Đề tài Đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần trang trí đá Vĩnh Cửu

Vĩnh Cửu tiền thân là một cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng dân dụng nhỏ do ông Nguyễn Vui (nghệ nhân Giang Vỹ) thành lập ngày 12 tháng 10 năm 1986 tại xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Khi mới thành lập, cơ sở chỉ có ba người. Lúc đó, ông Nguyễn Vui vừa là thợ, vừa là người điều hành kinh doanh. Với tầm nhìn chiến lược về nhu cầu của thị trường vật liệu trang trí nội-ngoại thất, sân vườn trong nước và quốc tế, với đôi mắt người nghệ nhân từng trải trong nghề điêu khắc từ thời niên thiếu và sự say mê nghệ thuật bẩm sinh, ông đã sớm khẳng định thế mạnh độc tôn của mình trong nghề điêu khắc, trang trí nội ngoại thất, sân vườn. Năm 1989, Ông dời cơ sở về số 600B, xa lộ Hà Nội, quận Thủ Đức (nay là Quận 2), TP. Hồ Chí Minh. Lúc này nhân sự đã tăng lên 12 người. Năm 1993-1994, ông phát triển Vĩnh Cửu trở thành hệ thống gồm 22 cơ sở sản xuất chiếm tới 70% thị phần vật liệu trang trí nội, ngoại thất, sân vườn trên khắp khu vực miền Nam (Đà Lạt, Vũng Tàu, Cần Thơ, An Giang, Biên Hoà, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh ) với trên 50 cán bộ công nhân viên.

doc77 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần trang trí đá Vĩnh Cửu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần mềm tính toán nguyên vật liệu, phân tích kết cấu sản phẩm nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác thiết kế và chế tạo thử sản phẩm. Bảng 10 : Tổng hợp các phần mềm được đầu tư trong năm 2008 Đơn vị tính: triệu đồng TT Tên phần mềm Đơn vị Số lượng Đơn giá Thành tiền 1 Solid work Bộ 1 24 24 2 P.M.T.T. cân bằng công suất năng lượng Bộ 1 18 18 3 HEC-3 Bộ 1 22 22 4 AutoCad Bộ 1 23 23 5 3Dmaxs Bộ 1 32 32 6 Lemon3 (r) ERP Bộ 1 27 27 7 PM.Tính toán, ptích kinh tế-tài chính D.A.T.Đ Bộ 1 23 23 8 P.M.Tính kết cấu Bộ 1 32 32 9 P.M.Tính ứng suất nhiệt Bộ 1 18 18 Tổng số 219 Nguồn: Tổng hợp kinh phí đầu tư trong giai đoạn 2004-2008 Về công tác quản lí, trong những năm qua, công ty đã liên tục đầu tư mới các phương tiện quản lí. Cùng với việc thường xuyên bảo trì, bảo dưỡng các phương tiện giao thông, các máy móc liên lạc mà công ty quản lí, trong những năm vừa qua, công ty cũng đã trang bị thêm máy móc liên lạc cho các văn phòng đại diện, các chi nhánh của công ty ở các khu vực. Cùng với đợt trang bị máy móc thiết bị thí nghiệm tháng 9 năm 2008, công ty đã trang bị thêm một ôtô 2 cầu trị giá 108,3 triệu đồng, 2 ôtô 4-7 chỗ ngồi trị giá 960 triệu đồng, 1 ôtô tải 5-7 tấn trị giá 450 triệu đồng vận chuyển thành phẩm và trang thiết bị khai thác khoáng sản phục vụ cho hoạt động kinh doanh và sản xuất. 2.2. Trang thiết bị phục vụ công tác khoan khai thác: Về công tác khoan khai thác nguyên liệu, đây là một nghành nghề truyền thống của công ty, đã có từ khi công ty thành lập. Vì vậy, máy móc trang thiết bị cho công tác khảo sát phần lớn là máy móc được sản xuất từ những năm 1980-1985 hiện đã cũ kĩ trở lên lạc hậu so với các loại máy móc khoan khảo sát của các công ty khác trên thị trường trong nước. Các loại máy móc này có năng suất thấp, di chuyển lại khó khăn, rất bất tiện trong việc phục vụ công tác khoan khảo sát tại các công trình nằm trên địa hình đồi núi. Thêm vào đó, các loại máy khoan này lại chưa đồng bộ với nhau, làm giảm năng suất công tác khảo sát, cho kết quả không chính xác, tốn thời gian và công sức của các cán bộ và công nhân viên làm công tác khoan khảo sát của công ty. Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu khoan khảo sát tại những vùng nguyên liệu nằm ở xa, có địa hình không thuận lợi và giảm bớt sức người, tăng năng suất lao động, trong những năm gần đây, công ty đã mạnh dạn đầu tư mua mới một số máy khoan GX kèm theo bơm bùn riêng của Trung Quốc, có các tính năng ưu việt, tốc độ khoan lớn, độ ổn định cao, đáp ứng được công việc tại các địa hình , địa chất phức tạp, khó khăn lại dễ vận hành, giá rẻ phù hợp với việc khai thác nguyên liệu hiện nay. Trong thời gian tới, công ty cũng cố gắng đầu tư thay thế dần các loại máy của thế hệ cũ bằng các loại máy khoan của Trung Quốc hoặc các loại máy khoan hiện đại khác của các nước G7, phấn đấu đến năm 2011 sẽ thay thế hết các máy khoan đời cũ, góp phần nâng cao năng lực sản xuất của công ty. Để phục vụ công tác khảo sát, tháng 3 năm 2008 công ty đã đầu tư mua sắm các thiết bị đo vật lí, đo thuỷ văn, đo GPS máy toàn đạc điện tử và một số máy bộ đàm cầm tay trị giá 221,41 triệu đồng góp phần làm giảm công sức lao động thủ công của cán bộ công nhân viên, tăng độ chính xác, tăng năng suất lao động của công ty. Trong thời gian tơi, để giảm thiểu công sức của cán bộ công nhân viên công ty khi vận hành các loại máy khoan khảo sát và cho số liệu chính xác, công ty cần đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư cho công tác nay, phấn đấu đến năm 2010 sẽ thay thế toàn bộ các máy khoan thế hệ cũ bằng các máy khoan của Trung Quốc, các nước G7... hiện đại và dễ vận hành hơn. 2.3. Đầu tư trang thiết bị phục vụ thí nghiệm: Đối với công tác thí nghiệm, trong nhiều năm qua, Phòng công nghệ chất lượng đã thực hiện nhiều thí nghiệm mẫu đất đá, bê tông và thép phục vụ cho việc sản xuất thử sản phẩm. Trong những năm gần đây, Phòng công nghệ chất lượng đã được trang bị hàng loạt các thiết bị máy móc phục vụ cho công tác thí nghiệm như: Máy kéo, nén áp lực cao, các laọi thiết bị phục vụ công tác đánh giá các chỉ tiêu cơ lí của đất, đá, bê tông, và Asphalt cũng như các nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng loạt. Trong bối cảnh hiện nay, để đảy nhanh tốc độ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, các công trình xây dựng ngày càng được triển khai nhiều và yêu cầu càng cao về thiết kế cũng như kỹ thuật. Do đó, các yêu cầu kỹ thuật của vật liệu xây dựng nói chung và gạch đá trang trí nói riêng có những phương pháp thử nghiệm trước khi sản xuất hàng loạt và trước khi xuất xưởng. Vì vậy, công tác thí nghiệm, thử nghiệm phải cần đến đội ngũ cán bộ có tay nghề phù hợp và một hệ thống các thiết bị thử nghiệm trong lĩnh vực vật liệu xây dựng. 3.3. Đầu tư nâng cao năng lực của cán bộ công nhân viên Tính đến ngày 30/12/2008 tổng số lao động của Công ty Vĩnh Cửu là: 392 người. Là một doanh nghiệp chuyên về sản xuất kinh doanh nguyên vật liệu xây dựng nên cơ cấu lao động của Công ty nghiêng về lao động trực tiếp. Trong đó, đội ngũ công nhân kỹ thuật chiếm số lượng lớn; hơn 70%, tiếp theo là nhân lực có trình độ từ đại học và cao đẳng trở lên chiếm 24%; còn lại là lao động có trình độ trung cấp, tương đương trung cấp, lao động do Công ty tự đào tạo; khoảng 6%. Xác định con người là yếu tố quyết định đến sự phát triển bền vững của Công ty, nên công tác nhân sự luôn được Công ty quan tâm chú trọng, trong đó: chú trọng xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo liên tục cả về chuyên môn, tay nghề và quản lý thông qua đào tạo liên nghề, kỹ năng, đào tạo luân chuyển (cả về chuyên môn và quản lý), ngoại ngữ và đặc biệt là kỹ năng bán hàng cho đội ngũ kinh doanh. Ban lãnh đạo công ty Vĩnh Cửu đã ý thức được rằng con người chính là yếu tố tiên quyết quyết định đến sự tồn tại và phát triển của bất kì một doanh nghiệp nào. Trong thời gian qua và định hướng phát triển trong thời gian tới, công ty đã đề ra các chiến lược đầu tư về con người, coi yếu tố con người là yếu tố chủ đạo trong chiến lược phát triển của mình. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khi trình độ khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì đầu tư nâng cao năng lực trình độ, kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên công ty càng trở thành nhiệm vụ trọng yếu của công ty. Hiện nay, trong thành phần cán bộ công nhân viên của công ty, bên cạnh một số cán bộ đã làm việc lâu năm, có nhiều kinh nghiệm trong công việc, công ty cũng có một số lượng rất lớn các kĩ sư, công nhân có tuổi đời và tuổi nghề còn rất trẻ có tinh thần học hỏi và khả năng thích ứng với công nghệ hiện đại cao. Do đó, bên cạnh việc đào tạo lại, đào tạo mới cán bộ công nhân viên thông qua việc cử đi học tập nâng cao trình độ ở bên ngoài, công ty còn có thể tiến hành đào tạo thông qua hình thức kèm cặp, truyền đạt kinh nghiệm của cán bộ lâu năm cho các cán bộ còn trẻ, góp phần nâng cao trình độ, năng lực của công ty. Hàng năm, công ty luôn dành cho công tác đào tạo một khối lượng kinh phí nhất định nhằm nâng cao năng lực trình độ của cán bộ công nhân viên, đồng thời với việc tiến hành đào tạo tại chỗ thông qua hình thức kèm cặp, chỉ dẫn kinh nghiệm của các cán bộ lâu năm có kinh nghiệm cho cán bộ trẻ thì công ty cũng tiến hành gửi cán bộ, công nhân tham gia các lớp tập huấn trung và ngắn hạn để cán bộ công nhân viên có thể kịp thời tiếp thu công nghệ mới vào sản xuất. Theo thống kê từ năm 2004 đến năm 2008, kinh phí đào tạo của công ty đã đạt 4250,56 triệu đồng, đào tạo cho công ty thêm hàng trăm cán bộ kĩ sư, công nhân kĩ thuật của công ty. Nhìn chung, cùng với sự phát triển nhanh chóng của công ty thì nhu cầu đào tạo cũng tăng liên tục trong các năm vơi tốc độ đồng đều trong khoảng từ 15-20% mỗi năm. Trong những năm tới, nhận thấy sự cần thiết và quan trọng của chất lượng nguồn nhân lực của công ty nên công ty sẽ tiếp tục nâng cao mức kinh phí đào tạo. Tình hình đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực tại công ty trong thời gian thử việc tại công ty là khá lớn, luôn chiếm khoảng 25-26% trong tổng mức đầu tư dành cho đào tạo, so với các loại hình đầu tư khác tại công ty hiện chỉ chiếm từ 10-11% của đào tạo ngắn hạn, 10-14% đào tạo ngoại ngữ,18-19% dành cho đào tạo trung hạn và đào tạo theo hình thức kèm cặp tại chỗ công nhân kĩ thuật chỉ chiếm 9-10%. Đây có lẽ là một sự không hợp lí và còn bất cập trong công tác đào tạo của công ty, bởi vì sau thời gian thử việc, nếu người thử việc không đủ trình độ để đảm nhận công việc mà công ty yêu cầu và bị loại khỏi danh sách tuyển dụng thì sẽ trở thành một lãng phí rất lớn cho công ty. Do vậy, trong thời gian tới, công ty cần điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư giữa các chỉ tiêu cho hợp lí hơn, giảm bớt các khoản chi trong thời gian thử việc đồng thời thời tăng kinh phí khuyến khích việc kèm cặp tại chỗ cho những lao động trẻ của công ty bởi hiện nay lực lượng lao động của công ty chủ yếu là còn rất trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm. Ngoài ra công ty cũng cần chú trọng đến việc đào tạo nâng cao tay nghề trình độ và tiếp thu công nghệ mới vào sản xuất cho cán bộ công nhân viên công ty, nâng cao trình độ và khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác hoạt động trong lĩnh vực tư vấn. 3.4. Đầu tư mở rộng thị trường nâng cao khả năng cạnh tranh Là một doanh nghiệp Nhà nước, trước đây phần lớn các công trình mà công thực hiện là do Nhà nước giao cho không có tính chủ động. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường không còn sự bao cấp của Nhà nước về thị trường, công ty đã tự tìm kiếm cho mình những khách hàng không phải thuộc khối quốc doanh và đã chiếm được lòng tin của các khách hàng. Có được điều đó là do công ty đã không ngừng đầu tư cho việc mở rộng thị trường hoạt động, các khoản chi cho công tác tiếp thị cũng chiếm một tỉ trọng lớn trong kinh phí đầu tư của doanh nghiệp. Hiện nay, để có thể cạnh tranh với các công ty khác cùng hoạt động trong lĩnh vực tư vấn thiết kế, khảo sát thi công... công ty phải không ngừng đầu tư mở rộng thị trường hoạt động của mình, dần nâng cao thị phần trong thị trường trong nước và vươn ra các thị trường các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, công ty cũng không bỏ quên thị trường truyền thống của công ty là các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi, các công trình giao thông công cộng do Nhà nước làm chủ đầu tư. Thông qua các hoạt động tiếp xúc và giới thiệu năng lực của công ty với các cơ quan chức năng để được chỉ định thầu từ khâu lập dự án, khảo sát, thiết kế các công trình dân dụng, công trình giao thông và hạ tầng cơ sở. IV- Đánh giá chung về tình hình đầu tư của công ty Vĩnh Cửu 1. Những thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần phải khắc phục 1.1. Những kết quả đạt được: Qua 20 năm xây dựng và trưởng thành, công ty Vĩnh Cửu đã đạt được những bước phát triển đáng kể, đóng góp một phần không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế. Qua 20 năm, công ty đã ngày càng mở rộng cả về cơ sở vật chất và các nghành nghề sản xuất kinh doanh, trở thành một trong những công ty hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực đá trang trí. Về cơ sở vật chất, ngoài trụ sở chính tại Quận 2, Tp HCM, công ty còn liên tục mở rộng các chi nhánh tại các khu vực khác nhau trong cả nước. Công ty cũng trang bị đầy dủ các trang thiết bị văn phòng phục vụ công tác thiết kế, tư vấn... của công ty cho tất cả các phòng ban, nhà xưởng. Trong thời gian qua, công tác đầu tư cho cơ sở vật chất của công ty có phần thụ động chưa chủ động, công ty đầu tư này chỉ được diễn ra khi công ty tăng khối lượng công việc và mở rộng sản xuất vì vậy, khi khối lượng công việc tăng lên một cách đột xuất thì công tác đầu tư của công ty cho cơ sở vật chất gặp nhiều khó khăn do phải đầu tư một cách thụ động. Vì vậy, trong thời gian tới, công ty cần có những kế hoạch đầu tư cụ thể và nắm sát tình hình phát triển mở rộng sản xuất của mình để nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư. Về trang thiết bị máy móc phục vụ công tác sản xuất kinh doanh trong thời gian qua cũng đã đáp ứng được gần như đầy đủ các yêu cầu của công tác. Công ty đã dần thay thế các máy móc cũ không phù hợp với yêu cầu sản xuất hiện tại bằng các máy móc thế hệ mới phù hợp hơn với hiện tại như dây chuyền sản xuất của Đức... Trong thời gian tới, công ty cố gắng đầu tư thêm một số máy móc tiên tiến hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của của công ty với các đơn vị khác trong ngành khi tham gia đảm nhận các công trình có quy mô lớn Trong 5 năm từ 2004 đến 2008, công ty đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ thiết kế ngày càng lớn mạnh, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm từ việc tham gia thiết kế thi công trang trí các công trình dân dụng, công trình công nghiệp và hạ tầng cơ sở có quy mô từ nhỏ đến lớn với yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật và chất lượng cao trong phạm vi cả nước như: Khách sạn 5 sao Sheraton (Hà Nội), Khách sạn Amara (HCM), Khách sạn Ramada (HCM), Central Plaza (HCM), Norfolk Mansion (HCM), Khách sạn Delta Caravells(HCM), Khách sạn Thúy Vân(Vũng Tàu), Và nhiều Biệt thự ở An Phú. Quận 2 (HCM)... 1.2. Những tồn tại và nguyên nhân: 1.2.1. Nguồn vốn đầu tư: Quá trình sản xuất và kinh doanh của công ty đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn để mở rộng thị trường và bảo vệ thị phần. Trong khi đó mức huy động vốn từ các cổ đông chính còn nhiều hạn chế. Đặc biệt năm 2008 vừa qua, thị trường chứng khóan gặp rất nhiều khó khăn, cổ phiếu liên tục mất giá, thêm vào đó, khủng hỏang tài chính thế giới lan rộng trên phạm vi toàn cầu. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới những quyết định đầu tư của các cổ đông. 1.2.2. Về Đầu tư xây dựng cơ bản: Từ tình hình đầu tư của công ty trong 5 năm qua chúng ta có thể thấy được sự bất thường trong nhịp độ tăng trưởng của giá trị các hoạt động đầu tư ở công ty. Cụ thể năm 2005 giá trị hoạt động đầu tư cơ sở vật chất tăng 25,204% so với năm 2004, nhưng năm 2006 so với năm 2005 chỉ tăng có 9,8946%, đến năm 2007 giá trị hoạt động đầu tư cơ sở vật chất lại tăng một cách nhanh chóng, đạt 1335,6 triệu đồng tăng 44,786% so với năm 2006, đến năm 2008 tình hình đầu tư cho cơ sở vật chất còn tăng lên 2858,77 triệu đồng tăng thêm 114,05% so với năm 2007. Có sự tăng trưởng không ổn định như vậy là do trong những năm vừa qua, khối lượng công việc và các công trình mà công ty đảm nhận đã tăng đột biến vì vậy, để đáp ứng nhu cầu về nhà xưởng và đáp ứng điều kiện làm việc của công nhân viên, công ty đã phải tiến hành đầu tư với một khối lượng tăng nhanh chóng như hiện nay. Để các hoạt động đầu tư cho cơ sở vật chất của công ty có hiệu quả và công ty có điều kiện chủ động trong đầu tư thì trong những năm tới, công ty cần có những định hướng và kế hoạch cụ thể hơn nữa. 1.2.3. Đầu tư nhân lực Tổng hợp tình hình đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực tại công ty Vĩnh Cửu, chúng ta có thể thấy được rằng tỷ trọng đầu tư cho đào tạo trong thời gian thử việc tại công ty là khá lớn, luôn chiếm khoảng 25-26% trong tổng mức đầu tư dành cho đào tạo, so với các loại hình đầu tư khác tại công ty hiện chỉ chiếm từ 10-11% của đào tạo ngắn hạn, 10-14% đào tạo ngoại ngữ,18-19% dành cho đào tạo trung hạn và đào tạo theo hình thức kèm cặp tại chỗ công nhân kĩ thuật chỉ chiếm 9-10%. Đây có lẽ là một sự không hợp lí và còn bất cập trong công tác đào tạo của công ty, bởi vì sau thời gian thử việc, nếu người thử việc không đủ trình độ để đảm nhận công việc mà công ty yêu cầu và bị loại khỏi danh sách tuyển dụng thì sẽ trở thành một lãng phí rất lớn cho công ty. Do vậy, trong thời gian tới, công ty cần điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư giữa các chỉ tiêu cho hợp lí hơn, giảm bớt các khoản chi trong thời gian thử việc đồng thời thời tăng kinh phí khuyến khích việc kèm cặp tại chỗ cho những lao động trẻ của công ty bởi hiện nay lực lượng lao động của công ty chủ yếu là còn rất trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm. Ngoài ra công ty cũng cần chú trọng đến việc đào tạo nâng cao tay nghề trình độ và tiếp thu công nghệ mới vào sản xuất cho cán bộ công nhân viên công ty, nâng cao trình độ và khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. 1.2.4. Đầu tư mở rộng thị trường: * Công tác đầu tư nghiên cứu thị trường: Đầu tư nghiên cứu thị trường hiện tại chưa được sự quan tâm đúng mức của Ban lãnh đạo công ty. Điều này thể hiện ở việc chưa đi sâu nghiên cứu khách hàng một cách có hệ thống mà mới chỉ rải rác thăm dò thông tin khách hàng thông qua các đại lý bán lẻ và các nhà phân phối. Trong khi đó, nhu cầu của khách hàng rất đa dạng mà không phải các thông tin này luôn chính xác. * Công tác phát triển thị trường: Phát triển thị trường được xem là một công tác chính trong cả chuỗi quá trình sản xuất và kinh doanh của công ty. Chính vì vậy, trong chiến lược phát triển của công ty, phát triển thị trường là yếu tố quyết định cho sự hưng thịnh hay suy vong của công ty. Tuy nhiên, công tác phát triển thị trường của Vĩnh Cửu chưa được khai thác một cách triệt để, đặc biẹt là thị trường nội địa chưa được quan tâm đúng mức. 2. Thuận lợi và khó khăn của công ty 2.1 Thuận lợi: Trong tình hình kinh tế xã hội của đất nước ngày càng ổn định và có những bước phát triển nhanh chóng, nhu cầu đầu tư xây dựng cơ bản ngày càng tăng, cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước càng ngày càng thông thoáng, tạo điều kiện rất lớn cho sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Công ty Vĩnh Cửu đã có định hướng và mục tiêu phát triển đến năm 2020 và phê duyệt phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ kế hoạch đến năm 2020 cho các đơn vị thành viên. Đây chính là điều kiện rất tốt cho sự phát triển của Công ty Vĩnh Cửu trong những năm tới, là điều kiện thuận lợi để công ty có thể đầu tư mở rộng và nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu trang trí xây dựng của các công trình hiện đại trong nước và khu vực. Trong điều kiện nền kinh tế ổn định như hiện nay, khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng đang rất lớn, đây chính là thời cơ để công ty có thể tham gia nhận góp vón liên danh hợp tác với các công ty tư vấn nước ngoài, qua đó có thể thu hút vốn để đầu tư trang bị máy móc công nghệ kĩ thuật mới, mở rộng cơ sở vật chất nhà xưởng. Bên cạnh đó, việc liên danh liên kết với các đối tác nước ngoài cũng góp phần làm cho công ty có thể hiện đại hoá dây chuyền công nghệ và tiếp thu những công nghệ mới vào sản xuất. Đồng thời, với việc được tham gia làm việc cùng các chuyên gia có trình độ cao của nước ngoài sẽ nâng cao trình độ, kinh nghiệm của cán bộ, kĩ sư của công ty. Đây chính là một phương thức đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của công ty một cách có lợi nhất. Về đội ngũ cán bộ kĩ sư của công ty, phần lớn là các kĩ sư trẻ mới ra trường, tinh thần cầu tiến, ham học hỏi trong công việc là rất cao, khả năng tiếp thu nhanh chóng dây chuyền công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất. Đây chính là một lợi thế của công ty trong việc nâng cao tính hiện đại và thích ứng với nhu cầu thực tế luôn thay đổi theo sự phát triển nhanh chóng về công nghệ khoa học kĩ thuật của thị trường tư vấn. Qua 20 năm xây dựng và trưởng thành, tập thể cán bộ công nhân viên của công ty luôn giữ vững truyền thống đoàn kết, biết phát huy năng lực sáng tạo của tập thể và cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Phát huy sáng tạo những kinh nghiệm và bài học thực tế công ty đã trải qua khi thực hiện thi công những dự án lớn. Bên cạnh đội ngũ kĩ sư trẻ nhiệt tình với công việc, công ty còn có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lí, cán bộ tư vấn thiết kế tích luỹ được nhiều kinh nghiệm từ những công trình lớn, đây chính là kho kinh nghiệm quý báu để các kĩ sư trẻ của công ty học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao khả năng, trình độ. 2.2 Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi cơ bản kể trên, Công ty Vĩnh Cửu cũng đang đứng trước nhứng khó khăn, thách thức lớn, cản trở sự phát triển của công ty trong thời gian tới. Hiện nay, khó khăn lớn nhất đối với quá trình đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của công ty chính là không tìm được nguồn vốn để tiến hành đầu tư. Hiện nay khi trở thành doanh nghiệp cổ phần, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh công ty đề phải tự hạch toán độc lập. Từ khi trở thành công ty cổ phần và phát hành chứng khóan. Tuy nhiên, thị trường chứng khóan có những dấu hiệu không ổn định và có chiều hướng tụt dốc theo khủng hỏang kinh tế nên công ty có ít khả năng tự chủ trong hoạt động đầu tư đặc biệt là các dự án đầu tư lớn nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, thực trạng chung của nền kinh tế nước ta là sự thiếu vốn một cách trầm trọng, dẫn đến sự chậm trễ trong việc thanh toán, vì vậy, nguồn vốn của các doanh nghiệp thường bị ứ đọng trong các khoản nợ, làm giảm số vòng quay của quá trình sản xuất kinh doanh. Công ty Vĩnh Cửu cũng rơi vào tình trạng tương tụ như vậy nên khả năng thu hồi vốn để đầu tư của công ty cũng rất kém, làm cho quá trình đầu tư của công ty gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân thứ hai làm cho công tác đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của công ty gặp khó khăn là sự thiếu đồng bộ của máy móc thiết bị của công ty. Công ty rất khó khăn trong việc lựa chọn thiết bị nào phù hợp, đồng bộ với các thiết bị sẵn có mà vẫn không làm giảm tính hiện đại của dây chuyền công nghệ sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, công nghệ trên thế giới đang có những bước phát triển mạnh mẽ, góp phần làm giảm bớt công sức lao động thủ công, làm tăng năng suất và tiến độ công việc của cán bộ công nhân viên công ty. Nhưng bên cạnh đó, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn có sự thay đổi để thích ứng nếu không sẽ bị tụt hậu so với các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực, cùng nghành nghề. Đây chính là một thách thức rất lớn đối với Công ty Vĩnh Cửu, vì vậy, trong thời gian qua, và định hướng trong thời gian tới, công ty sẽ tiếp tục đầu tư để dần hiện đại hoá máy móc và công nghệ sản xuất kinh doanh của công ty. Tốc độ phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật cũng tạo ra cho đội ngũ cán bộ kĩ sư của công ty những áp lực rất lớn bởi công tác tư vấn luôn phải đi trước, tiếp thu những công nghệ mới nhất từ bên ngoài, nâng cao trình độ và tính hiện đại trong các sản phẩm của mình. Đặc điểm này đòi hỏi người cán bộ phải có phẩm chất và năng lực công tác tốt, điều này đang là một bài toán khó với công ty khi mà lực lượng kĩ sư, cán bộ của công ty còn thiếu cả về số lượng và chất lượng. Trong 2 năm qua, công ty đã tiến hành tuyển dụng và đào tạo được một lực lượng lớn cán bộ công nhân viên đa số các kĩ sư thiết kế là các kĩ sư trẻ mới ra trường, tuy có khả năng thích ứng với công nghệ mới, ham học hỏi nhưng chưa có đủ kinh nghiệm để có thể đảm nhận các trọng trách lớn như chủ nhiệm thiết kế, còn các kĩ sư làm nhiệm vụ tư vấn giám sát còn rất hạn chế về kinh nghiệm thực tế. Vì vậy, các trọng trách lớn đã trở thành gánh nặng khó khăn đối với một số ít cán bộ kĩ sư thiết kế, tư vấn lâu năm của công ty. CHƯƠNG II MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VĨNH CỬU 2.1. MỤC TIÊU TRONG GIAI ĐOẠN 2010 - 2015 2.1.1. Định hướng phát triển trong giai đoạn 2010-2015 - Xây dựng và phát triển Công ty cổ phần trang trí Vĩnh Cửu trở thành nhà sản xuất vật liệu trang trí xây dựng lớn mạnh và uy tín, có đủ khả năng phục vụ cho tất cả các công trình xây dựng trong nước và xuất khẩu. - Thực hiện đa dạng hoá sản xuất, phát triển các sản phẩm truyền thống có thế mạnh. - Tăng cường liên danh, liên kết với các đơn vị sản xuất vật liệu, thi công xây dựng trong nước nhằm mở rộng triển thị trường. - Phát huy cao độ mọi nguồn lực để nâng cao sức mạnh cạnh tranh, phấn đấu vì sự phát triển bền vững của công ty, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá. 2.1.2. Mục tiêu phát triển Trong giai đoạn tới, khi nền kinh tế đất nước đang có những bước phát triển vượt bậc, cơ hội dành cho sự phát triển của công ty ngày càng to lớn và rõ rệt, tuy nhiên sức ép cạnh tranh cũng ngày càng mạnh. Trên cơ sở những định hướng và tình hình khó khăn và thuận lợi cụ thể của công ty trong thời gian tới, công ty cổ phần trang trí đá Vĩnh Cửu đã đề ra cho mình kế hoạch mục tiêu rõ rệt cho thời gian tới. Để có thể tồn tại và phát triển, toàn bộ cán bộ công nhân viên công ty không ngừng cố gắng hơn nữa, phấn đấu để đưa công ty trở thành một công ty sản xuất vật liệu trang trí xây dựng hàng đầu đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn, cán bộ quản lí, có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ tốt, có thể phát huy và ứng dụng được các công nghệ mới hiện đại, tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm tư vấn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trưòng trong nước và khu vực Đông Nam á. Đầu tư máy móc, trang thiết bị đồng bộ để nâng cao năng lực năng lực thiết kế, sản xuất đáp ứng yêu cầu xây dựng các công trình trong và ngoài nước. Không ngừng duy trì và phát triển hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 trong toàn công ty. 2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY VĨNH CỬU 2.2.1. Giải pháp về nguồn nhân lực cho phân tích tài chính Yếu tố con người là một yếu tố quan trọng trong công tác phân tích tài chính, muốn ứng dụng phân tích tài chính vào doanh nghiệp thì nhân tố con người đóng vai trò quan trọng bởi vì không thể thực hiện phân tích tài chính bởi một nhân viên không có nghệp vụ phân tích tài chính. Chất lượng phân tích tài chính phụ thuộc rất nhiều yếu tố trong đó yếu tố con người có ảnh hưởng rất lớn. Nếu tất cả các yếu tố có tác động đến phân tích tài chính đều thuận lợi nhưng công tác phân tích được giao cho người yếu về chuyên môn nghiệp vụ phân tích, thiếu đầu óc quan sát, thiếu việc đánh giá sự vật trong mối quan hệ tài chính thì chắc chắn kết quả phân tích sẽ không đáng tin cậy, phiến diện và các quyết định đưa ra không sử dụng được, nếu sử dụng sẽ mang lại những thiệt hại cho doanh nghiệp. Thông thường các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, không có công tác phân tích tài chính, hoặc nếu có thì giao cho phòng tài chính kế toán thực hiện mà chuyên môn chính của họ là kế toán chứ không phải tài chính. Công ty may Đức Giang cũng không ngoại lệ. Việc phân tích tài chính của công ty mới chỉ được thực hiện dưới hình thức thuyết minh báo cáo tài chính, chưa tạo đủ cơ sở để đánh giá toàn diện tình hình tài chính của đơn vị; các nhân viên chưa có chuyên môn về phân tích tài chính. Hơn nữa, với những thay đổi của hệ thống kế toán, pháp luật Việt Nam có thể nói là thường xuyên. Vì vậy trong thời gian tới, công ty cần có sự đầu tư thích đáng, có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ kế toán để nâng cao chất lượng kết quả phân tích tài chính. Để phân tích tài chính, người phân tích phải là những cán bộ có chuyên môn, trình độ cao về tài chính, được đào tạo chính quy, am hiểu sâu rộng về đặc điểm kinh doanh của công ty, nắm vững quy chế, chính sách quản lý tài chính, chính sách thuế của nhà nước cũng như tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, những định hướng kinh doanh trong thời gian tới. Do đó, doanh nghiệp nên chú trọng tổ chức đào tạo nhân sự cho công tác phân tích tài chính thông qua việc tổ chức cho nhân viên tham gia học tập tại các trường đại học, hay tổ chức các khoá học ngắn để nâng cao trình độ, công ty nên tổ chức các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ kế toán bằng cách mời các chuyên gia có kinh nghiệm đến dạy hoặc cử nhân viên tham dự các lớp học về kế toán do Bộ tài chính mở. Thêm vào đó, công ty may Đức Giang hoạt động chính trong lĩmh vực kinh doanh xuất nhập khẩu hàng dệt may nên trong xu thế hội nhập hiện nay đội ngũ kế toán của công ty rất cần thiết phải biết các chế độ kế toán quốc tế, vì vậy công ty nên cử nhân viên tham dự các lớp học về kế toán Quốc tế do các tổ chức tài chính Quốc tế mở ở Việt Nam và nếu có điều kiện nên cử nhân viên ra nước ngoài khảo sát thực tế công tác phân tích tài chính. Trong tình hình hiện nay, các doanh nghiệp phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng quản lý. Chính vì vậy, tầm quan trọng của phân tích tài chính ngày càng được khẳng định và đòi hỏi doanh nghiệp phải có một đội ngũ cán bộ phân tích tài chính giỏi về chuyên môn, hiểu biết sâu rộng về đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, về môi trường kinh tế vĩ mô cũng như các chính sách tài chính của Nhà nước, chính sách thuế, những xu thế biến động của nền kinh tế trong và ngoài nước... Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra hiện nay đối với công ty là không có cán bộ chuyên trách về phân tích tài chính, công việc này do các nhân viên phòng tài chính - Kế toán thực hiện. Vì vậy, về lâu dài, công ty bên cạnh việc cử nhân viên đi bồi dưỡng nghiệp vụ hàng năm cũng cần phải tuyển thêm người chuyên trách việc phân tích tài chính của công ty hoặc cắt cử người có năng lực trong số nhân viên của công ty để đào tạo thực hiện công tác phân tích tài chính của công ty. Công ty cũng cần tổ chức hướng dẫn, cập nhật cho các cán bộ quản lý nói chung và cán bộ phân tích nói riêng về việc áp dụng các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực sản xuất kinh doanh của công ty mới được ban hành. Bên cạnh đó, công ty nên tổ chức thi tuyển nhằm chọn ra những cán bộ trẻ có nghiệp vụ về tài chính doanh nghiệp, năng động, sáng tạo, góp phần nâng cao hiệu quả công việc.. 2.2.2. Giải pháp về vốn đầu tư Tích cực tìm thêm các nguồn tài trợ khác cho dự án góp phần làm đa dạng nguồn tài trợ cho dự án... Ngoài việc tìm các nguồn tài trợ vốn cho dự án công ty cũng có thể tự đáp ứng nguồn vốn cho mình bằng cách nâng cao hiệu quả kinh doanh của các lĩnh vực khác của công ty, có thể bổ trợ phần nào cho nguồn vốn của công ty. Tạo lập và duy trì tốt mối quan hệ với các khách hàng để hạn chế thấp nhất các rủi ro không đáng có. Trường hợp huy động vốn cho dự án cần phải vay tiền ngân hàng có thể mang chính dự án đó ra để thế chấp. Nên tập trung vay ở một ngân hàng để tạo ra mối quan hệ lâu dài, tạo ra uy tín với ngân hàng, như thế sẽ dễ dàng hơn cho các dự án về sau. 2.2.3. Giải pháp nhằm nâng cao sản lượng của dự án. Mục đích của việc nâng cao sản lượng của dự án về số lượng và chất lượng chính là doanh thu, tăng lợi nhuận. Như đã phân tích ở trên thì mức sản lượng tăng tỷ lệ thuận với doanh thu do đó khi số lượng sản phẩm tăng lên thì doanh thu sẽ tăng thêm. Vấn đề này phụ thuộc vào: - Trình độ của công nghệ và thiết bị. - Tay nghề của công nhân. Cả hai nhân tố trên đều có ảnh hưởng tỷ lệ thuận tới năng suất lao động do đó tác động tới mức sản lượng, điều này có nghĩa là cần nâng cao tay nghề công nhân như thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức nghề nghiệp cần thiết cho họ, có chế độ lương, thưởng xứng đáng cũng như những chế độ về bảo hiểm y tế... Về việc nâng cao trình độ của thiết bị và công nghệ chính là phải nhận thức được việc đánh giá trong nhập khẩu công nghệ: công nghệ nào là hiện đại, tiên tiến, công nghệ nào là phù hợp về chất lượng và giá cả để giảm thấp nhất chi phí khấu hao vô hình cũng như hao mòn hữu hình của máy móc. Cũng từ đó cho dự án một công suất sản xuất tối đa nhất. Về nâng cao chất lượng sản phẩm cũng là nhằm nâng cao doanh thu và lợi nhuận do khi chất lượng sản phẩm tăng lên dẫn đến doanh thu tăng lên. Muốn chất lượng sản phẩm tăng lên thì ngoài những yếu tố đã kể trên thì phải kể đến yếu tố nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu càng ngày phải được đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Khi đó nâng cao được chất lượng cũng như số lượng của sản phẩm, dự án sẽ thực sự mang lại một hiệu quả kinh tế vững chắc. 2.2.4. Giải pháp về các phương tiện kỹ thuật Đối với một dự án để nâng cao hiệu quả, từ quá trình chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư cho đến vận hành các kết quả đầu tư, phương tiện kỹ thuật luôn là nhân tố quan trọng và đắc lực. Với quá trình chuẩn bị đầu tư như phân tích tài chính dự án, lập dự án..., những thiết bị liên quan là máy vi tính, thiết bị đo đạc... đều cần chính xác. Với quá trình thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư thì có các máy móc hiện đại hơn và phải phù hợp cho yêu cầu của quá trình đó. Và điều đặc biệt chính là khi dùng các phương tiện này một cách hữu ích sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí và tăng hiệu quả về mặt tài chính. 2.2.4.1. Đối với các phương tiện cho quá trình phân tích tài chính Các phương tiện của quá trình này là những phương tiện phục vụ cho cán bộ lập dự án mà chủ yếu là máy vi tính. Hiện nay, ở phòng Tài chínhkế hoạch của Công ty mới chỉ có hai máy, trong khi đây là phòng chịu trách nhiệm chính về việc lập và phân tích tài chính các dự án của Công ty. Do đó việc bổ sung thêm máy móc, cũng như ứng dụng các phần mềm phân tích tài chính là điều hết sức cần thiết. 2.2.4.2. Đối với các phương tiện thiết bị công nghệ cho quá trình vận hành đầu tư: Các máy móc của quá trình vận hành đầu tư đa số được nhập khẩu và đắt tiền vì vậy việc lựa chọn công nghệ thích hợp và thực sự xứng đáng với giá trị của nó vô cùng quan trọng. Điều này có liên quan trực tiếp tới năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và vấn đề khấu hao thiết bị. Nếu nhập khẩu được công nghệ tiên tiến với giá cả phù hợp thì không những chất lượng sản phẩm tăng lên, năng suất lao động tăng mà khấu hao vô hình, hữu hình của máy móc sẽ giảm dẫn đến chi phí sản xuất thực tế của dự án giảm. Trong cơ chế thị trường hiện nay, khả năng cạnh tranh quyết định bởi chất lượng hàng hoá trên một đơn vị chi phí thấp nhất. Những năm qua, do máy móc thiết bị không theo kịp nhu cầu thị trường nên chất lượng sản phẩm của công ty chưa được cao. Vài năm trở lại đây, công ty đã từng bước hiện đại hoá công nghệ sản xuất và đã mang lại những hiệu quả kinh tế nhất định. Tuy nhiên, do số vốn dùng cho đổi mới công nghệ còn hạn hẹp nên công ty tiến hành đổi mới công nghệ từng phần dẫn đến máy móc thiết bị của công ty thiếu đồng bộ, hạn chế hiệu suất tài sản cố định. Cho đến nay, phần giá trị TSCĐ còn lại của công ty chiếm khoảng 1/3 nguyên giá và một số TSCĐ đã khấu hao hết nhưng chưa có điều kiện đổi mới. Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt của công ty là đẩy mạnh đổi mới công nghệ, nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật hiện đại vào sản xuất kinh doanh. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đổi mới công nghệ nhằm góp phần thiết thực vào việc nâng cao kết quả và hiệu quả kinh doanh, công ty cần chú ý đổi mới đồng bộ các yếu tố cấu thành công nghệ: từ máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, năng lượng đến nâng cao trình độ, kỹ năng kỹ xảo của người lao động, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý. Trong thời gian tới, công ty nên thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, cụ thể như: - Công ty cần tính toán để đầu tư vào các bộ phận thiết yếu trước. Từng bước thay thế một cách đồng bộ thiết bị cho phù hợp với nhu cầu thị trường bằng việc đầu tư có hiệu quả vào công nghệ hiện đại hơn. Việc đổi mới công nghệ phải đảm bảo cân đối giữa phần cứng và phần mềm để phát huy hiệu quả của công nghệ mới. Khi mua các thiết bị máy móc cũng như bí quyết công nghệ công ty có thể thương lượng với các đối tác để được thanh toán theo phương thức trả chậm. - Tận dụng trang thiết bị máy móc hiện có trong công ty, ngoài ra phải tiến hành bảo dưỡng máy móc theo định kỳ thay cho việc cứ khi nào phát sinh sự cố thì công ty mới cử cán bộ kỹ thuật đến sửa chữa như hiện nay nhằm đảm bảo các trục trặc được sửa chữa kịp thời giúp cho dây chuyền sản xuất hoạt động liên tục và tiếp kiệm thời gian và công sức cho người trực tiếp lao động sản xuất. - Đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. - Để nâng cao năng lực công nghệ, công ty cần phải xây dựng mối quan hệ với các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng Khoa học kỹ thuật trong và ngoài nước để phát triển công nghệ theo chiều sâu và từng bước hoàn chỉnh công nghệ hiện đại. - Tích cực đào tạo độ ngũ cán bộ Khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý, công nhân lành nghề trên cơ sở đảm bảo bồi dưởng vật chất thoả đáng cho họ. - Nâng cao trình độ quản lý, trong đó chú trọng đến vai trò của quản lý kỹ thuật. - Tiến hành các nghiên cứu, phân tích về thị trường, nhu cầu thị trường, năng lực công nghệ của công ty để lựa chọn máy móc thiết bị công nghệ phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho công ty. Hiệu quả đổi mới công nghệ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và tình hình tài chính của công ty nói riêng rất khó định lượng. Bởi lẽ cơ cấu sản phẩm của công ty đa dạng, giá trị các loại sản phẩm chênh lệch nhau nhiều, hơn nữa một loại thiết bị công nghệ không thể áp dụng cho hầu hết các loại sản phẩm của công ty. Nhưng thực tế đã chứng minh từ khi thực hiện việc nâng cấp đồng bộ hệ thống trang thiết bị phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tính từ năm 2006 đến năm 2008, vốn cố định giảm từ 19.152 xuống còn 17.948 trong khi đó hiệu suất sử dụng tài sản cố định lại tăng từ 5,62 lên 15,96. Đó cũng chính là những con số phản ánh hiệu quả của việc đổi mới công nghệ, trang thiết bị trong công ty. Qua đó ta thấy rõ được hiệu quả của đối mới công nghệ đối với hoạt động của công ty: Quy mô sản xuất tăng lên, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Do đó khả năng hoạt động của công ty cũng được cải thiện, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao hơn nên tiêu thụ tốt hơn vì vậy khả năng sinh lợi của công ty cũng tăng lên. Ngoài ra đổi mới công nghệ còn làm cho cơ cấu vốn của công ty hợp lý hơn, và để thực hiện được tốt hơn nữa giải pháp này, công ty cần: - Tiến hành những nghiên cứu, phân tích đánh giá xem đầu tư vào một thiệt bị công nghệ cụ thể nào đó có khả thi không, có thật sự cần thiết không, có đem lại hiệu quả không. - Đủ khả năng huy động các nguồn vốn trung và dài hạn để tài trợ cho hoạt động đổi mới thiết bị công nghệ của mình. - Thiết lập được mối quan hệ với các công ty tư vấn về công nghệ để lựa chọn được thiết bị hiện đại phù hợp giá cả phải chăng. - Công ty cần tăng cường nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật để có đủ kiến thức điều khiển, làm chủ công nghệ mới. 2.2.5. Giải pháp hoàn thiện việc thu thập thông tin cho quá trình phân tích tài chính. Một trong những thông tin đáng quan tâm với quá trình phân tích tài chính dự án là thu thập thông tin về vốn. Thông tin nói chung đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của con người. Thông tin góp phần vào việc phát triển kinh tế của từng quốc gia, từng vùng. Ngày nay cùng với việc phát triển kinh tế là sự phát triển mạnh mẽ của các mạng lưới thông tin. Thông tin có ở mọi nơi, mọi lúc, mọi chỗ, khi nào con người cần đến nó và có nhu cầu sử dụng nó thì nó sẽ có mặt. Thông tin chỉ là những tín hiệu chuyền tới người sử dụng và không có giá trị đích thực nhưng rất cần thiết cho cuộc sống của con người. Một thông tin sai lệch có thể gây ra nhiều tác hại lớn do đó việc thu thập thông tin chính xác là điều rất quan trọng đối với bất cứ nhà đầu tư nào. Để công tác phân tích tài chình đạt được kết quả chính xác, đánh giá đúng thực trạng bức tranh tài chính của doanh nghiệp, yêu cầu nhà phân tích phải kết hợp đồng bộ nhiều nguồn thông tin. Với nguồn thông tin bên ngoài Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành: Đây là chỉ tiêu tham chiếu quan trọng của Tổng công ty. Nhìn chung, đến nay hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành đã có nhưng chưa đầy đủ và thường không chính xác, cập nhật. Hiện nay, theo quy định của Nhà nước, mỗi năm các doanh nghiệp phải gửi báo cáo tài chính của mình cho cơ quan tài chính, cơ quan thuế, cơ quan thống kê và Bộ kế hoạch và đầu tư nếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, đối với một số doanh nghiệp, theo quy định của Nhà nước phải công khai một số tỷ lệ tài chính. Vì vậy, các cơ quan nói trên hoàn toàn có thể cung cấp các chỉ tiêu trung bình ngành cho công ty khi công ty yêu cầu. Tuy nhiên, một thực trạng hết sức phổ biến ở các doanh nghiệp hiện nay là khâu hạch toán thường làm để đối phó với các cơ quan thuế vụ và cấp trên. Không hiếm trường hợp một doanh nghiệp có ba loại sổ sách hạch toán riêng: một cho mình, một cho cấp trên, một cho cơ quan thuế vụ. Chính vì vậy, các chỉ tiêu trung bình ngành thường sai lệch so với thực tế. Mặt khác, hoạt động phân tích tài chính ở nước ta chưa trở thành việc làm thường xuyên và hệ thống thông tin chưa hoàn hảo nên các chỉ tiêu trung bình ngành dù quan trọng nhưng hiện tại, công ty chỉ nên xem đó là tiêu chuẩn để tham khảo. Do đó, các cán bộ giỏi về chuyên môn, am hiểu thị trường mới là quan trọng. Nguồn thông tin bên ngoài cần bao gồm những thông tin về tình hình kinh tế trong nước và quốc tế có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Để có được nguồn thông tin này các cán bộ phân tích có thể theo dõi trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình..., đặt mua các văn bản pháp luật mới có liên quan đến lĩnh vực hoạt động của Tổng công ty. Trên cơ sở đó, cán bộ phân tích sử dụng những thông tin này để dự đoán nhu cầu tài chính doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho năm tới. Với nguồn thông tin bên trong Tổng công ty cần thu thập tất cả các số liệu kế toán cần thiết để lập đầy đủ các báo cáo tài chính, nguồn thông tin chủ yếu cho phân tích tài chính. Các thông tin này phải được cung cấp một cách kịp thời, cập nhật, đầy đủ để công tác phân tích tài chính đạt hiệu quả. Hiện nay, công ty chưa tiến hành lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ và đây là một thiếu sót của công ty mặc dù vẫn biết rằng báo cáo lưu chuyển tiền tệ tạm thời chưa được quy định là bắt buộc đối với các doanh nghiệp nhưng nó vẫn được khuyến khích lập và sử dụng. Bởi thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ có những thông tin rõ nét về việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ, người sử dụng có thể đánh giá khả năng tạo tiền, sự biến động tài sản thuần của doanh nghiệp, khả năng thanh toán và dự đoán luồng tiền trong kỳ tiếp theo. Mặt khác, báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn cung cấp các thông tin để tạo ra tài sản tương tiền, cung cấp các thông tin về nguồn tiền hình thành từ các lĩnh vực hoạt động kinh doanh, đầu tư tài chính, hoạt động bất thường... để đánh giá ảnh hưởng của các hoạt động đó đối với tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời, công ty cũng chưa lập bảng tài trợ, đây là công cụ hữu hiệu của các nhà quản lý tài chính. Nó cho biết nguồn hình thành các nguồn vốn cung ứng và việc sử dụng các nguồn vốn đó. Đây là nguồn thông tin giúp cho việc thực hiện phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn, để nâng cao chất lượng phân tích tài chính. Vì vậy, việc lập đủ các báo cáo tài chính sẽ tạo ra một ấn tượng tốt về quy củ trong quản lý tài chính của công ty trước các đối tác, tạo nên lợi thế cho công ty trong thời gian tới. 2.3. KIẾN NGHỊ 2.3.1. Đối với cơ quan quản lý: + Ban hành các văn bản Quản lý nhà nước về vật liệu xây dựng nhằm đảm bảo chất lượng, công khai cơ chế, chính sách, khuyến khích phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng và định hướng phát triển phù hợp theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành, vùng, phù hợp quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội + Cần có các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp về lãi suất vốn vay, giảm thuế, hỗ trợ về vốn nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư nâng cao năng lực sản xuât va kinh doanh. 2.3.2. Đối với với công ty: Đặc thù của nghành sản xuất vật liệu trang trí mà công ty tham gia là các sản phẩm có tính sácng tạo, có những công việc mà máy móc không thể thay thế được, do vậy yếu tố con người là rất quan trọng. Do vậy trong thời gian tới, công ty cần phải chú trọng đến công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi đồng thời với việc đào tạo cán bộ quản lí để có thể có được một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và nang lực để phục vụ các công trình xây dựng. Đối với công tác đầu tư nâng cao năng lực, trình độ, kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên công ty cần phải có một kế hoạch, định hướng rõ ràng và cụ thể cho từng giai đoạn phát triển của công ty. Dựa trên các đặc điểm cụ thể của từng thời kì đó, công ty có thể mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngay tại công ty, tại các chi nhánh để tranh thủ được thời gian cho cán bộ công nhân viên vừa đi học vừa tham gia vào các công việc của công ty. Hoặc cũng có thể gửi cán bộ, kĩ sư của công ty tham gia các lớp nâng cao nghiệp vụ do các trung tâm đào tạo tổ chức. Ngoài ra, công tác khảo sát, thí nghiệm, thiết kế chế tác và sản xuất là một công tác đòi hỏi phải có nhiêu kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình sản xuất, vì vậy, công ty có thể tổ chức thêm hình thực kèm cặp, trao đổi kinh nghiệm giữa các thế hệ kĩ sư của công ty, đảm bảo cho sự trưởng thành nhanh chóng của đội ngũ cán bộ kĩ sư trẻ. Trong quá trình làm việc, liên doanh, liên kết của công ty với các đối tác nước ngoài cũng tạo điều kiện cho cán bộ công nhân được cọ sát họ hỏi kinh nghiệm làm việc của các chuyên gia nước ngoài, làm quen với các tiến bộ khoa học kĩ thuật của thế giới. Bên cạnh đó, để khai thác một cách có hiệu quả nguồn lao động của mình, công ty cần phải có các chính sách kiện toàn lại bộ máy tổ chức quản lí và sản xuất, đảm bảo cho việc phân công lao động một cách hợp lí, không gây ra lãng phí nguồn nhân lực, mà vẫn đạt năng suất lao động cao. Đồng thời, khuyến khích người lao động hăng say làm việc thông qua các hoạt động văn hóa, thể thao lành mạnh, đây chính là một trong những hình thức đầu tư nhằm nâng cao năng suất lao động của cán bộ công nhân viên công ty. Để mở rộng quy mô sản xuất công ty cũng cần xây dựng những chính sách thu hút nhân tài từ bên ngoài vào làm việc cho công ty cũng như hợp tác với các chuyên gia giỏi trong nghành. Về đầu tư trang thiết bị máy móc, công ty cững cần xây dựng một chính sách đầu tư hợp lí hơn nữa nhằm đảm bảo sự đồng bộ, phù hợp của các thiết bị mới đầu tư với các thiết bị đang sử dụng của công ty, đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả, và ổn định lâu dài. Khi tiến hành mua sắm, trang bị máy móc, công ty cần tham khảo ý kiến của cán bộ công nhân viên, ý kiến của các chuyên gia trong cùng lĩnh vực và tham khảo giá cả trên thị trường một cách kĩ lưỡng để hoạt động đầu tư được tiến hành một cách có hiệu quả. Đối với các máy móc còn phù hợp với công nghệ hiện tại thì chưa cần thiết phải thay thế, còn các máy móc đã quá cũ, không thể phù hợp với yêu cầu hiện tại thì nên tiến hành thanh lí và đầu tư mua sắm mới lại, đảm bảo cho các máy móc mới thay thế đó có thời gian khấu hao vô hình và hữu hình dài lâu. Công ty cần có kế hoạch sử dụng, điều tiết nguồn lực máy móc và lao động một cách hiệu quả, tiết kiệm. Việc thu hút vốn đầu tư đối với công ty đã trở thành một vấn đề cần phải giải quyết nhanh chóng. Để thu hút thêm nguồn vốn đầu tư, công ty cần tăng cường hợp tác liên danh, liên kết với các đối tác khác trong nghành nhằm tăng cường khả năng huy động vốn, tăng số vốn đầu tư của công ty. Nhanh chóng thu hồi các khoản nợ của các đối tác mà công ty đã hoàn thành bàn giao sản phẩm, khẩn trương đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình mà công ty đang đảm nhận, để tập trung nguồn lực cho các công trình trọng điểm. Ngoài ra, công ty cũng cần nhanh chóng giải trình các kế hoạch đầu tư một cách rõ ràng để có thể nhanh chóng nhận được vốn vay của các ngân hàng, kịp thời tiến hành các hoạt động đầu tư. KẾT LUẬN Trải qua 20 năm xây dựng và trưởng thành, công ty đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào, là một trong những công ty hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng. Trong thời gian qua, công ty đã không ngừng đầu tư trang bị mới các máy móc, công nghệ hiện đại, mở rộng cơ sở vật chất và đào tạo được một đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ và kinh nghiệm cao. Thông qua công tác đầu tư đó, năng lực của công ty ngày càng được nâng cao và củng cố, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của công ty trên thị trường. Hiện nay, công ty đã hoàn thành chỉ tiêu trang bị máy móc và trang thiết bị để phục vụ công tác thiết kế và thử nghiệm. Về công tác thử nghiệm, công ty cũng đã trang bị mới thêm một số thiết bị thí nghiệm mới, hiện đại, tăng khả năng thực hiện các phép thử thí nghiệm khó khi thí nghiệm tính chất vật liệu xây dựng. Về lực lượng cán bộ của công ty, hầu hết các kĩ sư của công ty có tuổi đời còn rất trẻ, vì vậy trong những năm qua, công ty đã có các kế hoạch đầu tư cho đào tạo, nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên công ty thông qua các lớp ngắn hạn, trung hạn do bộ xây dựng tổ chức. Đồng thời, công ty cũng không ngừng nâng cao đời sống của CBCNV công ty, làm cho người lao động thực sự gắn bó với công ty và giảm thiểu những tiêu cực xảy ra do đời sống không được đảm bảo, nâng cao chất lượng chất lượng sản phẩm. Nhìn chung về công tác đầu tư của công ty chúng ta có thể thấy được những hiệu quả to lớn của công tác đầu tư, góp phần lớn trong sự phát triển của công ty và ngày càng có vai trò to lớn trong sự phát triển này. Trong thời gian tới, công ty sẽ phải tiếp tục không ngừng đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, dựa trên những bài học kinh nghiệm và những thành công của quá trình đầu tư trước đây để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác đầu tư. Trong thời gian tới, công ty cần có các kế hoạch đầu tư dài hạn và ngắn hạn cụ thể cho từng thời kì phát triển, chủ động hơn nữa trong việc đầu tư chứ không cần chờ đến khi yêu cầu đòi hỏi mới đầu tư để không bỏ mất cơ hội trong quá trình sản xuất kinh doanh. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đầu tư phát triển và các loại đầu tư khác trong nền kinh tế - PGS. TS. Nguyễn Ngọc Mai - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội Giáo trình kinh tế đầu tư-Bộ môn kinh tế đầu tư- NXB Thống kê Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam đến năm 2010- Nhà xuất bản Thống kê- 2003. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư –Nhà xuất bản Thống kê-Hà Nội. Báo cáo hoạt động đầu tư phát triển công ty Vĩnh Cửu MỤC LỤC DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ Hình 01: Ảnh hưởng của đầu tư đến cung và cầu Hình 02: Sơ đồ tổ chức Hình 03: Biểu đồ tình hình đầu tư cho cơ sở vật chất giai đoạn 2004-2008 DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU Bảng 01: Chỉ tiêu ICOR của các nước: Bảng 02: Cơ cấu tài sản của Công ty Vĩnh Cửu Bảng 03: Tỷ trọng trong đầu tư cơ sở vật chất giai đoạn 2004-2008 Bảng 04: Tổng hợp kinh phí đào tạo giai đoạn 2004 -2008. Bảng 05: Tỷ lệ trăng trưởng kinh phí đào tạo giai đoạn 2004 -2008 Bảng 06: Giá trị đầu tư trong giai đoạn 2004-2008 Bảng 07: Mức độ tăng trưởng Giá trị đầu tư giai đoạn 2004-2008 Bảng 08: Tình hình hoạt động đầu tư cơ sở vật chất giai đoạn 2004-2008 Bảng 09: Tỷ trọng trong đầu tư cơ sở vật chất giai đoạn 2004-2008 Bảng 10: Tổng hợp các phần mềm được đầu tư trong năm 2008

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2104.doc
Tài liệu liên quan