Trong bối cảnh tự do hóa ngày càng gia tăng, hiện nay nhu cầu hội nhập và phát triển là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia.
Việt Nam tham gia vào tổ chức WTO là việc lựa chọn con đường phát triển cùng hội nhập sâu rộng với thế giới, chấp nhận nhiều thử thách, rủi ro xong cũng mang lại nhiều cơ hội để phát triển bền vững, bắt kịp với các nền kinh tế trên thế giới. Trong các cơ hội đó thì cơ hội nắm bắt nguồn vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ là điều kiện cần cho kinh tế Việt Nam hiện nay trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có một vai trò hết sức quan trọng, bù đắp nguồn vốn thiếu hụt trong nước. Ba năm gia nhập WTO, chúng ta đã chứng kiến sự gia tăng đột biết không chỉ của nguồn vốn FDI mà còn có cả nguồn vốn ODA, điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đã tin tưởng và đặt kì vọng vào sự phát triển bền vững của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc sử dụng nguồn vốn này vẫn chưa đạt hiệu quả cao, nguyên nhân chủ yếu vẫn xuất phát từ chính những hạn chế của nội tại nền kinh tế và bộ máy hành chính nhà nước.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1958 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sau khi gia nhập WTO: Vấn đề đặt ra và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản phẩm, dịch vụ cùng loại, chiếm lĩnh thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu bền vững ; hoặc bị đào thải khỏi thị trường, mà hậu quả là số lao động thất nghiệp tăng cao, một gánh nặng cho xã hội và chính phủ.
Thách thức lớn thứ hai khi gia nhập WTO là Việt Nam phải thực hiện hàng loạt những cam kết, những thỏa thuận đã ký trong những hiệp định thương mại song phương, đa phương, cũng như quy chế WTO, trong khi đó, hệ thống chính sách kinh tế của Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ.
Ngoài ra, việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi nhà nước cần đẩy nhanh việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có khả năng tiếp thụ những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, những công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quản lý để đáp ứng yêu cầu của bộ máy quản lý đa năng và chuyên nghiệp hóa.
Tác động của WTO đến thu hút vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA
Thứ nhất, gia nhập WTO sẽ thúc đẩy tài trợ ODA, nhất là ODA từ các nhà tài trợ song phương và các tổ chức phi chính phủ. Thông qua các nguyên tắc và định chế của WTO về quan hệ thương mại, mậu dịch, đầu tư... Việt Nam có điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều đối tác quốc tế hơn và ngược lại, nhiều đối tác tìm thấy được lợi ích kinh tế trong quan hệ với Việt Nam.
Khi có nhiều quốc gia quan hệ kinh tế với nước ta và quan hệ kinh tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, số lượng doanh nghiệp có quan hệ kinh tế song phương ngày càng nhiều, quy mô ngày càng lớn sẽ giúp cho các tài trợ ODA cho Việt Nam sẽ tăng lên. Bởi lẽ, ODA có đặc điểm là thông qua tài trợ ODA, nước tài trợ muốn gia tăng ảnh hưởng của mình đến nước nhận tài trợ, qua đó để nhận được các lợi ích về kinh tế, chính trị. Mặt khác, vì lợi ích kinh tế, trong một bối cảnh nhất định các doanh nghiệp có lợi ích kinh tế tại Việt Nam có thể thông qua đại diện của họ trong chính quyền nước mình thúc đẩy tài trợ cho Việt Nam. Ngày nay các doanh nghiệp thường quan tâm đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội tại nơi họ kinh doanh thông qua tài trợ trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức phi chính phủ để thực hiện các dự án tài trợ phát triển, qua đó cũng giúp tăng cường ODA.
Các nước tài trợ ODA thường có chính sách trợ giúp, ưu đãi doanh nghiệp của nước tài trợ thông qua các rằng buộc về cung cấp ODA trong việc thuê tư vấn, chọn nhà thầu... khi có ngày càng nhiều doanh nghiệp của nước tài trợ có quan hệ kinh tế với nước ta thì mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp của các nước tài trợ sẽ cao hơn, qua đó có cơ hội nâng cao hiệu quả sử dụng ODA.
Thứ hai, thực hiện các cam kết gia nhập WTO nhất là các cam kết đa phương sẽ thúc đẩy cải cách hành chính, điều chỉnh hệ thống pháp luật phù hợp với chuẩn mực quốc tế hơn. Điều này góp phần giúp phát triển và hoàn thiện chính sách và thể chế quản lý và sử dụng ODA, nhất là hài hoà hoá quy định và thủ tục quản lý và thực hiện dự án ODA với các nhà tài trợ. Theo hướng này, việc rà soát hệ thống pháp luật để điều chỉnh cho phù hợp với các cam kết quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách hành chính cũng như định hướng hoàn thiện luật pháp phù hợp với thông lệ quốc tế về tính minh bạch, tính đồng bộ, tính công bằng và hợp lý.
Việc hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động quản lý nguồn vốn ODA theo hướng tăng cường phân cấp và hài hoà với các khung quản lý các nguồn vốn công đã được thúc đẩy một bước thông qua việc ban hành Nghị định 131/2006/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn Nghị định này về quản lý và sử dụng vốn ODA thời gian vừa qua là một minh chứng.
Thứ ba, sau khi gia nhập WTO sẽ giúp nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn các mâu thuẫn trong quá trình phát triển, qua đó chính sách sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA sẽ phù hợp và có hiệu quả hơn. Khi gia nhập WTO, tham gia ngày càng chặt chẽ và sâu, rộng vào các chuỗi giá trị toàn cầu sẽ tạo điều kiện khoảng cách giàu - nghèo cũng như các mâu thuẫn phát triển vùng - miền gay gắt hơn, các vấn đề xã hội, môi trường trong quá trình phát triển kinh tế, mâu thuẫn giữa năng lực đội ngũ cán bộ công chức và yêu cầu hội nhập... sẽ ngày càng thể hiện rõ. Các mâu thuẫn trong quá trình phát triển sẽ trở thành các thách thức, các yêu cầu thực tế từ cuộc sống giúp cho nhận thức của bộ máy quản lý nhà nước cũng như cả hệ thống chính trị được thống nhất hơn và yêu cầu phải tập trung nguồn lực để giải quyết. Trên cơ sở đó, việc sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA sẽ được tập trung và có hiệu quả hơn.
Thứ tư, nguy cơ khủng hoảng đến từ những biến động của thị trường hàng hoá, tiền tệ thế giới có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu hút và hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Gia nhập WTO, những biến động trên thị trường hàng hoá, tài chính, tiền tệ quốc tế sẽ tác động mạnh hơn, sâu sắc hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng kinh tế. ảnh hưởng đến các cân đối vĩ mô, môi trường đầu tư và qua đó ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng ODA, đặc biệt là khả năng trả nợ của nước ta.
Điều này thể hiện khá rõ thị trường tài chính, tiền tệ nước ta thời gian qua. Việc nhập siêu, lạm phát cao kỷ lục thời gian gần đây thể hiện rõ những biến động trên thị trường hàng hoá, tiền tệ quốc tế tác động mạnh đến Việt Nam và yếu kém của nền kinh tế nước ta. Từ bất ổn của kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút và hiệu quả sử dụng của các dự án đầu tư, nhất là các dự án FDI và ODA. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải ngân của số lượng vốn cam kết, đăng ký cũng như giảm hiệu quả sử dụng của các nguồn vốn này và lâu dài sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vốn vay của nước ta. Nhất là các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam bắt đầu đến hạn trả vốn gốc và ngày càng tăng trong những năm tiếp theo. Đây sẽ là một thách thức không nhỏ đối với Chính phủ những năm tới.
Gia nhập WTO là một cú hích mạnh cho vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, có ý nghĩa không chỉ ở khía cạnh sẽ đem lại một nguồn vốn bổ sung khổng lồ bên cạnh nguồn vốn đầu tư huy động từ trong nước, mà thậm chí còn quan trọng hơn thế, có tác dụng tích cực đến thúc đẩy cải cách hành chính, điều chỉnh hệ thống pháp luật phù hợp với chuẩn mực quốc tế hơn; cải thiện năng suất và tính cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế nhờ tự do hóa các ngành từ trước đến nay đóng cửa với đầu tư nước ngoài như ngành dịch vụ, đặc biệt những ngành có hàm lượng trí thức cao - tiếp thị, quảng cáo, tư vấn, quản lý, tài chính, bảo hiểm, tin học, thương mại điện tử, cung ứng, phân phối - là cấu thành thiết yếu của một nền kinh tế tri thức mà Việt Nam đang theo đuổi.
Phần II
THỰC TRẠNG VỀ DÒNG VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO
Kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ khi gia nhập WTO
Sau khi gia nhập tổ chức WTO, dưới những tác động tích cực cải thiện thiện chí của các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường và cơ hội đầu tư tại Việt Nam, làn sóng đầu tư vào Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích nổi bật.
FDI và sự gia tăng đột biến sau khi gia nhập WTO
Bảng 1: Tình hình vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn 2007 – 2009
( Đơn vị vốn: tỉ USD)
Năm
2007
2008
2009
Tổng vốn đầu tư
21,36
71,7
21,48
Số dự án mới
1406
1.557
839
VĐT đăng kí
18,73
66,5
16,34
Số dự án tăng vốn
380
397
215
VĐT đăng kí thêm
2,63
5,2
5,14
VĐT thực hiện
8
11,5
10
Tỉ trọng vốn giải ngân
37,45%
16,03%
46,55%
Nếu như năm 2006, vốn FDI đầu tư vào Việt Nam khoảng 12 tỉ USD (tính chung cả vốn thực hiện lẫn vốn đăng ký), thì con số này liên tục tăng nhanh vào các năm sau. Cụ thể, năm 2007 khoảng hơn 21 tỉ USD; năm 2008 khoảng hơn 71 tỉ USD. Và ngay như năm 2009, năm thế giới đang chìm trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, lượng FDI rót vào Việt Nam tuy có giảm sút mạnh nhưng cũng ước đạt hơn 21 tỉ USD. Trong năm 2008, Việt Nam đã thu hút được 1.557 dự án mới với tổng vốn đầu tư đăng ký 66,5 tỷ USD, gấp 3,55 lần mức thu hút 2007. Trong cùng kỳ, 397 lượt dự án đã được điều chỉnh tăng vốn đăng ký với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm 5,2 tỷ USD, gấp 1,98 lần năm 2007. Tính cả cấp mới và tăng thêm, vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam 2008 đạt mức kỷ lục 71,7 tỷ USD, gấp 3,35 lần so với năm 2007. Trong năm 2009, Việt Nam đã thu hút được 839 dự án FDI đăng ký mới với tổng vốn đầu tư đạt 16,345 tỷ USD, bằng 24,6% so với cùng kỳ năm 2008. Cùng trong năm này, đã có 215 lượt dự án tăng vốn với tổng vốn tăng thêm đạt 5,137 tỷ USD, bằng 98,3% so với con số tương ứng của năm ngoái. Năm 2009, lượng vốn FDI giải ngân đạt khoảng 10 tỷ USD, bằng 87% so với cùng kỳ năm ngoái (năm 2008 giải ngân đạt khoảng 11,5 tỷ USD).
Theo báo cáo của Hiệp hội doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tính đến cuối năm 2009, cả nước có 10.854 dự án FDI của 89 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với số vốn đăng ký khoảng 175 tỉ USD.
Đây là những con số khá ấn tượng bởi nó không chỉ góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế của Việt Nam mà còn cho thấy sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có những đối tác lớn như Mỹ và EU, đối với thị trường còn mới mẻ và đầy tiềm năng này.
Cùng với sự gia tăng mạnh mẽ về quy mô vốn đăng ký, cơ cấu FDI theo ngành, lĩnh vực, theo đối tác đầu tư và theo vùng lãnh thổ tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Trong 3 năm 2007-2009, vốn FDI đăng ký tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 56,7%; tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ, chiếm 41,8%; lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu đầu tư, chỉ đạt 1,2% tổng vốn đăng ký.
Bảng 2: Cơ cấu vốn FDI giai đoạn 2007 - 2009
Năm
2007
2008
2009
Tỉ trọng các ngành (% vốn đầu tư)
+ Công nghiệp – xây dựng
+ Dịch vụ - du lịch
+ Nông nghiệp
81%
17,6%
1,4%
55,7%
43,9%
1,4%
22,8%
76%
1,2%
Với bước tạo đà năm 2006, năm 2007 sự đầu tư có bước vượt bậc về số vốn đăng kí cũng như là số dự án được thực hiện. Xu hướng đầu tư tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp – xây dựng chiếm 81%, dịch vụ - du lịch chiếm 17,4%, nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 1,6%, qua đó ta thấy CN-XD được ưu tiên hơn. Năm 2007, có trên 45 nước đầu tư vào Việt Nam. Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ, nhiều nhất là Hàn Quốc 4,46 tỷ USD, quần đảo Virgin ơ Anh 4,3 tỷ USD chiếm 24%, Đài Loan 1,7 tỷ USD chiếm 9,5%, Malayxia 1,09 tỷ USD chiếm 6,1%, Trung Quốc 0,46 tỷ USD chiếm 2,6%, Hoa Kỳ 0,36 tỷ USD chiếm 2,0%, các quốc gia còn lại chiếm 0,28% với số vốn 5,14 tỷ USD.
Năm 2008, vốn đăng ký cấp mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với 537 dự án có tổng vốn đăng ký 32,5 tỉ USD, chiếm 53,7% về số dự án và 55,7% tổng vốn đầu tư đăng ký; lĩnh vực dịch vụ có 480 dự án với tổng vốn đăng ký 26,2 tỉ USD, chiếm 42% về số dự án và 43,9% về vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp. Bên cạnh đó, cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch dần sang lĩnh vực dịch vụ với sự xuất hiện của một số dự án quy mô lớn trong lĩnh vực bất động sản, cảng biển. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng khu vực dịch vụ, bao gồm tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế trong thời gian tới.
Năm đã có 44 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư tại Việt Nam, trong đó có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ có đăng ký mức vốn đầu tư trên 1 tỉ USD. Ma-lai-xi-a đứng đầu với 49 dự án, vốn đăng ký 14,9 tỉ USD, chiếm 4,2% về số dự án và 25,5% về vốn đầu tư đăng ký. Đài Loan đứng thứ 2 với 127 dự án, vốn đầu tư 8,6 tỉ USD, chiếm 12,8% về số dự án và 14,8% về vốn đầu tư đăng ký. Nhật Bản đứng thứ 3 với 95 dự án, vốn đầu tư 7,2 tỉ USD, chiếm 9,4% về số dự án và 12,89% về vốn đầu tư đăng ký. Kết quả trên cho thấy, các nhà đầu tư từ quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu á vẫn chiếm đa số trong tổng vốn FDI đăng ký tại Việt Nam.
Do vậy, để thu hút được nhiều hơn vốn FDI vào Việt Nam từ các nước có tiềm năng kinh tế thuộc châu Âu và châu Mỹ, việc xây dựng và triển khai chiến lược thu hút vốn FDI từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc các châu lục này càng trở nên cấp thiết và phải được phối hợp đồng thời với việc nhanh chóng đưa các bộ phận đại diện cơ quan xúc tiến đầu tư tại các khu vực trọng điểm đi vào hoạt động.
Năm 2009 vừa qua, đã có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Các nhà đầu tư lớn nhất lần lượt là Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký là 9,8 tỷ USD; Cayman Islands đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 2,02 tỷ USD; đứng thứ 3 là Samoa với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD; Hàn Quốc đứng thứ 4 với 1,66 tỷ USD vốn đăng ký... Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương thu hút nhiều vốn FDI lớn nhất trong năm 2009, với 6,73 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Tiếp theo là Quảng Nam, Bình Dương, Đồng Nai và Phú Yên với quy mô vốn đăng ký lần lượt là 4,1 tỷ USD; 2,5 tỷ USD; 2,36 tỷ USD và 1,7 tỷ USD.
Trong ba lĩnh vực dẫn đầu về thu hút vốn FDI, dịch vụ du lịch (khách sạn, nhà hàng) vẫn là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 8,8 tỷ USD vốn cấp mới và tăng thêm. Trong đó, có 32 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư là 4,9 tỷ USD và 8 dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm là 3,8 tỷ USD. Kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Đứng thứ ba là lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo với số vốn đăng ký đạt 2,97 tỷ USD, trong đó có 2,2 tỷ USD đăng ký mới và 749 triệu USD vốn tăng thêm.
FDI đầu tư vào lĩnh vực bất động sản tăng mạnh trong năm 2009 đã góp phần cải thiện hình ảnh hạ tầng ViệtNam. Theo các chuyên gia kinh tế Việt Nam, sự gia tăng vốn FDI vào lĩnh vực bất động sản cũng có nhiều vấn đề đáng bàn vì đây là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro vì hiện tượng giá bất động sản ở Việt Nam giá tăng mạnh nên Việt Nam cần xây dựng một chiến lược và quy hoạch rõ ràng cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực này.
Nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng đột biến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng kí trong thời gian qua
Nguyên nhân chính là do có nhiều tác động từ việc gia nhập WTO. Gia nhập WTO đã có tác động tích cực đến các yếu tố sau:
Thứ nhất, việc gia nhập WTO đã góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao,… Các đối tác kinh tế, thương mại đánh giá Việt Nam như là một đối tác quan trọng và giàu tiềm năng của khu vực Ðông - Nam Á. Vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao. Ðặc biệt, việc trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008 - 2009 đã chứng tỏ uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt Nam.
Thứ hai, việc điều chỉnh thể chế kinh tế, hoàn thiện từng bước khung pháp lý, xóa bỏ các rào cản và nâng cao tính minh bạch trong chính sách kinh tế, thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh đã làm tăng hiệu quả và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững hơn. Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ toàn cầu, nhưng GDP năm 2009 đạt trên 5%, năm 2008 vẫn tăng trưởng ở mức 6,23%, xuất khẩu vẫn bảo đảm nhịp độ tăng trưởng khá: Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48,56 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2006; Năm 2008, dù đa số các thị trường lớn rơi vào suy thoái nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn rất đáng khích lệ, ước tính đạt khoảng 63 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã đa dạng hơn và hàng hóa của Việt Nam đã thâm nhập tốt hơn, đứng vững hơn trong các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU,…
Thứ ba, do việc điều chỉnh chính sách kinh tế theo các cam kết quốc tế, môi trường kinh doanh và đầu tư trở nên thông thoáng và minh bạch hơn, dẫn đến việc gia tăng luồng vốn FDI vào Việt Nam; điều này phản ánh qua sự tăng đột biến của vốn đầu tư 3 năm vừa qua, qua đó cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào tiến trình hội nhập, mở cửa thị trường, cũng như vào triển vọng và tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam, tin tưởng vào sự ổn định chính trị, xã hội và những quyết sách tích cực và hiệu quả của Chính phủ Việt Nam trong việc đối phó với cơn khủng hoảng tài chính hiện nay.
Thứ tư, việc mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết WTO góp phần phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ cho các nhà sản xuất, dẫn tới việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, thông qua việc liên doanh, hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được tăng cường thêm về vốn, trình độ quản lý, nhân sự và phát triển công nghệ.
Thứ năm, ngành công nghiệp Việt Nam đã phát triển theo hướng tích cực, sản xuất công nghiệp đạt năng suất tương đối cao: Năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 574 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với 2006; Năm 2008 ước đạt 650 nghìn tỷ đồng tăng 14,6% so với năm 2007; Các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động như thủy sản, may mặc, giày dép, đồ nội thất, thủ công cũng có tốc độ tăng trưởng cao.
Một số vấn đề làm hạn chế tác động của WTO đến thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và nguyên nhân
Thực tiễn ĐTNN vào Việt Nam trong giai đoạn vừa qua cũng đã bộc lộ một số tồn tại và hạn chế ở cả môi trường đầu tư và tình hình đầu tư. Sự tăng trưởng mạnh mẽ, mang tính đột biến của nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã làm cho những mặt hạn chế vốn có nhưng chưa hoặc chậm được khắc phục của môi trường đầu tư của nước ta ngày càng bộc lộ rõ nét và trở nên gay gắt hơn. Bên cạnh đó, một số vấn đề mới phát sinh cũng đang bắt đầu có những tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư làm hạn chế khả năng thu hút và sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế.
Những hạn chế còn tồn tại
Thứ nhất là chưa cải thiện tình hình giải ngân vốn đầu tư, nếu như trong 5 năm 2001-2005 vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới thì năm 2007 mới giải ngân gần 8 tỉ USD đạt khoảng 37,5%, năm 2008 với lượng vốn đăng kí đạt kỉ lục 71 tỉ USD nhưng giải ngân lại chỉ có 11 tỉ hay 16% và năm 2009 giải ngân 10 tỉ đạt 46%. Con số tỉ trọng tăng lên trong năm 2009 cũng chưa phản ánh được hiệu quả tăng vốn, con số tuyệt đối cho thấy rằng lượng vốn giải ngân chỉ nằm trong một giới hạn nhất định là khoảng 10 tỉ USD. Điều này cho thấy khả năng giải ngân vốn của Việt Nam là còn rất yếu, đầu vào của vốn cao nhưng đầu ra lại không hiệu quả, đây sẽ làm giảm tác động “đầu tư kéo đầu tư” của vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, lĩnh vực đầu tư nước ngoài ngày càng tập trung vào khu vực dịch vụ - du lịch – bất động sản, giảm dần đầu tư vào công nghiệp xây dựng và nhất là chiếm tỉ trọng quá nhỏ vào nông – lâm – ngư nghiệp. Lĩnh vực nông nghiệp chỉ đạt khoảng hơn 1% tổng số vốn đầu tư với số dự án dưới 50 dự án. Lĩnh vực dịch vụ - du lịch – bất động sản có sự tăng trưởng nhảy vọt, năm 2007 là 17 %, năm 2008 là gần 44% và đạt 76 % năm 2009. Điều này cho thấy cơ cấu vốn đầu tư không hợp lí, không phù hợp với một nước đang phát triển cần nhiều tỉ trọng vốn cho ngành công nghiệp, nông nghiệp như nước ta. Vốn tập trung quá nhiều vào lĩnh vực dịch vụ - du lịch, khách sạn, bất động sản đồng nghĩa với việc không đóng góp vào sự gia tăng giá trị sản xuất của nền kinh tế.
Theo số liệu giai đoạn 2005 -2008, FDI vào công nghiệ chế tạo và chế biến giảm liên tục từ năm 2005 đến năm 2008 (70,4% năm 2005 xuống 68,9% năm 2006, 51% năm 2007 và còn 36% năm 2008) và chủ yếu là đầu tư vào công nghiệp lắp ráp nhằm tận dụng lao động rẻ, giá trị gia tăng thấp. Trong khi đó, đầu tư vào khai thác tài nguyên và vào bất động sản (cũng là một dạng khai thác tài nguyên đất đai) tăng lên. Đầu tư vào khai thác mỏ từ 0,8% năm 2005 lên 1,2% năm 2006 và lên tới 18,5% năm 2008, đầu tư vào khách sạn, nhà hàng, khu nghỉ dưỡng từ 0,9% năm 2005 tăng đến 15,1% năm 2008. Đó là chưa kể đến hiệu ứng sân golf làm mất một diện tích không ít đất đai (trong đó có đất nông nghiệp) và có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng trên là do chất lượng nguồn nhân lực thấp và công nghiệp hỗ trợ không phát triển. Cơ cấu đầu tư như vậy không đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ ba đó là vấn đề ưu đãi đầu tư (ƯĐĐT). Hệ thống ưu đãi còn nhiều phức tạp. Có rất nhiều loại ƯĐĐT khác nhau, các ƯĐĐT lại được quy định rải rác trong các luật và các văn bản dưới luật khác nhau. Hơn nữa, sự phức tạp càng được nhân lên do các địa phương tiếp tục đưa ra các ưu đãi riêng của địa phương mình một cách tùy tiện để cạnh tranh thu hút đầu tư. Sự cạnh trạnh này thường dẫn đến tình trạng “đua đến kiệt sức” trong nội bộ một quốc gia . Bên cạnh đó tính hiệu quả của hệ thống ƯĐĐT thấp. Chính sách ƯĐĐT ở Việt Nam dường như chưa hiệu quả trong thu hút và khuyến khích các hoạt động đầu tư. Hiệu quả thấp phần lớn là do tình trạng ưu đãi thuế thừa - có nghĩa là có nhiều nhà đầu tư vẫn thực thi dự án dù không có ưu đãi thuế .
Thứ tư, các nguyên tắc chống phân biệt đối xử và cam kết WTO chưa thống nhất. Hiện tại đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài vẫn được điều chỉnh bởi hai luật riêng. Điều này dẫn đến tình trạng có sự đối xử khác nhau đối với hai khu vực. Ví dụ, tính trung bình, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chịu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) thấp hơn các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong nhiều trường hợp lại phải trả một số chi phí đầu vào với giá cao hơn (như điện, nước). Còn có những thiên vị đối với các doanh nghiệp nhà nước trong cơ hội tiếp cận nguồn vốn của Nhà nước cũng như các dự án lớn. Những bất bình đẳng khác còn tồn tại như ƯĐĐT thiên lệch về các đầu tư mới so với các đầu tư mở rộng; chênh lệch lớn về ƯĐĐT giữa các doanh nghiệp trong và ngoài khu chế xuất v.v. Những ƯĐĐT hiện hành nào không phù hợp với WTO (như những yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa, yêu cầu liên quan đến xuất khẩu) cần phải được thay đổi hoặc bãi bỏ để đáp ứng những đòi hỏi của việc gia nhập tổ chức này.
Nguyên nhân
Về luật pháp, chính sách
Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật các luật chung và luật chuyên ngành. Vì vậy trên thực tế vẫn tạo ra các cách hiểu khác nhau gây rất nhiều khó khăn cho việc xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án.
Về công tác quy hoạch
Công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn yếu và thiếu, đặc biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu tư về các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Nhiều địa phương cấp phép tràn lan, khai tăng vốn đăng ký của dự án để có thành tích, để cạnh tranh nhau, dẫn đến cùng cấp quá nhiều giấy phép cho các dự án có cùng một loại sản phẩm mà không tính đến khả năng thị trường, gây dư thừa, lãnh phí, hiệu quả đầu tư thấp (ví dụ như trường hợp cấp phép các dự án sản xuất thép, dự án sân Golf, dự án cảng biển...).
Về cơ sở hạ tầng
Sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư. Thông thường các nhà đầu tư tính toán, thực hiện tiến độ xây dựng công trình dự án theo tiến độ xây dựng công trình hạ tầng ngoài hàng rào để tránh tình trạng công trình dự án xây dựng xong không đưa vào vận hành được do hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào không đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa.
Về nguồn nhân lực
Tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công nhân kỹ thuật và kỹ sư ngày càng rõ rệt, không chỉ xảy ra ở các khu kinh tế mới hình thành như Chân Mây, Dung Quất, Nhơn Hội... mà còn ở cả những trung tâm công nghiệp như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương... Mặt hạn chế này đã tồn tại từ các giai đoạn trước nhưng trong 3 năm trở lại đây càng trở nên bức xúc hơn trong điều kiện nhiều dự án ĐTNN, đặc biệt là các dự án lớn đi vào triển khai thực hiện.
Về xúc tiến đầu tư
Công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa thực sự hiệu quả, nội dung và hình thức chưa phong phú, còn chồng chéo, mâu thuẫn gây lãng phí nguồn lực. Nguyên nhân là do ta chưa có một chiến lược tổng thể về xúc tiến đầu tư, làm cho công tác xúc tiến đầu tư thiếu một tầm nhìn dài hạn, có tính hệ thống; Trình độ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế, thiếu cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động; Công tác quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự hiệu quả, nhiều nội dung chưa được xác định rõ ràng do còn thiếu một văn bản pháp luật quy định cụ thể về vấn đề này.
Thực trạng thu hút và sử dụng vốn ODA thời kì hậu WTO
Những kết quả đạt được
Năm 1993 được lấy làm mốc kể từ ngày Việt Nam bắt đầu tiếp nhận nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) từ các nhà tài trợ song phương, đa phương cũng như các tổ chức phi an chính phủ. Đa phần vốn vay ODA ưu đãi đều dùng cho công cuộc xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn, giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Hiện nay, ngân hàng thế giới là cơ quan viện trợ đa phương lớn nhất, Nhật Bản là quốc gia viện trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam. Xét về viện trợ không hoàn lại thì Pháp là lớn nhất và Đan Mạch là thứ nhì. Ngoài ra theo số liệu đến năm 2008 , hiện có trên 50 Nhà tài trợ song phương và đa phương đã cung cấp nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước tổng cộng trên 42 tỷ USD.
Các ngành nghề được hưởng ODA nhiều nhất ở VN là các ngành thuộc hạ tầng: Giao thông, đô thị, nước sạch và môi trường; thuộc lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, thuộc lĩnh vực phát triển con người (y tê/ giáo dục), nông nghiệp (thuỷ sản). Vốn ODA đã có những đóng góp quan trọng trong xóa đói giảm nghèo và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn tại Việt Nam. ODA đã đóng góp một phần quan trọng trong tổng đầu tư toàn xã hội, chiếm khoảng 12-13% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong 5 năm 2006-2010. Bên cạnh việc đầu tư cơ sở hạ tầng KT-XH, ODA còn góp phần tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn của khu vực tư nhân, xoá đói giảm nghèo và cải thiện đời sống người dân. . Điển hình như sau tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ mức 58% vào năm 1983 xuống còn 37% năm 1998; 28,9% năm 2002 và ước dưới 10% năm 2004
Kết quả này cho thấy Việt Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) mà nước ta cam kết với thế giới.
Bảng 3: Số liệu về tình hình cam kết ODA và thực hiện ODA của nước ta giai đoạn 2007 – 2010
(đơn vị: tỷ usd)
Năm
2007
2008
2009
2010
Cam kết
4,5
5,426
5,056
8
Thực hiện
2
2,3
3
x
% thực hiện
44,44
40,55
59,33
x
% tăng vốn cam kết
20
20,58
x
x
Năm 2009, Việt Nam được đánh giá là quốc gia đối phó tốt với khủng hoảng kinh tế và đang phục hồi nhanh chóng, sẽ sớm lấy lại đà tăng trưởng và là quốc gia đang phát triển có mức thu nhập GDP bình quân đầu người đạt khoảng 1200 USD. Đây là tiền đề quan trọng để các nhà tài trợ tiếp tục đặt niềm tin vào nền kinh tế và vốn ODA cung cấp cho Việt Nam. Trong tổng số vốn 5,914 tỉ USD mà các nhà tài trợ cam kết tại Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG – 2008), tổng vốn ODA được cam kết đạt 3,85 tỉ USD (đến tháng 10/2009) và ước đạt cả năm đạt 5,056 tỉ USD. Giải ngân năm 2009 đạt 3 tỉ USD cao nhất kể từ khi Việt Nam nhận viện trợ. Nguồn ODA được sử dụng đúng mục đích với những chương trình, dự án tập trung vào lĩnh vực giao thông, cấp thoát nước và phát triển đô thị như khoản vay ODA dành cho dự án đường cao tốc Tp.HCM - Long Thành - Dầu Giây trị giá trên 410 triệu USD; dự án phát triển toàn diện thành phố Thanh Hóa trị giá gần 105 triệu USD; dự án thoát nước thành phố Hà Nội giai đoạn 2 trị giá khoảng 300 triệu USD; dự án cải thiện môi trường nước thành phố Hải Phòng trị giá 218 triệu USD…
Năm 2010, kết thúc hội nghị CG – 2009, các nhà tài trợ quốc tế công bố mức cam kết viện trợ kỉ lục vốn ODA dành cho Việt Nam với hơn 8 tỉ USD. Năm nay, WB trở thành nhà tài trợ lớn nhất với mức 2,498 tỉ USD. Nhật Bản với hơn 1 tỉ USD; ADB dành 1,479 tỉ USD cho Việt Nam. So với mức gần 6 tỉ USD cam kết năm 2006, số vốn cam kết kỉ lục của năm nay cho thấy sự tin tưởng của thế giới đối với đường lối phát triển của Việt Nam
Một số khó khăn, hạn chế trong việc thu hút và sử dụng vốn ODA hiện nay và nguyên nhân của vấn đề
Những khó khăn, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì việc thu hút và sử dụng vốn ODA vẫn còn gặp nhiều hạn chế. Thứ nhất là xu hướng ODA vào Việt Nam trong thời gian tới sẽ chững lại, nhất là khi thu nhập trung bình của người dân Việt Nam tăng lên. Điều này sẽ hạn chế một phần lớn nguồn vốn bổ sung cho Việt Nam, bên cạnh đó là gánh nặng trả nợ, điều này đòi hỏi cần phải sử dụng nguồn vốn ODA một cách hợp lí, hiệu quả và chất lượng nhất.
Xét về cơ cấu vốn ODA ký kết, tỷ trọng nguồn vốn dành cho các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xóa đói giảm nghèo; lĩnh vực giáo dục, y tế, môi trường và khoa học công nghệ đã được cải thiện đáng kể.
Bảng 4: Huy động ODA giai đoạn 2006-2010
Ngành, lĩnh vực
Giá trị ODA theo hiệp định 2001-2005
Dự báo giá trị ODA theo hiệp định 2006-2010
Dự báo giá trị ODA cam kết
Tỉ USD
Tỉ trọng đầu tư
Tỉ USD
Tỉ trọng đầu tư
Tỉ USD
Nông nghiệp, thủy lợi, thủy sản kết hợp với phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo
1,6
14,6%
2,2-2,5
18%
2,9-3,3
Năng lượng và công nghiệp
2,1
18,7%
1,9-2,2
16%
2,6-2,9
Giao thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và đô thị
2,9
26,3%
3,6-4,1
30%
4,8-5,5
Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác
4,5
40,4%
4,3-4,9
36%
5,8-6,6
Tổng
11,1
100%
12-13,6
100%
16-18,2
Chiếm tỷ trọng cao nhất (30,9%) trong thu hút ODA đến thời điểm này là lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ với 1,67 tỷ USD vốn ODA ký kết. Tiếp đến là lĩnh vực nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản kết hợp phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói giảm nghèo với gần 1,37 tỷ USD (chiếm 24,7%).
Ở ba lĩnh vực còn lại, giao thông vận tải với 899 triệu USD, chiếm tỷ trọng 16,7%; năng lượng với 818 triệu USD, chiếm 15,2%; cấp thoát nước và phát triển đô thị với gần 679 triệu USD, chiếm 12,6%.
Tuy khả năng thu hút ODA của chúng ta tăng trưởng ở mức khá nhưng việc thực hiện vốn cam kết hay nói cách khác là tốc độ giải ngân của Việt Nam còn chậm và chưa đạt được hiệu quả cao và đang có xu hướng sút giảm trong thời gian 3 năm trở lại đây. Tốc độ giải ngân chậm gây ra việc lãng phí, thất thoát vốn gây ra gánh nặng nợ không cần thiết cho thế hệ sau và gây ảnh hưởng xấu cho khả năng thu hút các nguồn đầu tư quốc tế khác.
Theo số liệu đến tháng 5/2009, báo cáo của 8 bộ ngành và 48 tỉnh, thành phố, số dự án ODA đạt mức giải ngân khá từ 60% trở lên so với kế hoạch năm, chỉ chiếm có 1/5 tổng số dự án (121/556 dự án). Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, 50% khối lượng giải ngân ODA là từ các dự án điện. Các dự án trong lĩnh vực giao thông, nâng cấp đô thị, giáo dục có mức giải ngân thấp hoặc trung bình. Các dự án công nghệ thông tin có mức giải ngân kém nhất
Nguyên nhân của vấn đề
Những nguyên nhân cơ bản dẫn tới giải ngân chậm ODA là do cơ chế, chính sách trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng còn nhiều bất hợp lý, năng lực của cả cơ quan chủ quản và các nhà thầu còn hạn chế, cơ chế bố trí vốn đối ứng chưa hợp lý.
Theo đánh giá chung nguyên nhân chủ yếu là do còn có vướng mắc trong tổ chức thực hiện, tập trung chủ yếu vào các khâu như: chuẩn bị tài liệu dự án; quy trình và thủ tục thẩm định và phê duyệt chương trình, dự án; lựa chọn nhà thầu, đàm phán và ký kết các hợp đồng xây lắp, mua sắm trang thiết bị và dịch vụ tư vấn; công tác đền bù, di dân và giải phóng mặt bằng; lãnh đạo một số Bộ, cơ quan và địa phương chưa chỉ đạo ráo riết và đôn đốc, kiểm tra sát sao quá trình thực hiện; năng lực cán bộ quản lý ODA ở các cấp nhìn chung còn yếu. Nhìn chung, trách nhiệm chính của tình trạng này thuộc về các cơ quan chủ quản đầu tư và các chủ dự án, cụ thể như: công tác chuẩn bị chương trình, dự án sử dụng vốn còn yếu với chất lượng chưa cao nên khi thực hiện phải điều chỉnh nội dung dự án nhiều lần, phải gia hạn thời gian giải ngân.
Thứ hai, việc thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, dự toán, thiết kế kỹ thuật còn nhiều bất cập, thời gian kéo dài, chất lượng thẩm định chưa cao, nhiều hạng mục được thẩm định đã lạc hậu so với tình hình mới, có nhiều dự án đã được phê duyệt khi thực hiện phải thẩm định lại, nhiều dự án phải điều chỉnh khối lượng phát sinh, sửa đổi trong thiết kế. Vì vậy, kéo theo sự điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư trong các hạng mục dự án, làm ảnh hưởng tới tốc độ giải ngân theo Hiệp định đã ký.
Thứ ba, khâu lựa chọn nhà thầu xây lắp, mua sắm và dịch vụ tư vấn thực hiện chương trình, dự án đầu tư còn bị động, lỏng lẻo tạo nên lãng phí về vốn cũng như làm giảm hiệu quả đầu tư. Việc tổ chức đấu thầu để lựa chọn các nhà thầu phức tạp, kéo dài và chất lượng chưa cao, đặc biệt đối với các hạng xây lắp và mua sắm trang thiết bị thường phải mắt từ 2-3 năm, trên 35% số dự án có thời gian đấu thầu chậm hơn nhiều so với thời gian đã quy định trong báo cáo nghiên cứu khả thi. Ngoài tác động về tài chính, yếu tố ràng buộc về nguồn cung cấp còn có thể gây ra bất lợi về mặt kỹ thuật nếu các hàng hoá mua sắm không đồng bộ và không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật của dự án... vì vậy nhiều trường hợp ta vẫn phải chấp nhận đấu thầu giữa các nhà thầu chất lượng thấp.
Thứ tư, công tác đền bù giải phóng mặt bằng còn nhiều nổi cộm, tạo ra các trở ngại hoặc chậm bàn giao mặt bằng cho xây lắp công trình, gây lãng phí thời gian thực hiện và đưa công trình vào hoạt động. Đây là vấn đề nổi cộm không chỉ đối với các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài và nguồn vốn trong nước, điều này dẫn đến việc chậm bàn giao công trình cho thi công. Ngoài ra, chính sách đền bù giải phóng mặt bằng và tái định cư của Việt Nam chưa phù hợp với các yêu cầu đặt ra của các nhà tài trợ (phạm vi đền bù, giá cả, hỗ trợ tái định cư...).
Bên cạnh đó, tình trạng cơ chế, thủ tục thanh toán, kiểm soát chi chưa linh hoạt, bố trí vốn đối ứng thiếu so với nhu cầu hoặc bố trí không kịp thời; việc kiểm soát chi của hệ thống Kho bạc Nhà nước còn phức tạp (nhất là đối với các trường hợp thanh toán trọn gói, thanh toán cho các hạng mục đột xuất không quy định tại thời điển ký hợp đồng hoặc phê duyệt F/S; trong thực tế thường có sự khiếu nại của nhà thầu về kiểm soát chi của Kho bạc Nhà nước, làm trì trệ quá trình giải ngân); năng lực và trình độ cán bộ quản lý và thực hiện dự án đầu tư còn nhiều hạn chế (nhất là trình độ chuyên môn, kỹ thuật của cán bộ các Ban quản lý dự án trong việc triển khai thực hiện các dự án có trị giá lớn, kỹ thuật phức tạp) đã cùng với tình trạng khủng hoảng tài chính thế giới khiến một số nhà thầu cung cấp thiết bị phá sản, ngân hàng đại diện nhà tài trợ gặp khó khăn... cũng ảnh hưởng nhất định đến quá trình giải ngân nguồn vốn ODA cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Phần III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP WTO
Giải pháp đối với thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
Để tiếp tục thu hút và quản lý nguồn vốn ĐTNN trong thời gian tới, các Bộ, ngành, địa phương cần tổ chức triển khai thực hiện các giải pháp cấp bách sau:
Giải pháp về chính sách thu hút đầu tư
Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu; sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh. Cần xoá bỏ những giấy phép không cần thiết, đẩy mạnh cải cách hành chính, bãi bỏ các thủ tục không cần thiết.
Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực: phát triển đô thị, phát triển hạ tầng kỹ thuật (cấp thoát nước, môi trường đô thị,...), phát triển nhà ở xã hội và nhà ở cho người có thu nhập thấp; xây dựng công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế; các dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Các quy định pháp luật về doanh nghiệp, đầu tư, đất đai, xây dựng, kinh doanh và các văn bản pháp luật chuyên ngành phải được rà soát, thống nhất đồng bộ; hệ thống các quy định về điều kiện đầu tư và kinh doanh chuyên ngành phải được xây dựng đầy đủ và công bố công khai nhằm minh bạch hoá các tiêu chuẩn, điều kiện tiếp cận thị trường, điều kiện tiến hành sản xuất, kinh doanh; cơ chế hậu kiểm, giám sát, quản lý đối với dự án ĐTNN theo Luật Đầu tư 2005 và Nghị định 108/2006/NĐ-CP phải được xây dựng và ban hành để tạo cơ sở cho các cơ quan quản lý nhà nước thực thi chức năng quản lý, kiểm tra, giám sát.
Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu, dự án tác động xấu đến môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất Khu Công nghiệp. Tiến hành rà soát các dự án đã cấp giấy chứng nhận đầu tư trên địa bàn cả nước để có hướng xử lý đối với từng loại dự án.
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục rà soát các dự án ĐTNN đã cấp giấy chứng nhận đầu tư trên phạm vi cả nước, trên cơ sở đó có biện pháp hỗ trợ, tập trung tháo gỡ vướng mắc và tạo điều kiện để dự án sớm triển khai; thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án không có khả năng triển khai thực hiện.
Thành lập các tổ công tác liên ngành với sự tham gia của các Bộ, ngành liên quan để xúc tiến đầu tư và thúc đẩy giải ngân các dự án quy mô lớn: nghiên cứu, đề xuất biện pháp xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai các dự án ĐTNN; đề xuất cơ chế, chính sách đặc thù áp dụng cho các dự án quy mô lớn, có tầm quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của ngành và địa phương trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Giải pháp về quy hoạch
Các yếu tố về điều kiện cơ sở hạ tầng gây cản trở tới hoạt động ĐTNN cần được tập trung giải quyết như: hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào, hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển; sự ổn định về cung cấp năng lượng, công tác giải phóng mặt bằng,...
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phải được quy định và điều chỉnh trong một văn bản quy phạm pháp luật cấp đạo luật, nhằm tránh tình trạng mất cân đối, cấp phép tràn lan, gây dư thừa, lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp trong bối cảnh việc cấp phép và quản lý đầu tư đã được phân cấp về các địa phương.
Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch và quản lý quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch sử dụng đất chi tiết, quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu; rà soát điều chỉnh cho phù hợp và kịp thời đối với các quy hoạch đã lạc hậu; có kế hoạch cụ thể để thực hiện các quy hoạch đã được duyệt.
Công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững.
Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng cần được nâng cấp nhanh chóng, đặc biệt là các cảng biển và nhà máy điện. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải,...); hệ thống cầu và đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam - Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc - Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam - Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thuỷ triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.
Mạnh dạn hơn nữa trong việc cho phép và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển hạ tầng, nhất là những công trình hạ tầng đang xây dựng dở dang và đã kéo dài nên được hoàn thành tránh sự lãngấphí không đáng có. Tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước - Thị Vải, Lạch Huyện,...
Giải pháp về nguồn nhân lực
Tập trung giải quyết các khó khăn về nguồn nhân lực phục vụ cho các dự án ĐTNN có quy mô lớn, đặc biệt là tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo; sự lạc hậu trong chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo, trường nghề; phòng ngừa và giải quyết các tranh chấp lao động nhằm hạn chế các cuộc định công có thể xảy ra.
Hoàn thiện các văn bản pháp lý về hợp tác đầu tư trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút ĐTNN đào tạo lao động ở các trình độ, góp phần thực hiện mục tiêu Chiến lược giáo dục giai đoạn 2001 - 2010 là nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40%.
Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế; nâng cao trình độ lao động, đặc biệt là đối với người nông dân bị thu hồi đất sản xuất để giao cho dự án.
Giải pháp về công tác phối hợp trong quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTNN
Công tác quản lý nhà nước, phối hợp giữa các cơ quan trung ương, giữa trung ương và địa phương cần được tăng cường, gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của từng cơ quan. Xây dựng cơ chế báo cáo để tổng hợp thông tin kịp thời, đánh giá tình hình nhằm đề xuất các giải pháp điều hành của Chính phủ có hiệu quả. Phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài.
Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý ĐTNN; nâng cao năng lực thực thi và hiệu quả quản lý nhà nước về ĐTNN của các cơ quan chức năng và tiến hành tổng kết, đánh giá việc phân cấp trong quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTNN trong thời gian qua, phát hiện những bất cập, kịp thời điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.
Giải pháp về xúc tiến đầu tư
Công tác xúc tiến đầu tư cần được đổi mới, nâng cao chất lượng và cần được điều chỉnh bằng một văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác quản lý nhà nước, cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện hoạt động này. Làm đầu mối quản lý, điều phối hoạt động xúc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước (bao gồm cả các cơ quan đại diện xúc tiến đầu tư tại nước ngoài).
Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản,...; chú trọng và đẩy nhanh tiến độ đàm phán các Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và các đối tác lớn.
Hoàn thành việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án đối với danh mục đầu tư quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 - 2010 để làm cơ sở cho việc kêu gọi các nhà đầu tư; xây dựng danh mục gọi vốn ĐTNN cho giai đoạn 2011 - 2015 và những năm tiếp theo.
Bên cạnh đó, tổ chức khảo sát, nghiên cứu và xây dựng mô hình cơ quan xúc tiến đầu tư ở Trung ương và địa phương; xây dựng văn bản pháp quy về công tác Xúc tiến đầu tư nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất trong công tác quản lý nhà nước, cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư.
Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư. Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn; hợp tác với các cơ quan tổ chức trong và ngoài nước đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư.
Nghiên cứu xu hướng và chiến lược đầu tư của một số đối tác có tiềm năng để có phương án chủ động vận động các nhà ĐTNN, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA
ODA đã thực sự là một nguồn lực quan trọng hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, tăng cường thể chế, phát triển các lĩnh vực xã hội, như y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, phát triển nông thôn, đặc biệt là trong công tác xoá đói giảm nghèo với tỷ lệ đói nghèo giảm từ khoảng 58% năm 1992 xuống khoảng 11% năm 2009.
Cải thiện công tác quản lí
Việt Nam sẽ tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh để thu hút các nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng thị trường trong nước.
Cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tạo một bước tiến mới trong việc cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, kinh doanh, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng.
Đưa ra các chính sách hỗ trợ thích hợp để kích thích phát triển kinh tế trung và dài hạn, tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng hướng mạnh vào nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.
Các cơ quan tổng hợp như Bộ Ngoại giao, Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, Tài chính, kế hoạch và đầu tư và Văn phòng Chính phủ cần có ý kiến kịp thời theo chức năng nhiệm vụ khi dự án trình duyệt kết quả đàm phán và thủ tục tuyên bố hiệu lực; phải có chế tài nghiêm minh đối với các cá nhân, chủ dự án, cơ quan chủ quản sử dụng vốn ODA không đảm bảo tiến độ thực hiện dự án (các biện pháp có thể gồm: không bố trí danh mục dự án mới, cắt giảm kinh phí thực hiện chậm hoặc điều chuyển cho các đơn vị khác cùng tham gia dự án có khả năng thực hiện nhanh); các cơ quan quản lý nhà nước về ODA cần tăng cường phối hợp với nhau và với UBND các tỉnh và thành phố trong quá trình quản lý và điều phối ODA (trong đó cần đề ra định chế thích hợp để khuyến khích các đơn vị thực hiện tốt các dự án ODA và cảnh báo các đơn vị yếu kém); tiếp tục tăng cường phân cấp, tăng quyền hạn, trách nhiệm cho chủ dự án, cơ quan chủ quản trong thực hiện các dự án ODA, kể cả vai trò quyết định điều chỉnh hạng mục dự án nếu có.. cũng được xác định là những giải pháp cơ bản.
Nâng cao các khâu trong công tác thực hiện dự án, chương trình
Yêu cầu cần có quy định tất cả các chương trình, dự án phải hoàn thành thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng trước khi ký kết các Hiệp định tài trợ cụ thể cho từng chương trình, dự án, đồng thời khẩn trương chuẩn bị thiết kế, văn kiện dự án theo quy định hiện hành trong nước và quy định của nhà tài trợ; tiếp tục cải tiến, đơn giản hoá các khâu thẩm định, đấu thầu, xét duyệt kết quả chấm thầu, phê duyệt thiết kế, dự toán.v.v... được đặt lên hàng đầu.
Bên cạnh đó, yêu cầu các Bộ, cơ quan và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải việc rà soát kế hoạch phân bổ vốn đầu tư để bảo đảm đủ vốn đối ứng cho các chương trình, dự án; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tích cực giải quyết vấn đề cấp đất và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chương trình, dự án ODA trên địa bàn; có kế hoạch xây dựng các khu tái định cư độc lập để chủ động trong việc giải phóng mặt bằng, bảo đảm khởi công và hoàn thành chương trình, dự án theo đúng tiến độ đã được thoả thuận giữa ta và nhà tài trợ... cũng được đặt ra cấp thiết.
Ngoài ra, yêu cầu cần có sự nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh hệ thống định mức, tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với tình hình thực tế và thông lệ quốc tế; các chủ dự án phải tích cực hoàn tất các điều kiện để có thể chính thức ký hiệp định vay và tuyên bố có hiệu lực càng sớm càng tốt;
Nâng cao năng lực cán bộ quản lí
Bên cạnh các giải pháp trên, các cơ quan chủ chương trình, dự án cần phải kiện toàn và tăng cường năng lực cán bộ cũng như năng lực quản lý điều hành của các Ban Quản lý dự án ODA và bảo đảm cán bộ cho các đơn vị này; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra các dự án ODA kết hợp với công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực đầu tư; tiến hành đánh giá các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA sau khi đã kết thúc xây dựng; lựa chọn một số công trình để cùng với các nhà tài trợ tổ chức đánh giá chung; tăng cường hợp tác với nhà tài trợ để đẩy mạnh giải ngân vốn ODA... cũng là những yêu cầu được đặt ra từ thực tiễn.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh tự do hóa ngày càng gia tăng, hiện nay nhu cầu hội nhập và phát triển là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia.
Việt Nam tham gia vào tổ chức WTO là việc lựa chọn con đường phát triển cùng hội nhập sâu rộng với thế giới, chấp nhận nhiều thử thách, rủi ro xong cũng mang lại nhiều cơ hội để phát triển bền vững, bắt kịp với các nền kinh tế trên thế giới. Trong các cơ hội đó thì cơ hội nắm bắt nguồn vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ là điều kiện cần cho kinh tế Việt Nam hiện nay trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có một vai trò hết sức quan trọng, bù đắp nguồn vốn thiếu hụt trong nước. Ba năm gia nhập WTO, chúng ta đã chứng kiến sự gia tăng đột biết không chỉ của nguồn vốn FDI mà còn có cả nguồn vốn ODA, điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đã tin tưởng và đặt kì vọng vào sự phát triển bền vững của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc sử dụng nguồn vốn này vẫn chưa đạt hiệu quả cao, nguyên nhân chủ yếu vẫn xuất phát từ chính những hạn chế của nội tại nền kinh tế và bộ máy hành chính nhà nước.
Để gia tăng hiệu ứng “đầu tư kéo đầu tư” và quan trọng hơn là phát triển kinh tế theo đúng hướng Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, yêu cầu đặt ra cần phải nâng cao hơn nữa công tác thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này, bởi những thách thức và rủi ro sẽ có thể gây ra thiệt hại cho nền kinh tế nếu thiếu định hướng thu hút đúng đắn, thiếu cơ chế thực hiện, sử dụng vốn hiệu quả.
Bài viết còn nhiều thiếu xót, em hi vọng nhận được sự đóng góp và chỉ dẫn thêm của thầy giáo. Em xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo
Tổng hợp từ Tạp chí Kinh tế dự báo , Tạp chí Ngân hàng
Trang web của Bộ tài chính: Mof.gov.vn
Trang web của cục đầu tư nước ngoài Việt Nam: Fia.mpi.gov.vn
Nguyễn Bạch Nguyệt, Từ Quang Phương- Giáo trình Kinh tế đầu tư – NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân – 2007
Đinh Đào Ánh Thủy- Bài Giảng Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ
Ngô Thắng Lợi, Phan Thị Nhiệm - Giáo trình Kinh tế phát triển – NXB Lao động – xã hội – 2008
Tổng hợp từ, internet
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25458.doc