các tỉnh, thành phố trong khắp cả nước;
- Tăng cung hàng hoá cho thị trường bằng việc nghiên cứu ban hành các chính sách cho phép chuyển công ty liên doanh thành công ty cổ phần; khuyến khích công ty cổ phần, công ty tư nhân, công ty liên doanh phát hành ra công chúng bằng việc ưu đãi thuế, ưu đãi cho vay thương mại, cho phép đăng ký phát hành khung, khuyến khích các công ty đầu tư mạo hiểm Khuyến khích đưa thêm các loại cổ phiếu ưu đãi, quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp chuyển đổi, chứng chỉ quỹ đầu tư, vào niêm yết. Nghiên cứu các chính sách ưu đãi đối với các quỹ đầu tư như ưu đãi thuế thu nhập tương tự như các nhà đầu tư cá nhân.
- Đẩy mạnh cầu chứng khoán trong và ngoài nước thông qua việc thu hút các nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường. Phát triển các nhà đầu tư có tổ chức tham gia thị trường và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Nghiên cứu ban hành các chính sách kích cầu như: phát triển chương trình bán cổ phiếu cho người lao động trong doanh nghiệp; nới lỏng các quy định hạn chế và có chính sách ưu đãi thuế cho các tổ chức tín dụng tham gia thị trường; thúc đẩy thành lập các quỹ đầu tư và công ty tư vấn đầu tư, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho các nhà đầu tư nhỏ; nới lỏng hạn chế đầu tư của nước ngoài; thành lập quỹ bình ổn thị trường,
- Phát triển các công ty chứng khoán theo hướng nâng cấp quy mô vốn và mở rộng hoạt động nghiệp vụ của các công ty chứng khoán. Dự kiến đến năm 2010, sẽ nâng quy mô vốn tối thiểu của các công ty chứng khoán lên 20 tỷ đồng. Hình thành 4 đến 5 công ty chứng khoán có quy mô lớn, chuyên môn hoá hoạt động bảo lãnh phát hành. Các công ty còn lại chủ yếu chỉ hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư tài chính. Ban hành chính sách tiếp tục ưu đãi thuế cho ngành chứng khoán.
- Ngoài ra, sẽ có chính sách phát triển số lượng CTCK nhằm tạo sự cạnh tranh khuyến khích các CTCK liên doanh với nước ngoài, cho phép sáp nhập các CTCK, tiến tới thực hiện việc niêm yết cổ phiếu của CTCK.
3.2. Định hướng phát triển của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long.
Trong thời điểm hiện tại, các công ty chứng khoán đang hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam phải tìm kiếm cho mình cơ hội để phát triển và tăng trưởng trong dài hạn. Với một chiến lược kinh doanh ngắn hạn thì mức độ rủi ro là vô cùng lớn. Thị trường đang biến động khó lường, theo như đánh giá thì đây là quá trình thị trường đào thải những công ty làm ăn không hiệu quả, chất lượng hoạt động kém.
Xứng đáng là đàn anh trên thị trường, TSC vẫn giữ vững được vị thế của minh. Sở dĩ như vậy là do định hướng chiến lược phát triển của công ty trong từng thời kỳ kết hợp với đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp và hệ thống công nghệ hiện đại. Theo đó, mục tiêu chiến lược của TSC trong thời gian tới:
- Trở thành trung gian tài chính tin cậy trên thị trường chứng khoán đối với nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân, gia tăng thị phần hoạt động của các hoạt động. Trong bối cảnh như hiện nay thì năng lực cạnh tranh là một yếu tố sống còn. Do đó, mục tiêu của công ty là phải nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thông qua hoạt động đầu tư vào nguồn nhân lực, vào công nghệ
- Liên kết, hợp tác với các tập đoàn tài chính lớn để đa dạng hóa nguồn vốn của công ty, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư.
- Tăng cường đầu tư vào công nghệ, nhân sự, đầu tư có chiến lược nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động nghiệp vụ của công ty.
- Tạo ra thương hiệu hàng đầu và lợi nhuận cao. Thương hiệu mạnh chính là nền tảng cho lợi nhuận cao. Chính xuất phát từ quan điểm này mà công ty sẽ không ngừng đầu tư để khẳng định thương hiệu của minh.
- Mở rộng mạng lưới ở các tỉnh miền trung, một vùng có nhiều tiềm năng phát triển và mức độ cạnh tranh còn thấp. thêm vào đó, việc mở thêm các phòng giao dịch hay đại lý nhận lệnh ở các trung tâm lơn như Hà Nội và Hồ Chí Minh cũng là một trong những chiến lược của công ty.
- Trở thành một trong những tổ chức tài chính hàng đầu tại Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng đầu tư và môi giới chứng khoán. Phấn đấu đến năm 2010 tăng vốn điều lệ của công ty lên 1000 tỷ đồng.
3.3. Vận dụng mô hình SWOT để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long.
3.3.1. Phát huy thế mạnh.
Ngày nay, khi áp lực cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh chứng khoán càng gia tăng, các CTCK luôn tìm mọi cách để nâng cao sức mạnh cạnh tranh của mình, trong đó, việc tận dụng những lợi thế mà mình có sẵn để phát huy sức mạnh được coi là bước đi ngắn nhất và hiệu quả nhất. Một số lợi thế mà TSC sẽ phát huy :
Thứ nhất, tận dụng mạng lưới rộng khắp để phát triển sản phẩm dịch vụ công nghệ cao ở những thành phố lớn.
Thứ hai, đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các quỹ đầu tư, các CTCK quốc tế để học hỏi, tích lũy thêm kinh nghiệm.
Thứ ba, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các cổ đông chiến lược của công ty để phát triển công nghệ, nâng cao chất lượng nhân sự, củng cố và phát huy thị phần
3.3.2. Khắc phục điểm yếu.
Không chỉ riêng TSC mà bất cứ CTCK nào cũng luôn tồn tại những yếu kém nhất định. Do vậy, khắc phục những điểm yếu của mình và biến chúng thành những lợi thế, những cơ hội nhằm tăng cường sức mạnh cạnh tranh là điều mà bất cứ công ty nào cũng mong muốn. Để làm được điều này, TSC cần phải:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng nhân sự trên cơ sở xây dựng và đào tạo một đội ngũ nhân viên với một tư tưởng mới, hiểu và nhận biết được tầm quan trọng củ khách hàng đối với sự tồn vong và phát triển của công ty. Đào tạo một đội ngũ nhân viên với tinh thần làm việc hết mình, cống hiến vì sự nghiệp của TSC.
Thứ hai, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đảm bảo tính đồng bộ về lĩnh vực công nghệ. Tinh giảm bớt những chi nhánh và phòng giao dịch để tạo dễ dàng cho đầu tư phát triển công nghệ cũng như tạo bộ mặt cho công ty. Tránh tình trạng có quá nhiểu phòng giao dịch, chi nhánh với cơ sở hạ tầng, trang thiết bị thấp vì điều này sẽ làm giảm vị thế của TSC với khách hàng.
Thứ ba, đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư và điều chỉnh cơ cấu đầu tư hợp lý. Một cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ đem lại lợi nhuận cao. TSC cần đa dạng hóa nguồn vốn thông qua việc đa dạng hóa phương thức huy động vốn như: huy động một phần vốn từ cán bộ nhân viên của công ty thông qua việc phát hành thêm cổ phần mới. Điều này không chỉ làm tăng nguồn vốn của công ty mà còn gắn chặt lợi ích của nhân viên với lợi ích của công ty; Không chỉ huy động từ nội bộ công ty mà còn có thể huy động từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra bên ngoài, tăng vốn điều lệ của công ty
Thứ tư, xây dựng hệ thống quy trình thực hiện đối với từng nghiệp vụ. Với mỗi một nghiệp vụ sẽ có đặc điểm riêng. Do đó, cần xây dựng và chuẩn hóa quy trình tác nghiệp của từng nghiệp vụ bao gồm: quy trình môi giới, quy trình tư vấn, quy trình tự doanh hay quy trình kiểm soát rủi ro Một quy trình hoàn thiện sẽ giúp cho công ty cũng như khách hàng có thể kiểm soát và hạn chế được những rủi ro khi tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán. Theo đó, cần chú ý một số điểm sau khi xây dựng các quy trình nghiệp vụ: Phải dựa trên một quy trình chuẩn đối với từng nghiệp vụ; từ đó có thể bổ sung thêm các bước nhỏ hơn để quy trình được rõ ràng hoặc lược bỏ bớt một số bước không cần thiết để tiết kiệm chi phí; phải tạo ra được sự liên kết, hỗ trợ giữa các nghiệp vụ với nhau; phải thường xuyên cập nhật và điều chỉnh các quy trình này cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường.
3.3.3. Tận dụng cơ hội.
Hội nhập không chỉ mở ra nền kinh tế Việt Nam những cơ hội mới mà còn tạo ra vô số những cơ hội cho ngành kinh doanh chứng khoán nói chung và TSC nói riêng. Thế nhưng, việc tận dụng những cơ hội đó như thế nào để biến chúng thành sức mạnh và sử dụng chúng như là một công cụ để gia tăng sức mạnh trong cạnh tranh mới là điều quan trọng. Để biến những cơ hội đó thành chìa khóa cho sự thành công của TSC thì TSC cần phải:
Thứ nhất, nhanh chóng phát triển những sản phẩm – dịch vụ mang tính công nghệ cao dựa trên những lợi thế sẵn có.
Thứ hai, tranh thủ sự hợp tác với các quỹ đầu tư, các CTCK nước ngoài để tiếp cận phương pháp quản lý chuyên nghiệp, công nghệ mới.
3.3.4. Vượt qua thử thách.
Có lẽ điều mà các CTCK nói chung và TSC nói riêng là làm sao và làm như thế nào với những điểm mạnh, trên sự hiểu rõ về những điểm yếu đang tồn tại của mình với việc tận dụng những cơ hội của thị trường để vượt qua mọi thử thách đang và sẽ đối mặt phía trước.
Để biến những lợi thế mà mình đang có, những cơ hội mà thị trường đã tạo ra trên những điểm yếu của mình để vượt qua những thử thách của thị trường nhằm tạo lợi thế trong cạnh tranh, TSC cần phải:
Thứ nhất, tăng cường sức mạnh tài chính để đầu tư phát triển công nghệ mới, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, nâng cấp trang thiết bị nhằm cải tiến “tốc độ” truyền tải dữ liệu giữa các chi nhánh và hội sở, giữa chi nhánh và phòng giao dịch đảm bảo sự chính xác, an toàn và nhanh chóng trong mọi giao dịch. Tránh tình trạng tắc nghẽn khi giao dịch, gây thiệt hại cho khách hàng và ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Bên cạnh đó, cần chú trọng đến công tác quản trị mạng, vì một khi các sản phẩm công nghệ cao được sử dụng thì vấn đề trộm cắp thông tin, tài sản của khách hàng sẽ tinh vi hơn và hậu quả nghiêm trọng hơn.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chế độ tiền lương, chế độ đãi ngộ, công tác tuyển dụng để thu hút nguồn nhân lực có chất xám đảm bảo tạo ra một đội ngũ nhân viên giàu nghị lực, đủ năng lực để quản lý và điều hành trong giai đoạn hiện tại và kế thừa trong tương lai.
Thứ ba, tạo nên sự khác biệt trong chính hoạt động kinh doanh của mình dựa trên các sản phẩm, con người và chất lượng dịch vụ.
3.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long.
3.4.1. Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ truyền thống và phát triển sản phẩm mới.
So với thực trạng các sản phẩm dịch vụ truyền thống mà TSC đang sử dụng thì tính chất đa dạng về sản phẩm truyền thống còn quá thấp. Bên cạnh đó, các CTCK luôn tung ra thị trường những sản phẩm mới, mang tính công nghệ cao, đáp ứng được ngày càng nhiều nhu cầu của người tiêu dùng như giao dịch điện tử, quản lý danh mục đầu tư Vì thế, việc đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của TSC là cần thiết. Dưới đây là một số giải pháp để phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của TSC:
Thứ nhất, thành lập phòng nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm bên cạnh phòng marketing nhằm nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu và xu hướng của người tiêu dùng trên cơ sở những lợi thế vốn có củ TSC để đưa ra những sản phẩm mới đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
Thứ hai, đa dạng hóa các sản phẩm mới trên nền tảng của sản phẩm truyền thống để thích ứng với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau; phân khúc thị trường để cung ứng những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng và lợi thế của TSC.
Thứ ba, hoàn thiện tốt nhất cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin đảm bảo sự phát triển được các dòng sản phẩm mang tính công nghệ cao. Đảm bảo sự đồng bộ về mặt công nghệ giữa các chi nhánh và phòng giao dịch, tránh tình trạng tắc nghẽn đường truyền, gây tâm lý không tốt cho người tiêu dùng, cũng như làm nền tảng cho sự phát triển những sản phẩm mới.
3.4.2. Đầu tư nâng cao chất lượng các sản phẩm - dịch vụ
Việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ là một biện pháp hữu hiệu để thu hút thêm khách hàng, mở rộng thị phần, tăng năng lực cạnh tranh. Theo đó, công ty cần chọn những sản phẩm có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ theo nhu cầu ngày càng đa dạng và tăng cao của xã hội. Theo đó, TSC cần phải:
Thứ nhất, xây dựng được đội ngũ cán bộ công nhân viên giao dịch có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao; có tinh thần trách nhiệm tốt, có phẩm chất đạo đức tốt; tác phong công việc nghiêm chỉnh, tính tình trung thực, luôn xem khách hàng là thượng đế. Nhân viên phải hiểu và nhận biết được sự sống còn của ngân hàng chính là khách hàng biết thông cảm và có những quan tâm chia sẻ đối với những khách hàng thường xuyên, cũng như những khách hàng mới. Điều này sẽ giúp khách hàng cảm thấy thân thiện khi đến giao dịch và giúp họ trở thành khách hàng truyền thống và gắn bó lâu dài với công ty.
Thứ hai, hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng tốt; trang thiết bị và công nghệ hiện đại; vị trí kinh doanh hợp lý, không gian giao dịch thoáng mát, lịch sự và văn minh. Điều này sẽ giúp khách hàng cảm thấy an tâm hơn khi đến giao dịch với công ty.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện công nghệ, chất lượng chuyên môn của nhân viên đảm bảo tính chính xác, kịp thời, bỏa mật và an toàn cho tài sản của khách hàng khi đến giao dịch.
Thư tư, mỗi chi nhánh, phòng giao dịch phải đảm bảo được đội ngũ cán bộ nhân viên hướng dẫn, trả lời và giải quyết những vấn đề thắc mắc, khiếu nại của khách hàng một cách nhanh nhất, đảm bảo quyền lợi của khách hàng trên sự hài hòa lợi ích của công ty. Tránh tình trạng gây bất mãn, thờ ơ hay lảng tránh trả lời những khiếu nại của khách hàng, mỗi nhân viên không được tranh cãi với khách hàng dù bất kỳ trường hợp nào, mà phải hướng dẫn, giải thích cho khách hàng biết những gì khách hàng chưa hiểu hay hiểu nhầm lẫn đảm bảo giữ được hòa khí giữa khách hàng và công ty.
3.4.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua hoạt động đào tạo.
Từ bấy lâu nay, vấn đề nhân sự luôn được các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu, nó có vai trò quan trọng quyết định đến sự phát triển hay diệt vong của một doanh nghiệp nói chung. Khi mà thị trường tài chính Việt Nam đã và đang phát triển khá mạnh trong những năm gần đây thì vấn đề nguồn nhân lực càng được đề cao hơn bao giờ hết.
Để có được đội ngũ nhân viên đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường mở cửa, TSC cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
- Tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên hiện có trong công ty. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực sở trường. Bổ sung những cán bộ, nhân viên đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển, đồng thời thay thế những cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn, vi phạm pháp luật và đạo đức. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ hiện có mà chưa cần đến việc đào tạo, bồi dưỡng.
- Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của đội ngũ nhân viên với công ty bằng các chính sách như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho nhân viên kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích nhân viên có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của công ty. Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của đội ngũ nhân viên khi cần có sự điều chỉnh nhân sự trong nội bộ công ty. Biện pháp này sẽ giúp các công ty có thể dễ dàng điều chỉnh nhân sự khi có những biến động, giảm được chi phí để tuyển dụng hay thuyên chuyển nhân viên.
- Tiêu chuẩn hóa cán bộ, nhân viên trong công ty. Ở mỗi ngành nghề, vị trí công tác, cung bậc công việc đòi hỏi kiến thức, kỹ năng về chuyên môn khác nhau. Do đó tiêu chuẩn hóa cán bộ phải cụ thể hóa đối với từng ngành nghề, từng loại công việc và phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Khi xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, cần phải tham khảo các CTCK khác nhưng vẫn giữ được nét văn hóa kinh doanh riêng của TSC. Áp dụng cơ chế bổ sung và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lao động để có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo vi tính, am hiểu thị trường thế giới và thông lệ quốc tế.
- Xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ phù hợp với kế hoạch chung của công ty. Theo đó, nên phân cấp nhân viên theo trình độ nghiệp vụ để đào tạo. Lựa chọn hình thức đào tạo phù hợp. Có thể đào tạo trực tiếp tại nơi làm việc hoặc đào tạo chính quy ở trong nước hay nước ngoài. Tùy từng đối tượng và tùy từng điều kiện mà công ty nên quyết định lựa chọn hình thức nào cho phù hợp.
- Nâng cao chất lượng tuyển dụng từ cách thức tổ chức cho đến nội dung tuyển dụng. Có làm tốt công tác này từ đầu thì mới đảm bảo đội ngũ nhân sự chất lượng, đáp ứng tốt yêu cầu công việc sau này. Theo đó, công tác tổ chức tuyển dụng cần được tiến hành cẩn thận, tỉ mỉ, phải có sự giám sát chặt chẽ để tránh tình trạng lợi dụng mối quan hệ hay đi cửa sau. Điều này sẽ gây thiệt hại cho công ty sau nay.
3.4.4. Đầu tư cho cơ sở vật chất một cách đồng bộ, hiện đại hóa công nghệ thông tin và phát triển các phần mềm ứng dụng tiên tiến.
Tăng cường đầu tư ở đây không phải là tăng lượng VĐT mà là đầu tư có trọng điểm, có kế hoạch, tránh đầu tư tràn lan. Theo đó, công ty nên tập trung đầu tư vào những thiết bị, những bộ phận thật sự cần thiết, thực hiện tiết kiệm trong đầu tư.
- Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu lựa chọn công nghệ phù hợp với quy mô, trình độ của nhân viên. Nếu đầu tư cho công nghệ quá hiện đại mà không đầu tư cho đội ngũ nhân sự vận hành thì sẽ không phát huy được hiệu quả của công nghệ. Kéo theo sự thất thoát, lãng phí nguồn lực.
- Không ngừng nâng cấp và cải thiện các phần mềm công nghệ của công ty để đảm bảo độ an toàn, bảo mật thông tin cho khách hàng. Hơn nưa, đầu tư chứng khoán đòi hỏi phải theo dõi sự biến động của thị trường một cách thường xuyên và đưa ra các dự báo một cách chính xác. Nếu công nghệ cũ, lạc hậu thì sẽ không thể cập nhật thông tin chính xác được và do đó cung không thể dự báo một cách chính xác. Vì thế, việc nâng cấp công nghệ thường xuyên là thực sự cần thiết.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin và website của công ty. Để khách hàng biết đến tên tuổi của công ty, tham gia sử dụng các sản phẩm dịch vụ một cách linh hoạt.
3.4.5. Phát triển, mở rộng mạng lưới kinh doanh.
Một mạng lưới kinh doanh rộng sẽ góp phần tăng thị phần, từ đó gia tăng lợi nhuận của công ty và cũng tạo ra năng lực cạnh tranh cho công ty. Do đó, mở rộng các mạng lưới kinh doanh là cần thiết. Tuy nhiên không phải phát triển, mở rộng một cách bừa bãi mà phải dựa vào điều kiện thực tế của công ty, cũng như phải nghiên cứu tình hình thị trường trong từng giai đoạn và đặc biệt là phải có chiến lược cụ thể phù hợp với mục tiêu và định hướng dài hạn của công ty. Theo đó cần chú ý một số vấn đề:
- Việc mở thêm các chi nhánh, phòng giao dịch hay đại lý nhận lệnh phải được đầu tư về vật chất tiền bạc và nhân lực tương xứng với mục tiêu mà công ty đặt ra. Các chi nhánh phải liên kết với nhau thành một hệ thống thống nhất, chặt chẽ, bền vững để không bị phá vỡ bởi bất kỳ xung lực nào từ môi trường bên ngoài.
- Việc mở rộng mạng lưới kinh doanh là nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Do đó, trước khi mở thêm một chi nhánh, phòng giao dịch hay đại lý nhận lệnh ở một nơi nào đó thì cần phải tìm hiểu, phân tích toàn diện các yếu tố nội tại của công ty, các yếu tố thuộc về thị trường, khách hàng và các yếu tố khác thuộc môi trường vĩ mô của kinh doanh.
- Phải thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động của các chi nhánh để có sự quản lý và điều chỉnh hệ thống một cách có căn cứ và kịp thời. Tránh để tình trạng một chi nhánh nào đó hoạt động kém hiệu quả gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của công ty, làm giảm năng lực cạnh tranh của công ty.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo cho các chi nhánh mới mở để thu hút được sự chú ý của khách hàng và cũng để nâng cao vị thế của công ty trên thị trường.
3.4.6. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên đối vời bất cứ doanh nghiệp nào trong quá trình kinh doanh. Một doanh nghiệp không thể khai thác hết tiềm năng của mình cũng như không thoả mãn tất được nhu cầu của khách hàng nếu không có được đầy đủ các thông tin chính xác về thị trường.
Thông qua việc nghiên cứu thị trường, TSC sẽ nắm được những thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu hàng hóa và dịch vụ mà công ty đang kính doanh hoặc sẽ kinh doanh để đề ra những phương án chiến lược và biện pháp cụ thể được thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, phân tích so sánh số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó đề ra các biện pháp thích hợp đối với công ty. Để công tác nghiên cứu thị trường đạt hiệu quả cao, TSC nên kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường.
Công ty nên tiến hành nghiên cứu thị trường theo trình tự sau: xác định mục tiêu nghiên cứu thị trường, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu thị trường, xác định và lựa chọn phương pháp nghiên cứu, xây dựng kế hoạch nghiên cứu, thực hiện, điều chỉnh kế hoạch và viết báo cáo.
3.4.7. Xây dựng chiến lược xúc tiến hỗn hợp trong hoạt động Marketing.
Hoạt động xúc tiến hỗn hợp trong marketing là sự kết hợp tổng hợp các hoạt động sau: quảng cáo, khuyến mại, chào hàng hay bán hàng cá nhân và tuyên truyền. Toàn bộ các hoạt động xúc tiến trên phải được phối hợp để đạt tác dụng truyền thông tối đa tới người tiêu dùng. Theo đó, TSC cần:
- Trước hết, cần xác định được đâu là khách hàng mục tiêu: có thể là những khách hàng tiềm năng của sản phẩm của Công ty, những người đang sử dụng sản phẩm dịch vụ của công ty, những người quyết định mua hoặc có ảnh hưởng đến quyết định mua sản phẩm dịch vụ. Khách hàng mục tiêu có ảnh hưởng quan trọng đến các quyết định truyền thống của Công ty như: Nói cái gì? Nói như thế nào? Nói khi nào? Nói ở đâu và Nói với ai?
- thứ hai, quyết định mục tiêu, ngân sách, hình thức, nội dung và phương tiện quảng cáo:
Mục tiêu quảng cáo phải xuất phát từ các mục tiêu trong kinh doanh của Công ty và các mục tiêu marketing. Ví dụ: mục tiêu doanh số, lợi nhuận, thị phần, các mục tiêu này nâng cao uy tín của Công ty, của sản phẩm
Ngân sách quảng cáo: phải dựa vào mục tiêu, khả năng của công ty và mức chi của các công ty cạnh tranh cùng cỡ trên thị trường.
Về hình thức phải sinh động, lôi cuốn người xem nhưng vẫn đảm bảo rõ ràng. Nội dung thì phải đáng tin cậy và tạo nên sự tin tưởng hoàn toàn nơi khách hàng. Còn phương tiện quảng cáo thì tùy theo khách hàng và loại sản phẩm kinh doanh của công ty mà có thể chọn phương tiện quảng cáo cho phù hợp như: báo, đài, Tivi, phim ảnh quảng cáo, Quảng cáo bằng thư gửi qua bưu điện, quảng cáo bằng Pano, áp phich vv...
- thứ ba, tổ chức thực hiện các chương trình khuyến mại nhằm kích thích thị trường đáp ứng nhanh và mạnh hơn đối với sản phẩm và dịch vụ của Công ty. Chẳng hạn: tặng quà hay giảm giá sản phẩm dịch vụ
- thứ tư, thực hiện công tác tuyên truyền hay chính là PR: đôi khi có tác dụng mạnh, đạt hiệu quả cao nhất lại tón kém ít hơn quảng cáo. Để tuyên truyền cho Công ty có thể mời các nhà chính trị lỗi lạc, các nhà nghệ thuật nổi tiếng đến thăm Công ty mình. Cũng có thể tổ chức những bữa tiệc lớn, mời phóng viên báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình và các quan chức đến dự nhân ngành thành lập Công ty, ngày đón nhận huân chương lao động v.v hoặc tham gia các chương trình tài trợ cho các phong trào văn nghệ, thể thao, cấp học bổng cho sinh viên các trường Đại học, xây nhà tình nghĩa, nhận nuôi dưỡng các bà mẹ anh hùng suốt đời.v..v.
3.4. Một số đề xuất kiến nghị.
3.4.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể, song thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang trong quá trình hình thành và phát triển, nhiều yếu tố mới được phát sinh. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật chứng khoán là cần thiết và xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, trong thời gian qua, quá trình thực hiện Luật đã gặp phải một số vướng mắc do quy định chưa đầy đủ và phù hợp. Do đó, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo hiệu lực của công tác quản lý và đảm bảo thị trường hoạt động một cách có tổ chức, an toàn, hiệu quả. Đồng thời, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Thứ hai, sau khi Việt Nam ra nhập WTO, nhiều vấn đề phấp lý nảy sinh cần phải điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu hội nhập nhưng vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân tham gia thị trường.
Xuất phát từ một số lý do nêu trên, việc hoàn thiện các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán là rất cần thiết. Theo đó, việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nên chú ý một số nội dung như:
Một là, mở rộng phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng. Bổ sung hoạt động phát hành chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng; việc chào bán và niêm yết chứng khoán của các pháp nhân nước ngoài trên TTCK Việt Nam; việc chào bán các chứng khoán phái sinh và thị trường giao dịch cho các loại chứng khoán này cùng các sản phẩm quỹ đầu tư mới.
Hai là, thống nhất sử dụng khái niệm “sở giao dịch chứng khoán” đối với TTCK tập trung cho phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện trong việc mở rộng hợp tác quốc tế về TTCK, đồng thời phù hợp với tình hình thực tiễn của thị trường hiện nay, khi trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều đã được chuyển đổi thành mô hình sở giao dịch chứng khoán..
Ba là, bổ sung thêm một số quy định để tạo cơ chế trong quản lý giám sát các công ty đại chúng, đặc biệt trong giám sát việc đảm bảo tư cách của công ty đại chúng, giám sát việc thực hiện và tuân thủ nghĩa vụ công ty đại chúng.
Bốn là, bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thanh toán giao dịch chứng khoán; quy định việc quản lý đăng ký, lưu ký, thực hiện quyền đối với chứng khoán của các doanh nghiệp Việt Nam phát hành và niêm yết tại các thị trường nước ngoài.
Năm là, bổ sung thêm các quy định về tổ chức, hoạt động của các CTCK, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức lưu ký, người hành nghề chứng khoán.
Sáu là, sửa đổi một số quy định về mức xử phạt và các hành vi vi phạm để đảm bảo tính khả thi của pháp luật và phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan về xử lý vi phạm mới được sửa đổi, bổ sung.
3.4.2. Từng bước phát triển các công cụ phái sinh, phát triển thị trường trái phiếu chuyên biệt.
Càng có nhiều loại chứng khoán thì khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư càng dễ dàng, sự lựa chọn không hạn chế nếu công ty, nhà đầu tư nào có đủ khả năng về mặt tài chính.
Như đã nêu ở trên thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh có những đặc tính cực kỳ hấp dẫn. Nhưng thị trường Việt Nam chưa thấy xuất hiện. Để chuẩn bị cho sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh chính phủ cần nghiên cứu, điều chỉnh để thị trường chứng khoán Việt Nam chấp nhận được loại chứng khoán này.
Đồng thời cũng nên tạo ra một thị trường trái phiếu chuyên biệt đảm bảo cho việc đầu tư dễ dàng hơn. Nhà đầu tư cũng như chuyên viên chứng khoán nhìn thấy được sự giao dịch dễ dàng, mở rộng danh mục đầu tư ra các công cụ chứng khoán khác, giảm thiểu rủi ro hệ thống.
Ngoài ra, phải quản lý thị trường OTC để tránh sự hoạt động không kiểm soát như hiện nay gây ra những tác động xấu đến thị trường.
Tóm lại những kiến nghị đưa ra là đều nhằm mục tiêu ổn định thị trường chứng khoán trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn thông qua việc tác động vào nhà đầu tư, vào trực tiếp thị trường, các công ty chứng khoán.
3.4.3. Chính phủ, bộ tài chính không nên can thiệp quá sâu vào thị trường chứng khoán và hoạt động của công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán là các pháp nhân có năng lực tài chính tiến hành kinh doanh một cách độc lập. Họ có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh của họ độc lập. Họ chịu sự điều chỉnh của cơ chế thị trường và quy luật giá trị. Vì thế không cần có sự can thiệp sâu, quá cụ thể vào hoạt động của công ty từ phía chính phủ.
Trong khoảng đầu năm nay chính phủ đã ban hành quy định buộc các công ty chứng khoán hạn chế bán chứng khoán trong danh mục mà họ nắm giữ ra ngoài thị trường, để đảm bảo thị trường không thể giảm sâu hơn nữa. Chính vì thế làm cho rất nhiều công ty cảm thấy bất ổn. Những chính sách can thiệp của chính phủ đang làm thị trường có những diễn biến phức tạp và khó đoán hơn.
Việc có bàn tay can thiệp của nhà nước vào thị trường chỉ làm cho thị trường biến động lớn hơn. Mà việc đưa ra những dự kiến về việc sẽ có biện pháp gì để giải quyết vấn đề hiện nay trong thời gian tới. Nhưng lại không thấy được một hành động cụ thể nào cả chỉ làm cho nhà đầu tư, những công ty chứng khoán mất lòng tin vào nhà nước.
Nhà nước nên hành động chứ không phải là dùng lời nói không, có hành động tích cực mà có hiệu quả thì đó mới là biện pháp hữu hiệu.
3.4.4. Cho phép tiếp tục triển khai cho vay kinh doanh chứng khoán đối với các ngân hàng thương mại.
Mới đây siết chặt chỉ thị 03/2007/CT-NHNN về kiểm soát, quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư và kinh doanh chứng khoán đối với ngân hàng thương mại, làm cho ngân hàng định trệ hoạt động. Nhà đầu tư thiếu tiền để đầu tư. Nó lại tác động gián tiếp đến hoạt động tự doanh thông qua việc thị trường giảm số lượng giao dịch, giá trị giao dịch giảm, chỉ số VN-index giảm.
Chỉ thị này cũng làm cho hoạt động Repo có cơ hội nhưng tác động của nó đối với mảng đầu tư lại lớn hơn nhiều vì thu lợi từ đầu tư nhiều hơn rất nhiều so với việc thu phí từ hoạt động Repo. Tại sao? Có một điều có thể trả lời cho lập luận này đó là do số lượng nhà đầu tư có nhu cầu Repo trên thị trường ít, bị cạnh tranh gay gắt. Kiếm được khách hàng với số lượng lớn là rất khó khăn, trong khi nếu thị trường ổn định thì ngoài khoản thu từ đầu tư còn thêm khoản thu từ hoạt động Repo.
Việc nới nỏng chỉ thị này có tác động ngay trong ngắn hạn nhằm cứu thị trường còn có tác động trong lâu dài.
KẾT LUẬN
Qua ba chương, bài viết đã làm rõ được một số lý luận về năng lực cạnh tranh và hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán, cũng như thực trạng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty.
TSC thực sự đã chứng tỏ được bản lĩnh của mình trên thị trường. Mặc dù thị trường chứng khoán hiện nay có nhiều biến động nhưng công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long vẫn giữ vững được vị thế, thương hiệu của mình. Điều này cho thấy chiến lược đầu tư đúng đắn cũng như năng lực cạnh tranh của công ty.
Qua bài viết này và thời gian thực tập tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long, em đã học hỏi và tích lũy thêm được một số kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng như các hoạt động tại công ty chứng khoán.
Được sự giúp đỡ tận tình của Ths. Phan Thu Hiền và các anh chị làm việc tại công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long, em đã cố gắng hoàn thành bài viết này. Mặc dù vẫn còn vài chỗ thiếu sót nhưng em rất mong nhận được sự ủng hộ của quý thầy cô và các ban.
Em xin chân thành cảm ơn !
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ủy ban chứng khoán Nhà nước, trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán, TS. Đào Lê Minh (2002), giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trường đại học Kinh tế Quốc dân, khoa đầu tư, TS. Phạm Văn Hùng (2008), giáo trình thị trường vốn, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
Học viện tài chính, PGS.TS Nguyễn Thị Mùi (2006), kinh doanh chứng khoán, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Ủy ban chứng khoán Nhà nước, báo cáo tổng kết thị trường chứng khoán Việt Nam 6 tháng đầu năm 2008.
Luật chứng khoán năm 2006
Ban pháp chế - ủy ban chứng khoán nhà nước, “Sửa đổi, bổ sung luật chứng khoán. Những vấn đề đặt ra và thời gian thực hiện”, tạp chí chứng khoán Việt Nam, số 1 + 2, tháng 1 + 2 năm 2009, trang 28 – 30.
Nguyễn Thu Hằng, “thực trạng công ty chứng khoán tại Việt Nam – thực tế hoạt động và những thách thức tiềm ẩn”, tạp chí chứng khoán Việt Nam, số 10, ngày 15/10/2007.
Báo cáo tài chính của công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long.
Website:
www.thanglongsc.com.vn
www.ssc.gov.vn
www.sanotc.com
www.hastc.org.vn
www.thongtindubao.gov.vn
www.vir.com.vn
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2597.doc