Đề tài Đầu tư phát triển ngành giáo dục - Đào tạo Việt Nam, thực trạng và giải pháp

- 1964- 1975: Trong tình hình đất nước bị chia cắt, có chiến tranh, nhiệm vụ kinh tế lớn lúc này là tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới, từng bước xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm hậu phương lớn chi viện kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam. Viện cùng với các nghành, các Viện và một số trường đại học, được chuyên gia Liên Xô hướng dẫn triển khai giới thiệu về phân vùng kinh tế, miền Bắc được chia thành 4 vùng nông nghiệp lớn gồm 46 tiểu vùng, năm 1969 đã trình Thường vụ Chính phủ xem xét kết quả nghiên cứu này. Các dự án phân vùng kinh tế kể trên là bước thử nghiệm đầu tiên nhằm đưa ra một sơ đồ tổ chức sản xu rên lãnh thổ ở phạm vi một số nghành kinh tế chủ yếu. Đồng thời tích luỹ một số kinh nghiệm ban đầu về công tác điều tra cơ bản, phân vùng quy hoạch, đào tạo được một lớp cán bộ đầu tiên về công tác nay ở Trung ương và địa phương. - Năm 1970 bắt đầu triển khai quy hoạch phát triển kinh tế ở 30 huyện. Việc làm quy hoạch các vùng nhỏ, các huyện điểm đã phục vụ việc lập kế hoạch kinh tế quốc dân và kế hoạch nhành ở Trung ương và địa phương. Việc tiến hành quy hoạch các huyện điểm và các vùng kinh tế mới để làm cơ sở cho việc tổ chức lại sản xuất ở đơn vị cơ sở đã cho chúng ta một số kinh nghiệm bước đầu để sau này thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng huyện.

doc104 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1033 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển ngành giáo dục - Đào tạo Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đổi mới phương pháp dạy và họ, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay. Đề cao tính tự chủ của trường đại học. Phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm, cải thiện chế độ đãi ngộ. Bảo đảm về cơ bản đội ngũ giáo viên đạt chuẩn quốc gia và tỷ lệ giáo viên so với học sinh theo yêu cầu của từng cấp học. Có cơ chế, chính sách bảo đảm đủ giáo viên cho các vùng miền núi cao, hải đảo. Tăng cường cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hoá nhà trường. Phấn đấu đến năm 2010 phần lớn các trường phổ thông có đủ điều kiện cho học sinh học tập và hoạt động cả ngày tại trường. Tăng đầu tư cho giáo dục từ Ngân sách Nhà nước và đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục – đào tạo. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở tất cả các bậc học, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. NSNN tập trung nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ cập, cho vùng nông thôn, miền núi, cho đào tạo trình độ cao và những ngành khó thu hút đầu tư ngoài NSNN. Tăng cương quản lý Nhà nước, đặc biệt là hệ thống thanh tra giáo dục, thiết lập kỷ cương, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực. Trong chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo giai đoạn 2001-2010, có thể thấy đầu tư là đòn bẩy quan trọng nhất để thực hiện các mục tiêu và định hướng nêu trên. Để tăng cường đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo Việt Nam, đòi hỏi phải có những giải pháp thiết thực góp phần tăng quy mô vốn đầu tư, bên cạnh đó thiết lập cơ cấu đầu tư hợp lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Phần dưới đây sẽ đề cập những giải pháp này cụ thể hơn. II. Một số giải pháp tăng cường đầu tư phát triển ngành giáo dục- đào tạo Việt Nam. 1. Nâng cao chất lượng môi trường đầu tư nói chung và môi trường đầu tư vào ngành giáo dục- đào tạo nói riêng. Có thể nói môi trường đầu tư tốt là điều kiện cần để thu hút vốn đầu tư. Môi trường đầu tư ở đây bao gồm cơ sở hạ tầng và hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách vĩ mô. Đất nước ta đang ở trong thời kỳ đổi mới và mở cửa, Hệ thống Luật pháp cũng không ngừng được cải tiến để phù hợp với xu thế thời đại. Trong những năm qua, Việt Nam luôn nằm trong tốp dẫn đầu của thế giới vì nhịp độ tăng trưởng nhanh (7-8%/năm). Thành công này thu được từ sự nỗ lực của toàn Đảng toàn dân, đổi mới về cơ chế chính sách cũng như huy động hiệu quả cả nội lực và ngoại lực. Việt Nam đang là điểm đến của các nhà đầu tư trên thế giới, ODA, FDI đầu tư vào Việt Nam liên tục tăng qua các năm, đặc biệt năm 2006 thu hút FDI với con số đầy ấn tượng: khoảng 10,4 tỷ USD. Bên cạnh đó VĐT toàn xã hội chiếm khoảng 36% GDP hàng năm. Nguồn VĐT phát triển ngành giáo dục – đào tạo gồm nguồn NSNN và ngoài NSNN, như ta thấy nguồn NSNN là hạn chế chính vì vậy cần tranh thủ huy động các nguồn vốn ngoài NSNN góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển giáo dục – đào tạo nước nhà. Để thực hiện những nhiệm vụ nêu trên, cần thực hiện một số giải pháp sau: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống Luật pháp, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư vừa chặt chẽ nhưng cũng không kém phần thông thoáng và lành mạnh. Trong thời gian qua với nỗ lực trong hội nhập quốc tế và gia nhập vào sân chơi chung đầy thách thức_WTO, Việt Nam đã tích cực hoàn thiện hệ thống Luật pháp cho phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện riêng có của đất nước. Luật Đầu tư và Luật Giáo dục mới được ban hành năm 2005 là minh chứng cho những nỗ lực đó. Tuy nhiên, với tầm quan trọng và nhạy cảm của mình, giáo dục vẫn là một ngành đầu tư có điều kiện, chính vì vậy đòi hỏi các cơ quan chức năng phải xem xét rất kỹ lưỡng khi cấp giấy phép đầu tư. Bên cạnh đó, cũng cần có những chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các tổ chức đầu tư vào địa bàn khó khăn và những lĩnh vực ưu tiên phát triển và đầu tư phi lợi nhuận. Gia nhập WTO, đồng nghĩa với việc Việt Nam mở cửa thị trường giáo dục, trước hết là “chấp nhận cơ chế thị trường trong đào tạo ĐH thuộc các ngành kỹ thuật – công nghệ và dạy nghề” theo như lời khẳng định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trong thời gian sắp tới, các nhà đầu tư quốc tế sẽ ồ ạt đến Việt Nam mang đến nhiều lợi ích nhưng cũng đem đến vô số những thách thức. Bên cạnh các tổ chức là những trường có chất lượng thì còn một số cơ sở kém chất lượng lợi dụng những sinh viên cả tin, chỉ theo đuổi lợi nhuận mà không quan tâm đến chất lượng và cấp những tấm bằng vô giá trị. Việt Nam, thông qua Bộ GD – ĐT, cần phải có phương hướng để giải quyết vấn đề “bảo vệ người học” và ngăn chặn nguy cơ cũng như sự du nhập của những trường kém chất lượng. Bộ GD – ĐT cùng với các cơ quan chức năng khác nên đề cao cảnh giác và cố gắng phê chuẩn những chương trình đào tạo có lợi cho người học, cho các trường và cho nền giáo dục Việt Nam nói chung. Hệ thống giáo dục Việt Nam cần có những quy hoạch phát triển cụ thể đối với từng cấp bậc học và từng vùng miền, đa dạng hoá các hình thức đầu tư, tránh phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Cố gắng tạo một môi trường thực sự lành mạnh và thuận lợi để thu hút và huy dộng vốn đầu tư phát triển nói chung và vốn đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo nói riêng. Bên cạnh đó quá trình hoạch định và thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực thông qua GD – ĐT không chỉ là công việc riêng của Chính phủ trung ương mà còn phải có sự cộng tác chặt chẽ của chính quyền địa phương và các nhóm lợi ích liên quan như giới kinh doanh, phụ huynh, công đoàn, giới sử dụng lao động. Các bên sẽ ngồi vào bàn thảo luận với nhau để hiểu nhu cầu của nhau và từ đó tạo ra một sự kết hợp tốt nhất giữa các nhu cầu. Nhờ vậy, trong quá trình thực hiện chính sách, tất cả các giới liên quan này đều ủng hộ và tham gia tích cực. 2. Giải pháp về tăng cường quy mô vốn đầu tư. 2.1 Vốn NSNN. Tiếp tục giữ vũng tốc độ tăng chi của NSNN cho giáo dục – đào tạo theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế, phấn đấu đến năm 2010, chi cho giáo dục – đào tạo chiếm khoảng 20% tổng chi NSNN. Bởi NSNN ta quy mô vẫn còn rất nhỏ bé so với các nước có nền kinh tế phát triển, bên cạnh đó dân số trong độ tuổi đi học lại rất lớn (năm 2006: khoảng 24 triệu người) và liên tục tăng qua các năm. Mặc dù Nhà nước ta coi chi cho giáo dục – đào tạo là danh mục chi được ưu tiên hàng đầu nhưng NSNN hiện nay mới chỉ đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu thực tế nên tăng NSNN cho giáo dục – đào tạo qua các năm là hết sức cần thiết. Ngay cả khi tham gia vào thị trường giáo dục do WTO điều tiết thì Nhà nước vẫn là nguồn cung Ngân sách quan trọng cho hoạt động của các cơ sở giáo dục – đào tạo, đóng vai trò định hướng trong sự phát triển của ngành giáo dục – đào tạo. Nhà nước cần có những biện pháp để tăng thu NSNN, từ đó tạo điều kiện cho tăng chi NSNN nói chung và chi giáo dục – đào tạo nói riêng. Xin đề xuất một số giải pháp sau: Tăng tỷ lệ động viên của NSNN trên cơ sở thực hiện việc thu đúng, thu đủ các nguồn thu thuế, phí , lệ phí trong phạm vi đã được quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và pháp lệnh về phí và lệ phí được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2002. Quản lý tốt việc triển khai các luật thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập... Chống thất thu, gian lận thương mại, trốn thuế thông qua việc áp dụng một số biện pháp như: Tiến hành điều tra chính xác cũng như nắm bắt tốc độ phát triển để có mức thu phù hợp với các hộ, tổ chức, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Chi trọng điểm, tránh tình trạng dàn trải, triệt để tiết kiệm chi NSNN, tích cực kiểm tra, thanh tra để chống thất thoát và lãng phí trong việc sử dụng vốn NSNN. Nhà nước cần tiếp tục ưu tiên đầu tư cho giáo dục phổ cập, cho các vùng kinh tế khó khăn, tăng cường cơ sở vật chất cho các trường đào tạo nghề. Thêm vào đó là dành nhiều Ngân sách hơn nữa cho học bổng và nghiên cứu khoa học ở các trường đại học, ưu tiên đầu tư phát triển một số trường đại học trọng điểm... Bên cạnh nguồn NSNN thì nguồn Ngân sách địa phương cũng đóng vai trò rất quan trọng. Địa phương cần chủ động ngân sách chi cho giáo dục, tránh tình trạng trông chờ, ỷ lại vào nguồn NSNN cấp. Cần nhanh chóng bố trí vốn đối ứng trong các dự án và chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển giáo dục – đào tạo để các chương trình dự án này được thực hiện đúng tiến độ. 2.2 Vốn ngoài NSNN. a) Nguồn vốn trong nước. Trong điều kiện nước ta còn là nước có nền kinh tế đang phát triển, hơn nữa các nguồn lực cho phát triển là hạn chế, chính vì vậy tranh thủ mọi nguồn lực cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo nói riêng là hết sức cần thiết. Suy cho cùng, sản phẩm của ngành giáo dục là nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội sau này nên có thể nói ngành giáo dục – đào tạo và các ngành kinh tế khác có mối quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển của ngành giáo dục cần sự chung tay giúp sức của tất cả các thành viên trong xã hội, từ đó giúp xã hội ngày một phát triển hơn. Để có thể huy động tối đa nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo, cần tập trung vào một số giải pháp sau: Áp dụng chế độ: người đi học phải đóng học phí. Theo Luật giáo dục quy định: trừ học sinh tiểu học, học sinh các cấp, bậc học khác đều phải đóng học phí. bên cạnh đó, Nhà nước cũng có chính sách miễn giảm học phí đối với các học sinh nghèo, học sinh thuộc diện chính sách. Trong những năm qua số tiền học phí thu được đều để lại nhà trường, một phần để tăng thu nhập cho các giáo viên, một phần chi mua sắm các thiết bị đồ dùng dạy học...Bên cạnh học phí, do NSNN chi cho giáo dục – đào tạo còn hạn hẹp, nên thời gian qua hầu hết các trường còn định ra nhiều khoản thu khác từ học sinh. Trong đó phải kể đến khoản thu xây dựng trường, vệ sinh nhà trường, bảo vệ trường, quỹ hội phụ huynh học sinh và nhiều loại quỹ khác nhau, phần đông nhân dân không đồng tình với tình hình này. Các cấp quản lý giáo dục theo chỉ thị của Chính phủ đang xử lý tình hình này theo hướng có quy định chính thức các khoản thu, có quy định các khoản tiền thu được và công khai với tất cả các phụ huynh và giáo viên trong trường. Điều 92, Luật Giáo dục giao cho Hội đồng nhân dân các cấp quy định mức đóng góp xây dựng trường... Trong những năm tới, khi Việt Nam có một nền giáo dục mở cửa, các trường quốc tế có chất lượng sẽ tới Việt Nam mở cơ sở giáo dục – đào tạo. Cần khuyến khích học sinh, sinh viên du học tại chỗ nhằm tranh thủ nguồn ngoại tệ lâu nay đóng góp cho các nước khác của sinh viên đi du học nước ngoài. Bên cạnh nguồn học phí đóng góp của học sinh, Nhà nước cũng cần có những chính sách huy động vốn đầu tư của các cá nhân và tổ chức trong xã hội qua việc phát hành công trái giáo dục góp phần bổ sung thêm nguồn vốn đầu tư phát triển ngành giáo dục đào tạo. Tiếp tục khuyến khích phong trào thành lập các quỹ khuyến học ở trung ương cũng như địa phương, các quỹ này hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận, thông qua đóng góp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Quỹ tập trung khuyến khích các học sinh giỏi, các học sinh nghèo, đặc biệt là học sinh nghèo học giỏi. Bên cạnh các quỹ khuyến học, cần xúc tiến thành lập các quỹ tín dụng giáo dục. Khi chấp nhận cơ chế thị trường trong giáo dục đại học và dạy nghề thì quỹ tín dụng giáo dục giữ một vai trò rất quan trọng. Với thị trường giáo dục đại học và dạy nghề mở cửa nghĩa là các cơ sở giáo dục – đào tạo phải chấp nhận một môi trường cạnh tranh rất gay gắt, và học phí mỗi sinh viên phải trả hàng năm phản ánh rất rõ chất lượng giảng dạy và học tập sinh viên đó nhận được. Lúc này, dường như sự phân hoá giàu nghèo sẽ xuất hiện trong môi trường giáo dục. Để khắc phục điều này, quỹ tín dụng giáo dục xuất hiện như một yếu tố giúp điều hoà sự mất cân bằng trên. Quỹ sẽ cho những sinh viên không đủ tiền theo học vay một khoản nhất định dựa trên sự can kết của sinh viên, gia đình, chứng nhận của cơ quan chức năng. Sau một thời gian ra trường, sinh viên đó sẽ hoàn trả lại khoản tiền đã vay cùng một số lãi nhất định. Hiện nay các quỹ này hoạt động chưa phát huy hết tác dụng của nó, do bản thân người học và xã hội chưa thực sự tin tưởng và còn tâm lý e ngại vào vai trò của các quỹ tín dụng giáo dục. Tình trạng quỹ nằm chờ sinh viên đến vay tiền diễn ra thường xuyên Đòi hỏi Nhà nước cùng các cơ quan chức năng cần có những biện pháp tuyên truyền thích hợp để sinh viên cũng như mọi người hiểu được vai trò và tác dụng của quỹ tín dụng giáo dục, bên cạnh đó chính phủ cũng nên hỗ trợ gián tiếp bằng cách bảo lãnh cho sinh viên các trường tư thục được vay tiền để học vì học phí của các trường tư cao hơn so với trường công lập, góp phần giảm bớt khó khăn và trở ngại cho người học. Việc kêu gọi sự đóng góp của các doanh nghiệp và doanh nhân cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo thời gian qua đang được các cơ quan chức năng quan tâm và chú ý, điều này càng thể hiện rõ hơn trong thư của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng gửi các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể tài trợ cho giáo dục đào tạo thông qua học bổng, đóng góp vào các quỹ khuyến học... Tiến hành thí điểm cổ phần hoá các trường cao đẳng, đại học công lập. Trong phiên họp thường kỳ của Chính phủ tháng 11 diễn ra tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu Bộ GD – ĐT lập đề án thí điểm cổ phần hoá từ 15 – 20 trường đại học, cao đẳng trong 5 năm tới. Trong đề án, cần đặc biệt chú ý bán cổ phần cho các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Việc cổ phần hoá trường đại học, cao đẳng nhằm mục tiêu mở rộng xã hội hoá trong lĩnh vực này, tăng quyền tự chủ cho các trường và tăng thu hút vốn đầu tư xã hội để đầu tư cơ sở, trang thiết bị dạy học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Đồng thời thông qua cổ phần hoá các trường đại học, cao đẳng, Nhà nước sẽ tập trung đầu tư cho các trường trọng điểm và đầu tư cho giáo dục ở những vùng còn nhiều khó khăn. Bước tiếp theo có thể tiến hành niêm yết cổ phiếu của các trường đã cổ phần hoá trên thị trường chứng khoán. Điều này tạo thuận lợi hơn trong việc thu hút vốn đầu tư cho các trường này. Tạo ra cơ chế quản lý và sử dụng vốn hiệu quả, bên cạnh đó giá cổ phiếu cũng sẽ phản ánh chất lượng giảng dạy thực sự của cơ sở đào tạo được niêm yết cổ phiếu. Chính phủ thời gian qua đã tạo điều kiện khuyến khích thành lập các trường ngoài công lập để tận dụng nguồn lực ngoài NSNN, hệ thống các trường ngoài công lập đã góp phần đáp ứng như cầu học tập ngày càng cao của nhân dân. Ở Việt Nam hiện nay hình thức đại học tư thục phi lợi nhuận còn rất xa lạ. Tuy nhiên trên thế giới, ngoài Mỹ thì Nhật là một nước cũng có nhiều trường tư thục phi lợi nhuận, tiêu biểu là trường Keio và Waseda. Ở châu Âu, hầu hết các trường đại học đều là trường công lập, nhưng mấy năm gần đâycó xu hướng thành lập thêm các trường đại học tư thục phi lợi nhuận. Lợi thế của những trường này so với các trường tư thục vì lợi nhuận ở chỗ có thể vận động quyên góp tài trợ của các công ty và nhà hảo tâm (không có tổ chức và cá nhân nào tài trợ cho các tổ chức vì lợi nhuận cả). Nhiều tổ chức, quỹ từ thiện và các công ty quốc tế cũng có chính sách chỉ tài trợ cho các trường phi lợi nhuận. Các trường tư thục phi lợi nhuận khi đó sẽ có hẳn các phòng ban chuyên trách về việc gây quỹ và quản lý để đầu tư sinh lợi cho trường. Đấy sẽ là mô hình xã hội hoá giáo dục đại học toàn diện hơn so với mô hình xã hội hoá giáo dục hiện nay đang được áp dụng. Những thuân lợi về mặt khuyên góp tiền sẽ cho phép các trường tư thục phi lợi nhuận phát triển để trở thành những trường đại học nghiên cứu hoàn chỉnh với những cơ sở vật chất và nguồn nhân lực đủ để nghiên cứu và đào tạo về nhiều ngành khoa học tự nhiên, xã hội và công nghệ...Hiện ở Việt Nam chưa có quy định hay điều lệ nào về trường đại học phi lợi nhuận. Nên chăng các cơ quan chắc năng tiến hành xem xét và có những luật hướng dẫn chi tiết về việc thành lập, quản lý và điều hành các trường đại học phi lợi nhuận để công cuộc xã hội hoá giáo dục được hoàn thiện hơn nữa. Tiếp tục khuyên khích các trường đại học, cao đẳng tạo ra các dịch vụ có thu. Có thể xem xét khuyến khích thành lập các quỹ đầu tư đại học dựa trên sự đóng góp của các nhà hảo tâm và doanh nghiệp. Quỹ hoạt động dưới sự điều hành của những chuyên gia về đầu tư và chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực giáo dục – đào tạo. Ở Mỹ những loại hình quỹ này đang huy động được một lượng vốn rất lớn và tỷ suất lợi nhuận đôi khi cao hơn hẳn các quỹ đầu tư khác bởi vì nguồn vốn là tự nguyện đóng góp của các cà nhân và tổ chức nên hàng năm không phải đứng trước sức ép chia cổ tức, quỹ có thể yên tâm đầu tư vào những lĩnh vực mang tính rủi ro cao hơn và đầu tư mang tính chất dài hạn. Lợi nhuận của quỹ một phần sẽ quay trở lại dành cho học bổng, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác... Bên cạnh đó chủ động tìm kiếm đối tác trong các dự án nghiên cứu khoa học, các nhà tài trợ trong và ngoài nước góp phần tạo nguồn vốn phục vụ cho hoạt động đào tạo của chính trường đại học, cao đẳng đó. b) Nguồn vốn nước ngoài. Việt Nam từ lâu đã có sự hợp tác rộng rãi với các nước, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á, UNESCO, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), tổ chức đại học các nước nói tiếng Pháp. Cần tranh thủ hợp tác với các tổ chức trên để tận dụng về nguồn vốn và nguồn nhân lực cũng như sự tiến bộ của chương trình đào tạo, từ đó phát triển giáo dục trong nước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Năm 2006 Việt Nam được kết nạp là thành viên chính thức của WTO. WTO mang đến nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Quan điểm cơ bản của WTO coi giáo dục là 1 trong 12 ngành dịch vụ thương mại thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Dịch vụ này cần được từng bước tự do hoá thương mại trên cơ sở đàm phán. GATS từng bước thúc đẩy giáo dục xuyên biên giới nhằm mục đích lợi nhuận. Hiện nay ngoài những đặc trưng chủ yếu của nền giáo dục Việt Nam đổi mới vừa qua, giáo dục đại học Việt Nam sau WTO sẽ có đặc trưng mới: Chấp nhận thị trường giáo dục. Hệ thống giáo dục đại học sẽ có ba thành phần đan xen nhau: giáo dục với tư cách lợi ích công, giáo dục với tư cách dịch vụ và giáo dục với tư cách hàng hoá. Trong bản chào dịch vụ đa phương, mức cam kết của Việt Nam khá sâu và rộng. Việt Nam mở cửa hầu hết các lĩnh vực giáo dục về khoa học tự nhiên và kỹ thuật, quản lý doanh nghiệp, kinh tế, kế toán và ngôn ngữ, trong đó GD đại học được coi là lĩnh vực mở cửa rộng nhất với lộ trình thích hợp. Trong thời gian tới sẽ có rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam mở các cơ sở giáo dục – đào tạo với mục tiêu kinh doanh hoạt động giáo dục đại học vì lợi nhuận, chính vì vậy cần có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nhằm thu hút nhiều hơn nữa vốn cho công cuộc phát triển ngành giáo dục – đào tạo. Thực hiện các biện pháp xúc tiến đầu tư (do chính Bộ GD – ĐT tiến hành hoặc do các địa phương tiến hành nhằm thu hút đầu tư). Bên cạnh các cơ chế linh hoạt, cần kiểm soát chặt chẽ về phương hướng và nội dung đào tạo, nội dung đào tạo phải được thông qua bởi Bộ GD – ĐT, kịp thời ngăn chặn những cơ sở giáo dục có chất lượng kém, không quan tâm đến chất lượng giảng dạy. Và một lo lắng được đặt ra ở đây là công bằng xã hội. Trong một nghiên cứu khá kỹ lưỡng về giáo dục xuyên biên giới của Trung Quốc khi gia nhập WTO, đã chỉ ra “một tình thế khó xử” mà Chính phủ nước này phải đối mặt: giáo dục là công lập hay tư thục. Khi giáo dục đại học trở nên ngày càng thị trươờng hoá, người Trung Quốc bắt đầu nhận thấy nguồn tài chính giáo dục trước hết và cơ bản dựa vào khu vực tư nhân. “Tìm ra các phương thức cung cấp tài chính cho việc học của con cái đã làm cho các bậc phụ huynh muốn phát điên khi Chính phủ và chính quyền địa phương đã chuyển trách nhiệm xã hội của giáo dục đại học cho địa phương và gia đình” theo như lời nhận xét của GS Ka Ho Mok – viện trưởng Trung tâm Nghiên cứu Đông Á (ĐH Briston, Anh) đã nhận xét. Người nghèo sẽ dễ thiệt thòi vì khi các nước xuất khẩu giáo dục đầu tư vào thị trường Việt Nam, tất nhiên họ chỉ hướng tới đối tượng có tiền vì có khả năng sinh lời từ đối tượng này. Ranh giới giàu nghèo trong giáo dục sẽ càng tăng khoảng cách.Trong điều kiện đó đòi hỏi sự phát huy tác dụng của các quỹ tín dụng giáo dục cũng như bảo lãnh của Nhà nước cho sinh viên nghèo vay tiền theo học tại các trường có chất lượng nhưng chi phí học tập cao. Bên cạnh đó thị trường xuyên quốc gia có thể thu hút những người có khả năng chi trả, để lại sự yếu kém trong khả năng huy động các nguồn vốn của khu vực còn lại. Khu vực giáo dục công lập có thể lún sâu hơn vào tình trạng yếu kém. Những thách thức đặt ra trên đây đòi hỏi sự điều tiết hợp lý của Nhà nước và các cơ quan chức năng. Nhưng nói chung về cơ bản trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, sự mở cửa của ngành giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng là cần thiết, nó góp phần huy động nhiều hơn nữa ngoại lực cần thiết cho phát triển giáo dục – đào tạo , nâng cao chất lượng của các cơ sở giáo dục – đào tạo trong nước khi phải tham gia một môi trường cạnh tranh khốc liệt. Nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA thường được phân bổ cho cơ sở qua các CTMTQD GD – ĐT. Đối với việc thu hút nguồn vốn ODA cần tập trung vào một số giải pháp sau: Cần có sự chỉ đạo thống nhất của các cấp uỷ Đảng và các cấp chính quyền địa phương trong việc xác định mục tiêu, nội dung CTMTQG GD – ĐT trên từng địa bàn. Làm tốt hơn công tác quy hoạch, kế hoạch trên cơ sở trên cơ sở quy mô và nhu cầu phát triển giáo dục trên địa bàn, xác định rõ mục tiêu đầu tư; đổi mới công tác xây dựng kế hoạch CTMTQG GD – ĐT theo hướng phù hợp và có tính khả thi. - Tăng cường năng lực cán bộ quản lý CTMTQG, thực hiện nghiêm chế độ báo cáo định kỳ về tình hình giải ngân, tình hình thực hiện các quy định về mua sắm đấu thầu. Thực hiện vốn ODA đúng mục đích. Năm 2006 là năm có ý nghĩa rất quan trọng 3. Giải pháp về thiết lập cơ cấu vốn đầu tư hợp lý. Hệ thống giáo dục nước ta thời gian qua còn có sự mất cân đối trong đầu tư giữa các cấp bậc học, giữa các vùng miền cũng như cơ cấu ngành nghề đòi hỏi phải có những biện pháp khắc phục một cách hiệu quả. Đối với từng cấp bậc học, ở mỗi thời kỳ kinh tế khác nhau cần có những chính sách đầu tư khác nhau. Trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, nền kinh tế có xuất phát điểm thấp nên rất hạn chế về nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính cho giáo dục – đào tạo. Trong thời kỳ này, nhiều nền kinh tế nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục tiểu học nên ưu tiên đầu tư cao nhất cho giáo dục tiểu học trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, tiến tới phổ cập giáo dục tiểu học. Thời kỳ chuyển dịch cơ cấu công nghiệp từ các hoạt động giá trị gia tăng thấp lên các hoạt động giá trị gia tăng cao, cần mở rộng cơ hội tiếp nhận giáo dục trung học cho học sinh và ưu tiên đầu tư cho cấp học này, không chỉ là giáo dục phổ thông cấp trung học mà còn cả giáo dục nghề nghiệp cấp trung học. Bên cạnh mở rộng và dành ưu tiên đầu tư cao nhất cho giáo dục trung học, cần tiếp tục tăng đầu tư cho mỗi học sinh tiểu học nhưng tốc độ tăng sẽ thấp hơn cho giáo dục trung học. Nó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học, sau khi đã đạt được những thành tựu về số lượng. Chất lượng giáo dục tiểu học được nâng lên là nền tảng quan trọng cho sự cải thiện chất lượng các cấp học cao hơn. Hiện nay chúng ta đang ở trong thời kỳ mà nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi kỹ năng ngày càng cao của người lao động. Cần đặt trọng tâm vào phát triển giáo dục nghề và đào tạo lại nhằm nâng cao khả năng thích ứng với sự thay đổi trên thị trường lao động. Để khuyến khích học sinh tham gia vào các trường giáo dục và đào tạo nghề, cần xây dựng và phát triển một hệ thống tư vấn hướng nghiệp rộng rãi đến từng trường trung học phổ thông, đa dạng hoá các phương thức đào tạo nghề. Quan điểm hàng đầu của đào tạo nghề phải là gắn việc học nghề với việc tạo chỗ làm việc có thu nhập khá hơn. Nó đúng cho lớp người trẻ tuổi phải hướng tới các nghề đòi hỏi trình độ cao hơn, những người thuộc tầng lớp trung niên có nguy cơ thất nghiệp phải bắt buộc chuyển nghề. Cần phát triển nông thôn đủ mạnh sao cho giữ được lao động dư ra chuyển sang công nghiệp ở nông thôn, ngoài việc nhà nước đầu tư đào tạo nghề làm nòng cốt, thì việc huy động tiềm lực của nhân dân để đầu tư, tổ chức tiếp thu, truyền bá hàng trăm nghề cho hàng chục triệu người là hết sức cần thiết. Đào tạo nghề ở nông thôn phải là một bộ phận của Chương trình xoá đói giảm nghèo và các chương trình mục tiêu quốc gia khác. Bên cạnh đào tạo nghề ở nông thôn thì đào tạo nghề ở thành phố cũng cần được chú trọng vì số lượng người thất nghiệp ở thành phố đang có xu hướng tăng. Tập trung vào đào tạo lao động mới trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Để đào tạo nghề được cho nhiều người, đạt hiệu quả cao, cần áp dụng công nghệ thông tin trong đào tạo nghề với các hình thức: Đào tạo từ xa, qua mạng, với các trung tâm dạy nghề chuyên dạy nghề qua mạng. Việc thực tập ở xưởng máy cũng thực hiện qua mạng, chỉ phải trực tiếp đến xưởng “làm thực” một thời gian quy định. Hình thức đào tạo nghề này tạo cho người học chăm chỉ điều kiện để đạt chất lượng rất cao, kể cả đối với các nghề phức tạp. Đào tạo bởi máy điện tử dạy học cho những người tự học nghề. Đào tạo nghề bởi các trung tâm dạy nghề quốc tế qua mạng Internet Việc này đối với nước ta còn mới mẻ, tuy nhiên nó có hiệu quả, cần phải triệt để vận dụng các thành tựu này của nền giáo dục hiện đại, góp phần cải tiến giáo dục dạy nghề ở nước ta Bên cạnh đó cũng cần đầu tư phát triển giáo dục đại học và cao đẳng, tạo ra đội ngũ nhân lực có chất lượng, tay nghề cao và khả năng thích ứng nhanh. Khắc phục sự mất cân đối giữa giáo dục nghề nghiệp cấp trung học, phổ thông và giáo dục đại học, cao đẳng. Sự mất cân đối trong đầu tư phát triển đào tạo các ngành nghề khác nhau, khuynh hướng đào tạo những ngành nghề tốn ít tiền vốn đầu tư vào cơ sở vật chất, đào tạo theo những gì đã có là một sai lầm cần khắc phục. Doanh nghiệp và nhà trường cần kết hợp với nhau trong việc tìm hiểu nhu cầu của người sử dụng lao động, từ đó doanh nghiệp cũng cần hợp tác và giúp đỡ nhà trường trong đào tạo. Tiến tới đầu tư vào đào tạo những ngành nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội. Cần có những biện pháp tuyên truyền cần thiết để mọi người ý thức được tầm quan trọng của giáo dục nghề nghiệp. Cơ cấu đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo giữa các vùng miền còn mất cân đối. Các cơ sở giáo dục – đào tạo chủ yếu tập trung ở thành thị và đồng bằng. Để khắc phục tình trạng trên cần có sự can thiệp mạnh mẽ hơn nữa của các cơ quan chức năng trong quá trình thực hiện công bằng trong giáo dục đối với học sinh vùng sâu, cùng xa, vùng kinh tế khó khăn. Thông qua các CTMTQG GD – ĐT nhằm cải thiện hệ thống trường lớp, thiết bị giảng dạy và học tập, bên cạnh đó còn có một mục vốn riêng để hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người, vùng có nhiều khó khăn .Và điều quan trọng nhất đó là đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực sư phạm của giáo viên vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn, chăm lo đến đời sống của người giao viên. Thiết lập các quỹ khuyến học cũng như có chính sách vận động tích cực giúp học sinh miền núi, người dân tộc, trẻ em nghèo đến trường học tập. Cần tiếp tục ưu tiên ngân sách cho những vùng này, bên cạnh đó cần có những biện pháp tuyên truyền, vận động thêm sự đóng góp của nhân dân, của các tổ chức và doanh nghiệp để giúp đỡ những vùng khó khăn trên, có những chính sách hỗ trợ thích hợp đối với các cơ sở giáo dục – đào tạo hoạt động tại vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn. 4. Giải pháp về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, chống thất thoát lãng phí trong đầu tư. Mọi công cuộc đầu tư đều hướng tới một kết quả cuối cùng đó là làm thế nào để đạt được mục tiêu một cách tốt nhất. Việc dùng mọi biện pháp để có thể huy động được càng nhiều nguồn lực phát triển càng tốt nhưng sẽ chẳng có nghĩa lý gì nếu việc quản lý và sử dụng những nguồn vốn đó kém hiệu quả, gây lãng phí lớn trong hoạt động đầu tư cả về sức người và sức của. Trong hoạt động đầu tư phát triển ngành giáo dục đào tạo cũng vậy, để đạt được kết quả tốt nhất, bên cạnh những giải pháp về tăng cường khả năng huy động các nguồn vốn đầu tư cũng như thiết lập cơ cấu vốn đầu tư hợp lý thì nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, chống thất thoát lãng phí trong hoạt động đầu tư là nhóm giải pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định chất lượng hoạt động đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo Việt Nam. Ta sẽ xem xét những giải pháp cụ thể ở phần dưới đây: 4.1. Đổi mới về tư duy, nhận thức của các cá nhân và tổ chức trong công cuộc đầu tư phát triển ngành giáo dục- đào tạo. Bên cạnh những thành tựu to lớn, đáng tự hào, ngành giáo dục cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề trong đó có sự mất cân đối giữa phát triển kinh tế - xã hội và phát triển giáo dục; giữa mong muốn phát triển giáo dục thật nhanh và hiện thực đầu tư chưa cao cho giáo dục; giữa yêu cầu phát triển số người đi học và khả năng đảm bảo chất lượng giáo dục; giữa ý định phổ cập ngay giáo dục phổ thông trung học trong cả nước và các điều kiện thực hiện; yêu cầu giáo dục toàn diện với sự thiếu hụt cả về số lượng và chất lượng giáo viên... Để giải quyết từng bước các vấn đề trên, cần phải có cách nhìn mới, quan niệm mới về giáo dục. Trước hết, phải khắc phục tư tưởng coi giáo dục chỉ nằm trong phạm vi của cách mạng tư tưởng – văn hoá, mà phải khẳng định giáo dục giữ vị trí trọng yếu đối với toàn bộ công cuộc phát triển đất nước: chiến lược phát triển giáo dục là một bộ phận trong chiến lược phát triển con người, và chiến lược con người đứng ở vị trí trung tâm của toàn bộ chiến lược kinh tế - xã hội của đất nước. Giáo dục cung với khoa học công nghệ hiện nay được xem là quốc sách hàng đầu. Thứ hai, phải khắc phục quan niệm coi đầu tư cho giáo dục – đào tạo như một thứ phúc lợi đơn thuần, đầu tư đến đâu hay đến đó. Đầu tư cho giáo dục – đào tạo là đầu tư cho phát triển, đầu tư cơ bản cho chiến lược kinh tế -xã hội. Thứ ba, toàn bộ quá trình đổi mới tư duy giáo dục phải bám sát mục tiêu giáo dục đó là đào tạo nên một lớp người phát triển toàn diện về nhân cách, sức khoẻ, và có khả năng nghề nghiệp. Thứ tư, cần đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò quyết định của đội ngũ giáo viên đối với phát triển giáo dục và thực hiện chất lượng giáo dục. 4.2. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư phát triển ngành giáo dục đào tạo Việt Nam. Giáo dục – đào tạo giữ một vai trò vô cùng q uan trọng đối với sự phồn vinh của một đất nước chính vì vậy đòi hỏi trong hoạt động đầu tư cần có sự định hướng và quản lý tốt của các cơ quan chức năng. Trước hết Bộ GD – ĐT cung với các ban ngành, các nhóm lợi ích có liên quan cung ngồi lại để có thể xác định những chính sách phù hợp cũng như chiến lược và quy hoạch phù hợp nhằm phát triển ngành giáo dục – đào tạo phù hợp với thực tế và sự phát triển của thời đại. Đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo cũng phải tuân theo những chiến lược và quy hoạch. Các nhà quản lý vĩ mô cần làm tốt hơn công tác quy hoạch, kế hoạch trên cơ sở quy mô và nhu cầu phát triển giáo dục trên từng địa bàn, xác định rõ mục tiêu ưu tiên đầu tư. Nhà nước cũng cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý các dự án phát triển giáo dục đào tạo có sử dụng vốn NSNN, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tiến độ thực hiện, kiểm tra công tác đấu thầu, dự toán, quyết toán vốn đầu tư. Có những quy định công khai và chi tiết về những khoản thu, chi chính thức trong các trường học. Thực hiện phân cấp trong quản lý giáo dục – đào tạo nói chung và hoạt động đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo nói riêng. Quy định rõ chức năng cũng như nhiệm vụ của các đơn vị trực thuộc Bộ GD – ĐT, chức năng của các Bộ, Ngành có liên quan. NSNN phân bổ nguồn vốn cho địa phương và từng cơ sở. Các đơn vị này sẽ có trách nhiệm bố trí vốn đối ứng và thực hiện cũng như tự chịu trách nhiệm theo đúng những mục tiêu vĩ mô đã đề ra. Tiếp tục xây dựng, tăng cường nền nếp, kỷ cương, ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội xâm nhập vào các cơ quan giáo dục và nhà trường. 4.3. Xây dựng mô hình quản lý giáo dục kiểu mới. Để xây dựng được mô hình quản lý giáo dục kiểu mới trước hết phải xây dựng và thực hiện chuẩn hoá đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, đây là một giải pháp hết sức quan trọng trong các nhóm giải pháp để thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010. Cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo, đặc biệt nâng cao bản lĩnh về chính trị, phẩm chất, đạo đức, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp. Có thể nói đội ngũ nhà giáo là tài sản trí tuệ lớn nhất còn cán bộ quản lý giáo dục là người quản lý lớn nhất khối trí tuệ đó. Để xây dựng được một đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục chuyên nghiệp, có chất lượng cao, cần tập trung vào một số giải pháp sau: Xây dựng mẫu cán bộ quản lý mới phù hợp với bối cảnh hội nhập nghĩa là: người cán bộ quản lý phải có tố chất nhân cách – trí tuệ cụ thể là phải có kiến thức mẫu mực, tác phong mẫu mực và hiệu quả mẫu mực; người cán bộ quản lý phải có tố chất quản lý nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay; có tố chất về năng lực lãnh đạo và tổ chức. Xây dựng thang chuẩn đánh giá và đổi mới quy trình bổ nhiệm cán bộ. Đối với các cấp có thẩm quyền, cần xây dựng chuẩn đánh giá, quy trình xem xét, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Sớm xây dựng được thang chuẩn đánh giá với những tiêu chí cụ thể về người cán bộ quản lý nhà trường. Bên cạnh đó cần mạnh dạn thay thế những cán bộ quản lý không đáp ứng được yêu cầu quản lý, sa sút về phẩm chất, thiếu tinh thần trách nhiệm, không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Củng cố và quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý cần đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về chất lượng, có thế giới quan Marx – Lenin, trách nhiệm, tâm huyết vơi nghề giáo dục. Có sự hoạch định như vậy, nguồn cán bộ mới có sự chủ động và có sự chọn lọc, lựa chọn thích hợp, hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu đặt ra từ bối cảnh hiện nay. Đổi mới mô hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục, tăng cường chuẩn hoá, cập nhật hoá, hiện đại hoá. Sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí đào tạo từ NSNN, viện trợ, khoản vay và các nguồn khác. Chủ động sử dụng nguồn cán bộ và sử dụng cán bộ theo nhu cầu của guồng quay hợp tác, hội nhập. Bên cạnh việc xây dựng và thực hiện chuẩn hoá đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, để công cuộc đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo đạt hiệu quả cần tách biệt giữa công tác quản lý trong nhà trường với công tác giảng dạy, nhất là đối với các trường đại học hiện nay. Quản lý hành chính và quản lý chuyên môn học thuật cần được tách biệt. Nghĩa là công tác giảng dạy sẽ nhằm mục tiêu nâng cao tối đa chất lượng giảng dạy còn công tác quản lý sẽ làm thế nào để quản lý hoạt động trường học một cách tốt nhất. Nói cách khác trong nền kinh tế thị trường, các trường sau khi cổ phần hoá sẽ có hội đồng quản trị điều tiết hoạt động của nhà trường sao cho đạt hiệu quả nhất nghĩa là cơ chế hoạt động sẽ như các công ty. Việc huy động, quản lý, sử dụng vốn đầu tư sẽ được đội ngũ quản lý nhà trường điều tiết sao cho đạt hiệu quả cao nhất vì lúc này hoạt động của các trường đã cổ phần hoá là hoạt động vì lợi nhuận. Tuy nhiên hoạt động vì lợi nhuận này cũng không vì thế làm giảm chất lượng giảng dạy ở các trường đó vì họ cần phải cung cấp một dịch vụ có chất lượng mới có thể thu hút được khách hàng. Điều này giúp cho các trường hoạt động theo cơ chế này hoạt động thực sự có hiệu quả. 4.4. Xây dựng các mô hình liên kết đào tạo. Mô hình liên kết đào tạo được coi là có hiệu quả trong các hoạt động kinh tế - xã hội nói chung và hoạt động giáo dục – đào tạo nói riêng. Nó giúp cho các chủ thể tham gia liên kết phát huy được những mặt mạnh, hạn chế những mặt yếu, bên cạnh đó tranh thủ mặt mạnh và nguồn lực của đối tác trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, làm thế nào để sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả nhất. Khi một cơ sở giáo dục – đào tạo muốn đầu tư phát triển một lĩnh vực mới nào đó nhưng chưa thực sự có kinh nghiệm về lĩnh vực đó, giải pháp tiết kiệm nhất đó là liên kết đào tạo. Có thể xem xét ba mô hình liên kết đào tạo dưới đây: Liên kết hợp tác đào tạo giữa các trường trong nước: Đây là mô hình liên kết đào tạo giữa các trường trong một quốc gia với nhau. Ngoài những ưu điểm chung đã nêu, mô hình này còn có những mặt tích cực đó là: Do các cơ sở liên kết đào tạo nằm trên cùng một lãnh thổ, các chủ thể này có cơ hội hiểu biết rõ về nhau, việc trao đổi nguồn lực cả về tài lực và vật lực được dễ dàng hơn do thuận lợi về mặt địa lý và hành chính. Cả hai bên đều hiểu biết rõ về đặc trưng và nhu cầu hiện tại của xã hội cũng như chính sách vĩ mô của đất nước. Liên kết hợp tác đào tạo quốc tế: Việc liên kết đào tạo quốc tế cho phép các cơ sở giáo dục trong nước tranh thủ tối đa nguồn lực dồi dào của đối tác nước ngoài và cũng tạo cơ hội học tập tốt hơn cho học viên trong nước được nâng cao chất lượng học tập. Trong nhiều lĩnh vực các cơ sở trong nước không đủ vốn đầu tư để thực hiện đào tạo, nhất là trong lĩnh vực khoa học công nghệ, chúng ta cần tranh thủ kinh nghiệm cũng như công nghệ kỹ thuật của các nước tiên tiến. Việc liên kết đào tạo quốc tế còn giúp cho các cơ sở giáo dục Việt Nam nâng cao uy tín và tăng cường hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. - Liên kết giữa doanh nghiệp và Nhà trường: Đây là mô hình không mới đối với các nước trên thế giới nhưng còn khá mới mẻ đối với Việt Nam. Các doanh nghiệp lớn thông qua Bộ GD – ĐT hoặc sẽ tiến hành đặt hàng trực tiếp với những trường có uy tín trong đào tạo sinh viên ở một số lĩnh vực nhất định mà công ty mong muốn. Các sinh viên này sau khi ra trường sẽ đến làm việc cho công ty đó. Dĩ nhiên chất lượng nhân lực ở đây sẽ được chú trọng hàng đầu sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng đặt ra. Thay vào đó doanh nghiệp sẽ có những chính sách thích hợp để giúp đỡ nhà trường trong việc đào tạo thông qua cung cấp một phần chi phí đào tạo, trợ giúp về công nghệ, kỹ thuật mới cũng như đội ngũ chuyên gia, cố vấn. Nhà trường và doanh nghiệp phối hợp xây dựng mối quan hệ đối tác trong việc xây dựng và kiểm định chương trình đào tạo, tổ chức giảng dạy và bồi dưỡng giáo viên. Mô hình này vừa có lợi cho công ty, giúp công ty không phải tiến hành đào tạo lại đối với đội ngũ nhân sự mới tuyển dụng, bên cạnh đó cơ sở đào tạo cũng tranh thủ được nguồn vốn và có cơ hội đổi mới trong giáo dục – đào tạo. Trường trong doanh nghiệp cũng là một hoạt động đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo có hiệu quả: Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có một số ít các doanh nghiệp mở trường như Tổng công ty FPT, tổng công ty Điện tử Tin học Việt Nam, Tập đoàn kinh tế Vinashin, Tổng công ty điện lực Việt Nam... Hầu hết các trường trong doanh nghiệp hoạt động rất hiệu quả trong một cơ chế mở và đang tiến dần đến môi trường tự chủ. Cơ chế mở của các trường thể hiện ở việc tự quyết định chỉ tiêu đào tạo và chỉ đào tạo khi doanh nghiệp có nhu cầu. Cũng chính việc đào tạo theo nhu cầu như vậy nên hàng năm đảm bảo được đầu ra cho học viên. Việc doanh nghiệp mở trường đúng nhu cầu sẽ giải quyết được vấn đề từ cả hai phía: phía người lao động và phía doanh nghiệp. Người lao động được đảm bảo việc làm. Doanh nghiệp được tiếp nhân một nguồn lao động có chất lượng do chính mình tạo ra. Đây cũng là một ưu điểm so với nhiều trường đại học thuộc Bộ GD – ĐT. Thực tế, ở một số trường đại học lớn, sinh viên sau khi ra trường phải tự bươn chải, nên số lao động có trình độ cao bị thất nghiệp ngày càng tăng, gây lãng phí lớn cho xã hội. Điều đó cũng xuất phát từ việc đào tạo mà không nắm bắt đúng nhu cầu xã hội. Các trường này cũng được tự chủ tài chính, có thể bỏ tiền ra đầu tư hệ thống trang thiết bị ngay khi cần thiết. Bên cạnh đó họ còn tiết kiệm được nhiều khoản chi nhờ có sẵn thiết bị, nhà máy, xưởng thực tập, đội ngũ giảng viên có chuyên môn giỏi, khả năng thực tế cao, phù hợp với nhu cầu thực hành của các học viên chuyên ngành công nghệ, chế tạo, kỹ thuật...Học phí của các trường trên được thu dựa trên mức mà xã hội có thể chấp nhận được, dựa trên cân đối thu – chi. Nhà trường thu hút học viên bằng thương hiệu và chất lượng, bằng cơ hội nghề nghiệp mà học viên nhận được sau khi hoàn thành khóa học. Và nhìn một cách toàn diện thì cả công ty và người học sẽ đều được hưởng lợi. 4.5. Mối quan hệ giữa quy mô và chất lượng giáo dục cần được chú trọng. Mục tiêu cuối cùng của đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo chính là mở rộng quy mô nhưng quan trọng hơn cả là nâng cao chất lượng công tác giáo dục – đào tạo. Nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo ở đây cũng chính là sử dụng vốn đầu tư một cách hiệu quả. Nước ta là nước có dân số đông, để đáp ứng được nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân đòi hỏi quy mô đầu tư cho giáo dục – đào tạo ngày càng tăng bên cạnh đó nhiệm vụ quan trọng là làm thế nào để giáo dục – đào tạo đáp ứng được nhu cầu của xã hội, nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, không ngừng hội nhập của đất nước ta hiện nay. Để nâng cao chất lượng công tác GD – ĐT, bên cạnh việc xác định và dự báo chương trình giảng dạy theo nhu cầu xã hội, quản lý tốt công tác giảng dạy cũng như dựa trên thái độ tích cực của người học, nhất thiết phải đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên cũng như đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật trường lớp. Hai nhiệm vụ này chính là điểm mấu chốt để đảm bảo mối cân bằng động giữa mở rộng quy mô đầu tư với nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo. Tôi xin được đề xuất một số giải pháp thực hiện hai nhiệm vụ chính nêu trên ở phần dưới đây: 4.5.1. Đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Đội ngũ giáo viên là một trong những nhân tố quyết định chất lượng giáo dục – đào tạo. Chính vì vậy để hoạt động đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo đạt hiệu quả cao, cần đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Để làm được điều này, cần tập trung vào một số giải pháp sau: Đẩy mạnh đầu tư cho các trường Sư phạm. Với trọng trách là nơi đào tạo giáo viên cho toàn ngành GD – ĐT nhưng nhiều trường sư phạm, kể cả các trường sư phạm trọng điểm hiện nay vẫn trong tình trạng thiếu thốn cơ sở vật chất , trang thiết bị phục vụ dạy học, nghiên cứu khoa học như: Thư viện, phòng thí nghiệm, phòng học chuẩn, tài liệu giảng dạy, thậm chí thiếu giảng đường, ký túc xá cho sinh viên... Kinh phí eo hẹp là vấn đề bức xúc đối với nhiều trường sư phạm. Nhà nước trong thời gian tới cần bố trí thêm nguồn kinh phí tài trợ cho các trường sư phạm. Bên cạnh nguồn kinh phí Nhà nước cấp, trong thời gian tới các trường phải đẩy mạnh vấn đề hợp tác quốc tế, tăng cường mối quan hệ với các doanh nghiệp, các nhà tuyển dụng để có thêm nguồn lực đầu tư trở lại trường. Bàn về vấn đề kinh phí đào tạo, một số nhà quản lý cho rằng nên bỏ quy định miễn học phí cho sinh viên sư phạm. Vì thực tế 4 năm học và 8 triệu đồng được miễn giảm, không đủ mạnh để thu hút những sinh viên giỏi vào học sư phạm. Việc miễn học phí chỉ có ưu điểm là tăng cơ hội học tập cho sinh viên nghèo. Nhưng đứng ở một góc độ cần đầu tư để có chất lượng đầu vào cao, có điều kiện đào tạo chất lượng thì việc miễn học phí chưa nhìn thấy hiệu quả rõ rệt. Chính vì vậy cần có giải pháp làm sao để những chính sách ưu tiên đối với sinh viên sư phạm thực sự mang lại hiệu quả là nâng cao chất lượng đào tạo người thầy trong tương lai. Về mô hình đào tạo sư phạm, cần tham khảo các nước có trình độ tiên tiến trên thế giới trong lĩnh vực này, bên cạnh đó cũng cần kết hợp cả mô hình truyền thống. Trong những năm tới từng bước chuyển các trường cao đẳng sư phạm địa phương sang mô hình đào tạo đa ngành nhưng ngành sư phạm vẫn phải giữ vị trí chủ chốt. Để thu hút được người tài theo học ngành sư phạm, nhất thiết phải có chính sách đãi ngộ giáo viên tốt. Có chăm lo đến đời sống nhà giáo thì người thầy mới có thể yên tâm công tác, cống hiến vì sự nghiệp giáo dục – đào tạo, nhất là giáo dục phổ thông. Giáo viên phải sống được bằng đồng lương của mình. Đòi hỏi Nhà nước cần có những chính sách tiền lương thích đáng, đặc biệt là phụ cấp đối với giáo viên giảng dạy ở những vùng sâu vùng xa, vùng kinh tế khó khăn. Bộ GD – ĐT cần có những quy định chi tiết về mức phụ cấp đối với giáo viên giảng dạy ở những địa bàn khác nhau cũng như đối với từng cấp bậc học. 4.5.2. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất Nhà trường. Trong giai đoạn 2005-2010 tới, cần tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hoá trường học giai đoạn II. Cố gắng khắc phục tình trạng chậm tiến độ thực hiện của giai đoạn I. Các địa phương cần chủ động bố trí vốn đối ứng theo tiến độ của chương trình. Bên cạnh đó khi xây dựng trường lớp, cần tuân thủ thiết kế ban đầu, cố gắng tạo những bản thiết kế phù hợp với môi trường tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của từng khu vực. Thường xuyên tiến hành đổi mới trang thiết bị giảng dạy, hiện đại hoá, đồng bộ hoá với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật. Nhất là đối với các trường đào tạo nghề, các trường kỹ thuật, công nghệ cao, việc đẩy mạnh khai thác các nguồn lực, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật nhà trường theo hướng chuẩn hoá hiện đại hoá bắt kịp với sự thay đổi không ngừng của khoa học – công nghệ trên thế giới. Cần dành ưu tiên cho việc xây dựng và củng cố phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, thư viện, trang bị phòng máy tính nối mạng, đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình. Các địa phương không nên quá trông chờ, ỷ lại vào ngân sách Nhà nước trong việc cấp phát vốn xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật trường học. Cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm nguồn vốn, huy động vốn đóng góp của cộng đồng dân cư và các tổ chức nhằm không ngừng cải tiến hệ thống trường lớp. Bên cạnh đó các địa phương cũng phải lập quy hoạch về địa điểm và đất đai cho việc xây dựng các trường học, đáp ứng yêu cầu phát triển về quy mô và đảm bảo yêu cầu về diện tích tối thiểu cho các trường học. 4.6. Trao quyền chủ động sử dụng vốn đầu tư cho các đơn vị giáo dục - đào tạo. 4.6.1 Thiết lập mô hình tự chịu trách nhiệm trong thu chi ở các trường công lập. Đây cũng là một nội dung để thực hiện mục tiêu xã hội hoá giáo dục. Trong NĐ 10 của Chính phủ đã khẳng định “tự chủ tài chính” là bao gồm: nhà trường phải xác định nhiệm vụ chính trị của mình (mục tiêu, yêu cầu đào tạo...) để từ đó đặt ra kế hoạch thực hiện, yêu cầu đầu tư. Kế hoạch này phải được công khai bàn bạc trong hội đồng nhà trường và lấy ý kiến phụ huynh. Hội đồng nhà trường và phụ huynh sẽ giám sát quá trình thực hiện. Tương tự như vậy, Liên Bộ Tài chính, GD – ĐT và Nội vụ vừa ban hành thông tư 21 hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập hoạt động có thu (CSGD – ĐT CT). Theo đó, các cơ sở này được chủ động nhiều khoản trong việc chi trả tài chính. Theo thông tư, các cơ sở giáo dục này có 11 khoản thu sự nghiệp và 11 khoản chi thường xuyên. CSGD – ĐT CT tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên thì được giao dự toán ổn định trong ba năm. Cơ quan chủ quản không giao số thu sản xuất cung ứng dịch vụ cho CSGD – ĐT. Trường hợp đơn vị tiết kiệm chi kinh phí thường xuyên hoặc tăng thu phần phí và lệ phí được để lại so với dự toán được giao thì đơn vị được sử dụng toàn bộ nguồn kinh phí tiết kiệm và số tăng thu để bổ sung quỹ tiền lương và kinh phí hoạt động của đơn vị. Trường hợp hụt so với dự toán được giao thì đơn vị phải điều chỉnh giảm chi tương ứng. Thủ trưởng CSGD – ĐT CT được quyền sắp xếp lại cán bộ, công chức, viên chức được giao để nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị. Khi các trường được giao tự chủ tài chính, các hoạt động đầu tư của cơ sỏ giáo dục – đào tạo sẽ đạt hiệu quả cao hơn, phù hợp với tình hình thực tế của mỗi nhà trường, bên cạnh đó còn khắc phục tình trạng lãng phí và sử dụng ngân sách nhà nước kém hiệu quả. 4.6.2 Khuyến khích thành lập các trường ngoài công lập có sự quản lý của Nhà nước. vì mục tiêu hoạt động của các trường này là vì lợi nhuận Cơ chế hoạt động và quản lý tài chính của các trường ngoài công lập là tương đối hiệu quả, tất cả vì một mục tiêu làm thế nào để đồng vốn bỏ ra có khả năng sinh lời cao nhất, đạt hiệu quả cao nhất. Trường ngoài công lập hoạt động theo cơ chế thị trường, học phí của trường phản ánh chất lượng dịch vụ mà trường mang tới cho các học viên, điều này thúc đẩy trường đầu tư nâng cao chất lượng giảng dạy. Tuy nhiên vì hoạt động vì lợi nhuận nên việc nghiên cứu khoa học hay đầu tư trang thiết bị đắt tiền vào những lĩnh vực giảng dạy như công ngệ cao là tương đối khó khăn đối với những trường có quy mô trung bình nhỏ. Cơ chế hoạt động của các trường này giống như hình thức hoạt động của một công ty. Mỗi trường có Hội đồng trường hay chính là Hội đồng quản trị, hội đồng này có trách nhiệm yêu cầu Hiệu trưởng đưa ra những chính sách để đáp ứng yêu cầu của học viên. Bên cạnh đó trường liên kết, tham khảo ý kiến của các doanh nghiệp, các tổ chức về chương trình đào tạo để có thể đáp ứng nhu cầu xã hội. Dĩ nhiên thu và chi cũng như nội dung cơ bản ở các trường này vẫn nằm dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước cũng hỗ trợ gián tiếp đối với các trường trên bằng cách ưu đãi trong thu thuế trong một số năm hay có thể gián tiếp hỗ trợ sinh viên thông qua việc bảo lãnh cho học viên vay tiền tại các ngân hàng để trả tiền học phí. KẾT LUẬN . Với tư cách là một sinh viên năm cuối, ý thức được vai trò to lớn của giáo dục- đào tạo đối với việc bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn,... Qua chuyên đề tốt nghiệp tôi đã có một cái nhìn sâu sắc hơn về thực trạng đầu tư phát triển giáo dục- đào tạo Việt Nam và tôi mạnh dạn đưa ra những đề xuất và kiến nghị của mình mong được góp phần nhỏ bé vào công cuộc phát triển ngành Giáo dục- đào tạo nước nhà, đưa nền GD Việt Nam sánh ngang tầm với những nền giáo dục cao trên thế giới. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chuyên đề của tôi cũng không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự chỉ bảo của thầy giáo cùng Ban lãnh đạo của Viện chiến lược phát triển. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của TS. Nguyễn Hồng Minh và Ban lãnh đạo Viện đã giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề thực tập này! MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4912.doc
Tài liệu liên quan