Lời mở đầu
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay,khi vừa gia nhập WTO còn gặp nhều khó khăn và thử thách, cũng theo đánh giá của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX về định hướng phát triển các thành phần và các vùng kinh tế ở nước ta trong giai đoạn 2001 – 2010, Đảng ta khẳng định cần phải tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng.
Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng, xây dựng các công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế,đưa nước ta đi lên,hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
Với vị trí của các doanh nghiệp đang ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế quốc dân, mà đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước thì nội dung đầu tư phát triển đã trở thành một vấn đề cần phải được quan tâm hàng đầu. Trong thời gian qua đầu tư phát triển trong doanh nghiệp đã đạt được những kết quả to lớn, đã đưa nền kinh tế tiến thêm những bước thêm vững chắc hơn trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên đầu tư phát triển có hiệu quả hay không cũng vẫn tồn tại nhiều vướng mắc trong các doanh nghiệp.
Vì vậy, dưới sự hướng dẫn của thầy, TS.Từ Quang Phương, nhóm chúng tôi là nhóm 13-lớp Đầu tư 48A đã chọn đề tài về “Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp và tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước” Trong quá trình thực hiện đề tài,có thể còn có nhiều thiếu sót, nhóm chúng tôi rất mong muốn nhận được sự góp ý và bổ sung của thầy. Và chúng tôi xin chân thành cảm ơn những góp ý, bổ sung của TS.Từ Quang Phương và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Mục lục
Lời mở đầu
Chương 1: Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 2
I Các vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển 2
1.Định nghĩa 2
2. Phân loại 2
II. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 3
1. Khái niệm 3
2. Đặc điểm của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 3
3. Nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 4
3.1 Đầu tư vào hàng dự trữ và tạo ra tài sản cố định. 4
3.2. Nội dung đầu tư phát triển cho tài sản cố định hữu hình của doanh nghiệp 8
3.3. Vốn đầu tư sửa chữa lớn tài sản cố định 9
3.4 Đầu tư vào nghiên cứu đổi mới và phát triển KHCN_KT 10
3.5 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 11
3.6 Đầu tư vào hoạt động Marketing và tài sản vô hình khác 12
III. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước 13
1. Vài nét về doanh nghiệp nhà nước 13
1.1 Khái niệm 13
1.2 Phân loại 13
1.3 Đặc điểm của DNNN trong nền kinh tế thị trường 14
1.4 Sự cần thiết của DNNN 14
2.Các chỉ tiêu đánh giá kết quả đầu tư phát triển trong doanh nghiêp nhà nước 15
2.1. Tỷ suất giữa giá trị gia tăng với tổng vốn 16
2.2. Tỷ suất giữa thuế với tổng vốn 16
2.3. Thu nhập bình quân của người lao động 16
2.4. Tỷ suất giữa lợi nhuận với tổng vốn 16
2.5. Tỷ suất giữa lợi nhuận với vốn chủ sở 17
2.6. Tỷ suất giữa lợi nhuận với thị giá cổ phần 18
2.7. Tỷ lệ giữa nguồn vốn tự bổ sung với nguồn vốn kinh doanh 18
2.8. Tỷ số nợ 19
2.9. Hệ số khả năng thanh toán 19
Chương 2:Thực trạng tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam . 20
I. Một số vấn đề trong doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam 20
1. Tình hình doanh nghiệp nhà nước đến cuối năm 2005 20
1.1 Doanh nghiệp Nhà nước đầu tư ra ngoài ngành 20
1.2 DNNN là lực lượng nòng cốt của thành phần kinh tế nhà nước, đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân 21
1.3 Cải cách DNNN được đẩy mạnh theo hướng tiếp tục đa dạng hóa sở hữu các DNNN .22
2.Tình hình doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2006-2010 25
II. Thực trạng đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước 27
1.Tình hình huy động và hiệu quả sử đụng nguồn vốn trong doanh nghiệp nhà nước 28
2. Đầu tư vào tài sản vốn vật chất 29
3. Phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nhà nước 29
4. Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu khoa học 30
5. Cho thuê tài chính 32
6. Đầu tư vào thương hiệu 32
7. Đầu tư vào tài sản trí tuệ 32
III.Đánh giá hoạt động đầu tư phát tiển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 33
1.Các thành tựu đạt được 33
2.Các hạn chế chủ yếu 34
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước 37
I. Nhiệm vụ đặt ra cho DNNN cần thực hiện trong thời gian tới 37
II. Đối với Chính phủ. 38
1. Đẩy mạnh công tác xắp xếp doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 38
2. Các giải pháp về cơ chế quản lý, cơ chế đầu tư và tài chính. Hình thành cơ chế sử dụng vốn có hiệu quả. 41
3. Đầu tư mũi nhọn trong từng ngành ,hình thành các tập đoàn kinh tế. 41
4. Thúc đẩy liên kết hỗ trợ giữa các doanh nghiệp nhà nước với các thành phần kinh tế khác kể cả kinh tế tư nhân và nước ngoài. 42
5. Bồi dưỡng phát triển các nguồn nhân lực, đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý. 42
Kết luận
46 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1873 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp và tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
địa ốc... đã tạo ra những rối loạn đáng tiếc trong khu vực hàng hoá nhạy cảm này... Tình trạng yếu kém trong định hướng đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước đã gây ra nhiều tác hại chẳng những cho bản thân mỗi doanh nghiệp mà còn gây tác hại lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Với mỗi doanh nghiệp nó làm phân tán nguồn lực và sức mạnh nguồn vốn và trí tuệ khi doanh nghiệp còn chưa đủ sức cạnh tranh, thậm chí nó là nguy cơ tiềm ẩn của sự thua lỗ và phá sản.Với nền kinh tế quốc dân, nó gây ra sự lãng phí và thất thoát tiền vốn và tài sản công, nó gây ra sự rối loạn dòng chảy tài chính, tiền tệ, làm cho ngân sách quốc gia sa vào tình trạng bội chi, và kết cục nó là một trong những tác nhân của lạm phát, khiến cho nền kinh tế phát triển không bền vững. Số vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN luôn tăng lên và luôn cao hơn so với khu vực DN ngoài nhà nước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.Tuy nhiên hiệu quả của nguồn vốn hệ thống DNNN đem lại lại không cao và còn rất nhiều vấn đè bất cậpcần phải giải quyết ngay.
2. Đầu tư vào tài sản vốn vật chất
Đầu tư của Nhà nước vào khu vực kinh tế quốc doanh vẫn chiếm tỷ trọng cao và tăng lên khá nhiều so với các thành phần kinh tế khác, nhưng tỷ trọng đóng góp của khu vực này vào GDP lại đang có xu hướng giảm xuống (1995: 40,2% GDP→ 2000: 38,5%GDP→ 2005:38,3% GDP).
Thực tế đó có thể được lý giải bởi :
+ Cơ cấu đầu tư bất hợp lý.
+ Tình trạng thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Vấn đề nợ đọng trong xây dựng cơ bản.
3. Phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nhà nước
Tri thức là hành trang không thể thiếu trong thế kỉ 21, thời đại CNH-HĐH, vì vậy đầu tư phát triển cho nguồn nhân lực là một vấn đề bức thiết và cũng là nhiệm vụ của toàn xã hội. Sự thành bại của DNNN phụ thuộc vào rất nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan, trong đó có yếu tố nguồn nhân lực là nguyên nhân trọng yếu nhất. Mỗi sự phân công, sắp xếp các vị trí trong DNNN đều tác động tới DN một mức độ nào đó.
Sự phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng của các doanh nghiệp đã đóng góp một phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. Theo ước tính, các doanh nghiệp đã tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp nông thôn, 26% lực lượng lao động cả nước. Nếu trong năm 2001, trung bình trên 964 người dân có một doanh nghiệp đăng kí kinh doanh, thì năm 2005, trên 500 người dân có một doanh nghiệp đăng kí kinh doanh. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đã và đang tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển. DNNN song hành với các DN ngoài Nhà nước (Doanh Nghiệp hoạt động theo Luật Doanh Nghiệp va Doanh Nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) phát triển và đổi mới, kích thích người lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động của DN
Mặt hạn chế về nguồn nhân lực là nền kinh tế CNH-HĐH hiện nay đòi hỏi một lực lượng lao động đã qua đào tạo nghề, có trình độ chuyên môn cao nhưng trên thực tế thì tỉ lệ lao động có tay nghề trong DNNN còn rất thấp, không đáp ứng được nhu cầu. Thời gian qua, số lao động mà các DNNN tuyển dụng giảm đáng kể và ngược lại, tăng cao ở các DN FDI (2% so với 15,6%). Điều này cho thấy, lao động trong các DNNN đang ở tình trạng đông cứng, chưa tham gia thật sự vào thị trường lao động, đang làm cản trở sự phát triển của DN. Vấn đề lao động, việc làm có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của lộ trình đổi mới và phát triển DNNN. Các DNNN phải tiến hành rà soát định mức, định biên lao động để xác định số lượng lao động hợp lý theo nguyên tắc "có việc - có người", đảm bảo giờ công, ngày công, thu nhập theo luật định. Chấm dứt việc tiếp nhận lao động, thuê mướn nhân công thời vụ một cách tuỳ tiện làm cho năng suất lao động thấp, tỷ lệ thiếu việc, chờ việc cao. Tăng cường giám sát việc thực hiện quỹ tiền lương và tuyển dụng lao động của DNNN. Khi thực hiện sắp xếp lại DNNN cần hết sức chú ý phương án đầu tư và phát triển sản xuất - kinh doanh để có thể thu hút tối đa người lao động có việc làm ở doanh nghiệp chuyển thể. Trường hợp người lao động tự nguyện thôi việc hoặc mất việc thực hiện giải quyết theo chế độ hiện hành và sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp, cổ phần hóa DNNN để bổ sung. Đồng thời phải dành một phần ngân sách để hỗ trợ giải quyết việc làm cho số lao động mất việc qua sắp xếp lại, giải thể, phá sản DNNN, gắn việc cấp tiền với tạo việc làm, không cấp tiền "chay" như khi thực hiện Quyết định 176 trước đây, tuy có tác dụng tích cực, song không ít trường hợp Nhà nước cấp tiền nhưng người lao động vẫn không có việc làm mới. Gắn việc giải quyết lao động dôi dư với các chương trình quốc gia tạo việc làm.
Thực tế cho thấy thu nhập của lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) thấp hơn rất nhiều so với thu nhập của lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thậm chí thấp hơn cả thu nhập của lao động làm việc của các doanh nghiệp tư nhân. Một kỹ sư làm việc cho các công ty nước ngoài có thể có thu nhập 1.500 USD- 2.000 USD/tháng, gấp khoảng 10 - 15 lần so với thu nhập của người làm việc cho các công ty hoặc cơ quan Nhà nước.Những ràng buộc về mức thu nhập đã ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược phát triển nhân lực cũng như việc tuyển mộ và giữ chân người lao động có tay nghề cao tại các DNNN. Trước tình hình giá cả hàng hóa hiện nay tăng cao, tiền lương hàng tháng không đủ để trang trải cho sinh hoạt, nên hiện tượng công nhân ở các tỉnh phía Nam bỏ việc đang ngày càng trở nên phổ biến, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của DNNN cũng như đời sống của người lao động. Bởi vậy vấn đề đãi ngộ với người lao động là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức. Không chỉ dừng lại ở nhận thức, các DNNN đã bắt đầu chủ động thực hiện trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng, trước hết là đối với bản thân người lao động; từng bước coi đó là một phần không thể thiếu trong quá trình sản xuất - kinh doanh. Một trong các đặc điểm đáng chú ý là, số đông công nhân tại các khu công nghiệp của các DNNN nói chung chủ yếu từ nông thôn đến làm việc; vấn đề “an cư” đối với họ là hết sức quan trọng. Nhận rõ đặc điểm này, một số doanh nghiệp đã hướng đến thực hiện trách nhiệm xã hội của mình bằng việc xây nhà ở để giúp công nhân ổn định nơi ở, tạo mối quan hệ gắn bó giữa người lao động và doanh nghiệp. Các DNNN muốn đứng vững và phát triển thì cần phải có cơ chế để thu hút lao động giỏi. Cơ chế ràng buộc về mặt bằng thu nhập cần phải có hướng giải quyết để các DNNN cũng có quyền và đủ điều kiện thu hút người giỏi đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của hội nhập và phát triển. Những ngành nghề đang có “giá” hiện nay như tự động hóa, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo máy… thì việc tuyển dụng của các DNNN gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, sự cạnh tranh trên thị trường đang hướng tới một sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, DNNN không còn được hưởng một số chế độ ưu tiên như trước nữa.
4. Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu khoa học
KHCN là thước đo trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Hoạt động KHCN là một trong những lĩnh vực quan trọng của bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt trong giai đoạn quan trọng, có tính bước ngoặt của dân tộc. Thực tiễn chỉ ra rằng, chỉ khi nào các doanh nghiệp coi trọng KH&CN, đổi mới và cập nhật với thế giới thì mới tồn tại và phát triển được. Mỗi năm nước Mỹ đầu tư cho KHCN 312 tỷ USD. Ở Trung Quốc đầu tư cho KHCN 1,3% GDP, Thái Lan 2,8% GDP, trong khi đó con số này ở Việt Nam kinh phí cho KHCN là 2.411 tỷ đồng, bằng 0,34% GDP (theo nguồn Bộ Tài chính năm 2004).
Những năm qua, đội ngũ người Việt Nam tham gia hoạt động KHCN trực tiếp ở các viện nghiên cứu, triển khai nghiên cứu khoa học ở các DN với một nước đang phát triển khá đông đảo, chất lượng khá đảm bảo, thực hiện các nhiệm vụ đất nước giao phó, trong thời chiến cũng như thời bình. Để có nền KHCN phát triển, việc hình thành thị trường KHCN là yêu cầu tất yếu. Bản chất của thị trường chính là đáp ứng sự cạnh tranh giữa các cơ sở khoa học với tư cách là “người bán” - nghiên cứu, tìm kiếm sản phẩm tốt nhất phục vụ khách hàng, và giữa các doanh nghiệp là “người mua” lựa chọn sản phẩm tốt nhất của các cơ sở khoa học phục vụ mục tiêu phát triển. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm tới việc tạo lập và phát triển thị trường KHCN. Ngay từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (khoá IX) đã nhấn mạnh: “Phát triển mạnh thị trường KHCN để góp phần nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp (DN); có cơ chế, chính sách để sản phẩm khoa học thực sự trở thành hàng hóa… Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về KHCN theo hướng hỗ trợ phát triển thị trường KHCN, khuyến khích, tôn vinh các nhà khoa học trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài thực sự có tài, có đóng góp cho đất nước…”. Thực tế những năm qua, chúng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, đã để nhiều công sức xây dựng được một số văn bản luật, nghị định hướng dẫn nhằm hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển trong lĩnh vực KHCN; thu hút nhân tài, khơi dậy sức sáng tạo của các nhà khoa học. Hiện nay kinh phí ngân sách dành cho KHCN không dưới 2% chi ngân sách. Việc phân bổ này thực hiện theo Luật ngân sách, theo các Nghị định, hướng dẫn của các ban ngành. Về cấu trúc, khoảng 30-40% cho đầu tư phát triển, 60-70% cho sự nghiệp khoa học tùy từng giai đoạn phát triển. Trong khoảng 3-4 năm, để đảm bảo ổn định, sẽ tập trung hơn cho đầu tư phát triển, thời gian sau đó sẽ chú tâm hơn đến sự nghiệp khoa học, như hoạt động của đội ngũ các nhà khoa học liên quan đến các nhiệm vụ khoa học, với chương trình, dự án. Về phân bổ chiều dọc, ngân sách về các địa phương khoảng hơn 30%, số còn lại dành cho các ngành hoạt động kinh tế xã hội và phần còn lại khoảng 8-10% dành chi cho nhu cầu và vấn đề khoa học ở cấp nhà nước. DNNN chiếm tỷ lệ không lớn trong hơn 300 000 DN, nhưng chiếm vốn lớn; bên cạnh đó là hệ thống các DN khác, có vai trò ngày càng tăng. Bản thân điều này đang tạo nhu cầu thay đổi DNNN: tăng năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nâng năng lực cạnh tranh của DN. Chính phủ và Bộ KHCN đã dành nhiều dự án lớn để hỗ trợ DN ứng dụng KHCN và nhà KH làm kinh tế. Hiệu quả thu được khá lớn: thi công lắp ráp nhà máy thủy điện nhỏ và trung bình, hoàn toàn do giới KH Việt Nam làm. Hoặc đào đường hầm xuyên núi, thiết kế, thi công cầu: nối Bến Tre và Tiền Giang, đèo Hải Vân. Có những công ty VN trước làm nhà thầu thứ cấp cho nhà nước ngoài, bây giờ đã nắm vững công nghệ quản lý và triển khai, để trở thành nhà thầu chính, không chỉ ở VN mà cả nước ngoài.
Trở ngại lớn nhất xuất phát từ nền kinh tế nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng của cơ chế bao cấp và tư duy bao cấp. Những kết quả đạt được trong việc hình thành đồng bộ các thể chế kinh tế thị trường vẫn còn hạn chế. Thị trường KHCN còn rất sơ khai, nhận thức về thị trường KHCN còn nhiều điều chưa thống nhất, ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ trương tạo lập và phát triển thị trường KHCN. Nhìn vào hai chủ thể chủ đạo tham gia vào thị trường KHCN là các cơ sở nghiên cứu khoa học và DN, ta có thể thấy những nhược điểm này bộc lộ rất rõ. Đối với DN, đặc biệt là DNNN, cơ chế quản lý và môi trường hoạt động chưa tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư đổi mới về KHCN. DN còn tư tưởng dựa vào nhà nước, chưa năng động, chưa thấy rõ sự cần thiết phải đầu tư cải tiến, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh mà chỉ tìm kiếm những cơ hội để có được lợi nhuận ngắn hạn, trong khi chính họ lại là một chủ thể quyết định cho việc hình thành thị trường KHCN. Khi DN buộc phải tự bơi, họ sẽ tự nhận thức cần sử dụng thành tựu KHCN. Đối với các cơ sở nghiên cứu, tư tưởng bao cấp còn nặng nề hơn. Cơ chế giao và thực hiện các đề tài nghiên cứu KHCN bằng vốn ngân sách nhà nước đã tạo tư tưởng dựa dẫm, ỷ lại vào nhà nước, không phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu khoa học. Trong khi đó, các đề tài nghiên cứu lại chưa xuất phát từ thực tế kinh tế xã hội nên tính hiệu quả chưa cao...
Cạnh tranh là động lực để phát triển. Xóa bỏ bao cấp, trao quyền tự chủ có nghĩa là buộc các cơ sở nghiên cứu phải đổi mới về tư tưởng, phương thức hoạt động; phải đầu tư, đổi mới nâng cao năng lực nghiên cứu KHCN để tồn tại và phát triển theo quy luật khắc nghiệt của cơ chế thị trường. Trong thị trường này, các cơ sở nghiên cứu trở thành nhà sản xuất. Hàng hóa, sản phẩm phải có chất lượng, giá thành hạ thì mới có sức cạnh tranh. Tóm lại, họ sống và phát triển bằng các hợp đồng nghiên cứu, chuyển giao cho DN. Đó là điều tất yếu. Các cơ sở nghiên cứu phải chủ động tìm hiểu nhu cầu thị trường để sản xuất những hàng hóa chất lượng cao mà người mua cần chứ không phải làm ra những gì mình có. Muốn vậy, các Viện nghiên cứu phải nâng cao trình độ ngoại ngữ để giao tiếp, cập nhật những thông tin, công nghệ mới của nước ngoài, qua đó nghiên cứu phù hợp với điều kiện, yêu cầu của DN đặt ra.
5. Đầu tư bằng cách cho thuê tài chính
Là giải pháp đầu tư hữu hiệu cho các Doanh nghiệp nhỏ và vừa .
Thời gian qua, hoạt động của các công ty cho thuê tài chính đã phần nào làm giảm sức ép và gánh nặng cho hệ thống ngân hàng trong việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp. Đặc biệt, trong thời điểm hiện tại, khi các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay của các ngân hàng để đầu tư máy móc, thiết bị sản xuất thì cho thuê tài chính là một kênh dẫn vốn hiệu quả được các doanh nghiệp nhắm tới.
Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín là công ty cho thuê tài chính đầu tiên thuộc khối Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam. Công ty đang triển khai các dịch vụ bao gồm huy động vốn, phát hành giấy tờ có giá, cho thuê tài chính với quy mô hoạt động rộng khắp các tỉnh, thành. Ngoài việc tăng vốn điều lệ lên 200 tỷ đồng, công ty cũng đã ký kết bản hợp đồng tín dụng với Công ty Phát triển tài chính Hà Lan để vay một khoản tín dụng trị giá 8 triệu USD.
Với nguồn vốn tài chính vững mạnh, Sacombank Leasing đáp ứng mọi nhu cầu về nguồn vốn đầu tư và là nhà tư vấn chuyên nghiệp các loại máy móc, thiết bị cho các doanh nghiệp. Thời gian tới, Sacombank Leasing sẽ cho ra mắt trang web mua bán thiết bị, chuyên cung cấp thông tin về máy móc thiết bị chuyên dụng của các nhà sản xuất trên thế giới
6. Đầu tư vào thương hiệu
Một trong những từ xuất hiện nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng trong những năm gần đây là thương hiệu. Thương hiệu đã trở thành mối quan tâm không chỉ của doanh nghiệp mà còn cả của nhà quản lý và dư luận XH. Hiện nay khái niệm thương hiệu chưa có khái niệm thống nhất nhưng nó được khẳng định là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Thương hiệu chắc chắn không chỉ dành cho các nhà kinh doanh hàng hoá tiêu dùng. Một nhà kinh doanh, một doanh nghiệp cho dù đang kinh doanh ở lĩnh vực nào thì cũng cần phải xây dựng thương hiệu cho mình. Hàng trăm tỷ đô la đang đổ ra trên thế giới mỗi năm đầu tư cho thương hiệu có cả những doanh nghiệp sản xuất từ cây kim sợi chỉ cho tới những doanh nghiệp sản xuất máy bay. Một khoản đầu tư cho thương hiệu hiệu quả là điều nên làm cho dù có thể đánh đổi bởi lợi nhuận.
Bản chất của thương hiệu là nhãn hiệu được thương mại hoá. Thương hiệu bao gồm: biểu tượng của công ty , biểu tượng, khẩu hiệu, tông màu, địa chỉ liên lạc và kể cả mùi vị đặc trưng…có nhiều loại đầu tư vào thương hiệu như đầu tư vào thương hiệu: doanh nghiệp,gia đình, cá nhân, tập đoàn, và nhà nước
7. Đầu tư vào tài sản trí tuệ
Hiện nay đầu tư vào tài sản trí tuệ bao gồm một số lĩnh vực:
- Một là đầu tư cho các phát minh sáng chế, các giải pháp hữu ích. Đó là hợat động đầu tư trong đó nhà đầu tư bỏ tiền và tri thức để ứng dụng hiệu quả trong thực tế. Sự sáng tạo của sản phẩm thể hiện sự đột phá so với trình độ kỹ thuật chung do đó tạo ra giá trị mới rất lớn, tồn tại lâu dài và tạo ra sức cạnh tranh cap của sản phẩm. Hoạt động đầu tư này được thực hiện dưới 2 phương thức: tự đầu tư nghiên cứu đê tạo ra các sáng chế giải pháp hữu ích hoặc mua lại công nghệ kèm với sáng chế và giải pháp hữu ích.
Nói chung xu hướng của các doanh nghiệp là thường mua công nghệ đi kèm với chuyển giao các sáng chế và giải pháp hữu ích, còn việc tự nghiên cứu chủ yếu được thực hiện ở quy mô quốc gia, trong các viện nghiên cứu, trung tâm khoa học hay các trường đại học. Do đó đối với hoạt động đầu tư này doanh nghiệp chưa có sự đầu tư đúng mức và chủ động.
- Hai là đầu tư vào bản quyền và các quyền cận kề trong lĩnh vực in ấn, giải trí, phát thanh truyền hình. Thực chất của hoạt động này là việc xây dựng và thực hiện và các quyền sở hữu tác phẩm, văn chương, nghệ thuật khoa học. Giá trị của nó được biểu hiện khi bán quyền sở hữu này cho người khác. Nói chung hoạt động đầu tư này đòi hỏi nhiều thời gian và chất xám và nó thường được đề cập đến với tư cách cá nhân hơn là các tổ chức doanh nghiệp.
- Ba là đầu tư nhãn hiệu thương mại, tên gọi xuất xứ hàng hoá. Đây không phải là hoạt động trực tiếp mà nó là kết quả của một loạt các yếu tố được đầu tư từ tài sản hữu hình như chất lượng sản phẩm, đặc tính nổi trội của sản phẩm. Do đó đây là một hoạt động đầu tư tốn rất nhiều thời gian và công sức, kết quả của nó là sự tổng hợp của các yếu tố. Một nhãn hiệu như cocacola, bưởi năm roi…chỉ có thể được công chúng biết đến và tin cậy khi nó tạo được ấn tượng tốt trong lòng khách hàng.
III.Đánh giá hoạt động đầu tư phát tiển trong doanh nghiệp nhà nước
1.Thành tựu đạt được.
Thứ nhất: Nguồn vốn huy động cho hoạt động đầu tư tăng lên đáng kể. Không chỉ những nguồn lực trong nước được khơi thông mà chúng ta đã chú ý khai thác cả những nguồn lực bên ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào công cuộc CNH-HĐH đất nước.Trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX tốc độ tăng vốn đầu tư : 28%-29% /năm. Đặc biệt năm 1993 tăng đến 46% /năm.
Tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP tăng đều qua các năm:
Năm
đầu tư so với GDP(%)
tốc độ tăng trưởng kinh tế(%)
1991
15.22
6
1992
21.4
8.6
1993
29.5
8.1
1994
30.4
8.8
1995
28.4
9.5
1996
28.45
9.3
1997
28.7
8.2
1998
26.1
5.8
1999
25.4
4
2000
28.1
5
2001
31
6.68
Thứ hai: hoạt động đầu tư góp phần cho tăng trưởng và phát triển đất nước. Cùng với quy mô đầu tư huy động được, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta cũng tăng đều qua các năm (qua bảng số liệu trên cho chúng ta thấy được điều đó)
Thứ ba: hoạt động đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Tỷ trọng vốn đầu tư trong nông nghiệp giảm dần, ngược lại tỷ trọng vốn đầu tư trong công nghiệp và xây dựng tăng lên đáng kể:
Thời kỳ
Nông nghiệp(%)
Công nghiệp và xây dựng(%)
dịch vụ(%)
1986-1990
13.4
25.7
60.9
1991-1995
8.7
41.8
51.7
1996-1997
8.5
40.2
52.3
Tương ứng với nguồn vốn đầu tư trên, cơ cấu kinh tế nước ta trong những năm qua cũng có sự chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
1995
27.18
28.76
44.16
1996
27.76
29.73
42.51
1997
25.77
32.06
42.15
1998
24.78
32.49
41.73
1999
25.43
34.49
40.08
2000
24.53
36.73
38.74
2001
23
38
39
Thứ tư: Hoạt động đầu tư góp phần nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ cho đất nước. Thông qua hoạt động của đầu tư nước ngoài, cho phép Việt Nam tiếp xúc với những thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới. Đồng thời, các ngành mới hình thành như:Công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ gen…và trong quá trinh tiễp xúc và làm việc với nước ngoài chúng ta cũng học hỏi được nhiều kinh nghiệm làm việc và tổ chức quản lý…
Thứ năm: tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế…Bên cạnh đó, năng lực nhiều ngành kinh tế tăng lên đáng kể, nhất là năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp, năng lực tưới tiêu thuỷ lợi, năng lực ngành giao thông vận tải. Riêng trong năm 2004, số các dự án hoàn thành đưa vào sử dụng cao hơn so với những năm trước đây. Tổng số công trình, dự án hoàn thành trong năm 2004 khoảng 3640 dự án, trong đó cá bộ ngành trung ương khoảng 980 công trình, dự án; các tỉnh thành phố khoảng 2660 dự án. Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng đã có nhiều đổi mới, thực hiện phân cấp, giao quyền và tạo chư động cho các bộ, ngành, địa phương trong việc quyết định chủ trương và phê duyện dự án đầu tư và bố trí vốn đẩu tư cụ thể cho các công trỉnh, dự án không phân biệt dự
2.Các hạn chế chủ yếu
* Quy mô DNNN còn quá nhỏ bé: Có tới 50 DNNN có quy mô vốn dưới 1 tỷ đồng, 64 DNNN có số vốn dưới 0,5 tỷ đồng. Quy mô DNNN vẫn chưa lớn, còn nhiều DN hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần chi phối. Không ít tỉnh, thành phố chưa kiên quyết trong CPH, còn để nhiều DNNN hoạt động kinh doanh; một số nơi chưa sắp xếp thu gọn đầu mối các DN hoạt động trong lĩnh vực thủy nông. Số lượng DN tham gia nhiệm vụ cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích còn nhiều, đặc biệt là khối an ninh, quốc phòng. Nhiều đơn vị tỷ trọng cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thấp, tỷ trọng hoạt động sản xuất, kinh doanh lớn nhưng vẫn tiếp tục duy trì DNNN. Việc sắp xếp các nông, lâm trường còn chậm túng.
-Trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu; một số DN còn sử dụng công nghệ cũ, tiêu hao nhiên liệu, năng lượng cao. Nhiều DNNN năng suất lao động và hiệu quả hoạt động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; còn khoảng 15% số DN làm ăn thua lỗ.
* Tỷ lệ nợ trên vốn của DNNN còn quá cao, một số công ty có số nợ phải trả gấp năm lần vốn nhà nước tại công ty, có công ty vay gấp hơn 20 lần vốn, dẫn đến độ rủi ro cao, khả năng thanh toán nợ thấp.
-Việc xử lý các tồn tại về tài chính còn chậm do nhiều nguyên nhân nhưng chưa được khắc phục
- Tình hình nợ khối lượng các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành do chưa có vốn thanh toándiễn ra ở một số bộ, địa phương đang là vấn đề bức xúc
* Cơ chế quản lý DNNN còn nhiều bất cập:từ quyền tự chủ tuyển chọn nhân sự, điều hành DN, đến tài chính giá cả, tiền lương... Tổ chức quản lý trong DNNN chuyển biến còn chậm. Nhiều DNNN và DN CPH chưa có điều kiện thay đổi cơ bản quản trị công ty một phần do Nhà nước vẫn tiếp tục nắm giữ tỷ lệ cổ phần lớn trong các DN CPH. Một số tổng công ty nhà nước chưa phát huy được vai trò chi phối trong ngành, lĩnh vực hoạt động. Một số công ty hoạt động còn kém hiệu quả. Ở nhiều tổng công ty giữa Chủ tịch HÐQT và Tổng giám đốc chưa có sự thống nhất trong quản lý, điều hành DN. * Kết quả sản xuất, kinh doanh của DNNN nói chung và tổng công ty nhà nước nói riêng chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước. * Việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn về Tổng công ty Ðầu tư và kinh doanh vốn nhà nước còn chậm. Một số địa phương (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Lâm Ðồng, Kiên Giang,...) vì để tránh việc chuyển giao, đã chuyển phần vốn nhà nước đầu tư tại các DN này cho các DN khác quản lý. * Vấn đề hậu CPH chưa được quan tâm đúng mức; sự hiểu biết pháp luật về công ty cổ phần còn hạn chế, cho nên, có nơi chưa phát huy quyền làm chủ của cổ đông và người lao động, ngược lại có nơi lạm dụng quy định của pháp luật gây khó khăn cho quản lý của Hội đồng quản trị, điều hành của giám đốc. * Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và lợi ích của người được cử làm đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại DNNN CPH chưa được quy định đầy đủ, nên còn lúng túng. * Các mô hình tổ chức quản lý mới triển khai còn chậm: ở một số tổng công ty nhà nước chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con vẫn còn duy trì biện pháp quản lý hành chính đối với các công ty con như giao chỉ tiêu kế hoạch, thu phí quản lý...
* Hiệu quả kinh doanh thấp,hiệu quả đầu tư không được cải thiện,nhiều khoản đầu tư công sử dụng kém hiệu quả.Nếu giai đoạn 1996 - 2000 tăng trưởng 6,9% và tổng mức đầu tư tương đương 25,6% GDP; giai đoạn 2001 - 2005 tăng trưởng 7,5% vốn đầu tư lên đến 34,6% GDP; giai đạon 2006 - 2010 dự kiến 7,5 - 8% với mức đầu tư tương đương 40% GDP.Theo các chuyên gia đến từ ADB, tăng trưởng kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa trên tỷ lệ đầu tư cao khoảng 40% so với GDP.Đi cùng với sự tăng lên về nguồn vốn đầu tư nhằm đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng, hiệu quả đầu tư của Việt Nam lại giảm đi. Nếu như giai đoan 1996 - 2000 để có 1 đơn vị GDP cần 3,7 đơn vị đầu vào thì 2001 - 2005 đã lên đến 4,6 đơn vị đầu vào. Và với mức dự kiến gian đoạn 2006 - 2010 thì để có 1 đơn vị GDP cần tới 5,1 đơn vị đầu vào.
- Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư chưa cao nhất là vốn ngân sách nhà nước. Cơ cấu đầu tư còn nhiều điểm chưa hợp lý.
* Chất lượng của một số dự án quy hoạch chưa cao, chưa có tầm nhìn xa, quy hoạch chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa theo kịp với quá trình thay đổi của các yếu tố khách quan. Các dự báo tác động của yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm… nên tính định hướng cho doanh nghiệp còn hạn chế. Tính cục bộ, xu hướng khép kín trong quy hoạch đã gây nên sự lãng phí các nguồn lực do sự phát triển chồng chéo dư thừa công suất… hoặc tạo ra độc quyền trong ngành, sử dụng quy hoạch để cản trở thành phần kinh tế khác tham gia. Quy hoạch thường xuyên chưa được cập nhập, bổ xung và điều chỉnh kịp thời, do đó có một số quy hoạch tỏ ra lạc hậu với tình hình thực tế, không đáp ứng nhu cầu, không đủ căn cứ để xây dựng kế hoạch.
* Tình trạng đầu tư dàn trải chưa được khắc phục có hiêu quả. Trong những năm qua mặc dù đã có nhưng tiến bộ nêu trên nhưng tình trạng trong bố trí kế hoạch đầu tư bằng nguồn ngân sách các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố vẫn chưa được khắc phục triệt để. Tình trạng này được tích tụ từ nhiều năm trước đây, gây lãng phí lớn dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Một số bộ ngành địa phương vẫn chưa chấp hành đúng quy định về quản lý đầu tư và xây dưng, bố trí vốn cho một số công trình, dự án chưa đủ thủ tục về đầu tư.
* Tình hình thất thoát lãng phí còn lớn dẫn đến hậu quả đầu tư chưa cao đang là vấn đề bức xúc. Hiện tại vì chưa thể kiểm toán, thanh tra đánh giá toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng nên chưa thể khẳng định con số thất thoát mà dư luận xưa nay đề cập tuy nhiên kết quả thanh tra cho thấy số sai phạm về tài chính chiếm 14-19% tổng vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra. Trong tổng số vốn bị phát hiện nói trên số vốn kiến nghị thu hồi chiếm 5-7% tổng số vốn được thanh tra. Qua các kết quả kiểm tra như trên ta thấy việc quản lý vốn, đặc biệt là nguồn vốn ngân sách , còn rất yếu kém, thiếu sót dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Mặt khác cũng cho thấy khi thanh tra nhà nước tiến hành thanh tra thì số sai phạm bị phát hiện nhiều hơn khi tự các bộ ngành, tỉnh thành phồ thanh tra chính mình.
* Việc giải ngân chậm, nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ, công trái giáo dục đã làm chậm đưa các công trình đi vào sử dụng. Mới chỉ chú ý đến đầu tư nhằm phát triển năng lực sản xuất mà chuă chú ý đến đầu ra sản xuất, công nghệ sử dụng, cơ sở hạ tầng…dẫn đến sản phẩm chất lượng còn thấp, khả năng cạnh tranh chưa cao.
* Sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển, vốn nhà nước kém hiệu quả, cơ chế quản lý không chặt chẽ dẫn đến tình trạng nợ nần, kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước.
Chương 3
Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước
I.Nhiệm vụ đặt ra cho DNNN cần thực hiện trong thời gian tới
Để hoàn thành kế hoạch sản xuất, kinh doanh năm 2008 và góp phần chủ lực trong kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong những tháng cuối năm 2008, DNNN, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước sẽ tập trung vào các giải pháp sau: 1) Nhận thức sâu sắc vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân, tập trung đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm chi phí, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để tạo thêm nguồn hàng cung cấp cho tiêu dùng trong nước, đặc biệt là bảo đảm cung cấp các sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho đời sống và sản xuất, xuất khẩu. Tích cực tham gia vào việc bình ổn thị trường theo chỉ đạo của Chính phủ. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần thực hiện bằng được kế hoạch đã đề ra cho 6 tháng cuối năm 2008. 2) Trong điều kiện việc huy động vốn, đặc biệt là vốn vay cho phát triển sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn, chi phí vốn tăng cao, các doanh nghiệp nhà nước sẽ tiếp tục rà soát và thực hiện nghiêm tục việc cắt giảm, đình hoãn các dự án, công trình, dự án đầu tư kém hiệu quả hoặc chưa thật cần thiết; kiên quyết cắt giảm hoặc dừng việc mua, xây dựng trụ sở mới, đất đai, bất động sản, phương tiện, thiết bị phục vụ gián tiếp cho hoạt động kinh doanh để tập trung nguồn lực vào các dự án có hiệu quả, sớm đưa vào khai thác, sử dụng. 3) Vấn đề lao động và việc làm có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của lộ trình đổi mới và phát triển DNNN. Các DNNN phải tiến hành rà soát định mức, định biên lao động để xác định số lượng lao động hợp lý theo nguyên tắc “có việc – có người”, đảm bảo gời công, ngày công, thu nhập theo luật định. Chấm dứt việc tiếp nhận lao động, thuê mướn nhân công thời vụ một cách tuỳ tiện làm cho năng suất lao động thấp, tỷ lệ thiếu việc, chờ việc cao. Tăng cường giám sát việc thực hiện quỹ tiền lương và tuyển dụng lao động của DNNN… Nguồn tiền để giải quyết chính sách cho số lao động dôi dư và không có việc làm thì ngoài phần lấy từ quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, còn được hỗ trợ thêm từ ngân sách và các nguồn tài chính có thể khác. Tổ chức các chương trình hỗ trợ việc làm theo hướng tập trung vào việc tư vấn tìm việc làm, tự đứng ra kinh doanh, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là nguồn tạo công ăn việc làm mới lớn nhất. Do đó Nhà nước bổ sung nguồn cho quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
4) Đánh giá lại hoạt động đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vào các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản; kiên quyết sắp xếp lại để tập trung vào ngành sản xuất, kinh doanh chính và phụ trợ, tránh trùng lặp về ngành, nghề trong các thành viên của một tập đoàn, tổng công ty. 5) Trong điều kiện thắt chặt tín dụng, các ngân hàng cần rà soát lại danh mục các dự án vay vốn đầu tư để tập trung nguồn vốn ưu tiên giải ngân cho các dự án trọng điểm hay cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh những hàng hoá bảo đảm cân đối lớn của nền kinh tế như: xăng dầu, điện , than, sắt thép, phân bón, vật liệu xây dựng, xi măng, dầu khí…. Không cho vay đối với những dự án đã nằm trong kế hoạch cắt giảm, đình hoãn. Kiểm soát chặt chẽ cho vay chứng khoán, bất động sản. 6) Gương mẫu tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý giá cả, thị trường, thường xuyên kiểm tra giá bán sản phẩm, dịch vụ của mình tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của mình; không lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng như xăng dầu, điện, than, sắt thép, phân bón, vật liệu xây dựng, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; góp phần với các cơ quan hữu quan trong việc ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản. 7) Cải tiến cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó giám sát về tài chính là quan trọng, thiết lập hệ thống báo cáo các chỉ tiêu tài chính để cơ quan quản lý nhà nước nắm được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp và có chỉ đạo cần thiết; mặt khác, giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở để tự đánh giá và quản trị doanh nghiệp có hiệu quả hơn. 8) Làm rõ trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp nhà nước về công nợ của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị, giám đốc phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp. Đối với các khoản nợ đã quá hạn từ 5 năm thì phải hạch toán vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (các khoản lỗ) nhưng doanh nghiệp thì vẫn phải theo dõi và đòi nợ, khi đòi được nợ thì phải hạch toán vào lãi của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp bị thua lỗ liên tục từ 2 năm trở lên thì được xem xét giảm vốn, khi đòi nợ thì tăng vốn trở lại cho doanh nghiệp. Nghiêm cấm các doanh nghiệp đi vay các khoản ngắn hạn để đầu tư cho các dự án trung và dài hạn, ngân hàng phải có cơ chế kiểm tra giám sát và cùng chịu trách nhiệm nếu để xảy ra các trường hợp nói trên. Đối với ngân hàng thì giao cho Ngân hàng nhà nước chịu trách nhiệm tổng hợp và phối hợp với các ngành đề xuất các trường hợp xoá nợ, khoanh nợ, giãn nợ, tham gia vốn với doanh nghiệp và khẩn trương tổ chức công ty mua bán nợ để mua lại các khoản nợ của doanh nghiệp…Xúc tiến thành lập cơ quan mua bán nợ để giải phóng nợ đọng cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp lành mạnh hoá tình hình tài chính và đảm bảo sản xuất kinh doanh bình thường. Ban hành cơ chế kiểm tra giám sát tình hình nợ của DNNN gắn với hiệu quả đầu tư nhưng vẫn đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp.
9) Cần xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước. Sửa đổi và ban hành mới cơ chế chính sách phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích cũng như các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, cần đẩy mạnh hơn nữa các vấn đề: vốn, lao động tiền lương, cán bộ quản lí doanh nghiệp và về kiểm tra, giám sát.
II. Đối với Chính phủ.
1. Đẩy mạnh công tác xắp xếp doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Trước hết cần phân loại, xác định rõ hai khu vực doanh nghiệp nhà nước: kinh doanh và công ích. Việc phân loại này dựa trên quy định của Luât doanh nghiệp nhà nước.Với các doanh nghiệp công ích chúng ta tiến hành:
+ chuyển sang chế độ khoán dịch vụ công ích thay cho chế độ bao cấp doanh nghiệp công ích.
+ Xã hội hoá các dịch vụ công ích thông qua các hình thức đấu thầu dịch vụ công ích, cho thuê doanh nghiệp công ích.
+ Tách phần kinh doanh của doanh nghiệp công ích để bớt phụ thuộc vào trợ cấp từ ngân sách nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh ta phân loại căn cứ vào các tiêu chí tầm quan trọng của ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, từ đó đưa ra các biện pháp cần thiết về tổ chức lại quy mô xác định tỷ lệ và tính chất cổ phần nhà nước, cho phép độc quyền hay khuyến khích cạnh tranh…Căn cứ vào các tiêu chí trên, các doanh nghiệp này đã được phân thành bốn nhóm:
+ Các doanh nghiệp nhà nước cần giữ hình thức 100% vốn.
Đây là các doanh nghiệp đặc biệt quan trọng để đảm bảo tính chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước ở những lĩnh vực cần thiết hay các doanh nghiệp đảm bảo nhu cầu phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các dân tộc miền núi và vùng sâu,vùng xa.
+ Các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước nắm cổ phần chi phối.
Đây là các doanh nghiệp có vai trò khá quan trọng trong việc đảm bảo vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, hoạt động trong các lĩnh vực tạo ra các cơ sở cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế như khai thác khoáng sản, vận tải hàng không, đường sắt, bưu chính viễn thông, kinh doanh xăng dầu…
+ Các doanh nghiệp cổ phần hoá toàn bộ hoặc một phần.
Đây là các doanh nghiệp không có tầm quan trọng đặc biệt đang hoạt động có lãi hoặc có triển vọng có lãi. Chúng ta sẽ tiến hành cổ phần hoá tuỳ sức mua của cán bộ công nhân viên và thị trường vốn, có thể cổ phần hoá toàn bộ hoặc một phần.
+ Các doanh nghiệp giao, bán, khoán và cho thuê.
Đây là các doanh nghiệp nhà nước không quan trọng có vốn dưới 1 tỷ đồng hoặc làm ăn yếu kém kéo dài mà nhà nước không cần phải nắm giữ, doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng thua lỗ kéo dài trên 2 năm liên tục mà nhà nước cũng không cần phải nắm giữ.
Với các doanh nghiệp này ta cổ phần hoá toàn bộ hoặc nếu không cổ phần hoá được thì tiến hành một trong các hình thức giao, bán, khoán và cho thuê.Với các doanh nghiệp yếu kém, không cần thiết tồn tại độc lập thì có thể sáp nhập vào các doanh nghiệp khác hoặc giải thể, phá sản.
Để thực hiện sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh, song song với việc thực hiện các phương án trên ta cần thực hiện đồng bộ các giải pháp kèm theo như sau:
+ Củng cố đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý các tổng công ty.
+ Kết hợp sắp xếp lại với đầu tư mới hoặc cải tạo hiện đại hoá các doanh nghiệp nhà nước cần thiết.
+ Các cơ quan có trách nhiệm chỉ đạo đổi mới kinh tế và các Bộ ngành địa phương cần quán triệt nhận thức về các giải pháp sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, thực hiện đồng bộ các biện pháp sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
+ Tổ chức tuyên truyền vận động rộng rãi trong công chúng để nhận được các ý kiến xây dựng về đổi mới doanh nghiệp nhà nước, mặt khác hiểu rõ chính sách của nhà nước, hăng hái mua cổ phần, qua đó đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá.
+ Hình thành đồng bộ các loại thị trường, phát triển thị trường vốn (đặc biệt là thị trường chứng khoán), phổ biến các phương thức định giá doanh nghiệp, cải tiến thủ tục hành chính liên quan.
+ Hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô. Cần làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ kiềm chế lạm phát nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống ngân hàng.
+ Điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường. Ban hành pháp lệnh về chống độc quyền, hạn chế các hoạt động đầu cơ, bán phá giá, lừa đảo làm ảnh hưởng không tốt đến sự vận hành của thị trường. Tạo các hành lang pháp lý thuận lợi cho việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
+ Xây dựng chương trình tổng thể quốc gia về cổ phần hoá. Xác định tổng số doanh nghiệp cần tiến hành cổ phần hoá của cả nước, của từng địa phương từng bộ ngành. Xác định lộ trình cổ phần hoá cụ thể cho từng ngành, từng địa phương, từng doanh nghiệp trong một lộ trình tổng thể của cả nước.
Quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước bước đầu đã gặp phải nhiều khó khăn.Một trong những khó khăn chủ yếu là tiến độ cổ phần hoá còn khá chậm so với đòi hỏi của thực tiễn và so với tiến độ đặt ra. Tuy nhiên bước đầu quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã có được nhiều thành công nhất định, tạo được tiếng vang lớn trên thị trường vốn. Tháng 2/2005 đã tiến hành cổ phần hóa Công ty Sữa Việt Nam (Vinamilk), Nhà nước giữ 80% vốn điều lệ của công ty, 20% còn lại được bán cho cán bộ nhân viên công ty và các cổ đông bên ngoài. Cuộc đấu giá cổ phần Vinamilk đã mang lại lợi nhuận cao cho Nhà nước, đem về cho Nhà nước gần 400 tỷ đồng. Thành công của việc đấu giá cổ phần Vinamilk còn khẳng định hiệu quả chủ trương của Chính phủ. Theo đó, đấu giá thông qua sàn giao dịch, hình thức mua bán công khai và công bằng, mang lại giá trị lợi nhuận nhiều hơn việc bán theo hình thức thông thường hoặc đấu giá không qua sàn mà lâu nay vẫn bị chỉ trích là thiếu minh bạch, chỉ phục vụ lợi ích một số ít nhà đầu tư hoặc thành viên trong DN cổ phần hóa.
Nhìn chung, các doanh nghiệp sau khi được cổ phần hoá đều có những bước chuyển biến tích cực, thích ứng được với cơ chế thị trường; trình độ quản lý và thiết bị công nghệ có nhiều tiến bộ, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đồng vốn được bảo toàn và tăng thêm... Hầu hết các doanh nghiệp khi cổ phần hoá, trách nhiệm và sự đóng góp công sức của người lao động được nâng lên, công tác điều hành quản lý ngày càng chặt chẽ và hợp lý hơn nên đã giảm được chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi vậy, kết quả sản xuất kinh doanh của các công ty đều có lãi và khắc phục được tình trạng hiệu quả sản xuất không cao, thậm chí bị lỗ khi còn là doanh nghiệp nhà nước. Các công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp, vai trò của Hội đồng quản trị đã được nâng lên và đã chủ động được kế hoạch sản xuất kinh doanh nên nhanh nhạy hơn trong việc tìm kiếm đối tác và thị trường mới…. Nhờ đó, việc sản xuất kinh doanh của hầu hết các công ty đều có mức tăng trưởng cao hơn so với bình quân 3 năm trước khi cổ phần hoá.
2. Các giải pháp về cơ chế quản lý, cơ chế đầu tư và tài chính. Hình thành cơ chế sử dụng vốn có hiệu quả.
- Các doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn chưa định hình rõ cơ chế quản lý, hoạt động theo cơ chế mang nặng tính bao cấp xin cho, được hưởng các ưu đãi của nhà nước dẫn đến ỷ lại, kém hiệu quả. Các giải pháp về cơ chế quản lý nhằm mục đích đưa các doanh nghiệp nhà nước trở lại hoạt động theo chế độ hạch toán, cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác mà vẫn đảm bảo tốt vị trí vai trò của mình. Nhà nước phải giám sát kiểm tra đánh giá được tình hình kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp. Cần tạo ra cơ chế thúc đẩy cạnh tranh đi đôi với minh bạch về tài chính. Cần có cơ chế thưởng phạt và quy trách nhiệm rõ ràng, nhất là đối với người đứng đầu cơ quan tổ chức.
- Với cơ chế đầu tư và tài chính, cần kiên quyết xoá bỏ cơ chế xin cho trong quan hệ tài chính giữa nhà nước,cơ quan chủ quản với doanh nghiệp nhà nước. Đưa hoạt động đầu tư chuyển sang hình thức quỹ đầu tư hoặc công ty đầu tư tài chính của nhà nước. Đây là các thiết chế tài chính công chịu trách nhiệm đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước, bảo toàn vốn, điều phối vốn theo kiểu các công ty đầu tư tài chính (holding company). Đưa vào hoạt động các công ty tài chính chuyên xử lý nợ (factoring company), nâng cao hiệu lực của toà án kinh tế, chấm dứt tình trạng nợ khó đòi. Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) thuộc Bộ Tài chính trở thành công ty đầu tiên có quy mô quốc gia có nhiệm vụ mua các khoản nợ và tài sản tồn đọng của DN (bao gồm cả tài sản và quyền sử dụng đất ) bằng các hình thức thoả thuận trực tiếp, đấu giá hoặc theo chỉ định.
- Tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp nhà nước được huy động vốn từ nhiều nguồn. Doanh nghiệp nhà nước tự chịu trách nhiệm sử dụng hiệu quả và trả nợ vốn vay. Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức thuê mua tài chính.
- Cần phân cấp và xác lập quyền sở hữu của nhà nước với doanh nghiệp, phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp nhà nước. Việc này sẽ bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Đầu tư mũi nhọn trong từng ngành ,hình thành các tập đoàn kinh tế.
- Báo cáo của Bộ Tài chính về tình hình quản lý tài chính đầu tư xây dựng cơ bản qua 6 tháng đầu năm đã nhận định : “Việc bố trí vốn đầu tư phân tán, dàn trải là tồn tại lặp đi lặp lại nhiều năm nay trong công tác xây dựng kế hoạch đầu tư ở cả trung ương và địa phương, gây lãng phí lớn, làm hiệu quả đầu tư thấp, nhưng chậm được khắc phục.”
Hiện nay,tình trạng vi phạm thủ tục đầu tư thể hiện ngay trong khâu bố trí kế hoạch năm vẫn còn khá phổ biến. Một số Bộ, ngành chưa chấp hành nghiêm túc các quy định về thời hạn phân bổ kế hoạch và giao kế hoạch cho chủ đầu tư. Chất lượng hồ sơ chuẩn bị không đảm bảo. Số lượng và trình độ cán bộ không phù hợp. Nhiều dự án dở dang không đưa vào sử dụng được. Tình hình này đã gây ra tình trạng lãng phí nợ đọng nghiêm trọng, đôi khi còn dẫn đến tệ tham nhũng đã trở thành bệnh kinh niên của nền kinh tế nước ta. Để giải quyết vấn đề này, bộ trưởng bộ kế hoạch đầu tư Võ Hồng Phúc đã nêu ra ý kiến “Tôi tán đồng với ý kiến là đưa ra cơ chế giám sát việc lên kế hoạch dự án cho các HĐND và UBND để quyết định trong mỗi kỳ họp Quốc hội. Có như vậy mới xử lý được đầu tư dàn trải, chứ như trước đây là không kiểm soát được mà trách nhiệm cũng không thuộc về ai. Có vấn đề vi phạm là phải quyết tâm xử lý luôn”.
- Để tăng tính hiệu quả của đầu tư trong doanh nghiệp nhà nước, tăng tính cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải tiến tới xây dựng củng cố các tổng công ty theo hướng hình thành các tập đoàn kinh tế.
+ Các tổng công ty phải có cơ cấu mềm dẻo, thành lập trên cơ sở có các doanh nghiệp nhà nước nòng cốt. Cần có quy hoạch cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp gia nhập tổng công ty.
+ Các tổng công ty phải có tiềm lực tài chính mạnh,dần trở thành các tập đoàn kinh doanh mạnh tham gia cạnh tranh quốc tế. Đa dạng hoá sản xuất kinh doanh, tạo nên các tổng công ty đa ngành, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường và hạn chế rủi ro trong đầu tư.
+ Phân định rõ ràng quyền sở hữu và quyền quản lý trong các tổng công ty. Quy định rõ về trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi tổ chức. Cần nâng cao vai trò chủ sở hữu của Hội đồng quản trị. Thực hiện công ty hoá các doanh nghiệp nhà nước.
4. Thúc đẩy liên kết hỗ trợ giữa các doanh nghiệp nhà nước với các thành phần kinh tế khác kể cả kinh tế tư nhân và nước ngoài.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Phải đổi mới căn bản tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước…phát triển các hình thức liên doanh liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau, giữa kinh tế nhà nước với kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân, cá thể và các công ty nước ngoài”.Những vấn đề trên vẫn còn giữ nguyên giá trị và tính thời sự cấp bách. Hơn bao giờ hết càng cần phải nâng cao hiệu quả trong tổ chức hoạt động và liên kết phối hợp hoạt động với các khu vực khác.
5. Bồi dưỡng phát triển các nguồn nhân lực, đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý.
Hiện nay vấn đề nhân lực nhất là nhân lực trình độ cao đang là vấn đề cấp thiết đối với các doanh nghiệp nhà nước. Cần tạo lập hình thành quỹ phát triển nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo cho các nhà quản lý đầy đủ các kỹ năng như kỹ năng chuyên môn, kỹ năng chiến lược, kỹ năng quan hệ… Chú trọng đào tạo đội ngũ kế cận, và tạo môi trường thuận tiện cho việc phát triển.
Kết luận
Đầu tư phát triển có vai trò rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Qua đề tài này, chúng ta có thể thấy vai trò của đẩu tư phát triển là rất quan trọng nên việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trở thành vấn đề mang tính quyết định đối với sự phát triển nền kinh tế nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt với đặc điểm là nước XHCN, nước ta thành phần kinh tế nhà nước mà cụ thể là DNNN đang có vai trò chủ đạo trong việc định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước trong công cuộc hiện đại hoá đất nước. DNNN là một công cụ vật chất hết sức quan trọng của nhà nước trong quản lý nền kinh tế nhằm đưa đất nước phát triển. Hiện nay DNNN tuy có nhiều mặt tích cực, có những lợi thế và điểm mạnh nhưng cũng không ít hạn chế, tiêu cực trong đầu tư phát triển.
Trông khuôn khổ bài thảo luận này nhóm chúng tôi nêu ra những điểm trên và có đề ra một số giải pháp để khắc phục.
Do trình độ hiểu biết còn có hạn chế nên đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nên rất mong được sự thông cảm, góp ý chân thành của thầy giáo hướng dẫn.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế đầu tư (NXB Đại học kinh tế quốc dân-Chủ biên PGS.TS.Nguyễn Bạch Nguyệt và TS.Từ Quang Phương)
2. Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2005 và định hướng cho giai đoạn 2006-2010, Báo cáo của chính phủ tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ, Tháng 12/2004, Hà Nội.
3. Giáo trình Kinh tế phát triển, Kinh tế công cộng, Kinh tế lao động….
4. Một số thông tư, nghị định có liên quan đến đầu tư của chính phủ, các bộ có liên quan.
5. Bộ kế hoạch và đầu tư (www.mpi.gov.vn)
6. Báo đầu tư (www.vir.com.vn)
7. Website báo điện tử khác: www.vietnamnet.vn, www.dantri.com.vn.....
8. Tài liệu phục vụ lãnh đạo, quỹ đầu tư và phát triển địa phương : Một công cụ phát triển kinh tế-xã hội các tỉnh, thành phố tháng 3/2000.
9. Văn bản Luật doanh nghiệp các năm 2003, 2005.
Mục lục
Lời mở đầu
Chương 1: Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 2
I.. Các vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển 2
1.Định nghĩa 2
2. Phân loại 2
II. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 3
1. Khái niệm 3
2. Đặc điểm của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 3
3. Nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 4
3.1 Đầu tư vào hàng dự trữ và tạo ra tài sản cố định. 4
3.2. Nội dung đầu tư phát triển cho tài sản cố định hữu hình của doanh nghiệp 8
3.3. Vốn đầu tư sửa chữa lớn tài sản cố định 9
3.4 Đầu tư vào nghiên cứu đổi mới và phát triển KHCN_KT 10
3.5 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 11
3.6 Đầu tư vào hoạt động Marketing và tài sản vô hình khác 12
III. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước 13
1. Vài nét về doanh nghiệp nhà nước 13
1.1 Khái niệm 13
1.2 Phân loại 13
1.3 Đặc điểm của DNNN trong nền kinh tế thị trường 14
1.4 Sự cần thiết của DNNN 14
2.Các chỉ tiêu đánh giá kết quả đầu tư phát triển trong doanh nghiêp nhà nước 15
2.1. Tỷ suất giữa giá trị gia tăng với tổng vốn 16
2.2. Tỷ suất giữa thuế với tổng vốn 16
2.3. Thu nhập bình quân của người lao động 16
2.4. Tỷ suất giữa lợi nhuận với tổng vốn 16
2.5. Tỷ suất giữa lợi nhuận với vốn chủ sở 17
2.6. Tỷ suất giữa lợi nhuận với thị giá cổ phần 18
2.7. Tỷ lệ giữa nguồn vốn tự bổ sung với nguồn vốn kinh doanh 18
2.8. Tỷ số nợ 19
2.9. Hệ số khả năng thanh toán 19
Chương 2:Thực trạng tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam... 20
I. Một số vấn đề trong doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam 20
1. Tình hình doanh nghiệp nhà nước đến cuối năm 2005 20
1.1 Doanh nghiệp Nhà nước đầu tư ra ngoài ngành 20
1.2 DNNN là lực lượng nòng cốt của thành phần kinh tế nhà nước, đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân 21
1.3 Cải cách DNNN được đẩy mạnh theo hướng tiếp tục đa dạng hóa sở hữu các DNNN...22
2.Tình hình doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2006-2010 25
II. Thực trạng đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước 27
1.Tình hình huy động và hiệu quả sử đụng nguồn vốn trong doanh nghiệp nhà nước 28
2. Đầu tư vào tài sản vốn vật chất 29
3. Phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nhà nước 29
4. Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu khoa học 30
5. Cho thuê tài chính 32
6. Đầu tư vào thương hiệu 32
7. Đầu tư vào tài sản trí tuệ 32
III.Đánh giá hoạt động đầu tư phát tiển trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 33
1.Các thành tựu đạt được 33
2.Các hạn chế chủ yếu 34
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước 37
I. Nhiệm vụ đặt ra cho DNNN cần thực hiện trong thời gian tới 37
II. Đối với Chính phủ. 38
1. Đẩy mạnh công tác xắp xếp doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.. 38
2. Các giải pháp về cơ chế quản lý, cơ chế đầu tư và tài chính. Hình thành cơ chế sử dụng vốn có hiệu quả. 41
3. Đầu tư mũi nhọn trong từng ngành ,hình thành các tập đoàn kinh tế. 41
4. Thúc đẩy liên kết hỗ trợ giữa các doanh nghiệp nhà nước với các thành phần kinh tế khác kể cả kinh tế tư nhân và nước ngoài. 42
5. Bồi dưỡng phát triển các nguồn nhân lực, đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý. 42
Kết luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- s.doc