Về mặt tổng cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng; do đó giá cả sản phẩm giảm dẫn đến tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đây là tác động có tính chất dài hạn của đầu tư.
130 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệu quả khả năng ô nhiễm môi trường do các hoạt động phát triển kinh tế xã hội gây ra. Giữ gìn tôn tạo cảnh quan môi trường ở khu vực đô thị và các cụm điểm phát triển du lịch.
+ Cải thiện chất lượng môi trường: đảm bảo nguồn nước hợp vệ sinh cho dân số và đến năm 2010 khoảng 98% dân số được sử dụng nước sạch; thu gom và xử lý 100% rác thải sinh hoạt; quản lý và xử lý 100% chất thải công nghiệp nguy hại, chất thải y tế.
+ Bảo tồn và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
+ Tăng cường giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường. Tăng cường năng lực quản lý môi trường.
1.2.2.4. Mục tiêu an ninh quốc phòng.
Góp phần cùng cả nước giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Xây dựng nếp sống văn minh, lịch sự, làm việc theo pháp luật. Phòng chống các tệ nạn xã hội. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển.
1.3. Những lợi thế so sánh của tỉnh Bắc Ninh.
- Nằm trong địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là cửa ngõ phía Bắc Thủ đô Hà Nội với hệ thống giao thông thuỷ, bộ, đường sắt thuận lợi, gần sân bay và cảng biển, có điều kiện giao lưu với các cửa khẩu quốc tế phía Bắc, Bắc Ninh có vị trí đắc địa cho phát triển kinh tế - xã hội.
Vị trí này đã nhận và chịu ảnh hưởng các liên kết trong vùng đồng bằng sông Hồng, địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và giữa vùng đồng bằng sông Hồng với các vùng khác cũng như cả nước. Do đó, Bắc Ninh có nhiều lợi thế về thị trường, thu hút vốn, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, có thể trở thành thành phố vệ tỉnh của Thủ đô Hà Nội.
- Bắc Ninh có một đội ngũ cán bộ khoa học khá đông có trình độ chuyên môn khá, trình độ dân trí và lực lượng lao động đông, có trình độ tay nghề cao, có khả năng đáp ứng được yêu cầu của sản xuất công nghiệp, một bộ phận dân cư có trình độ sản xuất hàng hoá, năng động với cơ chế thị trường. Các làng nghề truyền thống được khôi phục và phát triển đã tạo ra những “ hạt nhân “ cho quá trình công nghiệp hoá nông thôn.
- Đa dạng về địa hình, phong phú về khí hậu, hình thành nhiều vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau, cho phép phát triển một nền nông nghiệp sinh thái toàn diện và tổng hợp.
- Hệ thống các khu công nghiệp được phát triển: Có Thành Phố Bắc Ninh với thế mạnh phát triển công nghiệp, trung tâm phát luồng bán buôn dịch vụ cùng với hệ thống các đô thị vệ tinh sẽ tạo ra những lợi thế phát triển mới, tạo ra địa bàn hấp dẫn và thu hút đầu tư.
- Bắc Ninh có tiềm năng văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, nơi hội tụ của kho tàng văn hoá nghệ thuật đặc sắc truyền thống văn hoá Kinh Bắc, mang đậm nét dân gian của vùng trăm nghề như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, vẽ tranh dân gian. . .cộng với nhiều cảnh quan đẹp là tiềm năng lớn để phát triển du lịch văn hoá, lễ, du lịch sinh thái, du lịch thắng cảnh, du lịch làng nghề, du lịch làng Việt Cổ.
Các lợi thế của tỉnh Bắc Ninh cho thấy trong một tương lai không xa có thể đưa Bắc Ninh phát triển thành một tỉnh công nghiệp, đón đầu những công nghệ hiện đại, hội nhập kinh tế thế giới và tiếp cận nền kinh tế tri thức.
II - MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở TỈNH BẮC NINH THỜI GIAN TỚI
Để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế và làm cho các định hướng đầu tư mang tính khả thi, cần đặt ra các giải pháp cụ thể. Nhìn chung các giải pháp cho đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn một tỉnh có thể chia thành hai nhóm:
- Giải pháp liên quan đến chỉ đạo, điều hành, quản lý của chính quyền cấp tỉnh.
- Giải pháp liên quan đến các chính sách, pháp luật và tổ chức bộ máy của Trung ương.
Tuy nhiên, trong cùng một điều kiện về chính sách, một số tỉnh đã thể hiện sự năng động, sáng tạo và đã thành công về thực hiện các giải pháp đầu tư phát triển kinh tế. Mặc dù vậy sự tăng cường phân cấp trong quản lý, điều hành của Chính phủ cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở nước ta là vấn đề cần thiết, liên quan đến cải cách nền hành chính quốc gia.
Các chuyên gia kinh tế thế giới đều nhấn mạnh đến sự sáng tạo của chính quyền các địa phương đối với sự phát triển kinh tế. Ngân hàng Thế giới cho rằng: “ Khu vực hoá cũng được ngợi ca vì nó gia tăng mức độ tham gia chính sách và mang đến cho con người nhiều cơ hội hơn để định hình bối cảnh trong đời sống của mình. Bằng cách phân cấp quản lý, càng có nhiều quyết định được thực hiện ở cấp địa phương gần gũi hơn với các cử tri” [12,tr.6]. Trên thực tế, nhiều chính sách quốc gia đã được hình thành từ những sáng tạo của các địa phương.
Từ những cơ sở trên, một hệ thống giải pháp về đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới được xác định bắt đầu từ giải pháp huy động vốn.
2.1. Giải pháp huy động vốn đầu tư.
Quan điểm chung về huy động vốn đầu tư là phát huy tối đa các nguồn lực trong tỉnh trên cơ sở huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp và dân cư cho đầu tư phát triển, chú trọng đến thu hút vốn từ bên ngoài. Việc thu hút vốn từ bên ngoài cũng nhằm làm tăng nguồn vốn đầu tư khai thác từ nội bộ tỉnh, chứ không thay thế nguồn vốn tại chỗ. Khai thác nguồn vốn của doanh nghiệp và dân cư cho đầu tư phát triển không chỉ nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế mà quan trọng hơn là tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân. Do đó, bên cạnh việc thu hút các dự án lớn vào đầu tư trên địa bàn cần khuyến khích, hỗ trợ đầu tư đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cả ở đô thị và nông thôn.
Ở phạm vi các tỉnh huy động vốn gặp phải nhiều hạn chế, do ở nước ta, sự phân cấp trong quản lý kinh tế cho chính quyền cấp tỉnh ở mức thấp. Các công cụ của chính sách đầu tư chủ yếu chỉ được thực hiện ở cấp Trung ương như: lãi suất, thuế, chế độ khuyến khích đầu tư, . . .Tuy nhiên, ngay điều kiện này thì các giải pháp được đưa ra ở cấp địa phương cũng có ý nghĩa rất lớn cho phát triển kinh tế. Việc nắm bắt cơ hội và thực hiện đầu tư là do doanh nghiệp quyết định, nhưng doanh nghiệp đầu tư vào đâu lại phụ thuộc vào sự thuận lợi, ưu đãi, khuyến khích mà địa phương đó có được. Như vậy, cái giá phải trả để thu hút đầu tư của các doanh nghiệp không phải để “ mua” sự đầu tư mà chính là “ mua “ quyết định đầu tư của doanh nghiệp vào tỉnh Bắc Ninh. Hỗ trợ, ưu đãi của tỉnh để thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào tỉnh sẽ đem lại hiệu quả rõ rệt: việc làm, ngân sách, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra cầu đầu tư cho doanh nghiệp khác. Khi hình ảnh về môi trường đầu tư tốt được củng cố thì những chi phí cho hỗ trợ, ưu đãi sẽ giảm đi và làm cho hiệu quả về thu hút vốn đầu tư tăng lên. Các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh đã đem lại những hình ảnh sinh động về sự sáng tạo và vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong thực hiện giải pháp huy động vốn đầu tư.
Đối với các địa phương, ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng trong thực hiện chính sách huy động vốn thông qua việc hỗ trợ đầu tư. Có một thực tế là: các tỉnh nghèo thì không thực hiện được tốt các chính sách huy động vốn trong khi cần có số vốn lớn cho phát triển để rút ngắn khoảng cách với các địa phương khác. Và như thế, lựa chọn những khu vực có tính đột phá để huy động, thu hút vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng.
2.1.1 - Huy động vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển.
Về cơ bản và lâu dài, cần đẩy mạnh, mở mang sản xuất, kinh doanh để tăng thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, trong điều kiện tỉnh Bắc Ninh, thu ngân sách còn chưa đủ chi, nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách là do Trung ương hỗ trợ. Để có thêm nguồn vốn ngân sách cho đầu tư phát triển cần:
Thứ nhất, chống thất thu ngân sách và thực hành tiết kiệm. Hiện nay Chính phủ đã có chính sách khuyến khích tăng thu đối với các địa phương: các khoản thu vượt đều để lại cho các địa phương để đầu tư phát triển. Ngoài ra, thực hành tiết kiệm cũng đem lại nguồn vốn đáng kể cho đầu tư. Nếu tiết kiệm 5% chi thường xuyên (không kể lương, phụ cấp và chi sự nghiệp) thì mỗi năm tỉnh có thêm tiền để xây dựng được một công trình phúc lợi và tôn vinh ý nghĩa của tiết kiệm.
Thứ hai, tăng cường tích tụ vốn ngân sách thông qua vay nợ. Ngân sách tỉnh vay vốn nhàn rỗi Kho bạc Nhà nước để đầu tư cơ sở hạ tầng. Nếu chỉ sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm thì các công trình phải kéo dài nhiều năm mới hoàn thành, gây ứ đọng vốn đầu tư. Do đó ngân sách địa phương cần vay vốn để đầu tư hoàn thiện hạ tầng đô thị, giao thông, thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương. . . Việc này sẽ có tác dụng tập trung đủ nguồn vốn cho đầu tư công trình lớn và tạo ra sức ép phải trả nợ vào các năm sau nên kích thích tính sáng tạo và quyết tâm của chính quyền, thúc đẩy phát triển kinh tế, chống thất thu ngân sách để có nguồn trả nợ.
Theo phương pháp này, có thể phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương đầu tư theo phương thức: tỉnh đứng ra vay vốn đầu tư các công trình hạ tầng do Trung ương quản lý trên địa bàn, sau trả nợ gốc bằng nguồn vốn theo kế hoạch của Bộ, ngành còn địa phương trả phần lãi suất vay.
Ngoài ra, có thể phát hành trái phiếu công trình, thực hiện đầu tư hạ tầng theo hình thức xây dựng - chuyển giao (BT), xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT).
Thứ ba, hình thành quỹ đầu tư phát triển của tỉnh từ các nguồn: vốn ban đầu của ngân sách tỉnh; khoản vượt thu ngân sách; tiền thu được từ quỹ đất, chênh lệch do giao đất theo hình thức đấu giá; nguồn thu từ bán tài sản và các nguồn khác.
Trong điều kiện thu không đủ chi, ngân sách được lập dự toán chặt chẽ theo khoản mục; các tổ chức tín dụng, ngân hàng chỉ là chi nhánh thuộc Trung ương thì quỹ đầu tư phát triển của tỉnh là công cụ quan trọng để thực hiện các chính sách, hỗ trợ đầu tư, điều chỉnh cơ cấu đầu tư của tỉnh.
Quỹ đầu tư phát triển nhằm tập trung nguồn vốn cho dự án ưu tiên, hỗ trợ lãi suất đầu tư cho các dự án trọng điểm, hiệu qủa. . .
Thứ tư, thực hiện xẫ hội hoá trong đầu tư phát triển các lĩnh vực xã hộI và đầu tư hạ tầng nông thôn, huy động các nguồn vốn góp của nhân dân, trong đó ngân sách Nhà nước hỗ trợ để tạo đà cho sự huy động đóng góp này, thực hiện phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” phải được thể chế thành quy định cụ thể: loại hình và điều kiện công trình được hỗ trợ, quy trình nhận hỗ trợ, mức hỗ trợ, kế hoạch hỗ trợ,. . .Chủ yếu có ba loạI hạ tầng nông thôn cần được thực hiện theo phương châm này: giao thông nông thôn, trường học, kênh mương. Các quy định này cần được thông qua HĐND tỉnh, sau đó UBND tỉnh ban hành để tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện, đảm bảo đúng quy chế dân chủ ở cơ sở.
2.1.2 - Huy động vốn thông qua tổ chức tín dụng và định chế tài chính trung gian.
Hiện nay, số tiền nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn, chiếm 60%(ở thành thị) và 85%(ở nông thôn) trong tổng số tiền tiết kiệm.
Để huy động được số tiết kiệm nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức tín dụng cần hiện đại hoá công nghệ, mở rộng mạng lưới chi nhánh đến các cụm xã, thị trấn. . .Bên cạnh chính sách tiền tệ hợp lý, việc tạo thuận lợi cho việc gửi tiền, rút tiền, kể cả những món nhỏ sẽ góp phần tăng cường huy động tiết kiệm của dân chúng. Xây dựng và phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân ở khu vực nông thôn cũng là biện pháp quan trọng để huy động vốn, đồng thời để phục vụ lại cho chính họ. Phát triển quỹ tín dụng nhân dân còn nhằm ngăn chặn những hình thức tín dụng không chính thức, cho vay lãi suất cao, nhiều rủi ro, kìm hãm sản xuất.
Các tổ chức tín dụng và định chế tài chính trên địa bàn tỉnh đều là các chi nhánh và đơn vị trực thuộc Trung ương. Với quy định như hiện nay, việc huy động vốn của các chi nhánh này cho đầu tư phát triển kinh tế còn hạn chế.
Để huy động vốn có hiệu quả hơn, các ngân hàng thương mại, quỹ hỗ trợ phát triển cần phân cấp rộng rãi hơn cho chi nhánh tại các tỉnh. Khi đó các đơn vị này sẽ có vai trò tích cực hơn trong huy động và sử dụng vốn có tính đến cung, cầu về vốn ở thị trường trên địa bàn từng tỉnh và khu vực, tăng cường tính cạnh tranh trong cung cấp tín dụng.
Thời gian gần đây, đời sống dân cư không ngừng được cải thiện, nhân dân đã tham gia bảo hiểm ngày một nhiều hơn. Rõ ràng, với xu hướng này, Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam, Bảo hiểm xã hộI Việt Nam cũng cần cho phép các đơn vị trực thuộc tại các tỉnh tham gia vào thị trường vốn, thực hiện các nghiệp vụ đầu tư ở một mức độ hợp lý. Giải pháp này sẽ làm tăng tính năng động và hiệu quả trong việc huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh.
2.1.3 - Huy động vốn của các doanh nghiệp trong nước và dân cư.
Trong nhiều năm qua, nguồn vốn của các doanh nghiệp và dân cư đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và còn nhiều tiềm năng chưa khai thác hết. Do vậy cần có giải pháp tiếp tục huy động mạnh mẽ nguồn vốn ở khu vực này. Ngoài việc hoàn thiện các cơ chế chính sách chung về khuyến khích, thu hút, huy động vốn đầu tư đối với phạm vi cả nước, trên địa bàn tỉnh sớm thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư đối với mọi loại hình doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Hiện nay, nhiều tỉnh đã mạnh dạn đưa ra các chính sách ưu đãi, khuyến khích, thu hút đầu tư cho địa phương mình. Trên thực tế đã có sự “cạnh tranh” trong chính sách thu hút đầu tư giữa các tỉnh, thành phố, nhất là cạnh tranh thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp [13]:
* Khu công nghiệp Bắc Vinh ( tỉnh Nghệ An):
- Ưu đãi về đất đai: Công ty đầu tư phát triển hạ tầng được miễn tiền thuê đất 15 năm; sau đó tiếp tục được miễn phần diện tích chưa lấp đầy.
- Ưu đãi về thuế đối với doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp: Ngân sách tỉnh cấp lại 100% thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời hạn 5 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế; 100% thuế giá trị gia tăng phải nộp trong 3 năm kể từ khi xác định chịu thuế. Thuế thu nhập cá nhân được áp dụng bằng 50% mức thuế thu nhập cho cùng đối tượng ở ngoài khu công nghiệp trong thời gian 5 năm; mức thu nhập cá nhân để tính thuế cao gấp 1,5 lần theo quy định chung của Nhà nước.
* Khu công nghiệp của tỉnh Quảng Nam:
- Ưu đãi về đất đai: Công ty phát triển hạ tầng được miễn thuê đất trong 10 năm đầu và giảm 50% cho những năm tiếp theo.
- Ưu đãi về tài chính: UBND tỉnh Quảng Nam hỗ trợ để các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp đến năm 2003 chịu mức thuế thấp hơn của Chính phủ là 3%. Doanh nghiệp được miễn thêm 2 năm và giảm 50% cho 2 năm tiếp theo cho cơ sở sản xuất, miễn thêm 1 năm, giảm 50% cho 1 năm tiếp theo đối với cơ sở dịch vụ so với quy định của Chính phủ.
* Khu công nghiệp của tỉnh Quảng Ngãi:
- Ưu đãi về đất đai: Miễn tiền thuê đất trong thời hạn 4 năm và giảm 50% cho 10 năm tiếp theo; đối với những khu đặc biệt được miễn tiền thuê đất cho 10 năm và giảm 50% cho 10 năm tiếp theo.
- Ưu đãi về thuế: Ngoài các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Nhà nước, doanh nghiệp trong nước được ưu đãi thêm miễn thuế phải nộp trong 4 năm đầu và giảm 50% cho 8 năm tiếp theo kể từ khi có thu nhập chịu thuế. Đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì: xuất khẩu từ 50 - 80% sản phẩm được miễn thuế phải nộp trong 2 năm và giảm 50% cho 2 năm tiếp theo; có tỷ lệ xuất khẩu trên 80% được miễn thuế phải nộp cho 4 năm, giảm 50% cho 4 năm tiếp theo.
- Ưu đãi khác: Hỗ trợ tiền đền bù giải phóng mặt bằng; miễn phí sử dụng hạ tầng trong 3 năm kể từ khi bắt đầu hoạt động; hỗ trợ đầu tư một số hạng mục hạ tầng thiết yếu đến hàng rào khu công nghiệp.
Như vậy, các tỉnh đã đưa ra những chính sách, ưu đãi đầu tư rất đa dạng, trong đó có một số điều khoản chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Điều đó đặt ra yêu cầu về sự hoàn thiện của chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư của cả nước với việc cụ thể hoá cho từng vùng, trên cơ sở những khung ưu đãi cụ thể và tăng cường phân cấp cho các tỉnh quy định để phù hợp với điều kiện của địa phương mình. Một mặt, cần có sự sáng tạo của các địa phương, nhưng mặt khác cũng cần có sự phối hợp giữa các địa phương trong thu hút vốn đầu tư, thực hiện phát triển kinh tế trên cơ sở quy hoạch chung và khuôn khổ pháp luật thống nhất.
Thứ hai, thực hiện các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò to lớn trong nền kinh tế: thu hút nhiều lao động, tăng cơ hội tìm việc làm với chi phí thấp; tăng thu nhập dân cư, góp phần giảm khoảng cách giàu nghèo; thu hút vốn nhàn rỗi trong dân vào sản xuất kinh doanh; là bước khởi đầu cho quá trình trưởng thành của các doanh nghiệp; làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả hơn. Việc thực hiện các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư là quan trọng nhưng chưa đủ. Cần tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Chính phủ đã thấy được tầm quan trọng và đưa ra các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngay cả trong trường hợp có chính sách hỗ trợ của Chính phủ thì vai trò của các địa phương vẫn hết sức quan trọng nhằm khắc phục những thất bại từ phía thị trường như sự hoạt động của các doanh nghiệp lớn, những khó khăn từ bản chất của các doanh nghiệp nhỏ và khắc phục chính những hạn chế từ bản thân chính sách của Chính phủ về thuế, tín dụng, đầu tư, đất đai. . .
Sau đây là một số biện pháp hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp trên địa bàn:
- Về đất đai: mặt bằng sản xuất là yếu tố quyết định đến thực hiện dự án đầu tư. Không có mặt bằng thì mọi sự tạo điều kiện thuận lợi ở trước đó cho doanh nghiệp trở nên vô nghĩa. Do đó, nhiều khi chi phí cơ hội để có được mặt bằng sản xuất lớn hơn nhiều chi phí hợp pháp để có quyền sử dụng mảnh đất đó. Trước đây, do thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước, việc sử dụng đất của doanh nghiệp vừa và nhỏ được biến tướng dưới nhiều hình thức không minh bạch về nguồn gốc. Nhà nước đưa ra các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp về đất đai không phải chi thông qua chính sách mà quan trọng hơn là với tư cách của người quản lý tài sản công thổ quốc gia.
Thủ tục thuê đất theo quy định hiện nay còn rất phức tạp và đền bù giải phóng mặt bằng cũng tốn nhiều thời gian của nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư vừa và nhỏ. Do vậy, chính quyền các cấp cần tích cực trợ giúp các doanh nghiệp trong việc thuê đất để có mặt bằng sản xuất. Việc triển khai xây dựng các khu công nghiệp nhỏ ở Bắc Ninh là việc làm có ý nghĩa nhằm giải quyết vấn đề đó.
Hiện tại khi thuê đất, nhà doanh nghiệp cần tiến hành trên 10 thu tục và 3 lần được UBND tỉnh phê duyệt (cho phép khảo sát, phê duyệt phương án đền bù và sau đó mới có quyết định cho thuê đất) nên thời gian kéo dài. Do đó cần phải thực hiện cơ chế “ một đầu mối” trong việc cho thuê đất đối với các doanh nghiệp.
- Hỗ trợ tiếp cận về nguồn vốn, hình thành quỹ bảo lãnh vốn vay cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Hỗ trợ kinh phí đào tạo ngườI lao động và chủ doanh nghiệp, đặc biệt các nghề mớI ở nông thôn.
- Hỗ trợ trong việc ra đời nghề mới, làng nghề mới, đầu tư cơ sở hạ tầng làng nghề. Di dời sản xuất làng nghề áp dụng như di dời cơ sở sản xuất ở đô thị. Hình thành quỹ phát triển làng nghề từ những khoản thu do làng nghề đem lại theo phương châm “lấy làng nghề phát triển làng nghề “.
- Hỗ trợ xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin miễn phí cho các doanh nghiệp. Hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia hộI chợ, triễn lãm, tạo điều kiện hỗ trợ cho ra đời và thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp thay vì Nhà nước thực hiện.
- Tôn vinh doanh nghiệp, tổ chức các quỹ trao giải thưởng cho các nhà doanh nghiệp kinh doanh giỏi, khen thưởng các nhà doanh nghiệp có đóng góp lớn về kinh tế xã hội cho địa phương, cấp giấy chứng nhận các danh hiệu nghệ nhân, thợ giỏi.
2.1.4 - Huy động vốn đầu tư nước ngoài.
Bắc Ninh có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý nhưng việc thu hút FDI còn hạn chế. Tổng kết vấn đề này, các chuyên gia đánh giá: ngoài sự hấp dẫn về cơ sở hạ tầng, chính sách ưu đãi thì thái độ của những nhà lãnh đạo địa phương có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Thái độ dứt khoát của những người đứng đầu các địa phương mới có thể giải toả tâm lý của các nhà đầu tư nước ngoài và xoá bỏ các thủ tục “ vô hình “ trong tiếp nhận, cấp giấy phép, triển khai dự án đầu tư của cấp thừa hành.
Với những thuận lợi, tỉnh Bắc Ninh cần thiết và có thể tăng cường huy động vốn FDI. Nếu không thu hút được đáng kể FDI, đảm bảo nguồn vốn để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế thì cũng có nghĩa là tỉnh không tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Khi đó các chủ trương phát triển kinh tế của tỉnh đều khẳng định tiềm năng và khai thác tiềm năng kinh tế của địa phương chỉ mang nội dung chung chung, không trở thành nguồn lực phát triển. Do vậy trong thời gian tới, tỉnh cần áp dụng mạnh các biện pháp: tăng cường kinh phí và cán bộ cho công tác xúc tiến đầu tư; lập danh mục dự án với những ưu đãi, điều kiện hỗ trợ cụ thể kèm theo để nhà đầu tư lựa chọn; giải phóng thủ tục hành chính, thời gian xem xét hồ sơ và cấp phép đầu tư đối với các dự án khuyến khích đầu tư xuống chỉ còn từ 1-3 ngày, thậm chí có thể cấp phép trong ngày; có thể cấp ngay giấy phép đầu tư mà nhà đầu tư không phải thoả thuận địa điểm, cơ quan nhà nước có trách nhiệm đảm bảo địa điểm và tiến hành giải phóng mặt bằng cho nhà đầu tư; thực hiện đầy đủ và kịp thời các cam kết nhằm chống xu hướng bão hoà giả tạo về thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Việc thu hút ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng đối với tỉnh chưa có khả năng cân đối ngân sách như Bắc Ninh sẽ gặp nhiều hạn chế, phụ thuộc vào chương trình của Chính phủ. Tỉnh khó có khả năng tự đứng ra để vay các khoản ODA mà chủ yếu nhận viện trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, viện trợ sẽ được tăng cường nếu tỉnh có khả năng hấp thụ, dành một phần vốn địa phương sẵn sàng đối ứng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn viện trợ. Trong thời gian tới tỉnh cần tăng cường xúc tiến thu hút viện trợ, xây dựng các danh mục dự án ưu tiên, liên kết với các tỉnh trong vùng để tiếp nhận các dự án hỗ trợ kỹ thuật cho cả vùng, nhất là các dự án phát triển hạ tầng nông thôn, xoá đói, giảm nghèo, tăng cường kỹ thuật sản xuất, khuyến nông, vệ sinh môi trường. . .
Trong thời gian tới, khi đã cân đối được ngân sách, tỉnh có thể trực tiếp vay vốn và hoàn vốn đối với các khoản viện trợ có hoàn lại ưu đãi. Các công trình phục vụ công cộng có thu phí hoàn một phần vốn (đường giao thông, bệnh viện. . .) đang được các nhà tài trợ quan tâm. Nhà nước cần tăng cường phân cấp cho các địa phương trong việc tiếp nhận dự án phi Chính phủ (trừ các lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc gia).
2.1.5 - Điều chỉnh cơ cấu đầu tư thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là giải pháp xuyên suốt trong phát triển kinh tế cả nước cũng như ở từng tỉnh. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế Bắc Ninh theo mục tiêu, định hướng đã xác định tỉnh cần tiếp tục tập trung vốn đầu tư cho ngành công nghiệp theo hướng chuyển dịch cơ cấu của bản thân ngành công nghiệp; đầu tư hợp lý cho ngành nông nghịêp, đảm bảo an ninh lương thực và chuyển mạnh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá với cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao; quan tâm đầu tư tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh cho toàn bộ khu vực dịch vụ; chú trọng đầu tư kết cấu hạ tầng, đổi mới công nghệ, phát triển nguồn nhân lực. Có sự kết hợp giữa vốn ngân sách Nhà nước đối với các nguồn vốn khác của xã hội trong đầu tư phát triển để chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Cần có biện pháp để vốn Nhà nước mang tính định hướng và có tác dụng lôi kéo vốn đầu tư tư nhân - điều mà giai đoạn trước chưa đặt ra trong kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội.
Vì vậy, điều chỉnh cơ cấu đầu tư cần thực hiện các giải pháp là:
2.1.5.1- Điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước theo hướng tăng cường đầu tư hạ tầng kinh tế trực tiếp phục vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Những năm 1991-1996, tỉnh Hà Bắc (cũ) đã sử dụng ngân sách để cấp, cho vay, bảo lãnh đầu tư cho các doanh nghiệp Nhà nước. Việc làm này đã gây thất thoát ngân sách do doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Sau đó lại áp dụng quan điểm không hỗ trợ đầu tư cho doanh nghiệp từ nguồn ngân sách Nhà nước. Cả hai quan điểm này đều mắc sai lầm làm cho hoạt động đầu tư trong nước trên địa bàn tỉnh tăng chậm và chưa tác động mạnh đến thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong thời gian tới tỉnh dành tỷ lệ thích đáng cho đầu tư hạ tầng kinh tế phục vụ trực tiếp cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất, nâng cao tốc độ tăng trưởng. Các lĩnh vực chủ yếu là:
- Hỗ trợ đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, cả trong và ngoài hàng rào: đường vào, hệ thống điện, cấp thoát nước, xử lý môi trường. . .
- Hỗ trợ đầu tư hạ tầng các khu du lịch văn hoá. Trên địa bàn tỉnh đã quy hoạch 4 khu du lịch lớn, nhưng thời gian qua chưa triển khai đầu tư mạnh. Với việc đầu tư toàn bộ hạ tầng của khu du lịch thì doanh nghiệp không thể kinh doanh có lãi. Do đó Nhà nước cần hỗ trợ vốn đầu tư hạ tầng cho các dự án này. Tương tự như việc đầu tư hình thành trung tâm thương mại ở Thành phố Bắc Ninh cần có sự hỗ trợ này.
2.1.5.2 - Căn cứ mục tiêu chuyển dịch cơ cấu đầu tư, đặt ra chính sách khuyến khích đầu tư phù hợp với từng giai đoạn.
Theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước, tỉnh Bắc Ninh không có huyện nào thuộc danh mục vùng khó khăn, nhưng theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các huyện: Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành thuộc vùng khó khăn. Đây là sự “lệch pha” khi xây dựng hai Luật ở hai thời điểm khác nhau. Trong khi chờ Nhà nước sửa đổi Luật khuyến khích đầu tư trong nước, tỉnh có biện pháp hỗ trợ để thống nhất danh mục địa bàn khó khăn giữa đầu tư trong nước và nước ngoài.
Bên cạnh đó, cần thay đổI tư duy về ưu đãi, khuyến khích đầu tư để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh không chỉ nhằm vào các khu vực khó khăn mà cần khuyến khích đầu tư ở cả các khu vực, kinh tế trọng điểm, các ngành, các dự án quan trọng để tạo ra tốc độ phát triển kinh tế cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh theo hướng hiện đại, có khả năng đón đầu trong sự phát triển. Như vậy, ngành trọng điểm, ngành mũi nhọn mới luôn giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế thông qua sự di chuyển thích hợp với từng giai đoạn trong chiến lược phát triển.
Tỉnh có thể thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất vay đầu tư đối với một số ngành, lĩnh vực. Áp dụng cơ chế khuyến khích, ưu đãi theo dự án cụ thể, không cần đưa ra chính sách chung. Việc làm này vừa không phá võ chính sách ưu đãi của Chính phủ, vừa tiết kiệm được chi phí cho việc thu hút đâu tư cũng như ưu đãi cho các ngành cần thúc đẩy. Có thể những thoả thuận về ưu đãi được hình thành trong quá trình thảo luận tiếp nhận dự án đầu tư. Điều đó tạo ra tính linh hoạt và nâng cao hiệu quả của việc thu hút vốn đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Đối với các doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận sau thuế để đầu tư sản xuất kinh doanh thì cần được khuyến khích, bất kể thuộc ngành nào. Cho phép áp dụng chế độ khấu hao đặc biệt đối với các ngành trọng điểm, các ngành có tốc độ đổi mới công nghệ nhanh, (Nhật Bản đã áp dụng thành công chính sách này trong chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp những năm 1950-1960).
2.1.5.3 - Điều chỉnh cơ cấu đầu tư của từng ngành và dự án, tăng cường hàm lượng công nghệ và tri thức.
Những năm qua, với sự theo đuổi mục tiêu kiên cố hoá trường học, trạm y tế, nên số vốn đầu tư cho nâng cao chất lượng trang thiết bị, phương tiện của hoạt động giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ còn ít ỏi. Không thể hy sinh “ phần mềm “, yếu tố quan trọng nhằm nâng cao chất lượng vốn con người để theo đuổi mục tiêu của “phần cứng” một cách hình thức hoặc chạy theo phong trào. Đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội phải nhằm tạo ra những chuyển biến về chất trong các hoạt động, nâng cao chất lượng thực sự về nguồn nhân lực cũng như đời sống con người.
Thay đổi tỷ lệ vốn đầu tư giữa xây lắp và thiết bị công nghệ. Thông thường với các dự án đầu tư sản xuất mới, tỷ lệ vốn xây lắp chiếm tới 65-70%. Điều này là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư.
2.1.5.4 - Khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân vào dịch vụ công cộng.
Khu vực tư nhân có thể tham gia đầu tư vào các dịch vụ vui chơi, giải trí, thể thao, cơ sở hạ tầng để thu hồi vốn có sự hỗ trợ, tham gia và quản lý của Nhà nước. Nhà nước có thể đầu tư cơ sở vật chất trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công cộng nhưng giao thầu khai thác cho tư nhân. Thực hiện giải pháp này Nhà nước sẽ giảm bớt được chi phí ngân sách để có thêm vốn đầu tư cơ sở hạ tầng và thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư cho doanh nghiệp.
2.1.5.5 - Đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Tăng cường hỗ trợ đầu tư hạ tầng cho chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, hình thành vùng chuyên canh có giá trị kinh tế cao. Việc đầu tư này cần được thực hiện theo dự án trên cơ sở quy hoạch vùng chuyên canh. Trước hết cần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thông qua giải pháp đầu tư chuyển sản xuất nông ghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Để chuyển dịch cơ cấu đầu tư nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá có hiệu quả thì cần có sự thay đổi lớn về quan điểm và phương thức hỗ trợ của Nhà nước trong đầu tư sản xuất nông nghiệp. Ngành nông nghiệp phải có bộ phận nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại hàng nông sản. Thay đổi phương thức hoạt động của Trung tâm khuyến nông, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và đầu tư sản xuất nông nghiệp phải gắn với thị trường. Đồng thời chú trọng phát triển kinh tế vườn, tiềm năng kinh tế vườn của tỉnh không lớn nhưng cũng góp phần nâng cao thu nhập đối với một bộ phận dân cư. Cần chuyển từ vườn tạp sang trồng cây ăn quả có kinh tế cao.
Chuyển đổi vùng trũng sang nuôi trồng thuỷ sản là hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất có hiệu quả. Qua chuyển đổi của các hộ thu nhập từ nuôi thuỷ sản ở các vùng trũng gấp 7 lần so với cấy lúa đơn thuần. Thời gian qua, việc chuyển đổi chủ yếu do nông dân tự tiến hành, Nhà nước chưa có định hướng, chương trình quy hoạch vùng sản xuất. Trong thời gian tới, Nhà nước cần xây dựng các vùng quy hoạch, xác định rõ nguồn vốn: Nhà nước hỗ trợ đầu tư, vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước và phần đóng góp của nhân dân.
Nhà nước cần có các giải pháp hỗ trợ kinh tế trang trại phát triển thông qua việc chuyển đổi, tích tụ ruộng đất, cơ chế tín dụng ưu đãi, thế chấp quyền sử dụng đất và hỗ trợ đầu tư. Đầu tư của Nhà nước ưu tiên cho xây dựng chợ nông thôn, hạ tầng giao thông, đầu tư cho khoa học, kỹ thuật chuyển giao công nghệ sau thu hoạch. Mô hình trang trại ở Bắc Ninh cần chuyển hướng đi khác, không tốn nhiều diện tích đất, đó là mô hình trang trại vườn - ao - chuồng tổng hợp.
Phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, thực hiện hỗ trợ đầu tư thúc đẩy làng nghề phát triển bền vững: hiện đại hoá công nghệ, hỗ trợ các hỗ sản xuất đầu tư vào các cụm công nghiệp làng nghề, kết hợp phát triển làng nghề mỹ nghệ với loại hình du lịch văn hoá.
2.2 - Giải pháp về đầu tư phát triển khoa học, công nghệ.
Trước hết, tăng cường đầu tư của Nhà nước cho những mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nhân rộng kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Đưa giống mới có năng suất, chất lượng cao, hình thành vùng chuyên canh có giá trị và hiệu quả kinh tế cao.Các lĩnh vực ưu tiên ứng dụng kỹ thuật công nghệ vào sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh là: sản xuất giống lúa lai, giống lúa thuần chủng, nhân rộng việc chăn nuôi gia cầm, thuỷ sản, lợn hướng nạc; ứng dụng các kỹ thuật canh tác mới; từng bước có khí hoá trong sản xuất; ứng dụng công nghệ sinh học trong bảo quản, chế biến; sản xuất thực phẩm sạch để cung cung cho thị trường Hà Nội.
Đối với lĩnh vực công nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ thông qua hỗ trợ từ khoản thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng để doanh nghiệp có vốn nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm mới; nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ sản xuất ở làng nghề và khu vực công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
Nhà nước hỗ trợ đổi mới công nghệ đối với các làng nghề để tăng sức cạnh tranh, giảm ô nhiễm môi trường như: sắt thép Đa Hội, giấy Phong Khê. Làng nghề gỗ mỹ nghệ cần chuyển sang sử dụng công nghệ hiện đại với nguyên liệu là gỗ thường thay vì công nghệ thấp để chế biến gỗ quý. Làng nghề đúc đồng Đại Bái sẽ không thể tồn tại với những sản phẩm mỹ nghệ đơn điệu mà có thể chuyển sang gia công các linh kiện, áp dụng các mô hình đúc áp lực. Kiểm tra sử dụng nhãn mác sản phẩm ở khu vực làng nghề, hỗ trợ xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO 14000.
Thu hút đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp từ ngoài tỉnh vào các lĩnh vực sản xuất có hàm lượng “chất xám” cao.
2.3 - Giải pháp đầu tư phát triển con người.
Hoạt động giáo dục đào tạo tỉnh Bắc Ninh cần đổi mới, thực sự hướng vào mục tiêu “ nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài”. Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, kỹ năng và kỷ luật lao động đáp ứng cho phát triển công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn.
Tăng cường công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, thực hiện tốt chiến lược phát triển dân số, tăng cường đầu tư công trình phúc lợi công cộng. Đầu tư phát triển con người là yếu tố rất quan trọng để thực hiện nhiệm vụ lâu dài phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh do vậy phải có sự quyết tâm cao của các cấp chính quyền trong thực hiện, quy định cụ thể tỷ lệ kinh phí ngân sách dành cho ngành này trong từng giai đoạn.
2.4 - Giải pháp tạo môi trường lành mạnh an toàn, minh bạch cho hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Giải pháp này có ý nghĩa quyết định đến thành công của các giải pháp huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong thời gian dài.
Hoạt động của các cơ quan Nhà nước phải đáp ứng được các yêu cầu: hiệu lực, hiệu quả, minh bạch và sự chịu trách nhiệm. Môi trường đầu tư lành mạnh, an toàn, thuận lợi nhằm vào: hạn chế rào cản đầu tư của doanh nghiệp, giảm bớt các rủi ro trong đầu tư của doanh nghiệp, tạo thuận lợi trong suốt quá trình vận hành các kết qủa đầu tư.
Để tạo môi trường tốt cho hoạt động đầu tư, cần tiến hành mạnh mẽ cải cách hành chính bãi bỏ các giấy phép, điều kiện kinh doanh không cần thiết. Luật doanh nghiệp là một “ cú hích” quan trọng trong cải cách hành chính liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Từ kinh nghiệm này, cần tiếp tục cải cách hành chính theo hướng đơn giản hoá, thực hiện đưa các quy định và chính sách về mức đơn giản hoá, dễ hiểu.
Tiến hành quy hoạch (được sự chấp nhận của dân cư đang sử dụng đất) về mặt bằng cho những ngành nghề công nghiệp và công bố công khai cho công chúng.
Tạo môi trường đầu tư lành mạnh, an toàn cũng có nghĩa là một môi trường có tính cạnh tranh với sự phát triển của thị trường. Bắc Ninh, hiện nhiều thị trường còn sơ khai, cần thúc đẩy phát triển như: thị trường vốn, lao động, tư vấn, xúc tiến thương mại. . .
2.5 - Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển.
Cùng với thực hiện các giải pháp về huy động vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Hiệu quả đầu tư cao là tín hiệu để thu hút, huy động các nguồn vốn đầu tư, ngược lại việc đẩy mạnh đầu tư luôn luôn phải đi đôi với nâng cao hiệu quả đầu tư thì hoạt động đẩy mạnh đầu tư đó mới có ý nghĩa, không tạo ra gánh nặng cho tương lai. Thêm vào đó, các giải pháp về chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng CNH-HĐH và đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập, tăng cường đầu tư cho khoa học công nghệ và nguồn nhân lực cũng nhằm vào nâng cao hiệu quả đầu tư xã hội, kể cả trong ngắn hạn và dài hạn. Do vậy giải pháp về nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển là giải pháp tổng hợp, xuyên suốt cho mọi hoạt động đầu tư phát triển, vừa là hệ quả, vừa là mục đích của việc thực hiện các giải pháp khác, coi đây là tiêu chuẩn để lựa chọn định hướng và giải pháp cho phát triển kinh tế.
Để nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cần bắt đầu:
2.5.1 - Nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp quyết định lớn đến toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh trong toàn bộ chu kỳ của dự án. Để nâng cao hiệu quả đầu tư cần tác động đến nhiều yếu tố, nhiều khâu của quá trình đầu tư, từ việc nắm bắt cơ hội đầu tư cho đến triển khai kịp thời và đưa vào vận hành tốt kết quả đầu tư. Vì vậy phải thực hiện đúng phương pháp về lập, thẩm định, quản lý dự án đầu tư. Các cơ quan có liên quan của tỉnh sớm thay đổi phương pháp lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư trên cơ sở tính toán đầy đủ các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án, tránh tình trạng như thời gian qua trong dự án đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước do tỉnh quản lý chỉ tính toán chỉ tiêu hoàn vốn.
Sau đây là các giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách và biện pháp từ phía Nhà nước để nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp.
- Đối với doanh nghiệp Nhà nước: Phải giải quyết được vấn đề mang tính cơ chế: ai là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp; cần có những quy định cá thể hoá trách nhiệm vật chất trong việc đề xuất dự án, thẩm định và phê duyệt dự án, quyết định đầu tư, quyết định cho vay vốn đầu tư; gắn trách nhiệm của ngườI tổ chức thực hiện dự án đầu tư với trách nhiệm trong vận hành kết quả đầu tư. Đồng thời cũng cần có có chế thoả đáng cho người thực hiện dự án đầu tư thành công, đem lại hiệu quả cao.
- Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Để nâng cao hiệu quả đầu tư, Nhà nước cần thông tin đầy đủ và quy hoạch chính sách, quản lý, cơ hội đầu tư; thực hiện cơ chế một đầu mối trong xử lý các công việc liên quan đến đầu tư. Cho phép doanh nghiệp được quyền đăng ký với UBND tỉnh về tiến độ thực hiện để sớm đưa dự án vào sản xuất, từ đó UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện. Trong thực hiện dự án đầu tư của khu vực tư nhân, bản thân doanh nghiệp luôn chú ý đến nâng cao hiệu quả đầu tư. Vấn đề Nhà nước cần có những biện pháp tác động đúng hướng với mục đích này của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho thành lập và tăng cường vai trò của hiệp hội doanh nghiệp để giúp đỡ các doanh nghiệp thành viên thực hiện dự án đầu tư, từ lựa chọn cơ hội cho đến khi có kết quả cuối cùng.
- Cùng với các biện pháp nâng cao hiệu quả tài chính trong đầu tư của doanh nghiệp. Tỉnh Bắc Ninh cần hướng đầu tư của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực, mục tiêu để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội cho địa phương, đó là:
+ Đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản và ngành nghề nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và nâng cao thu nhập cho nhân dân, đầu tư vào các khu vực khó khăn trên địa bàn.
+ Giải quyết nhiều việc làm cho người lao động tại địa phương.
+ Đóng góp nhiều cho ngân sách để thực hiện mục tiêu cân đối thu chi ngân sách và cho đầu tư phát triển.
2.5.2 - Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước.
Trước hết phải nhằm vào mục tiêu ngăn chặn sự thất thoát, lãng phí trong sử dụng vốn. Lựa chọn các dự án quan trọng để đầu tư tập trung, tránh đầu tư dàn trải, kéo dài thời gian hoàn thành công trình. Việc bố trí kế hoạch tập trung là công việc rất khó khăn, cần có sự chỉ đạo kiên quyết để tiến tớI chấm dứt tình trạng nợ đọng trong xây dựng cơ bản tràn nan, kéo dài. Khi chưa bố trí kế hoạch vốn đầu tư, các cơ quan Nhà nước huy động vốn ứng của nhà thầu thi công nên có công trình đã đưa vào sử dụng, qua giai đoạn sửa chữa lớn mà vẫn chưa có tiền trả làm cho các nhà thầu khó khăn và nảy sinh tình trạng chiếm dụng vốn, nợ ngân hàng, nợ thuế. . .gây ra phản ứng dây chuyền không có lợi cho nền kinh tế.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, cũng cần quan tâm đến một tiêu chuẩn mà tỉnh Bắc Ninh trước đây ít chú ý, đó là việc tác dụng lôi kéo của vốn ngân sách đối với việc huy động thêm những đồng vốn của xã hội cho mục tiêu phát triển.
Bên cạnh đó, huy động và sử dụng vốn đóng góp của nhân dân phải được quản lý chặt chẽ, đảm bảo dân chủ. Việc huy động vốn đầu tư của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn đang là vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng đến toàn bộ các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn thời gian qua đã cho thấy chính quyền xã chủ yếu quan tâm đến phát triển văn hoá, xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, các lĩnh vực kinh tế ít được quan tâm. Hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn đã để lại nhiều vấn đề nhức nhối: huy động quá khả năng đóng góp của nhân dân, quản lý tài chính có nhiều vi phạm, chất lượng công trình kém, tham nhũng, thất thoát, tiêu cực nảy sinh tình trạng nợ chồng chất. . .Từ những vi phạm trong huy động và sử dụng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng đã phát sinh bất ổn trong đời sống kinh tế, xã hội nông thôn, gây tình trạng khiếu kiện kéo dài, hạn chế đến sự tăng trưởng và phát triển. Do đó cần có giải pháp toàn diện cho đầu tư phát triển kinh tế nông thôn (nói chung) và hạ tầng nông thôn (nói riêng). Các xã cần có quy hoạch tổng thể xây dựng các công trình hạ tầng và phúc lợi xã hội, lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân; Phân loại các công trình theo các tiêuc chí: sự thiết thực đối với người dân, quy mô vốn, phạm vi, tính chất sử dụng của từng công trình. Hình thành hệ thống định mức đầu tư đối với các công trình xã để làm căn cứ cho lập dự toán và nhân dân kiểm tra giám sát. Lập thiết kế mẫu đối với công trình hạ tầng xã để tạo thuận lợi và tiết kiệm chi phí. Mở rộng dân chủ trong việc quyết định và giám sát đầu tư. Khuyến khích nhân dân tham gia sản xuất như: khuyến nông, tập huấn kỹ thuật, đào tạo nghề nhằm khai thác vốn và kinh nghiệm để đầu tư sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
2.5.3 - Nâng cao năng lực quản lý đầu tư và hoàn thiện chính sách đầu tư trên địa bản tỉnh.
Nâng cao năng lực quản lý đầu tư phải nhằm vào quản lý tốt hơn việc lập kế hoạch, sử dụng, cấp phát, quyết toán vốn đầu tư của Nhà nước, đặc biệt trong đấu thầu lựa chọn nhà thầu dự án đầu tư. Tỉnh Bắc Ninh cần đào tạo đội ngũ cán bộ về hoạch định chính sách, chiến lược đầu tư, có kiến thức về thẩm định và quản lý dự án đầu tư.
Để tạo động lực thúc đẩy kinh tế tỉnh Bắc Ninh phát triển, cần hoàn thiện chính sách đầu tư trên địa bàn tỉnh. Chính sách này bao gồm các nộI dung: khuyến khích, ưu đãi, thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp nhỏ và làng nghề, ngoài khu công nghiệp; cơ chế một đầu mối trong việc cho các doanh nghiệp thuê đất; chính sách hỗ trợ phát triển đối với làng nghề, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Như vậy, trong thời gian tới tỉnh Bắc Ninh sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh... , đặc biệt là những thành quả to lớn mà hoạt động đầu tư phát triển đem lại. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tại Bắc Ninh, một loạt các giải pháp hữu hiệu đã được đề ra và thực hiện, đồng thời luôn có sự điều chỉnh gắn liền với thực tiễn biến đổi không ngừng của đất nước và khu vực. Xác định đi lên bằng nội lực là chủ yếu song chính quyền và nhân dân tỉnh Bắc Ninh vẫn luôn mong có sự quan tâm giúp đỡ nhiều hơn từ Quốc Hội, Chính Phủ và các Bộ ngành Trung ương về cơ chế, chính sách, về vốn... để tỉnh Bắc Ninh nhanh chóng trở thành một trong những khu vực kinh tế - văn hoá lớn mạnh của vùng và cả nước.
Tóm lại: Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII cùng hệ thống các quan điểm và mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, các giải pháp đã được đề cập để hoàn thành mục tiêu đó. Để thực hiện các giải pháp, luận văn kiến nghị một số vấn đề chủ yếu sau:
1/ Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện chính sách khuyến khích đầu tư, bao gồm cả trong và ngoài nước. Chính sách khuyến khích đầu tư thể hiện những yêu cầu mới trong quá trình phát triển của đất nước:
- Đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống chính sách kinh tế (nói chung) và chính sách đầu tư (nói riêng).
- Chính sách khuyến khích không chỉ nhằm vào các ngành, vùng khó khăn mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành trọng điểm, mũi nhọn, công nghệ cao, đón đầu phát triển, đáp ứng chiến lược tăng trưởng nhanh và bền vững.
- Chính sách khuyến khích đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ; khuyến khích nâng cao vai trò chủ đạo và hiệu quả trong đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách huy động vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư.
2/ Tăng cường phối hợp trong đầu tư phát triển vùng, từ việc phối hợp xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đến sự định hướng đầu tư sản xuất, kinh doanh hướng vào nhu cầu thị trường, trên cơ sở quy hoạch phát triển vùng. Để thực hiện điều này, vai trò chỉ đạo điều hành của Chính phủ và của các Bộ ngành là rất quan trọng.
3/ Tăng cường phân cấp trong quản lý đầu tư cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cơ sở khuôn khổ pháp lý nhằm phát huy nỗ lực sáng tạo của chính quyền địa phương, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
4/ Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý đầu tư, khắc phục tình trạng thất thoát vốn đầu tư của Nhà nước, tăng cường năng lực quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư.
KẾT LUẬN
Giai đoạn 1997 - 2007 là thời kỳ quan trọng, đánh dấu bước chuyển tiếp từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI. Trong giai đoạn phát triển này, đặc biệt tỉnh Bắc Ninh đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các ngành, lĩnh vực. Các nguồn lực cho phát triển của tỉnh, nhất là các nguồn nội lực đã được phát huy và khai thác có hiệu quả, tiếp tục khắc phục những yếu kém trong nền kinh tế xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Tỉnh Bắc Ninh đã tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư phát triển để tập trung cho các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, có thị trường tiêu thụ đồng thời nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh, tạo sự chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tý trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Nền kinh tế tỉnh Bắc Ninh đã từng bước chủ động hội nhập với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ mà cả nước. Các vấn đề xã hội bức xúc trên địa bàn tỉnh đã được quan tâm phát triển và đầu tư thoả đáng: xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, tăng cường và củng cố quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Những kết quả đạt được đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn của tỉnh Bắc Ninh. Bên cạnh đó trong quá trình phát triển vẫn còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc đòi hỏi chính quyền và nhân dân Bắc Ninh phải nỗ lực giải quyết đồng bộ và kịp thời để đạt được các mục tiêu đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2005 và các mục tiêu cơ bản đến năm 2010. Trong đó, huy động, sử dụng và quản lý nguồn vốn đầu tư có hiệu quả là một trong những vấn đề cần được quan tâm hàng đầu.
Với mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, luận văn đã tập trung giải quyết các vấn đề chủ yếu sau:
1/ Nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận về đầu tư phát triển, xác định rõ vai trò của đầu tư phát triển đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, nội dung, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư để vận dụng vào điều kiện cụ thể của tỉnh Bắc Ninh.
2/ Luận văn đã phân tích thực trạng đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997-2007, đánh giá những ưu, nhược điểm, làm rõ những cơ sở khoa học và thực tiễn để từ đó đề xuất những giải pháp cho đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020 theo hướng CNH-HĐH, đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.
3/ Luận án đã đề xuất hệ thống các quan điểm đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh, đề ra mục tiêu phát triển và hệ thống giải pháp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020. Trên cơ sở hệ thống các giải pháp, luận văn kiến nghị những vấn đề chủ yếu nhằm thực hiện có hiệu quả các giải pháp đã nêu, góp phần thực hiện hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình "Kinh tế đầu tư" - Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân - NXB Thống kê 2003.
2. Giáo trình "Lập và phân tích dự án đầu rút - Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân - NXB Thống kê 2000.
3. Giáo trình "Kinh tế phát triển" - Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân - NXB Lao động - xã hội 2005.
4. Niên giám thống kê 1998, 1999, 2000, 2001, 2002.
5. Niên giám thống kê tỉnh Bắc Ninh 2002, 2003.
6. Tổng quan quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.
7. Kế hoạch hàng năm 2000, 2001, 2002, 2003 của tỉnh Bắc Ninh.
8. Báo Bắc Ninh các số năm 2002, 2003.
9. Tạp chí Kinh tế và Dự báo: số 7/2000; số 10/2000; số 1 l/2000; số 4/2001 ; số 5/2002 .
10. Tạp chí Kinh tế và Phát triển : số 44/2001 ; số 45/2001; số 60/2001.
11. Ngân hàng Thế giới (1999), Bước vào thế kỷ 21, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12.Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh(2001), tổng hợp các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư các tỉnh đã ban hành, Bắc Ninh.
13. Báo cáo Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII năm 2006.
14. Bình Sơn, Tình hình kinh tế Trung Quốc, tạp chí tài chính doanh nghiệp số 11/2001.
15. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐạI hộI Đảng toàn quốc
16. Trần Xuân Tùng, Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia năm 2005.
17. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 1997-2007, NXB Thống kê 2008.
18. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2001, NXB Thống kê 2002.
19. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2002, NXB Thống kê 2003.
20. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2003, NXB Thống kê 2004.
21. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2004, NXB Thống kê 2005.
22. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2005, NXB Thống kê 2006.
23. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2006, NXB Thống kê 2007.
24. Niên giám Thống kê Bắc Ninh 2007, NXB Thống kê 2008.
25. Niên giám Tài chính - Ngân sách tỉnh Bắc Ninh 2001-2005, Bắc Ninh 2006.
26. Báo cáo Quyết toán ngân sách tỉnh Bắc Ninh các năm 2001,2002,2003,2004,2005,2006,2007.
27. Võ Đại Lược, Kinh tế Việt Nam đổi mới và phát triển, NXB Thế giới, Hà Nội 2007.
28. GS.TSKH Nguyễn Quang Thái, PGS.TS Ngô Thắng Lợi, Phát triển bền vững ở Việt Nam: Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng, NXB Lao động - xã hội, Hà Nội 2007.
29. Báo cáo số nợ đọng Thuế ở khu vực làng nghề đến năm 2007, Cục Thuế Bắc Ninh.
30. Một số tài liệu khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2559.doc