Với nhu cầu vốn đầu tư rất lớn như trên, định hướng về cơ cấu đầu tư đối với mỗi nguồn là:
* Vốn Ngân sách:
Nhà nước hướng dành vốn Ngân sách đầu tư cho Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kì 2001-2010 vào các hạng mục sau:
- Qui hoạch cụ thể các vùng nuôi, xây dựng hệ thống thủy lợi, đường giao thông, điện
- Đầu tư xây dựng các Trung tâm giống quốc gia thuộc các Viện, Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ một phần vốn Ngân sách cho cải tạo, nâng cấp các trại giống cấp I của tỉnh.
90 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1443 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phòng, Nam Định phát triển nuôi lồng bè cá song,cá dò… Tiền Giang, Bến Tre, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu… nuôi cá và các loài nhuyễn thể như nghêu, sò, điệp, trai ngọc... Mô hình nuôi cá dò tại Bà Rịa-Vũng Tàu có năng suất tốt, mở ra triển vọng lớn về nuôi biển.
Nuôi tôm cũng đã trở thành một phong trào sôi động ở các tỉnh ven biển, góp phần vào mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Năm 2000 đã bắt đầu chú trọng xây dựng dự án đầu tư vào phương thức nuôi tôm công nghiệp vùng cao triều với năng suất bình quân từ 2.500-6000 kg/ha/năm. Một số tỉnh đã có mô hình nuôi tôm công nghiệp năng suất đạt 2,5 tấn/ha như Ninh Thuận, Bình Thuận,Sóc Trăng, Bà Rịa, có tỉnh đạt tới 6 tấn/ha như ở Cam Ranh (Khánh Hòa), Ninh Thuận, thậm chí có nơi đạt 9,2 tấn/ha/vụ như ở xã Thạch Phước, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.
3.2. Nguyên nhân
Sở dĩ Ngành nuôi trồng thủy sản đạt được thành quả to lớn như trên góp phần vào việc đưa Ngành Thủy sản trở thành một trong những Ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế nước ta bên cạnh được sự chú ý quan tâm đầu tư thích đáng của các chủ đầu tư, các thành phần kinh tế, còn có những điều kiện thuận lợi sau:
Nước ta có điều kiện tự nhiên nhìn chung thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản, có tiềm năng lớn về đất đai sức lao động và lợi thế của người đi sau (so với một số nước trong khu vực).
Nghề nuôi trồng thủy sản đã được Đảng, Nhà nước, các Bộ, các ngành quan tâm các tầng lớp nhân dân ủng hộ, thể hiện qua các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển sản xuất như vấn đề khai thông, mở rộng thị trường xuất khẩu thủy sản đầu tư khoa học công nghệ, vốn, đào tạo nguồn lực… Quyết định 103/2000/QĐ-TTg ngày 25/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển giống thủy sản đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình, mọi thành phần kinh tế thực hiện đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ và phát triển giống thủy sản, các khoản vay dưới 50 triệu đồng cho phát triển nuôi trồng thủy sản không phải thế chấp tài sản. Quyết định số 224/TTg ngày 8/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kì 1999-2010 với các công việc (xây dựng qui hoạch cho phát triển nuôi trồng thủy sản, qui hoạch chuyển đổi trồng lúa sang nuôi tôm; xây dựng 22 dự án nuôi tôm công nghiệp; chuẩn bị 7 dự án nuôi tôm công nghiệp; xây dựng các cơ chế chính sách về đất đai, vốn) đang được triển khai đã tạo điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh mẽ và rộng khắp. Chương trình 773 về ‘sử dụng đất hoang hóa bãi bồi ven sông, ven biển’ tới năm 2000 Nhà nước đã đầu tư 322,570 tỉ đồng tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng, đã sử dụng 11.000 ha vào nuôi tôm, giải quyết cho trên 50.000 lao động và Nghị Quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ về ‘một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp’ đã tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho phát triển nuôi trồng thủy sản trong những năm tới.
Các địa phương có sự năng động, sáng tạo, nhân dân mạnh dạn đầu tư xây dựng ao đầm, áp dụng những tiến bộ kĩ thuật mới; nhiều đơn vị đã tổ chức các đoàn đi tham quan trong và ngoài nước về nuôi trồng thủy sản. Các Trung tâm khuyến ngư, khuyến nông của các địa phương hoạt động tích cực, có hiệu quả; một số nơi đã làm tốt các công tác kiểm tra chất lượng con giống; kiểm tra định kì và đột xuất đối với các cơ sở kinh doanh thuốc thú y thủy sản và thức ăn cho tôm; có nơi đã thực hiện đề tài khoa học phục vụ trực tiếp cho việc nuôi tôm ở địa phương. Nhiều địa phương đã rà soát để qui hoạch hoặc qui hoạch lại, xác định vùng nuôi và mạnh dạn chuyển đổi diện tích sản xuất lúa năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi tôm, để tạo thế cho nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát triển với tốc độ cao trong những năm tới.
Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm thủy sản trên thế giới là rất lớn và ngày càng cao. Hàng thủy sản của nước ta liên tục giữ thế gia tăng và ổn định trên thị trường thực phẩm thế giới.
Tiềm năng đất đai để phát triển nuôi trồng thủy sản rất lớn; có khả năng thích ứng nhanh với thị trường và với sự đổi mới; có mối quan hệ truyền thống rộng và được sự chú ý của các thị trường mới.
3.3. Những tồn tại, yếu kém cần được khắc phục
Chưa có sự phối hợp quản lí nhịp nhàng và đúng đắn giữa qui hoạch và đầu tư. Do đó, việc quản lí đầu tư xây dựng chưa được tốt, nhiều công trình xây dựng còn mang tính chất tự phát như trại sản xuất tôm giống, các vùng nuôi trồng thủy sản…
Cơ chế quản lí đầu tư và xây dựng của Nhà nước còn chưa thống nhất, thể hiện ở việc lựa chọn chủ đầu tư, chủ quản đầu tư tại các địa phương. Chẳng hạn, với các dự án phát triển nuôi trồng thủy sản theo chương trình 773, tại các địa phương có nơi giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư, có nơi giao cho Sở Thủy sản, có nơi lại giao cho UBND huyện làm chủ đầu tư dự án nên việc chỉ đạo thực hiện gặp không ít khó khăn.
Việc đầu tư cho nuôi trồng thủy sản còn chưa đồng bộ như vốn Chương trình 773 cần phải đầu tư cả vốn Ngân sách và vốn tín dụng, nhưng Nhà nước chỉ cân đối được vốn Ngân sách với lượng rất nhỏ... Đây là vấn đề khó khăn trong quản lí đầu tư và xây dựng, vì vậy chưa phát huy kịp thời hiệu quả vốn đầu tư, đồng thời cũng chưa khuyến khích triệt để nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển.
Trong đầu tư, tính liên tục của chương trình hoặc dự án chưa được chú trọng, do đó khi kết thúc đầu tư, việc đưa các công trình của các chương trình hoặc dự án đi vào hoạt động thường chậm, hiệu quả thấp.
Do có sự thay đổi cơ chế điều hành kế hoạch hàng năm và sự phối hợp liên ngành chưa tốt nên trong quá trình đầu tư, quản lí đầu tư giữa Bộ với các địa phương và giữa Bộ với các Bộ, Ngành có liên quan chưa đều và mật thiết. Hơn nữa, vốn đầu tư của Nhà nước giao thẳng cho các địa phương không thông báo cho Ngành quản lí biết, nên việc kiểm tra chỉ đạo thực hiện sơ kết, tổng kết gặp nhiều khó khăn, không đáp ứng được yêu cầu báo cáo của Chính phủ và các Ngành quản lí tổng hợp của Nhà nước.
Qui hoạch cho tất cả các vùng nuôi trồng thủy sản đang trong quá trình xây dựng nên gặp nhiều lúng túng trong việc xác định vùng nuôi, hình thức, đối tượng nuôi, công tác qui hoạch thủy lợi cho nuôi chưa được cụ thể hóa, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nông nghiệp và Thủy sản.
Hệ thống trại giống quốc gia, trại giống cấp I và hệ thống trạm quan trắc cảnh báo môi trường chưa được đầu tư xây dựng dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nuôi trọng điểm, khi xảy ra dịch bệnh mới đánh giá mức độ ô nhiễm. Các tiêu chuẩn, qui trình, qui phạm nuôi chưa đến được với người nuôi.
Hệ thống sản xuất tôm giống chưa được qui hoạch hợp lí, việc giải quyết tôm bố mẹ cho sản xuất tôm giống còn bị động, chủ yếu vẫn dựa vào thiên nhiên và thị trường trôi nổi, chưa có chiến lược đầu tư phát triển đàn tôm bố mẹ để đảm bảo chất lượng, số lượng và thời vụ cho sản xuất. Các tỉnh miền Bắc chưa có phương án đầu tư hữu hiệu cho sản xuất tôm giống. Công tác kiểm dịch và kiểm tra giống còn nhiều bất cập. Chưa chủ động sản xuất được các giống sạch bệnh, nhất là các giống nuôi biển có giá trị kinh tế cao; công tác khuyến ngư chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao cả về tập huấn và chuyển giao công nghệ, trong đó có công nghệ sản xuất giống, công nghệ quản lí môi trường theo hướng bền vững, vấn đề phòng trị bệnh cho vật nuôi.
Thức ăn và thuốc phòng, trị bệnh cho nuôi tôm cá trong nước không cung cấp đủ, chưa đủ sức cạnh tranh với thức ăn và thuốc từ bên ngoài. Do vậy, phải nhập khẩu từ nhiều nước và vùng lãnh thổ như Thái Lan, Mĩ và Đài Loan… chất lượng khác nhau khó quản lí.
Chưa có qui hoạch vùng và tiểu vùng nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là vùng cho việc phát triển nuôi tôm. Các đầm nuôi ở nhiều nơi được xây dựng tự phát và không đạt yêu cầu kĩ thuật: Đầm nông, bờ thấp, cống thiếu và nhỏ. Hệ thống thủy lợi hoặc quá cũ hoặc thậm chí nhiều nơi không được đầu tư nên không đáp ứng được nhu cầu cấp thoát nước.
Các chính sách về nuôi trồng thủy sản nói chung chưa được cụ thể hóa. Việc giao đất, mặt nước nuôi trồng thủy sản cũng có những điểm chưa hợp lí. Cơ chế đầu tư và một số chính sách hỗ trợ khác cần tiếp tục được hoàn thiện.
Việc cụ thể hóa Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ về ‘một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp’ còn chậm. Trong thực tế đã xuất hiện nhiều mô hình trang trại qui mô vừa và nhỏ, làm ăn có hiệu quả, lãi suất rất cao nhưng chưa được tổng kết đánh giá kịp thời để có cơ chế chính sách nhằm khuyến khích đầu tư phát triển.
Nhiều nơi rất thiếu cán bộ khoa học kĩ thuật và cán bộ làm công tác khuyến ngư. Lực lượng cán bộ nói chung còn quá mỏng, quá thiếu (đôi nơi còn yếu) chưa được chú ý đầu tư so với nhu cầu, điển hình là ở Cà Mau: Với 77.000 ha đất nuôi tôm, 60.000 ha đất nuôi cá nước ngọt, hơn 100.000 ha đất trồng lúa, đất bãi bồi ven sông, ven biển có khả năng đưa vào nuôi trồng thủy sản mà chỉ có 30 kĩ sư nuôi trồng thủy sản.
Trên đây là toàn bộ thực trạng đầu tư phát triển Ngành Thuỷ sản nói chung cũng như nuôi trồng thuỷ sản nói riêng. Nhìn chung, tình hình đầu tư phát triển của Ngành đã đưa lại những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước lên hơn 14,3 tỉ USD, kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai trong cả nước. Trong kết quả chung của Ngành Thuỷ sản, nuôi trồng thủy sản có vị trí quan trọng và đạt tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, giải quyết được một lượng lớn việc làm cho nông, ngư dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc đầu tư phát triển còn có một số vướng mắc, tồn tại đáng kể như đã nêu trên. Trước những tồn tại, yếu kém đó cần phải đề ra những giải pháp nhằm thúc đẩy đầu tư phát triển, thu hút nhiều nguồn vốn từ các thành phần kinh tế vào đầu tư nuôi trồng thủy sản, đưa Ngành Thuỷ sản xứng đáng là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, và những giải pháp này sẽ được trình bày ở chương sau.
Chương 3: một số giải pháp tăng cường đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2001-2010
I. Quan điểm, định hướng, mục tiêu đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản trong giai đoạn 2001-2010
1. Dự báo xu hướng phát triển thủy sản thế giới đến năm 2010
Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu và của FAO, mặc dù cả môi trường trong nội địa và các vùng nước biển cũng như nước ngọt có nhiều biểu hiện xuống cấp nhưng nhìn chung đang có những hoạt động tích cực trên phạm vi toàn thế giới để ngăn chặn những tác động xuống cấp này. Mặt khác, những hoạt động nhằm gia tăng sử dụng các loại cá nhỏ làm thực phẩm và giảm bớt thất thoát sau thu hoạch có khả năng sẽ làm tăng lượng thủy sản cung cấp cho thành phần thực phẩm cho con người mặc dầu dân số thế giới vẫn tiếp tục tăng nhanh và nhu cầu ngày càng lớn.
Theo các dự báo khả quan thì năm 2010 sản lượng thủy sản khai thác tự nhiên dùng làm thực phẩm có thể tăng lên khoảng 20% so với năm 1991-1993. Tuy nhiên, chỉ có nuôi trồng mới được mở rộng đáng kể. Các hệ thống nuôi trồng thủy sản từ nuôi đa canh đến nuôi chuyên canh từ nước ngọt, nước lợ đến nước mặn sẽ phát triển mạnh. Nhờ những tiến bộ kĩ thuật, kể cả việc di truyền và chọn giống, cải tiến thức ăn và quản lí dịch bệnh cũng như môi trường, nuôi trồng sẽ được phát triển mạnh mẽ và do vậy nguồn thực phẩm từ thủy sản cung cấp cho con người sẽ được gia tăng.
Dự báo về lượng thủy sản cung cấp cho tiêu dùng của nhân loại của FAO đưa ra cho năm 2010 được trình bày trong bảng sau:
Bảng 15:Sản lượng thủy sản cung cấp cho tiêu dùng trên thế giới năm 2010(28) Nguồn: FAO
(Đơn vị tính: Triệu tấn)
Từ nguồn
1995
2010
Tổng cộng
80
115-120
Khai thác hải sản
52
62
Khai thác nước ngọt
7
11
Nuôi trồng thủy sản
21
39
Giảm thất thoát sau thu hoạch
3-8
Sản lượng cá nước ngọt khai thác trong trong nội địa của nhiều cũng có khả năng được gia tăng do càng ngày môi trường sinh thái thủy sản càng được quản lí tốt hơn.
Mặc dầu có những thách thức về qui hoạch môi trường cũng như thị trường, tuy nhiên hàng loạt các vùng nuôi sẽ được phát triển nhanh kể cả nuôi quảng canh và nuôi thâm canh. Khu vực tư nhân và hộ gia đình sẽ phát triển rất mạnh nghề nuôi do kĩ thuật được thay đổi và đó là cách tiếp cận mới đối với nông nghiệp.
Trong các loài cá nuôi, họ cá chép vẫn sẽ được tiếp tục chiếm ưu thế và tiếp tục gia tăng, chiếm phần lớn trong sản lượng nuôi trồng thủy sản thế giới. Bên cạnh đó, các loài cá rô phi sẽ được phát triển mạnh ở các nước đang phát triển dưới dạng nuôi quảng canh và thâm canh vì thị trường cá rô phi ở các nước phát triển sẽ được mở rộng. Cũng có những giống cá nước ngọt mới cho năng suất và chất lượng cao hơn được đưa vào nuôi để đáp ứng nhu cầu của các thị trường nội địa.
Những công nghệ mới sẽ được phát triển làm cho nghề nuôi cá biển sẽ phát triển rất nhanh. Sẽ có nhiều loài cá biển mới trở thành những đối tượng nuôi quan trọng phục vụ cho thương mại giống như cá hồi ngày nay.
Việc quản lí môi trường và dịch bệnh tốt hơn làm cho cơ hội sản xuất tôm trên thế giới ngày càng có nhiều triển vọng và đa dạng.
Nuôi nhuyễn thể cũng sẽ ngày càng gia tăng vì công nghệ chế biến ngày càng hoàn thiện và thị trường nhuyễn thể ngày càng được mở rộng, ngoài ra ở nhiều vùng nhuyễn thể còn được coi là phương tiện để làm sạch môi trường và nâng cao chất lượng của nước.
Dự báo về nuôi trồng thủy sản vào năm 2010 được trình bày trong bảng sau:
Bảng 16: Dự báo về nuôi trồng thủy sản vào năm 2010(29) Nguồn: FAO.
Các loài
1994
2010
Sản lượng
(triệu tấn)
Tỷ lệ %
Sản lượng
(triệu tấn)
Tỷ lệ %
Tổng số
18,5
100,00
39
100,00
Cá nước ngọt
11,3
61,08
20
51,28
Cá lưỡng cư
1,3
7,03
3
7,69
Cá biển
0,4
2,16
3
7,69
Tôm
1,1
6,95
2
5,13
Nhuyễn thể
4,4
23,78
11
28,21
Nhìn chung, nuôi trồng thủy sản trong tương lai vừa có mức gia tăng mạnh về sản lượng vừa hứa hẹn về hiệu quả kinh tế cao, chất lượng sản phẩm nuôi cũng không ngừng được cải thiện nhờ áp dụng những công nghệ mới trong lĩnh vực sản xuất giống, thức ăn, nuôi dưỡng cá bố, mẹ, các công nghệ cho đẻ, lai tạo, chữa bệnh và vận chuyển cá thương phẩm…
ở châu á, các trang trại nuôi và sản xuất nhỏ vẫn là những qui mô chủ yếu áp dụng trong nuôi trồng thủy sản và hình thức này sẽ tiếp tục phát triển trong nhiều năm tới.
2. Quan điểm chỉ đạo cho phát triển nuôi trồng thủy sản thời kì 2001-2010
Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng phát triển bền vững, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ tái tạo nguồn lợi thủy sản, phòng chống dịch bệnh cho các đối tượng nuôi; bảo đảm sản xuất và ổn định đời sống nhân dân.
Nuôi trồng thủy sản phải từng bước được hiện đại hóa, phát triển theo hướng nuôi công nghiệp là chính, kết hợp với các phương pháp nuôi khác phù hợp với điều kiện của từng vùng.
Sử dụng hợp lí, có hiệu quả các loại mặt nước vùng triều, đất nhiễm mặn, bãi bồi ven biển, eo vịnh đầm phá, ruộng trũng, hồ chứa mặt nước lớn, ao hồ nhỏ
Hướng mạnh vào phát triển nuôi thủy sản nước lợ và nuôi biển, đồng thời phát triển nuôi nước ngọt.
Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng trong nước, bảo đảm an ninh thực phẩm, tạo hàng hóa xuất khẩu và nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, đưa xuất khẩu thủy sản thành mũi nhọn.
Nâng cao vai trò khoa học công nghệ, tạo động lực cho sự phát triển, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thu hút thêm nguồn vốn, tiếp thu công nghệ mới cho nuôi trồng thủy sản.
Phát triển nuôi trồng thủy sản gắn với phát triển kinh tế xã hội, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tạo việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nông, ngư dân, góp phần ổn định chính trị xã hội, bảo vệ an ninh vùng biển, vùng núi, vùng sâu, vùng xa.
Thu hút các thành phần kinh tế vào đầu tư, phát triển nuôi trồng thủy sản, tiếp tục phát triển mạnh kinh tế hộ gắn với tổ chức các hình thức hợp tác phù hợp.
3. Định hướng đầu tư cho Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2001-2010
3.1. Về nhu cầu vốn đầu tư cho nuôi trồng thủy sản theo nguồn giai đoạn 2001-2010
Biểu 17: Nhu cầu vốn đầu tư cho nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2001-2010(30) Nguồn: Qui hoạch tổng thể phát triển Ngành Thủy sản đến năm 2010.
(Đơn vị tính: tỉ đồng)
Chỉ tiêu
Tổng số
Trong đó chia ra theo thời kì (tỉ đồng)
Vốn (tỉ đồng)
Tỉ lệ %
2001-2005
2005-2010
Tổng số
33.650
100
16.189
17.461
Ngân sách
6.057
18
2.914
3.143
Tín dụng
13.459
40
6.475
6.984
Tự huy động
11.778
35
5.666
6.112
Nước ngoài
2.356
7
1.134
1.222
Như vậy, nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2001-2010 là rất cao, tổng số nhu cầu cho cả thời kì là 33.650 tỉ đồng, riêng giai đoạn 2001-2005 là 16.189 tỉ đồng, tăng 7 lần so với tổng vốn đầu tư giai đoạn 1996-2000. Trong đó, vốn Ngân sách chiếm 18% tổng nhu cầu, vốn tín dụng chiếm 40%, tự huy động 35% và vốn nước ngoài chiếm 7%.
3.2. Về cơ cấu đầu tư
Với nhu cầu vốn đầu tư rất lớn như trên, định hướng về cơ cấu đầu tư đối với mỗi nguồn là:
Vốn Ngân sách:
Nhà nước hướng dành vốn Ngân sách đầu tư cho Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kì 2001-2010 vào các hạng mục sau:
Qui hoạch cụ thể các vùng nuôi, xây dựng hệ thống thủy lợi, đường giao thông, điện…
Đầu tư xây dựng các Trung tâm giống quốc gia thuộc các Viện, Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ một phần vốn Ngân sách cho cải tạo, nâng cấp các trại giống cấp I của tỉnh.
Đầu tư cho nghiên cứu khoa học, nhập các đối tượng nuôi mới, công nghệ mới về sinh sản nhân tạo những giống thủy sản có giá trị xuất khẩu. Đầu tư cho trợ giá một số giống thủy sản cần thiết ở vùng sâu, vùng xa, và trợ giá sản xuất nhân tạo, di giống, thuần hóa giống có giá trị cho phát triển sản xuất.
Đầu tư xây dựng các trạm quan trắc, dự báo môi trường, kiểm dịch.
Đầu tư cho đào tạo nguồn lực
Đầu tư cho hoạt động khuyến ngư
Đầu tư cho quản lí, điều hành hoạt động của Chương trình.
Vốn tín dụng:
Đầu tư cho cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở sản xuất giống cấp I, II và các cơ sở sản xuất gióng của các thành phần kinh tế.
Đầu tư cho cải tạo ao, đầm nuôi.
Đầu tư cho sản xuất kinh doanh giống, thức ăn, thuốc chữa bệnh và các vật tư chuyên dùng phục vụ cho nuôi trồng thủy sản.
Vốn đầu tư nước ngoài
Thông qua các dự án với AIT, DANINA, NORAD, dự án ODA… đầu tư vào việc trợ giúp kĩ thuật, tư vấn, đào tạo, nhập các công nghệ mới chuyển giao và khuyến ngư.
3.3. Về nhu cầu vốn theo các đối tượng nuôi
Biểu 18: Nhu cầu vốn đầu tư theo các đối tượng nuôi (31) Nguồn: Qui hoạch tổng thể phát triển Ngành Thủy sản đến năm 2010.
(Đơn vị tính: tỉ đồng)
Các đối tượng
Tổng số
Trong đó chia ra theo thời kì
Vốn (tỉ đồng)
Tỉ lệ %
2001-2005
2006-2010
Tổng số
33.650
100,00
16.189
17.461
A. Nuôi lợ, mặn
28.098
83,50
13.475
14.623
1. Tôm sú
22.539
66,98
10.875
11.664
2. Cá biển
5.027
14,94
2.350
2.677
3. Nhuyễn thể
234
0,69
110
124
4. Rong biển
298
0,89
140
158
B. Nuôi nước ngọt
5.222
15,52
2.544
2.678
1.Tôm càng xanh
4.500
13,37
2.200
2.300
2. Ao hồ nhỏ
296
0,88
140
156
3. Ruộng trũng
170
0,51
80
90
4. Mặt nước lớn
256
0,76
124
132
C. Các hoạt động khác(32) Khoa học công nghệ, bảo vệ tái tạo nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường, đào tạo nguồn nhân lực, khuyến ngư, hợp tác quốc tế, quản lý điều hành hoạt động chương trình...
330
0,98
170
160
Theo biểu trên ta thấy, với nhu cầu vốn đầu tư thu hút từ các nguồn, các đối tượng của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản có nhu cầu vốn đầu tư tăng lên rõ rệt so với thời kì 1996-2000. Trong đó, nhu cầu vốn cho nuôi lợ, mặn giai đoạn 2001-2005 là 28.098 tỉ đồng, chiếm 83,5% tổng nhu cầu vốn cho cả Chương trình nuôi trồng thủy sản của cả thời kì, riêng giai đoạn 2001-2005 nhu cầu vốn cho nuôi lợ, mặn là 13.475 tỉ đồng, tăng 7,8 lần so với giai đoạn 1996-2000. Nghề nuôi tôm đã khẳng định được tính hiệu quả của mình trong thời gian qua, đặc biệt là tôm sú, vì vậy nhu cầu vốn nuôi tôm sú so với nhu cầu vốn nuôi lợ, mặn nói riêng và của nuôi trồng thủy sản nói chung thời kỳ 2001-2010 chiếm tỉ lệ cao nhất (66,98%) tức là về lượng tuyệt đối chiếm 22.539 tỉ đồng.
4. Mục tiêu chiến lược
Biểu 18: Các chỉ tiêu chủ yếu của Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản(33) Nguồn: Qui hoạch tổng thể phát triển Ngành Thủy sản đến năm 2010.
Các chỉ tiêu
Đơn vị tính
2001
2006
2010
1. Sản lượng nuôi trồng thủy sản
Tấn
850.000
1.150.000
2.000.000
2. Kim ngạch xuất khẩu
Triệu USD
1.000
1.400
2.500
3. Thu hút lao động
Người
1.000.000
1.400.000
2.000.000
4. Diện tích nuôi trồng thủy sản
Ha
670.000
850.000
1.000.000
Trong những năm tới, phát triển thủy sản được coi là ngành kinh tế mũi nhọn để tạo ra tốc độ tăng trưởng mới trong nông nghiệp. Nước ta có tiềm năng về mặt nước để phát triển thủy sản, thị trường các sản phẩm thủy sản trên thế giới tương đối ổn định và nhu cầu tiếp tục tăng hàng năm, ta có thể ứng dụng ngay công nghệ mới, nhất là công nghệ nuôi tôm công nghiệp năng suất cao, nuôi tôm không bị bệnh,… để tạo bước nhảy vọt trong sản xuất. Với nguồn tiềm năng lớn và lâu dài như đã phân tích, thời gian tới cần phải đẩy mạnh nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, trong đó tập trung phát triển nghề nuôi trồng thủy sản với đối tượng nuôi đa dạng. Phát triển nuôi trồng thủy sản nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm và tạo nguồn nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2001, tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 850.000 tấn và đến năm 2010 đạt khoảng 2 triệu tấn, tăng gần gấp 3 lần so với năm 2000; giá trị kim ngạch xuất khẩu từ nuôi trồng thủy sản đạt trên 1 tỉ USD năm 2001 và trên 2,5 tỉ USD năm 2010; tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 1,4 triệu người vào năm 2006, trên 2 triệu người vào năm 2010; góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội đất nước và an ninh ven biển. Với các hình thức nuôi phong phú: nuôi quảng canh, nuôi thâm canh và nuôi công nghiệp, dự tính đến năm 2006 diện tích nuôi trồng thủy sản đạt khoảng 850.000 ha, năm 2010 là 1 triệu ha, trên tất cả các loại hình mặt nước.
II . một số giải pháp tăng cường đầu tư phát triển cho nuôi trồng thủy sản
Thời gian qua, Ngành Thủy sản được Chính phủ quan tâm đầu tư phát triển đúng mức, đặc biệt là lĩnh vực nuôi trồng thủy sản phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm, làm giảm sự cạn kiệt tài nguyên do khai thác quá ngưỡng an toàn, góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển…
Chính vì thế, để công cuộc đầu tư đạt hiệu quả cao, tôi xin nêu ra một số giải pháp nhằm thu hút vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư trong phát triển nuôi trồng thủy sản, và tăng cường đầu tư phát triển cho nuôi trồng thủy sản như sau:
1.Tăng cường huy động vốn đầu tư cho nuôi trồng thủy sản
Dự báo nhu cầu vốn để thực hiện các mục tiêu nuôi trồng thủy sản từ nay đến năm 2010 của Ngành Thủy sản là khoảng 33.650 tỉ đồng. Tuy vậy, so với khả năng tích lũy nội bộ, Ngành chỉ đáp ứng khoảng 50%, như vậy phần còn lại phải dựa vào bên ngoài, kể cả trong và ngoài nước.
1.1. Đối với nguồn vốn trong nước:
- Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh nuôi trồng thủy sản để thúc đẩy và thu hút nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này.
- Nhà nước có chính sách ưu tiên, ưu đãi về vốn cho khu vực còn gặp nhiều khó khăn ở vùng nuôi trồng thủy sản ven biển, hải đảo, vùng nuôi trồng thủy sản giáp biển, vùng nghèo như các tỉnh Bắc Trung Bộ,đầu tư mạnh vào vùng trọng điểm nghề cá như đồng bằng sông Cửu Long. Cụ thể:
Đối với nguồn vốn Ngân sách: Để tạo điều kiện thu hút, Ngành cần tập trung vào việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp, hoàn thiện việc xây dựng định hướng chiến lược phát triển nuôi trồng thủy sản. Đồng thời, công khai các dự án khả thi nhằm thu hút nguồn vốn Ngân sách. Nhà nước dùng nguồn vốn Ngân sách để cải thiện cơ sở hạ tầng nuôi, đào tạo phát triển nguồn nhân lực có khả năng tiếp thu và sử dụng công nghệ kĩ thuật tiên tiến và chú trọng đầu tư cho các vùng nuôi gặp nhiều khó khăn…
Đối với nguồn vốn tín dụng đầu tư: cần phải chú trọng điều chỉnh chính sách tiền tệ, tín dụng. Nghĩa là có các biện pháp thu hẹp mức chênh lệch giữa lãi suất đồng Việt Nam và lãi suất ngoại tệ, tăng nhanh tỉ trọng cho vay để đầu tư từ ngắn hạn sang trung và dài hạn. Đảm bảo chính sách lãi suất dương, bảo đảm giá trị tiền gửi và có lãi, đa dạng hóa các hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp để khuyến khích nhân dân đưa vốn vào sản xuất kinh doanh các lĩnh vực: giống, thức ăn, thuốc chữa bệnh cho tôm, cá và các vật tư chuyên dùng phục vụ nuôi trồng thủy sản.
Đối với nguồn vốn tự huy động: Đây là nguồn vốn tiềm ẩn rất lớn, có ý nghĩa quan trọng trong tổng số vốn đầu tư trong nước. Đối với nguồn vốn này cần tổ chức tốt mạng lưới quỹ tiết kiệm cũng như hệ thống tín dụng nhân dân, động viên nhân dân gửi tiền, vay tiền để phát triển sản xuất, tránh tâm lí thích dùng tiền để dành vào các mục đích đầu tư riêng lẻ, tu bổ nhà cửa và trữ kim. Cần phát triển hệ thống tín dụng ngân hàng trong nước, thị trường chứng khoán để tái đầu tư các khoản vốn đã tích lũy được, phục vụ việc phát triển sản xuất. Điều đó cho phép tiến hành quá trình tích tụ vốn đi cùng với tập trung vốn để phát triển sản xuất, vì nếu chỉ các doanh nghiệp và tư nhân tiết kiệm, tự đầu tư thì vốn sẽ bị phân tán, đầu tư vì thế sẽ kém hiệu quả. Mặt khác, các dự án của các doanh nghiệp Nhà nước cần công khai để tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư bên ngoài qua hình thức liên doanh trong và ngoài nước. Trong sản xuất và tiêu dùng, cần triệt để thực hành tiết kiệm, tăng cường tích lũy vốn để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Cần nhanh chóng xử lí những vấn đề tồn tại trong luật khuyến khích đầu tư trong nước có liên quan đến vấn đề thuế như: thuế sử dụng diện tích đất đai mặt nước nuôi trồng thủy sản (nuôi trồng thủy sản trên đất, mặt nước thuộc đất nông nghiệp thì thực hiện thuế nông nghiệp hiện hành; nuôi trồng thủy sản ở mặt nước eo vịnh, đầm phá, hồ chứa nước, sông, đất bãi bồi ven biển được áp dụng thuế theo chính sách khai hoang phục hóa), về vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản, đồng thời nhanh chóng bổ sung, đồng bộ hóa các văn bản dưới luật để các văn bản này động viên mọi tầng lớp nhân dân đẩy mạnh đầu tư. Hướng sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là cần tập trung mọi khả năng nguồn lực để đầu tư phát triển trên cơ sở áp dụng tiến bộ khoa học và tạo việc làm cho người lao động.
1.2. Đối với nguồn vốn nước ngoài:
Để đẩy mạnh thu hút nguồn vốn này, cần chú trọng các giải pháp chung của nền kinh tế như: tiếp tục hoàn thiện và bổ sung hệ thống luật pháp, chính sách tạo ra môi trường pháp lí ổn định và nhất quán cho hoạt động đầu tư, mở rộng các hoạt động tư vấn đầu tư, tạo môi trường hấp dẫn hơn, sớm xem xét và có quyết định hợp tác đầu tư nuôi trồng thủy sản với Đan Mạch; đồng thời giữ vững sự ổn định về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước để thu hút và phát huy hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những vùng nuôi khó khăn, nhằm tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.
Khẩn trương xây dựng một số khu kinh tế mở có qui chế riêng tại một số đảo hoặc vùng ven biển như khu sản xuất giống cá biển, nuôi thủy sản…
Ngoài việc đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ngành Thủy sản nói chung và lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nói riêng, việc cần thiết là phải có hướng sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Đó là cần nâng cao phần góp vốn của Việt Nam nhằm đảm bảo lợi ích lâu dài của đất nước, đồng thời nâng cao năng lực công nghệ quốc gia để có thể tiếp nhận và thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ tiên tến trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Hơn nữa, cần phải tận dụng tối đa mọi khả năng, hiệu quả mà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể mang lại; qui hoạch, huy động và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải phù hợp với chiến lược, qui hoạch đầu tư. Đồng thời, cần chú ý khả năng tăng năng lực sản xuất trong nuôi trồng thủy sản do nguồn vốn này tạo ra.
2. Giải pháp về đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất
Nuôi trồng thủy sản là một ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng thực phẩm cho tiêu dùng và nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Vì thế, bên cạnh giải pháp tăng cường huy động vốn, giải pháp về đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất là yếu tố quyết định trong việc phát triển nuôi trồng thủy sản ở nước ta hiện nay. Trong giải pháp này, có các giải pháp chủ yếu sau:
2.1. Giải pháp về phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động sản xuất nuôi trồng thủy sản rất đa dạng, bao gồm tư bản Nhà nước (Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doan nghiệp cổ phần), tập thể (Hợp tác xã, tập đoàn) và tư nhân (Hộ gia đình, tiểu chủ, tư bản tư nhân). Do vậy, cần phải tiếp tục xây dựng quan hệ sản xuất, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Bộ Thủy sản và các Ban, Ngành có liên quan cần tạo mọi điều kiện và "sân chơi" bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất, nuôi trồng thủy sản, ở đây đặc biệt chú ý khuyến khích các dạng kinh tế trang trại và những chủ doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản có qui mô lớn. Đưa kinh doanh giống, thức ăn, sản phẩm nuôi trồng thủy sản vào hệ thống kinh doanh hiện đại theo kiểu doanh nghiệp công nghiệp và thương mại. Xóa bỏ kiểu buôn bán qui mô nhỏ, kinh doanh quá nhỏ và phân tán như hiện nay. Tuy nhiên, hệ thống doanh nghiệp thương mại vừa và nhỏ tư nhân phù hợp với nghề cá đa loài và phân tán ở nước ta, hiện nay mô hình này đem lại hiệu quả và lãi suất rất cao cần phải được tổng kết đánh giá kịp thời để có cơ chế chính sách nhằm khuyến khích các tổ chức này hình thành ở mọi vùng nông thôn nghề cá ven biển, vùng cao, vùng xa…
Trong dịch vụ công ích, ứng dụng chuyển giao công nghệ mới vào nuôi trồng thủy sản, một số quốc doanh giữ vai trò chủ đạo cần được tiếp tục củng cố. Việc phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế cần quan tâm chú ý đào tạo cán bộ kĩ thuật và hướng dẫn các thành phần kinh tế khác hoạt động đúng đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước nhằm tạo điều kiện để hỗ trợ các thành phần kinh tế bổ sung cho nhau cùng phát triển, khuyến khích phát triển hợp tác xã theo kiểu mới và các hình thức kinh tế hợp tác trong sản xuất - kinh doanh nuôi trồng thủy sản. Các tổ chức kinh tế hợp tác xã và tập đoàn nên đi theo hướng hợp tác để hỗ trợ nhau nâng cao sức cạnh tranh và chống lại sự chèn ép về thị trường và giá cả trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản cũng như tăng cường sức mạnh về tín dụng, thông tin, tiếp thị, đào tạo hướng nghiệp…
2.2. Mở rộng và phát triển sản xuất
Sản xuất nuôi trồng thủy sản bao gồm các nhân tố: giống, thức ăn, công nghệ, kĩ thuật nuôi… Muốn phát triển nghề nuôi trồng thủy sản không những chỉ quan tâm đầu tư cho quá trình nuôi thủy sản mà cần phải có chiến lược và hướng đầu tư đúng đắn để mở rộng và phát triển các nhân tố này. Đó là việc đầu tư vào các trại sản xuất giống, đặc biệt là các trại sản xuất tôm giống có công nghệ sinh sản giống nhân tạo hiện đại, sạch bệnh, quá trình sinh trưởng và phát triển nhanh nhằm tăng năng suất, sản lượng nuôi trồng thủy sản.
Trong những năm qua, do nhu cầu nuôi tôm "bùng nổ" quá lớn trong thời gian ngắn đã dẫn đến tình trạng cung cấp con giống thiếu hụt rất lớn. Bên cạnh đó, hiện nay phần lớn các trại sản xuất tôm giống được xây dựng nằm xen trong khu dân cư hoặc gần các đìa nuôi tôm thịt làm ảnh hưởng đến môi trường sống của dân, trực tiếp hạn chế năng lực sản xuất giống và tôm nuôi. Khắc phục tình trạng đó, theo sự chỉ đạo của Ngành Thủy sản quốc gia, Trung tâm Thủy sản III đang xúc tiến việc qui hoạch xây dựng trung tâm giống tại Sông Lô - Nha Trang; UBND và ngành thủy sản Khánh Hòa cũng đã tiến hành khảo sát để qui hoạch thành lập Khu công nghiệp tập trung sản xuất tôm giống với diện tích 1000ha. Tuy nhiên, do nuôi trồng thủy sản đang có xu hướng phát triển mạnh, đặc biệt là nghề nuôi tôm, vì thế nhu cầu giống hiện nay và trong thời gian tới rất lớn, chỉ một vài Khu công nghiệp sản xuất giống tập trung thì không thể đáp ứng được cho quá trình phát triển mà cần phải qui hoạch xây dựng thêm các trại sản xuất giống, các Khu công nghiệp tập trung sản xuất giống ở các tỉnh có thế mạnh về nuôi trồng thủy sản như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Cà Mau, An Giang, Bạc Liêu…
Các trại, nhà máy chế biến thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng thủy sản cũng cần được quan tâm chú ý đầu tư hơn nữa. Theo thống kê chưa đầy đủ, cho đến hết quý I năm 2001, cả nước có 6 công ty 100% vốn nước ngoài và gần 50 doanh nghiệp, cơ sở tư nhân sản xuất thức ăn công nghiệp với tổng công suất khoảng 47.640 tấn/năm. Tuy nhiên, thức ăn sản xuất ra nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng. Theo đánh giá của một chuyên gia Thái Lan có kinh nghiệm lâu năm về nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam thì hiện tại thức ăn cho nuôi trồng thủy sản sản xuất tại Việt Nam chiếm khoảng 35 - 40%, lượng nhập khẩu chiếm khoảng 10 - 15%, còn lại là thức ăn tươi. Như vậy, tỉ lệ thức ăn tươi còn chiếm quá cao trong tổng thức ăn phục vụ nuôi trồng thủy sản, chất lượng thức ăn loại này lại không đảm bảo đúng tiêu chuẩn kĩ thuật nên việc có các chính sách, biện pháp khuyến khích xây dựng nhà máy chế biến thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng thủy sản của Nhà nước và Bộ Thủy sản là rất cần thiết nhằm đảm bảo nhu cầu cao về số lượng cũng như chất lượng thức ăn sản xuất ra với giá thành hợp lí.
2.3 Giải pháp đầu tư cho nuôi trồng thủy sản xuất khẩu
Để thống nhất sự phất triển ngành nuôi trồng thủy sản theo một qui hoạch chung với việc gìn giữ môi trường sinh thái bền vững; trong nuôi trồng thủy sản, không nên ưu tiên phát triển manh mún mà phát triển các doanh nghiệp có trọng điểm nhằm không những phát triển bền vững mà còn đảm bảo cho sự phát triển có hiệu quả cao của doanh nghiệp, thời gian tới Bộ Thủy sản cần có giải pháp về đầu tư cho nuôi trồng thủy sản xuất khẩu. Đó là: đối với việc xây dựng các vùng nuôi tôm công nghiệp từ 100 ha trở lên, Bộ Thủy sản cần tập trung xây dựng và xét duyệt các luận chứng kinh tế kĩ thuật, các công trình cơ sở hạ tầng đầu mối cho các vùng nuôi tôm công nghiệp từ 100 ha trở lên được giao cho Bộ Thủy sản xây dựng và sau khi xây dựng xong mới giao về cho địa phương quản lí. Đối với các dự án nuôi thủy sản có diện tích dưới 100 ha thì phân trách nhiệm cho các địa phương xây dựng luận chứng kinh tế kĩ thuật và xây dựng cơ sở hạ tầng. Các Sở Thủy sản chịu trách nhiệm quản lí thống nhất kĩ thuật và công nghệ nuôi, bảo vệ môi trường các vùng tập trung. Để khuyến khích đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản người dân được lấy giá trị công trình ao nuôi làm tài sản thế chấp cho vay vốn nuôi trồng thủy sản.
Bộ Thủy sản cũng cần thống nhất quản lí chất lượng giống và thức ăn cho nuôi trồng thủy sản. Việc sản xuất giống và thức ăn cho nuôi trồng thủy sản phải được đặt dưới sự kiểm tra giám sát chất lượng của cơ quan quản lí nuôi trồng thủy sản thuộc Bộ Thủy sản. Bên cạnh đó, Bộ cũng nên cho phép thành lập một số xí nghiệp công ích với 3 chức năng: sản xuất thức ăn, giống và khuyến ngư ở mỗi vùng để điều chỉnh thị trường từng vùng.
2.4. Tăng cường các nỗ lực về khoa học công nghệ cho phát triển nuôi trồng thủy sản
Việc tăng cường các nỗ lực về khoa học công nghệ là rất quan trọng đối với mọi ngành nghề trong nền kinh tế thị trường, nuôi trồng thủy sản cũng không nằm ngoài qui luật đó. Trước mắt, cần tập trung vào lựa chọn và du nhập các khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài phù hợp với phát triển nghề cá, nhất là sản xuất các mặt hàng có giá trị thương mại cao, kĩ thuật nuôi trồng thủy sản mới, hiện đại… Cụ thể:
Cần tập trung đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật nhằm hoàn thiện các qui trình sản xuất giống các loài thủy sản có giá trị xuất khẩu như giống tôm sú, tôm càng xanh, cá quả, cá rô phi đơn tính và một số loài nhuyễn thể.
Tăng cường đầu tư cho việc nhập công nghệ sinh sản nhân tạo, công nghệ nuôi các đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế như cá song, cá hồng, tôm hùm, ngao, sò, điệp, trai.
Tập trung đầu tư nghiên cứu lai tạo giống nuôi thủy sản có năng suất, chất lượng cao, cải tạo đàn giống cũ, thay thế nhóm giống kém chất lượng. Đầu tư nhập giống thuần thay thế và nhập một số giống, cá bố mệ, trứng thụ tinh các loại cá biển để nhanh chóng có giống sản xuất.
Đầu tư nghiên cứu, áp dụng và hoàn thiện các công nghệ mới về xử lí môi trường, chẩn đoán, phòng trừ dịch bệnh, công nghệ sản xuất thức ăn cho các đối tượng thủy sản nuôi; công nghệ lưu giữ, bảo quản sống, vận chuyển sống và công nghệ bảo quản sau thu hoạch các loại sản phẩm nuôi trồng.
Tập trung một bước đầu tư khoa học công nghệ cho công tác điều tra nguồn lợi thủy sản, nghiên cứu các vấn đề kinh tế - qui hoạch, quản lí nghề cá cho giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhanh chóng chuyển giao các tiến bộ khoa học kĩ thuật cho sản xuất.
Nâng cao các cơ sở nghiên cứu, đào tạo trở thành các cơ sở có trang thiết bị hiện đại có đủ năng lực nghiên cứu để giải quyết những vấn đề công nghệ, về quản lí nguồn lợi, quản lí môi trường và an toàn vệ sinh.
2.5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế
Trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá của nền kinh tế các nước trên thế giới, Ngành Thủy sản Việt Nam nói chung và ngành nuôi trồng thủy sản nói riêng cần phải có các giải pháp nhằm tăng cường hợp tác đầu tư với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đó là:
Cần chuẩn bị tốt các chương trình, dự án, tổ chức lực lượng để tranh thủ có hiệu quả tối đa các cơ hội hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực nuôi trồng, như: - Tăng cường hợp tác đầu tư trong việc sinh sản nhân tạo một số giống loài cá, tôm biển; di giống nhập nội và thuần hoá các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế và xuất khẩu phù hợp với điều kiện sinh thái, môi trường của Việt Nam.
- Hợp tác trong việc nghiên cứu di truyền, chọn giống, chuyển đổi giới tính một số giống, loài quí, quản lí đàn tôm sú bố mẹ sạch bệnh, công tác phòng ngừa dịch bệnh thủy sản... nhằm tham quan, học tập, đào tạo, hội nghị, hội thảo và mua công nghệ nước ngoài.
- Nghiên cứu công nghệ chọn lọc tôm sú sạch bệnh, nghiên cứu chuyển đổi giới tính tôm càng xanh, lai tạo tôm sú với tôm he ấn Độ cho thế hệ F1 có phẩm giống năng suất cao thích hợp với điều kiện môi trường sinh thái.
Xây dựng qui chế trách nhiệm và phân cấp cụ thể để các địa phương cơ sở chủ động tìm kiếm các nguồn và phương thức hợp tác, tài trợ theo định hướng của Nhà nước tạo ra nguồn lực rất quan trọng về vốn và công nghệ cho sự phát triển của Ngành.
Cần phải có những hành lang pháp lí hấp dẫn hơn đối với đầu tư vào các lĩnh vực thuộc Ngành Thủy sản để tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế cao, như các ưu đãi về thuế sử dụng đất cho đầu tư nuôi trồng, đặc biệt là các vùng đất cát ven biển. Nên cấp tư cách tiên phong với nhiều ưu đãi cho các xí nghiệp đi tiên phong trong việc phát triển nuôi biển, nuôi tôm công nghiệp và đầu tư vào các ngành yểm trợ cho nuôi công nghiệp.
3. Giải pháp về đầu tư mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ
Để mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ tốt, việc cần thiết là tìm kiếm lợi thế cạnh tranh trên từng thị trường cho từng chủng loại mặt hàng, lợi dụng đồng bộ các yếu tố địa lí, thương mại, ngoại giao, truyền thống… Đối với mặt hàng tươi sống, để tiêu thụ nhanh với chất lượng và giá trị dinh dưỡng không bị thất thoát, cần có hướng đầu tư chủ yếu vào các nhà hàng thủy đặc sản nhằm giới thiệu các đặc sản của mỗi vùng tại chỗ, đặc biệt là phát triển các nhà hàng thủy đặc sản ở các khu du lịch, nghỉ mát ven biển - nơi có nhiều khách tham quan, du lịch trong và ngoài nước - vì thế mà sức mua cao hơn ở những nơi khác. Tuy nhiên, vấn đề cốt yếu là đầu tư tập trung lớn vào các nhà máy chế biến có đủ tiêu chuẩn sản xuất các mặt hàng xuất khẩu; nên có sự sắp xếp lại để phân lập các doanh nghiệp có đủ khả năng tham gia vào các thị trường thủy sản. Kiên quyết dẹp bỏ những xí nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên khó có khả năng khôi phục để tạo ra điều kiện cho sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh.
Việc tạo dựng và mở rộng, phát triển thị trường phải có lợi cho Ngành Thủy sản, sản phẩm của nuôi trồng thủy sản cần được quảng cáo, tiếp thị rộng rãi về chất lượng và chủng loại để nâng cao sức tiêu thụ, đẩy nhanh chu kì sản xuất, đạt hiệu quả cao. Tích cực mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm nuôi trồng thủy sản trong và ngoài nước; tận dụng tối đa vị trí của vùng ven biển, thế mạnh của sản phẩm thủy sản để giao lưu kinh tế, ổn định thị trường, thúc đẩy mở rộng thị trường truyền thống như EU, Bắc Mĩ, Trung Quốc,… tìm cách xâm nhập các thị trường mới như Trung và Nam Mĩ, các nước ả Rập và kể cả thị trường cá nổi nhỏ, giá trị thấp ở châu Phi.
4. Giải pháp về nhân lực
Nhu cầu lao động trong Ngành Thủy sản sẽ tăng với nhịp độ 2,65%/năm chủ yếu trong hai lĩnh vực: nuôi trồng và chế biến thủy sản. Lao động khai thác hải sản phải giảm để tăng tính hiệu quả thương mại, vì lượng lao động khai thác gần bờ đã quá lớn, lực lượng này sẽ chuyển một phần sang khai thác khơi, một phần sẽ chuyển sang nuôi nước lợ, nuôi biển.
Để phát triển nuôi trồng thủy sản có hiệu quả, bền vững đòi hỏi có một nguồn nhân lực gồm cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao và đội ngũ kĩ thuật viên thực hành giỏi. Do đó trong thập niên tới cần tăng cường đầu tư đào tạo cán bộ đại học, trung học và sau đại học để bổ sung kịp thời sự thiếu hụt nguồn cán bộ kĩ thuật ở các địa phương và bồi dưỡng kĩ thuật cho dân về nuôi trồng thủy sản. Dự kiến đến năm 2010 đào tạo 2000 cán bộ có trình độ đại học, 6000 kĩ thuật viên trung cấp, 200 thạc sĩ và 50 tiến sĩ, trong đó chủ yếu là do các trường đại học có chuyên ngành về nuôi trồng thủy sản trong cả nước đào tạo. Đồng thời hợp tác với AIT, NORAD về đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ nuôi trồng thủy sản để tận dụng được kinh nghệm đào tạo và nguồn kinh phí tài trợ. Hơn nữa, cần tranh thủ nguồn học bổng của các nước và tổ chức quốc tế đào tạo cán bộ chuyên sâu, trình độ thạc sĩ tiến sĩ về nuôi trồng thủy sản theo từng lĩnh vực: giống, bệnh, môi trường và thức ăn. Bên cạnh đó, có thể đào tạo ở trong nước dựa vào tiềm năng về cơ sở vật chất và đôi ngũ trí thức của các Viện Nghiên cứu, và các trường Đại học, đồng thời tranh thủ nguồn học bổng của nước ngoài. Mặt khác, Nhà nước dành vốn Ngân sách để đào tạo theo hình thức tuyển học sinh giỏi vào học đại học ở các trường Đại học Tổng hợp trong nước, sau đó gửi đi nước ngoài đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ.
III. Kiến nghị
Sau đây là một số kiến nghị đối với Chính phủ nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện các giải pháp trên được thuận lợi. Đó là đề nghị Chính phủ:
* Sớm nâng cấp Trung tâm khuyến ngư Trung ương hiện đang là cấp phòng lên Cục khuyến ngư để nâng cao năng lực và trình độ quản lí cho tương xứng với nhiệm vụ và yêu cầu phát triển Ngành Thủy sản nói chung và nuôi trồng thủy sản nói riêng trong những năm tới.
* Chỉ đạo các địa phương khẩn trương triển khai Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ và sớm thực hiện việc giao đất, cho thuê đất; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đát cho nhân dân địa phương theo qui định của pháp luật hiện hành để người dân yên tâm đầu tư xây dựng công trình nuôi trồng thủy sản và có thể dùng quyền sử dụng đất để làm tài sản thế chấp vay vốn tín dụng.
* Sớm ban hành chính sách về việc giao, cho thuê và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất nuôi trồng thủy sản. Từ trước tới nay, đất và mặt nước dùng để nuôi trồng thủy sản được tính chung trong dất nông nghiệp. Hiện nay, nghề nuôi trồng thủy sản đã và đang phát triển mạnh mẽ và các loại hình mặt đất để nuôi trồng thủy sản cũng rất đa dạng, phong phú gồm đất khô, đất ướt, đất có mặt nước, mặt nước (sông, hồ chứa, mặt biển)… Vì vậy các loại đất, mặt nước này cần được tách riêng thành một nhóm và nên gọi là đất và mặt nước nuôi trồng thủy sản hoặc gọi tổng quát là đất nuôi trồng thủy sản.
* Cho nâng mức tối đa về hạn điền được giao từ 3 ha theo qui định tại điểm a mục 1 khoản 4 điều 1 của Nghị định 85/1999/NĐ-CP ngày 28/8/1999 của Chính phủ lên 5 ha đối với những địa phương có tiềm năng lớn về đất nuôi trồng thủy sản.
* Nghiên cứu, ban hành cơ chế cho vay vốn tín dụng đối với những người nuôi các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao và tiềm năng xuất khẩu lớn được hưởng mức cho vay không phải thế chấp đến 50 triệu đồng và được dùng tài sản là giá trị thực tế của các ao, đầm, lồng bè đã có và giá trị của các ao, đầm, lồng bè nuôi thủy sản hình thành từ vốn vay để làm tài sản thế chấp. Có cơ chế cho các hộ gia đình thuộc diện chính sách được vay tín chấp và nông, ngư dân nghèo có lao động nuôi trồng thủy sản có thể được vay vốn không phải thế chấp tài sản.
* Điều chỉnh thuế suất nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thức ăn nuôi thủy sản xuống mức thấp hơn thuế suất nhập khẩu thức ăn đối với các loại nguyên liệu sản xuất thức ăn nuôi thủy sản mà nước ta chưa có và bằng thuế suất nhập thức ăn đối với những loại nguyên liệu trong nước có nhưng chưa đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất hoặc còn thấp về chất lượng (hiện nay thuế suất nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất thức ăn nuôi thủy sản từ 5-20% trong khi thuế suất nhập khẩu thức ăn chỉ có 5% là không hợp lí).
* Cho phép Ngành Thủy sản tìm kiếm sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế để đào tạo cán bộ đại học và sau đại học ở các nước có nghề cá phát triển.
* Ngành Thủy sản và Chính phủ cần sớm có các chính sách ưu đãi để khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển nhanh các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản và các trang trại qui mô vừa và lớn trong nuôi trồng thủy sản.
Kết luận
Từ những số liệu và phân tích ở trên, ta có thể thấy được thực trạng đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản thời gian qua và một số giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trong thời gian tới.Với tiềm năng và nguồn lợi thủy sản cũng như vị trí địa lý thuận lợi của Việt Nam. Tất cả những điều này đã tạo ra những điệu kiện cần thiết để phát triển Ngành Thủy sản thành một Ngành kinh tế mũi nhọn có vài trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phát huy thế mạnh sẵn có của Ngành đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân cũng như sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Thực tế, quá trình đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần vào quá trình phát triển của Ngành cũng như của nền kinh tế nước ta. Sự phát triển mạnh mẽ của Ngành Thủy sản trong những năm qua có được là nhờ sự nỗ lực to lớn của mọi doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh dịch vụ, cộng đồng dân cư và các tổ chức có liên quan. Tuy nhiên, ngoài những thành tựu đạt được, hoạt động đầu tư phát triển trong ngành Thủy sản vẫn còn một số tồn tại nhất định, đó là lĩnh vực nuôi trồng thủy sản chưa được đầu tư thỏa đáng, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt là nhu cầu xuất khẩu cao của Ngành. Điều này dẫn tới tình trạng qui hoạch cho các vùng nuôi trồng thủy sản tràn lan, chưa hợp lý; việc giải quyết tôm bố mẹ cho sản xuất tôm giống còn bị động, công nghệ nuôi trồng thủy sản còn lạc hậu so với các nước cạnh tranh với ta…Vì vậy đòi hỏi cần có sự quan tâm thích đáng của Nhà nước và nhân dân nhằm nâng cao hiệu quả đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản trong thời gian tới. Từ đó góp phần hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Ngành, đưa ngành Thủy sản trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Mong rằng, với đề tài “Đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản-Thực trạng và giải pháp” sẽ góp phần nhỏ bé của mình vào quá trình phát triển cũng như công nghiệp hóa, hiện đại hóa Ngành Thủy sản.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế đầu tư - GS.TS. Nguyễn Ngọc Mai (chủ biên) - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 1998.
Giáo trình lập và quản lí dự án đầu tư - TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (chủ biên) - Nhà xuất bản Thống kê năm 2000.
Giáo trình Quản lí dự án đầu tư - Th.S. Từ Quang Phương (chủ biên)- Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2001.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội Ngành Thủy sản thời kì 2000-2010- Bộ Thủy sản.
Kế hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản các tỉnh ven biển giai đoạn 2001-2005 - Bộ Thủy sản.
Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999 - 2010 - Bộ Thủy sản.
Báo cáo Tổng kết đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm 1996 - 2000 và phương hướng đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm 2001-2005 của Ngành Thủy sản - Hà Nội tháng 3 năm 2001.
Sách Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm mũi nhọn ở Việt Nam - Đỗ Hoài Nam - Nhà xuất bản KHXH năm 1996.
Số liệu thống kê Nông - lâm - Thủy sản Việt Nam 1990 - 1998 và dự báo 2000 - Nhà xuất bản Thống kê 1999.
Chính sách và biện pháp huy động các nguồn vốn. TT-TL-TT Bộ KHĐT năm 1996.
Báo cáo tình hình kế hoạch nhiệm vụ năm 1993, 1996, 1998, 1999, 2000 và biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2001 của ngành Thủy sản.
Tạp chí Thủy sản số 1, 2, 3, 6 năm 1999; số 1, 2, 3, 4 năm 2000; số Tết Tân Tị, số 2 năm 2001.
Tạp chí Thị trường và giá cả số 11 năm 1999, số 5 năm 2000.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 269 tháng 10/2000.
Tạp chí Thương mại Thủy sản số 7,12 năm 2000.
Kinh tế 1999 - 2000, 2000 - 2001, Chuyên san của Thời báo kinh tế Việt Nam.
Báo Thời báo kinh tế Việt Nam số 77 năm 2000; số 24, 26, 42, 52, 53 năm 2001.
Phụ lục
Phân vùng kinh tế
Căn cứ vào đặc điểm riêng của từng khu vực nước ta được chia thành các vùng kinh tế, cụ thể:
Vùng 1: Các tỉnh miền núi phía Bắc có 13 tỉnh gồm: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn ,Thái Nguyên, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình.
Vùng 2: Các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và khu bốn cũ có 15 tỉnh và thành phố gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình,Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Vùng 3: Các tỉnh miền Trung có 10 tỉnh và thành phố gồm: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận.
Vùng 4: Các tỉnh Tây Nguyên gồm 3 tỉnh: Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.
Vùng 5: Các tỉnh Đông Nam Bộ có 8 tỉnh và thành phố gồm: Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Thuận, Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh.
Vùng 6: Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có 12 tỉnh gồm: Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0019.doc