Đề tài Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam

Ngày nay, toàn cầu hóa vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nước ta đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới nên Nhà nước cần có chiến lược kinh tế đối ngoại mở rộng, nhất quán, thực hiện chính sách kinh tế linh hoạt, thích ứng nhanh với sự thay đổi của nền kinh tế thế giới để có thể tận dụng kịp thời các cơ hội. Đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng là một hoạt động kinh tế đối ngoại có vị trí vai trò ngày càng quan trọng trở thành xu thế của thời đại ngày nay. Thực tế, có nhiều công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay một lượng vốn lớn có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài.Đây chính là cơ hội cho nước ta có thể tích lũy được vốn để đáp ứng cho công cuộc phát triển nền kinh tế. Với tư cách thành viên của WTO, Việt Nam cần có những động thái tích cực nhằm tiếp tục cải thiện môi trường, thể chế đầu tư để có thể thu hút và sủ dụng FDI ngày càng hiệu quả, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều đó giúp cho chúng ta thu được hiệu quả cao từ FDI.

doc24 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Đầu tư nước ngoài là phương thức đầu tư quốc tế quan trọng trong tình hình thế giới hiện nay và là xu hướng chung. Ở Việt Nam, bên cạnh nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng. Trong đó, FDI được coi là nguồn vốn thích hợp đối với nước ta. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được coi là khu vực kinh tế quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (năm 1987) đến nay, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế quốc dân, trong đó chủ yếu là FDI. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối năm 2007 đã có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 98 tỷ USD. Cộng đồng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khả năng tích lũy và huy động vốn trong nước còn vô cùng khó khăn, vốn ĐTNN trở nên cực kỳ quan trọng tạo đà tăng tốc kinh tế cho giai đoạn tiếp theo. Bên cạnh những mặt tích cực đó, FDI có thể ảnh hưởng xấu đến cán cân thanh toán của nước ta, tới nguồn tài nguyên, môi trường sinh thái,... thậm chí còn có thể ảnh hưởng đến lợi ích, chủ quyền của quốc gia nếu như không có biện pháp khắc phục và xử lý kịp thời. Hiện nay, số lượng các dự án đầu tư của Việt Nam rất lớn song lại chưa đạt được hiệu quả tốt. Do vậy, nhiều hoạt động nghiên cứu về ĐTNN đã và đang được thực hiện rất đa dạng. Việc nghiên cứu FDI ở VIệt Nam hiện nay là vô cùng cần thiết trong công cuộc xây dựng đất nước, đặc biệt là trong điều kiện nước ta đã gia nhập WTO và là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, khi tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp. Vì vậy việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam” là thực sự cần thiết. Chính vì những lý do trên mà em chọn đề tài này! TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI Phần I: Nhận thức chung về FDI. Quan niệm về FDI. Đặc điểm của FDI ở Việt Nam. Mục đích của FDI. Hình thức FDI. Vai trò của FDI. Phần II: Tình hình FDI ở Việt Nam từ năm 1988 đến nay. Phần III: Đánh giá. Kết quả đạt được. Hạn chế, những vấn đề đang đặt ra. Phần IV: Giải pháp. PHẦN I: NHẬN THỨC CHUNG VỀ FDI. 1. Quan niệm về FDI. Trước hết, theo từ điển tiếng Việt- NXB KHXH-1998: đầu tư là bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế xã hội. FDI (Foreign Direct Investment) được biết đến từ thời kỳ đổi mới đến nay. Nó được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau. Theo quỹ Tiền tệ thế giới IMF thì FDI là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước ngoài vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. FDI “nhằm đạt được quyền lợi lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư”. Theo Báo cáo đầu tư thế giới năm 1999 của Tổ chức UNCTAD-tổ chức thế giới đóng vai trò quan trọng đối với FDI thì “FDI là hoạt động đầu tư bao gồm mối quan hệ dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hoặc công ty mẹ nước ngoài) đối với một doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước ngoài)”. 2. Đặc điểm của FDI ở Việt Nam. - FDI gắn liền với hoạt động của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Hoạt động của họ có địa vị pháp lý riêng theo nguyên tắc quốc tế, theo hoạt động kinh doanh trong điều kiện mới; nó không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn liên quan đến mọi lĩnh vực khác trong đời sống chính trị - xã hội và tác động đến chính sách đối ngoại của Nhà nước ta. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư thuộc sở hữu một phần hoặc toàn bộ của nước ngoài. Hoạt động của doanh nghiệp có vốn FDI phải tuân thủ theo pháp luật Việt Nam, hưởng quyền lợi và phải làm nghĩa vụ như các doanh nghiệp Việt Nam. - Doanh nghiệp FDI có vốn lớn, công nghệ cao, khả năng quản lý nên nó có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích của FDI. - Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu. - Sử dụng kỹ thuật cao, nhân công lành nghề, đầu tư theo chiều sâu để khai thác và tận dụng các khả năng và nâng cao năng suất của các cơ sở kinh tế hiện có. - Sử dụng nhiều lao động, tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam. - Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội. 4. Hình thức FDI. * FDI phân loại theo tính chất dòng vốn: - Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định của công ty. - Vốn tái đầu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm. - Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau. * FDI phân theo bản chất nhà đầu tư: - Đầu tư phương tiện hoạt động. - Mua lại và sáp nhập. * FDI phân theo động cơ của nhà đầu tư: - Vốn tìm kiếm tài nguyên. - Vốn tìm kiếm thị trường. - Vốn tìm kiếm hiệu quả. 5. Vai trò của FDI: FDI đã đóng góp đáng kể vào sự gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. - Bổ sung cho nguồn vốn trong nước: vốn FDI là nguồn vốn quan trọng và là một trong những điều kiện tiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý. - Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu, tạo điều kiện mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu. - Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công: tạo ra đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước ta. - Nguồn thu ngân sách lớn: Đối với nhiều nước đang phát triển và với nhiều địa phương, thuế thu được từ các doanh nghiệp có vốn ĐTNN là nguồn ngân sách quan trọng. Ví dụ ở Hải Dương, riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ôtô Ford đã chiếm 50% số thu nôi địa trên địa bàn toàn tỉnh năm 2006. - Đối với các nước đang phát triển, khi có sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ, làm cho không khí hoạt động của các doanh nghiệp “nóng lên” và buộc họ phải hoàn thiện và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp để tồn tại và phát triển. PHẦN II: TÌNH HÌNH FDI Ở VIỆT NAM TỪ 1988 ĐẾN NAY. Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 20 năm qua, có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực hiện nay, đầu tư nước ngoài (ĐTNN) thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế rất có hiệu quả đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. 1. Sơ lược về quá trình hình thành hệ thống pháp luật về ĐTNN tại Việt Nam. Nhìn lại hơn 20 năm trước, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp; các nước ở Đông Á và Đông Nam Á dang thực hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới. Về trong nước: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, mang nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọn, mức lạm phát lên tới trên 700% vào năm 1986, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Trong hoàn cảnh dó, Đảng ta đã chủ trương mở của nền cửa nền kinh tế, Đảng ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc “đổi mới” toàn diện, trong đó có việc  hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư  năm 1977 thành bộ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. từ khi ban hành năm 1987 đến nay, luật ĐTNN dã được sửa đổi, bổ sung 4 lần với các mức độ khác nhau vào các năm 1990; 1992; 1996; 2000. Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài  tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam. Luật này đã bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Việc ban hành luật này đã mở đầu cho việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ĐTNN, theo phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại; góp phần thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Năm 2005, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Thực tế đã chứng minh việc ban hành Luật Đầu tư đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra những chuyển biến tích cực của tình hình ĐTNN vào Việt Nam kể từ năm 2006 đến nay. Luật Đầu tư đã tạo môi trường pháp lý thông thoáng hơn tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. 2. Tình hình thu hút vốn ĐTNN đăng ký từ 1988-2007: Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. 2.1 Cấp phép đầu tư từ 1988 đến 2007: * Giai đoạn 1999- 1990: Những năm đầu của hoạt động ĐTNN tai Việt Nam. Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. * Giai đoạn 1991-1996: Bước đầu tăng trưởng của FDI trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam (có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm trước. * Giai đoạn 1997-1999: Sự suy giảm của hoạt động FDI ở Việt Nam. Trong 3 năm 1997- 1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước: năm 1998, vốn FDI là 3,897 tỷ USD, chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998; và chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ. Năm Tổng vốn đầu tư (tỷVNĐ) Vốn trong nước (tỷ VNĐ) Đầu tư nước ngoài Số lượng(tỷVNĐ) Tỷ trọng(%) 1991 13471 11545 1926 14,3 1992 24737 19552 5185 21,0 1993 24177 31556 10621 25,2 1994 54296 37796 16500 30,4 1995 68048 46048 2200 32,3 1996 79367 56667 22700 28,6 1997 96870 66570 30300 31,3 1998 97336 73036 24300 25,0 1999 105200 86300 18900 18,0 2000 120600 989200 21800 12,2 Tổng 701502 527270 174232 24,8 Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông). * Số dự án bị giải thể trước thời hạn: Gai đoạn Số dự án bị giải thể trước thời hạn Số vốn đăng ký (triệuUSD) 1988-1990 6 24 1990-1995 236 1.468 1996-2000 400 6.159 2001-6/2003 246 3.718 * Giai đoạn 2000-2005: Những bước phục hồi chậm của FDI ở Việt Nam. Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. * FDI có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996 - năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng. Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. * Tỷ trọng vốn FDI của các châu lục đầu tư vào Việt Nam qua các thời kỳ. 1988 - 1990 1991 - 1995 1996 - 2000 2001 - 2005 Vốn Tỷ trọng Vốn Tỷ trọng Vốn Tỷ trọng Vốn Tỷ trọng Tổng 1.58 100% 16.24 100% 21.64 100% 30.40 100% Châu Á 0.78 49.3% 11.20 69.0% 13.51 62.4% 21.22 69.8% Châu Âu 0.69 43.4% 2.63 16.2% 4.55 21.0% 5.08 16.7% Châu Mỹ 0.11 7.3% 2.31 14.5% 2.68 12.4% 1.83 6.0% Châu Phi 0 0% 0.47 0.3% 0.90 4.2% 1.61 5.3% * Giai đoạn từ 2006 đến nay: Trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt Nam. Năm 2007, vốn FDI đã đạt mức kỷ lục là 20,3 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký, vượt 56% kế hoạch dự kiến. Như vậy, chỉ riêng năm 2007, số vốn thu hút được đã chiếm 25% tổng số vốn trong 20 năm qua. 2.2 Tình hình tăng vốn đầu tư (1988-2007): Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới. Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5 năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%. Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm. Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất 66,8% trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000, đạt 70,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 72,1% và 80%. Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%. Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam. 2.3 Quy mô dự án : Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....). 2.4 Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988 đến 2007: * ĐTNN phân theo ngành nghề: - Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Trong những năm 90 thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án : 1- Sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, 2- Sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), 3- Sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao. Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành. Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện. STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư (USD) Vốn thực hiện (USD) 1 CN dầu khí 38 3.861.511.815 5.148.473.303 2 CN nhẹ 2.542 13.268.720.908 3.639.419.314 3 CN nặng 2.404 23.976.819.332 7.049.365.865 4 CN thực phẩm 310 3.621.835.550 2.058.406.260 5 Xây dựng 451 5.301.060.927 2.146.923.027 Tổng số 5.745 50.029.948.532 20.042.587.769 - ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ: Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%). TT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư (triệu USD) Đầu tư đã thực hiện (triệu USD) 1 Giao thông vận tải-Bưu điện ( bao gồm cả dịch vụ logicstics) 208 4.287 721 2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401 3 Xây dựng văn phòng, căn hộ để bán và cho thuê 153 9.262 1.892 4 Phát triển khu đô thị mới 9 3.477 283 5 Kinh doanh hạ tầng KCN-KCX 28 1.406 576 6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714 7 Văn hoá - y tế – giáo dục 271 1.248 367 8 Dịch vụ khác (giám định, tư vấn, trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị trường...) 954 2.145 445 Tổng cộng 1.912 28.609 7.399 Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v. - ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư : Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư nghiệp đã được chú trọng ngay từ khi có Luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư chưa được như mong muốn. Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD, Cho đến cuối năm 2007, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australia) vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta. Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước. Ngành Số dự án Vốn đăng ký (USD) Vốn thực hiện (USD) Nông-lâm nghiệp 803 4,014,833,499 1,856,710,521 Thủy sản 130 450,187,779 169,822,132 Tổng số 933 4,465,021,278 2,026,532,653 * ĐTNN phân theo vùng, lãnh thổ : Qua 20 năm thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương “trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng phụ cận. - Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước. Trong đó, Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD). - Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn đăng ký 11,6 tỷ USD) chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương (1.570 dự án với tổng vốn đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký của Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu (159 dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm 13,6% vốn đăng ký của vùng; Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% vốn đăng ký của Vùng. Điều này minh chứng cho việc triển khai thực hiện Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ và Chỉ thị 19/2001/CT-TTg ngày 28/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả ĐTNN thời kỳ 2001-2005. Chính vì vậy, ngoài một số địa phương vốn có ưu thế trong thu hút vốn ĐTNN (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Hải Phòng, Quảng Ninh) một số địa phương khác (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Yên, Hà Tây..) do yếu tố tích cực của chính quyền địa phương nên việc thu hút vốn ĐTNN đã chuyển biến mạnh, tác động tới cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Năm 2004, công nghiệp có vốn ĐTNN chiếm 86% giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, 81% của tỉnh Vĩnh Phúc, 70% của tỉnh Đồng Nai, 65% của tỉnh Bình Dương, 46% của Thành phố Hải Phòng, 35% của Thành phố Hà Nội và 27% của thành phố Hồ Chí Minh. Đối với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang chuyển dần sang trở thành trung tâm dịch vụ cao cấp của cả vùng (bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng..) cũng như hướng thu hút vốn ĐTNN vào các ngành công nghệ cao thông qua một số khu công nghệ cao (Quang Trung, Hòa Lạc) - Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng (113 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Quảng Nam (15 dự án với tổng vốn đăng ký 1,1 tỷ USD) đã có nhiều tiến bộ trong thu hút vốn ĐTNN, nhất là đầu tư vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế, bước đầu đã góp phần giảm tình trạng “cháy” buồng, phòng cho khách du lịch, nhưng nhìn chung vẫn còn dưới mức nhu cầu và tiềm năng của vùng. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn ĐTNN còn khiêm tốn như vùng Đông Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy Lâm Đồng (93 dự án với tổng vốn đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh khu vực Tây Nguyên nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn ĐTNN còn thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4% về vốn đăng ký và 3,2% vốn thực hiện của cả nước. Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều kiện địa lý - kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế tại các địa bàn này còn rất thấp. * ĐTNN phân theo hình thức đầu tư: Tính đến hết năm 2007, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2 tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có 221 dự án với tổng vốn đăng ký 4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng vốn đăng ký. Số còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Có thể so sánh tỷ trọng dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngoài tính đến hết năm 2004 là 39,9%, theo hình thức liên doanh là 40,6% và theo hình thức hợp doanh là 19,5% để thấy được hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư lựa chọn hơn. * ĐTNN phân theo đối tác đầu tư: Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác… Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đoàn Intel không đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước châu Úc (New Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký. Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam. Đứng đầu là Hàn Quốc với vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài Loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD. Trong những năm đầu 90 thực hiện Luật Đầu tư, chủ yếu là dự án quy mô nhỏ và từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, như Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan. Cho tới hết năm 2007, vốn ĐTNN vào Việt Nam vẫn từ các nước châu Á mặc dù Đảng và Chính phủ đã có Nghị quyết 09 đã đề ra ba định hướng thu hút ĐTNN. * Tình hình phát triển các KCN, KCX, KCNC, KKT (gọi chung là KCN). Cả nước hiện có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần 33.000 ha, phân bổ trên 55 địa phương, 10 khu kinh tế (KKT) được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ 550.000 ha và 2 KCNC (Hoà Lạc và tp Hồ Chí Minh). Trong hơn 16 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX và hơn 3 năm thành lập KKT cho thấy khu vực này có đóng góp ngày càng quan trọng trong việc thu hút vốn ĐTNN, đến cuối năm 2007 đã thu hút gần 2.700 dự án ĐTNN còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng 31 tỷ USD, chiếm 34% về số dự án và 37% tổng vốn đăng ký của cả nước. Các dự án đầu tư công nghiệp đang có xu hướng tăng nhanh tại các KCN-KCX. Các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trong KCN, KCX đa dạng về hình thức đầu tư. 3. Tình hình FDI mấy tháng đầu năm 2008. Theo Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), hai tháng đầu năm nay đã có thêm 2,65 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tăng 39% so với cùng kỳ năm trước. Trong số này, trên 2,5 tỷ USD là vốn đầu tư của 72 dự án mới, phần còn lại là vốn bổ sung của 17 dự án đang triển khai. Công nghiệp, dịch vụ và nông-ngư nghiệp tiếp tục là những lĩnh vực thu hút nhiều vốn FDI nhất. Vốn đầu tư vào tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu chiếm tới hơn 50% tổng vốn đăng ký, mặc dù chỉ có một dự án đầu tư được cấp phép. Với dự án lên đến trên 1,29 tỷ USD này, Bà Rịa-Vũng Tàu trở thành địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài trong hai tháng đầu năm nay. Hoa Kỳ là quốc gia có lượng vốn đầu tư lớn nhất trong tổng số 82 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với 5 dự án có tổng vốn trên 1,3 tỷ USD, chiếm gần 52% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Theo đánh giá của Cục Đầu tư Nước ngoài, thu hút đầu tư nước ngoài trong hai tháng đầu nay không chỉ tăng mạnh về lượng vốn mà còn có nhiều dự án quy mô lớn. Điển hình như dự án xây dựng tổ hợp khách sạn, khu vui chơi giải trí, có số vốn 1,29 tỷ USD tại Bà Rịa-Vũng Tàu của Tập đoàn Good Choice (Mỹ); dự án xây dựng khu cao ốc, sản xuất phần mềm, đào tạo nhân lực công nghệ thông tin Việt-Nhật có số vốn 610 triệu USD do ba công ty Nhật Bản làm chủ đầu tư. Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam tiếp tục phát triển. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp trong 2 tháng qua đạt 4,9 tỷ USD, tăng hơn 25% so với cùng kỳ năm trước. PHẦN III: ĐÁNH GIÁ. 1. Kết quả đạt được. Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD. Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã mở rộng cơ sở sản xuất kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới. Theo ông Supachai Panichpakdi -Tổng thư ký Diễn đàn UNCTAD, kết quả điều tra cho thấy Việt Nam xếp hạng 6 trong số các nền kinh tế hấp dẫn đầu tư nước ngoài nhất. Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường trọng tâm của châu Á và thu hút lượng đầu tư nước ngoài lớn chỉ đứng sau Trung Quốc. Thực tế cho thấy lĩnh vực ĐTNN ở Việt Nam đang trở nên rất đa dạng, và tập trung vào các ngành công nghệ cao phục vụ xuất khẩu, trong đó có ngành công nghệ thông tin và sản xuất đồ điện tử. Qua 20 năm, ĐTNN đã có những tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế của Việt Nam: - ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam. Nguồn vốn nay đã góp phần tích cực trong việc hình thành, mở rộng và hiện đại hóa các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như: dầu khí, hóa dầu, bưu chính viễn thông, điện tử, ôtô, xe máy, hóa chất, khách sạn du lịch… - Năng lực tăng thêm của những ngành, lĩnh vực do ĐTNN tạo ra đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế, thay thế hàng nhập khẩu, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, tạo ra thế và lực mới cho phát triển kinh tế. Thông qua ĐTNN, nhiều nguồn lực trong nước được khai thác và sử dụng tương đối hiệu quả. - Cũng qua ĐTNN, nhiều công nghệ mới được nhập vào Việt Nam, nhất là trong các lĩnh vực viễn thông, dầu khí,điện tử, tin học, sản xuất ôtô,… Các doanh nghiệp này cũng đã đem lại những mô hình quản lý tiên tiến cùng phương thức kinh doanh hiện đại, điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Hoạt động ĐTNN đã góp phần quan trọng trong sự tăng trưởng của GDP trong thời gian qua. - ĐTNN cũng có tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán thông qua luồng vốn chuyển vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngọai tệ gián tiếp. - Kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh. Hoạt động xuất khẩu của khu vực ĐTNN đã góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế và nâng cao chất lượng của hàng hóa Việt Nam trên thị trường xuất khẩu. - Hoạt động ĐTNN đã dần chuyển sang các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế biến và xây dựng kết cấu hạ tầng. - ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, hình thành và làm tăng đáng kể năng lực của các ngành công nghiệp. Đồng thời, ĐTNN đã góp phần phát triển nguồn nhân lực, nâng cao kỹ năng và trình độ quản lý, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và bí quyết, cải thiện chất lượng đầu tư. 2. Hạn chế, những vấn đề đang đặt ra. 2.1 Nhận thức về mối quan hệ giữa ĐTTTNN và hội nhập kinh tế quốc tế chưa đúng và chưa đầy đủ. Vẫn còn quan điểm cho rằng tăng thu hút ĐTTTNN về mặt số lượng bất kể vào lĩnh vực nào, quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư. Hầu hết các tỉnh, thành phố đều tập trung mọi cố gắng thu hút FDI vào địa bàn của mình, bất kể ngành nào, sản phẩm gì. Vì vậy, FDI quá tập trung vào các ngành chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất tiêu dùng, chưa có sự đầu tư thích đáng vào ngành sản xuất tư liệu sản xuất, chỉ đầu tư lắp ráp cơ khí điện tử. 2.2. Chính sách nội địa hóa chưa thỏa đáng. Điều này làm co sản phẩm của FDI ở Việt Nam đắt hơn ở Thái Lan và các nước khác. 2.3. Việt Nam chưa có chính sách chuyển giao công nghệ. 2.4. Môi trường đầu tư ở Việt Nam còn chưa hấp dẫn. * Môi trường pháp lý: - Hệ thống pháp luật kinh tế ở nước ta vẫn còn không ít những vướng mắc, làm cản trở đầu tư. + Còn thiếu những quy định, hướng dẫn cụ thể và điều kiện đối với các dự án đầu tư có điều kiện. + Còn có sự chồng chéo, không tương thích trong các quy định liên quan đến đầu tư, làm chậm triển khai các dự án đã đăng ký. + Một số quy định của Luật ĐTNN còn chưa phù hợp với các cam kết WTO. + Việc cấp phép hiện nay còn gây lúng túng cho cả doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước. - Thủ tục hành chính còn rườm rà, tiếp nhận hồ sơ, thẩm định cấp phếp còn chậm. - Hệ thống tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh. * Môi trường kinh tế vĩ mô. - Hệ thống thị trường còn yếu kém, không đồng bộ làm cho việc huy động, phân bố, sử dụng các nguồn lực kém hiệu quả. - Hệ thống cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chất lượng cung cấp điện nước ở một số địa phương chưa đảm bảo, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh. - Chi phí vận tải đường bộ, chi phí lưu kho lưu bãi cao. - Chính sách giá chưa hợp lý, chi phí đầu tư vào Việt Nam còn quá cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam, làm nản lòng các nhà đầu tư. - Chi phí cho đất đai ngày càng tăng. 2.5. Đầu tư tại Việt Nam hiện nay vẫn quá dàn trải. Số lượng các dự án đầu tư của Việt Nam hiện nay rất lớn song lại chưa đạt được hiệu quả tốt. 2.6. Tình hình giải ngân còn rất chậm. Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm) từ 82 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có hơn 100 tập đoàn lớn của thế giới. Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. Năm 2007 vốn FDI thu hút đạt mức kỷ lục là 20,3 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký, bao gồm cả cấp mới và tăng vốn, vượt 56% kế hoạch dự kiến; chiếm 25% tổng số vốn trong 20 năm qua. Tuy nhiên, chỉ mới giải ngân được 8 tỷ đô la Mỹ. Vì vậy, giải ngân là vấn đề trong năm nay. 2.7. Công tác quy hoạch còn nhiều yếu kém, nhất là quy hoạch ngành, chưa kịp thời điều chỉnh để thực hiện các cam kết quốc tế. Tình trạng “quy hoạch treo”, “dự án treo” và “đền bù treo” vẫn đang còn tồn tại. 2.8. Môi trường sinh thái bị ô nhiễm. PHẦN IV: GIẢI PHÁP. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta không chỉ đặt mục tiêu thu hút nhiều vốn FDI, mà quan trọng là nguồn vốn này phải phù hợp với khả năng tiếp nhận của nền kinh tế Việt Nam, phù hợp với quy hoạch của cả nước và quy hoạch của từng địa phương, vùng lãnh thổ. Đã đến lúc Việt Nam chuyển sang tăng trưởng dựa trên hiệu quả. Để đạt được điều này, có rất nhiều việc cần làm. * Trong dự thảo chiến lược trình Đại hội IX của Đảng đã nêu: “Cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng sức hấp dẫn với đầu tư trực tiếp nước ngoài; chú trọng các công ty xuyên quốc gia. Giảm mạnh, tiến tới xóa bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nâng cao hiệu lực quản lý và hỗ trợ của Nhà nước đối với các dự án đã cấp phép và triển khai từng bước vững chắc các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài ở nước ta”. 1. Giải quyết một cách cơ bản vấn đề nhận thức về FDI. Khi nhận thức đúng sẽ dẫn đến hành động đúng. FDI là một nguồn cần phát huy, thuận lợi của nó đưa lại rất quan trọng cho sự nghiệp CNH, HĐH. 2. Cải thiện môi trường đàu tư. 1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý về đầu tư. - Tiếp tục hoàn thiện và thực thi tốt Luật đầu tư chung. - Tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ, cải cách hệ thống thuế và hoàn thiện chính sách tín dụng ngân hàng. - Đổi mới công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo hướng đảm bảo tính khách quan, công bằng và khả thi. 1.2. Cải thiện cơ sở hạ tầng. Cần cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng cứng (đường, điện, nước, thông tin,…) cũng như hạ tầng mềm (tài chính, ngân hàng, dịch vụ kỹ thuật, công nghệ,…) để tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Cơ sở hạ tầng bao gồm nhiều ngành, nhưng “giao thông phải được coi là số 1”–như Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã từng khẳng định: Đường bộ, đường sắt, đường sắt cao tốc, đường bộ cao tốc, bến cảng, sân bay hiện đại,… vừa thiếu vừa còn yếu kém. Chừng nào hệ thống huyết mạch quốc gia này chưa được khai thông thì hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế của cả nước cũng chưa phát triển nhanh mạnh như mong muốn, nhất là với mục tiêu đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Vì vậy, cần sử dụng hiệu quả vốn ODA trong lĩnh vực này đặc biệt là phải đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA, vì đây chính là cơ sở quan trọng để thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.3. Hoàn thiện môi trường kinh tế vĩ mô. - Xây dựng đồng bộ hệ thống thị trường. - Huy động mọi nguồn lực để phát triển cơ sở hạ tầng. 1.4. Giải pháp tạo môi trường chính trị - văn hóa xã hội thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị xã hội tạo niềm tin và sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. 3. Xây dựng và nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút vốn FDI. - Chính phủ cần xây dựng quy hoạch tổng thể về thu hút FDI theo ngành và theo vùng kinh tế đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Tránh tình trạng như lâu nay “mạnh ai nấy làm” dẫn đến phá vỡ quy hoạch chung, khiến môi trường đầu tư của Việt Nam kém hấp dẫn. Quy hoạch này phải hướng vào thực hiện mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. - Các bộ, ngành, địa phương tiến hành xây dựng quy hoạch chi tiết cho mình trên cơ sở quy hoạch chung, tổng thể. 4. Cần nâng cao khả năng hấp thụ ĐTNN. Tình trạng giải ngân chậm vốn ĐTNN đang là mặt trái của sự tăng trưởng ĐTNN hiên nay. Năm 1997, vốn ĐTNN được giải ngân đã đạt trên 3,2 tỷ USD, nhưng mãi đến năm 2006 mới vượt ngưỡng 4 năm trước khoảng 100 triệu USD. Nhằm đảm bảo chất lượng thu hút đầu tư, Cục trưởng Phan Hữu Thắng cho rằng cần chú trọng tăng lượng vốn giải ngân. “Nếu giải ngân không tốt sẽ làm cho các nhà đầu tư nản lòng và gây những hoài nghi về môi trường đầu tư của Việt Nam”, ông Thắng chia sẻ, “do đó, chúng ta phải tạo điều kiện tốt nhất bằng những chính sách thích hợp để đồng vốn của các nhà đầu tư được triển khai”. Muốn vậy, cần cải cách thủ tục hành chính trong việc cấp đất, giải phóng mặt bằng, cải cách thủ tục hải quan trong nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng và nguyên vật liệu cho dự án… 5. Phát triển nguồn nhân lực. - Cần nhân lực giỏi để “tiêu hóa” nguồn vốn đầu tư nước ngoài. - Phát triển thị trường lao động trong doanh nghiệp có vốn FDI, gấp rút đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế, trong đó cho FDI đủ về số lượng và chất lượng. 6. Một số giải pháp khác. - Đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng chống tham nhũng, lãng phí xóa bỏ tất cả những thử tục hành chính rườm rà, phức tạp, đặc biệt là những thủ tục đầu tư, đăng ký kinh doanh làm mất thời gian, công sức và làm giảm lòng tin của nhà đầu tư, đồng thời làm tăng chi phí và giảm sức cạnh tranh của môi trường đầu tư trong nước. KẾT LUẬN Ngày nay, toàn cầu hóa vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nước ta đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới nên Nhà nước cần có chiến lược kinh tế đối ngoại mở rộng, nhất quán, thực hiện chính sách kinh tế linh hoạt, thích ứng nhanh với sự thay đổi của nền kinh tế thế giới để có thể tận dụng kịp thời các cơ hội. Đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng là một hoạt động kinh tế đối ngoại có vị trí vai trò ngày càng quan trọng trở thành xu thế của thời đại ngày nay. Thực tế, có nhiều công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay một lượng vốn lớn có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài.Đây chính là cơ hội cho nước ta có thể tích lũy được vốn để đáp ứng cho công cuộc phát triển nền kinh tế. Với tư cách thành viên của WTO, Việt Nam cần có những động thái tích cực nhằm tiếp tục cải thiện môi trường, thể chế đầu tư để có thể thu hút và sủ dụng FDI ngày càng hiệu quả, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều đó giúp cho chúng ta thu được hiệu quả cao từ FDI. Danh mục tài liệu tham khảo. 1. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. - Số 356 tháng 1/ 2008. - Số 268 tháng 9/ 2000. - Số 273 tháng 2/ 2001. - Số 283 tháng 12/ 2001. 2. TC Kinh tế phát triển. - Số 43/ 2001. - Số 71 tháng 5/ 2003. 3. TC Con số sự kiện. Số 1+2 /2001. 4. TC Kinh tế dự báo. Số 3/2001. 5. TC Lý luận chính trị. - Số 4/ 2003; Số 6/ 2003; Số 1/ 2004. 6. TC thông tin tài chính số 1+2 (tháng 1/2008). 7. Giáo trình đầu tư nước ngoài – Vũ Chí Lộc. 8. Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. – NXB Chính trị quốc gia. 9. Những vấn đề kinh tế-xã hội nảy sinh trong ĐTTTNN. Kinh nghiệm của Trung Quốc và thực tiễn ở Việt Nam. – NXB Lý luận chính trị. 10. Mạng: - google.com.vn - na.gov.vn : Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. - mpi.gov.vn : Bộ Kế hoạch và đầu tư. - mofa.gov.vn : Bộ ngoại giao Việt Nam. - mof.gov.vn : Bộ tài chính. - vneconomy. - dantri.com.vn - vietnamnet.vn MỤC LỤC Lời mở đầu. Nội dung. Phần I: Nhận thức chung về FDI. Quan niệm về FDI. Đặc điểm của FDI ở Việt Nam. Mục đích của FDI. Hình thức FDI. Vai trò của FDI. Phần II: Tình hình FDI ở Việt Nam từ năm 1988 đến nay. Phần III: Đánh giá. Kết quả đạt được. Hạn chế, những vấn đề đang đặt ra. Phần IV: Giải pháp. C. Kết luận.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10007.doc
Tài liệu liên quan