Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra định hướng chiến lược thu hút vốn FDI tập trung vào 5 lĩnh vực sau:
+ Xây dựng những công trình then chốt trong ngành công nghiệp như dầu khí, điện, xi măng, sắt, thép và hoá chất . nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, một phần thay thế nhập khẩu, ổn định sản xuất, giảm giá đầu vào.
+ Ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn về công nghệ và kỹ thuật như điện tử, vi điện tử , tin học, công nghệ sinh học .
+ Khuyến kích các dự án đầu tư phát triển sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu trong các công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm gắn với vùng nguyên liệu.
+ Chú trọng đến các dự án thuộc ngành công nghiệp dịch vụ có tỷ suất sinh lời cao như du lịch, khách sạn, sân bay, cảng khẩu .
+ Quan tâm đến các dự án sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, tài nguyên sẵn có của Việt Nam.
Các nền kinh tế ASEAN nói chung đều đạt trình độ cao hơn Việt Nam. Họ là nước nhận đầu tư và cũng muốn thực hiện đầu tư trực tiếp vào Việt Nam để chuyển giao một số công nghệ không còn phù hợp với họ như chi phí lao động thấp hơn, có vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên chủ yếu khai thác và xuất thô. Qua đó, họ có thể vừa chuyển giao được công nghệ của họ, lại vừa có điều kiện trang bị công nghệ mới.
35 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp của các nước Asean vào Việt Nam - Thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mà các nước ASEAN đều nhận thấy Việt Nam là một điạ chỉ khá hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Có thể thấy rằng, Việt nam là một thị trường đông dân, có tài nguyên khá phong phú, nguồn nhân công dồi dào, chi phí lao động rẻ hơn các nước ASEAN khác.
Tuy rằng, qua quá trình thực hiện các dự án đã bộc lộ sự hạn chế về năng lực tài chính và công nghệ của các nhà đầu tư ASEAN. Đây là một yếu tố khách quan. Bản thân các nhà đầu tư ASEAN cũng đang ở trên nấc thang thứ ba của quá trình công nghiệp hoá của Châu á nên cũng là những nước kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài. Chính vì thế, để tạo dựng lợi thế thu hút vốn FDI không loại trừ việc từ đó các quốc gia thành viên ASEAN tích cực đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Việt Nam có tiềm năng rất lớn về đất đai, tài nguyên, lao động và thị trường. Môi trường chính trị - kinh tế - xã hội khá ổn định. Tuy nhiên hiệu quả kinh tế, năng xuất lao động xã hội, cơ sở hạ tầng còn thấp kém so với các nước thành viên ASEAN khác. Đề tài “Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt nam - thực trạng và triển vọng” do em thực hiện nhằm tìm ra những ưu điểm, những hạn chế, những lĩnh vực - ngành nghề... có khả năng thu hút vốn FDI của các nước ASEAN để có thể xây dựng các danh mục khuyến khích các nhà đầu tư ASEAN theo năng lực sẵn có khi đầu tư trực tiếp vào Việt nam.
Do khả năng, trình độ và thời gian có hạn nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, em mong được lượng thứ. Em xin chân thành cám ơn thầy giáo hướng dẫn Từ Quang Phương đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
II. Giải quyết vấn đề
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam.
a. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam.
a.1. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài( 100% foreign-owned capital ).
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn tại Việt nam, tự quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình trước pháp luật Việt nam.
a.2. Doanh nghiệp liên doanh ( Joint-Venture ).
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hay nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký kết giữa chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ nước ngoài hoặc là do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân, tự chủ về quản lý tài chính theo pháp luật, vốn pháp định do các bên liên doanh đóng góp, lợi nhuận và rủi ro phân chia theo lượng vốn đóng góp.
a.3.Hợp đồng hợp tác kinh doanh ( Business Cooperation Contract - BCC)
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa các bên ( hai hay nhiêu bên ) để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động của các bên nhận đầu tư trên cơ sở qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một xí nghiệp liên doanh hoặc bất cứ một pháp nhân mới nào. Các bên đều phải làm nghĩa vụ với nhà nước và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh và bản hợp đồng đã ký.
Ngoài ra còn có một số dạng thực hiện đầu tư 100% vốn nước ngoài đặc biệt:
+ Hợp đồng xây dựng, vận hành, chuyển giao.
Hợp đồng xây dựng, vận hành, chuyển giao là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn đủ để thu hồi vốn và một lượng lãi nhất định. Hết thời hạn đó, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam.
+ Hợp đồng xây dựng, chuyển giao, vận hành ( BTO ).
Hợp đồng xây dựng, chuyển giao, vận hành là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam giành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định đủ để thu hồi vốn và lợi nhuận hợp lý.
+Hợp đồng xây dựng, chuyển giao ( BT ).
Hợp đồng xây dựng, chuyển giao là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
b. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thời gian qua:
b.1. Thực trạng:
Tính đến hết năm 1997, tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép là 2257 triệu USD, với tổng số vốn đăng ký là 31.438 triệu USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng một vai trò quan trọng vào công cuộc đổi mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Cụ thể là đầu tư vào lĩnh vực sản xuất chiếm 80% tổng vốn đầu tư, vào nhiều ngành kinh tế như bưu điện, viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, điện, điện tử, hoá chất, sản xuất và lắp ráp xe máy, ôtô, ứng dụng công nghệ sinh học trong trông trọt và chăn nuôi... Đóng góp của đầu tư nướcngoài vào GDP ngày càng tăng: năm 1993 là 5,6 %, năm 1994 là 7,5%, năm 1995 là 8,3 %, năm 1996 là 10 %, năm 1997 là 13 %. Ngoài ra các dự án FDI thu hút hơn 27 vạn lao động Việt Nam vào công việc và tạo ra hàng chục vạn việc làm khác có liên quan. Điều này đã kích thích và năng cao chất lượng cũng như cường độ lao động Việt Nam. Đầu tư nước ngoài còn tăng cường khả năng xuất nhập khẩu và đổi mới công nghệ của Việt Nam.
Tính đến ngày 19/10/1998 các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang hoạt động có tổng số vốn đăng ký là 3223,5 triệu USD và riêng 10 tháng đầu năm 1998 đã có 1,81 tỷ USD đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Sau đây là 10 nước và lãnh thổ đứng đầu về FDI tại Việt Nam.
Nước, vùng lãnh thổ
Số dự án
Vốn
đầu tư
Tỷ trọng (%)
Vị trí
Singapo
181
6447
20
1
Đài loan
309
4268
13,3
2
Hồng kông
184
3734
11,6
3
Nhật bản
213
3500
11,4
4
Hàn quốc
191
3154
9,8
5
Pháp
96
1465
4,6
6
Malayxia
59
1370
4,3
7
Mỹ
70
1230
3,8
8
Thái lan
78
1109
3,4
9
BV.island Anh
55
1089
3,3
10
Nguồn: SCCI Bộ Kế hoạch đầu tư.
Thực tế cho thấy, số vốn đầu tư được cấp giấy phép qua các năm nhìn chung gia tăng nhưng giảm sút ở năm 1997 đặc biệt là năm 1998. Vốn thực hiện, doanh thu, kim ngạch xuất khẩu và chỉ tiêu nộp ngân sách của các dự án FDI gia tăng hàng năm, nhưng đến năm 1998, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nên giảm sút rất nhiều.
Bảng: Tình hình thực hiện đầu tư FDI tại Việt Nam 1988 - 1998
Đơn vị tính: Triệu USD
Chỉ tiêu
91
92
93
94
95
96
97
1-5/98
Vốn thực hiện
206
380
1112
1939
2672
2607
3250
921
Doanh thu
149
208
449
956
1869
2450
3266
1100
Xuât khẩu
52
112
257
352
440
786
1500
689
Nộp NSNN
128
195
263
315
130
Số dự án được cấp giấy phép năm 1997 giảm so với năm 1996 ( từ 501 dự án xuống còn 479 dự án ), vốn đăng ký giảm mạnh ( từ 9212 triệu USD xuống còn 5548 triệu USD ) và hết tháng 10 năm 1998 mới thu hút được 1,81 tỷ USD vốn đầu tư.
b.2. Đánh giá:
Tính từ năm 1997 trở về trước, số dự án được cấp giấy phép cũng như số vốn đầu tư đăng ký và thực hiện đều tăng. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra nửa cuối năm 1997 nên chưa ảnh hưởng trực tiếp tới các dự án năm 1997 nhưng sang đến năm 1998 số dự án và số vốn giảm sút đột ngột, các hậu quả của khủng hoảng đã bắt đầu có những ảnh hưởng. Nhiều dự án đầu tư đã được cấp giấy phép gặp khó khăn trong triển khai, có nguy cơ đổ bể, nhiều dự án bị đổ bể do thiếu vốn, thiếu nguyên liệu, do thị trường đã bão hoà. Hàng loạt các chi nhánh, văn phòng đại diện ở Việt Nam buộc phải đóng cửa, rút về nước để tập trung chống đỡ, khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng.
Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, tỷ trọng đầu tư FDI vào các ngành nông ,lâm ,ngư nghiệp còn rất thấp. Vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng là những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển tốt, còn những vùng kinh tế tiềm năng cần vốn đầu tư để phát triển thì mức độ thu hút vốn đầu tư FDI lại rất thấp. Theo số liệu của Bộ kế hoạch đầu tư thì hình thức liên doanh chiếm 70 %, hình thức doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài chiếm trên 20 % và hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm gần 10 % tổng vốn đầu tư đăng ký. Về cơ cấu vốn đầu tư FDI, nguồn vốn đầu tư từ các nước Châu á - Thái Bình Dương chiếm tỷ trọng 71,53 % tổng vốn đầu tư vào Việt Nam (779858 nghìn USD so với 1582646 nghìn USD ) trong khi đó nguồn vốn đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển khác như Đức, Anh, Mỹ còn chiếm tỷ trọng thấp. Chính với cơ cấu thu hút vốn đầu tư như vậy mà cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong khu vực Châu á đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư FDI tại Việt Nam.
Nguyên nhân của tình hình này rất nhiều. Trước hết, đó là ảnh hưởng lan tràn “ hiệu ứng đôminô” của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Châu á, làm cho tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giảm sút đáng kế. Đồng thời với môi trường thu hút đầu tư chưa thực sự hấp dẫn, chưa thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài, lại bị cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực như ấn Độ, Trung Quốc. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thay đổi ba lần kể từ khi ban hành ( 1987 đến nay) sự thay đổi mới đây nhất có phần “thông thoáng “ hơn nhưng lại “chặt chẽ “ thậm chí còn “ cản trở “ các nhà đầu tư. Thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, tình trạng quan liêu và phân biệt đối xử còn khá phổ biến. Mặt khác, những lĩnh vực được coi là đầu tư hấp dẫn ở Việt Nam lại đang bão hoà như: khách sạn, xây dựng văn phòng, xi măng...
2. Quan hệ kinh tế giữa Việt nam và các nước thành viên ASEAN.
a. Khái quát về hiệp hội các quốc gia Đông Nam á ( viết tắt là ASEAN ).
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á -ASEAN thành lập tại Bangkok năm 1967 gồm 6 nước thành viên: Brunây, Indonêxia, Malayxia, Philipin, Singapo và Thái Lan với mục tiêu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển văn hoá trong khu vực, tăng cường sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau về hoà bình và ổn định khu vực. Ngày 28 tháng 7 năm 1995 Việt Nam đã được kết nạp làm thành viên chính thức của ASEAN. Mới đây tháng 4 năm 1999 tại Hà Nội đã tổ chức kết nạp Vương quốc Campuchia làm thành viên đầy đủ của ASEAN, hoàn thành ý tưởng về một ASEAN gồm tất cả 10 quốc gia khu vực.
Khu vực ASEAN được coi là khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao và duy trì trong một thời gian dài. Tỷ trọng của ASEAN trong GDP thế giới đã tăng từ 2,4 % vào năm 1970 lên trên 5 % năm 1995 và dự báo sẽ đạt 5,7 % năm 2000. Vị trí của ASEAN trong thương mại quốc tế tăng liên tục: từ 1,8 % trong xuất khẩu và 2,2 % trong nhập khẩu của thế giới tăng lên tương ứng 6,1 % và 4 % năm 1995. Con số dự báo cho năm 2000 là 8 % trong xuất khẩu và 6 % trong nhập khẩu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá và phát triển kinh tế của ASEAN. Năm 1979, chỉ có 4 % đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước phát triển là chảy vào các nước ASEAN. Con số này đã tăng lên 10,9 % năm 1980, 22,8 % năm 1995 và dự kiến là 26,6 % năm 2000.
Tuy nhiên, sau hai năm cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra, nền kinh tế ASEAN suy thoái trầm trọng. Theo đánh giá mới nhất của Ngân hàng phát triển Châu á ( ADB ), tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của ASEAN năm 1998 là -6,9 %, mức thấp nhất trong 30 năm qua. Đặc biệt, điều nghịch lý xảy ra đối với nhóm các nước ASEAN vốn trước đây được coi là những nền kinh tế năng động nhất lại chính là những nước có tốc độ tăng trưởng thấp nhất hiện nay. Chỉ xét riêng năm 1998, tốc độ tăng trưởng của Inđônêxia là -15,3 %, Thái Lan là -0,8 %, Xingapo và Philipin là -0,2 %. Tiếp đến là những thành viên khác, tuy không rơi vào tình trạng tồi tệ nhưng so với năm 1997, tốc độ tăng trưởng cũng giảm sút đáng kế như Myanma là 6 %, Brunây là 4,5 % và Lào là 6,9 % và Việt nam là 6,5 %. Sự giảm sút về tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN liên quan đến sự giảm sút của các chỉ số kinh tế cơ bản khác. Sang năm 1999, kinh tế ASEAN đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu phục hồi dù vẫn còn mờ nhạt. Tốc độ tăng trưởng GDP của Thái Lan năm 1999 sẽ ở mức -0,2 %, Philipin là 2,6%, Malayxia là -0,1 %, Xingapo là 1,9 %, Inđônênxia là -5 %. Tỷ lệ lạm phát ở Inđônêxia sẽ giảm từ 70 % xuống 15 %, Thái Lan từ 8 % xuống 3 %, Malayxia, Philipin từ 8 % xuống 4 %, Brunây, Myanma, Lào giảm từ 23 % xuống 14,5 %.
b. Quan hệ thương mại - đầu tư Việt Nam và ASEAN.
Quan hệ buôn bán giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN vốn hình thành từ lâu đời, tuy có lúc thăng trầm nhưng nhìn chung vẫn ngày càng phát triển. Kể từ khi Việt nam ban hành luật đầu tư nước ngoài (năm1987 ) với chính sách mở cửa nền kinh tế thị trường, cả quan hệ thương mại lẫn quan hệ hợp tác và đầu tư giữa nước ta và các nước ASEAN đang được nâng lên cao hơn. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam với ASEAN, nếu năm 1990 mới đạt 871,5 triệu USD thì năm 1996 đã lên tới 4651,1 triệu USD bằng 533,7 % tức là bình quân mỗi năm tăng 32,2 %. Về xuất khẩu, tổng kim ngạch của Việt Nam vào ASEAN nếu năm 1990 mới được 339,4 triệu USD thì đến năm 1996 đã đạt 1677,7 triệu USD bằng 494,3 % tức là bình quân mỗi năm tăng 30,5 %. Về nhập khẩu, tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam vào ASEAN nếu năm 1990 mới đạt 532,1 triệu USD thì đến năm 1996 đã đạt 2973,4 triệu USD bằng 558,8 %, bình quân mỗi năm tăng 33,2 %. Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam với khối lượng lớn và chiếm tỷ trọng khá so với tổng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào nước ta. Tính hết năm 1997, các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam 376 dự án, với tổng vốn đăng ký là 8687,3 triệu USD, chiếm 16,4 % tổng số dự án và 27,5 % tổng số vốn đăng ký đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Bình quân vốn đăng ký của một dự án là 23,1 triệu USD, cao gấp rưỡi mức bình quân chung 14,2 triệu USD. ASEAN có 5 nước nằm trong danh sách 20 nước và khu vực trên thế giới có qui mô đầu tư trực tiếp lớn nhất tại Việt Nam, trong đó Singapo là nước đứng đầu cả khối và đứng đầu thế giới. Như vậy ASEAN là bạn hàng lớn và là chủ đầu tư quan trọng của Việt Nam, góp phần tích cực vào tốc độ tăng trưởng khá cao của Việt Nam trong thời gian qua. Cho dù cuộc khủng hoảng đã gây nhiều tác hại song nó sẽ dịu đi, các nước ASEAN sẽ phục hồi và tăng trưởng với nhịp độ không còn như trước nhưng sẽ bền vững hơn.
c. Khu vực AFTA.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA được các nước ASEAN thoả thuận thành lập tại hội nghị thượng đỉnh lần thứ tư ( 1992) ở Singapo. AFTA có ba mục tiêu chủ yếu như sau:
+ Thực hiện tự do hoá thương mại ASEAN bằng việc giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong nội bộ khu vực.
+ Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN bằng việc tạo dựng ASEAN thành một thị trường thống nhất và hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế.
+ Làm cho ASEAN thích ứng với các xu hướng và các điều kiện quốc tế thường xuyên biến đổi.
Tham gia AFTA, các nước thành viên sẽ có hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao hơn, khả năng thâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới. Mặt khác, liên kết kinh tế khu vực sẽ làm tăng đầu tư nội bộ các nước ASEAN cũng như đầu tư nước ngoài vào khu vực. Mức độ hấp dẫn đối với đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài tăng lên, các chi nhánh hiện có của họ trong khu vực sẽ có cơ hội bành trướng nhanh chóng sang các thành viên khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN
vào Việt Nam thực trạng và triển vọng.
a. Thực trạng
* Trước khi Việt Nam ra nhập ASEAN.
Vào những năm 80 quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN mới được thiết lập trở lại chủ yếu là quan hệ thương mại. Sau khi Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1997, các nước ASEAN mới tham gia đầu tư tuy còn dè dặt. Trừ Singapo và Malayxia, các nước còn lại tham gia vào những lĩnh vực chưa phải là những lĩnh vực được ưu tiên. Các dự án thường nhỏ cả về qui mô và chậm về tiến độ.
Với việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tháng 12/1987, dòng vốn đầu tư quốc tế từ nhiều khu vực, dưới nhiều hình thức đã chảy mạnh vào thị trường Việt Nam. Điều đó dẫn đến việc Việt Nam trở thành một thị trường đầu tư hấp dẫn cả về qui mô cả về lợi thế so sánh khác như lao động và tài nguyên...
Nhiều quốc gia ASEAN đã có vị trí đáng kể trong số 10 quốc gia và lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Tính đến tháng 1/1995, Singapo đứng vào hàng thứ ba và là quốc gia ASEAN có tổng dự án và vốn lớn nhất trong đầu tư trực tiếp của ASEAN vào Việt Nam. Các nhà đầu tư Singapo có mặt trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, 29 dự án công nghiệp, 1 dự án thăm dò, khai thác dầu khí, 11 dự án nông - lâm - ngư, 14 dự án xây dựng khách sạn, 8 dự án giao thông, bưu điện, còn lại là các lĩnh vực khác. Singapo chủ yếu đầu tư vào một số địa bàn có cơ sở hạ tầng tương đối tốt như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Sông Bé, số còn lại triển khai trên 18 tỉnh, thành khác. Ngoài 6 dự án giải thể do hoạt động không có hiệu quả, còn lại 98 dự án với số vốn đăng ký 1,37 tỷ USD, chủ yếu là hình thức liên doanh 84 %, hình thức đầu tư 100 % vốn nước ngoài chiếm 10 %, còn lại là hình thức hợp doanh 6 %. Gần 60 dự án triển khai, đưa 180 triệu USD vào thực hiện, chiếm 12 % tổn vốn đăng ký, tạo việc làm cho 7 ngàn lao động. Các dự án của Singapo có tỷ suất bình quân xấp xỉ 14,5 triệu USD cho một dự án, số dự án đã cấp giấy phép có vốn đầu tư lớn tăng dần theo từng năm. Nếu năm 1990 và 1991chỉ có hai dự án lớn ở thành phố Hồ Chí Minh thì từ năm 1992 đến tháng 6/1995, số dự án đã tăng theo cấp số nhân, chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê và sân golf. Có thể kể ra như: Khách sạn Chains Caravelle vốn đầu tư 23,3 triệu USD, khách sạn Amara Saigon vốn đầu tư 30,11 triệu USD, liên doanh Đại Dương vồn đầu tư 45 triệu USD, trung tâm Mê Linh vốn đầu tư 35,72 triệu USD. Tại Hà Nội xuất hiện nhiều dự án có vốn đầu tư lớn như: Tháp trung tâm Hà Nội - HASIN International - vốn đầu tư 33,2 triệu USD, khách sạn và căn hộ cho thuê tại số 3 phố Phó Đức Chính vốn đầu tư xấp xỉ 50 triệu USD, Trấn Sông Hồng vốn đầu tư 25 triệu USD, vườn Hoàng gia - Quảng Bá vốn đầu tư trên 50 triệu USD. Số dự án trên khi đi vào hoạt động sẽ không chỉ góp phần làm thay đổi bộ mặt của riêng từng thành phố, mà còn góp phần cho việc phát triển kinh tế của đất nước. Trong 5 tháng đầu năm 1995 số dự án và vốn đầu tư được cấp giấy phép tăng gấp đôi so với 6 tháng đầu năm 1994. Các công trình của Singapo đầu tư hầu hết vào các lĩnh vực của nền kinh tế Việt nam nhưng lớn nhất là vào lĩnh vực kinh doanh khách sạn, nhà ở và văn phòng cho thuê. Riêng lĩnh vực này có 33 dự án với tổng vốn đầu tư 965 triệu USD, chiếm 27 % tổng số dự án và 51 % tổng vốn đầu tư của Singapo tại Việt Nam. Nhìn chung các dự án đầu tư của Singapo vào lĩnh vực khách sạn - du lịch đều triển khai khá nhanh và có hiệu quả. Tuy nhiên cũng có một số dự án còn vướng mắc trong khâu thủ tục như liên doanh Phú Thọ Enterprise ( Thành phố Hồ Chí Minh ) hoặc tiến độ triển khai chậm như dự án Trấn Sông Hồng.
Malayxia là nước đứng thứ hai trong khối ASEAN đầu tư vào Việt nam với 43 dự án vốn đăng ký là 607,23 triệu USD. Họ chú trọng đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp của nền kinh tế Việt nam với 23 dự án ( chiếm 53 % so vơi tổng số dự án được cấp giấy phép ) Malayxia chỉ có 5 dự án đầu tư khách sạn với số vốn đăng ký trên 108 triệu USD, 5 dự án trong nông nghiệp với vốn đăng ký trên 6 triệu USD còn lại là các dự án trong ngành dịch vụ, giao thông, bưu điện ... Vốn đầu tư của Malayxia chủ yếu đầu tư vào tỉnh Đồng Nai, trên 256 triệu USD với 6 dự án. Nhìn chung các dự án hoạt động đều tốt, số dự án đi vào sản xuất kinh doanh đã có doanh thu 15 triệu USD đem lại công việc cho gần 900 lao động.
Thái Lan có 64 dự án, vốn đăng ký xấp xỉ 300 triệu USD. Các dự án của Thái Lan đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến. Nhìn chung các dự án này có vốn đầu tư nhỏ, suất đầu tư bình quân cho một dự án là 4 triệu USD, chỉ có một vài dự án có vốn đầu tư lớn như sân golf Kings Valley tại Hà Tây vốn đầu tư 21,875 triệu USD, khách sạn SAS tại Hà Nội vốn đầu tư 42,75 triệu USD. Không kể một số dự án nuôi tôm hết thời hạn hoạt động không có hiệu quả đã bị thu hồi giấy phép trước thời hạn, chiếm tỷ lệ 25 % chủ yếu trong lĩnh vực khai thác, chế biến hải sản. So với cùng kỳ năm 1994, 5 tháng đầu năm 1995 số dự án của Thái Lan bị giảm hơn 50 %, vốn đầu tư giảm gần 78 %. Các dự án đi vào sản xuất đã đem lại doanh thu là 25 triệu USD, tạo việc làm cho1600 lao động.
Inđônêxia là nước đứng thứ tư trong các nước ASEAN đầu tư tại Việt Nam. Trong 9 dự án đang hoạt động tính đến thời điểm tháng 5/1995, trong lĩnh vực công nghiệp có 3 dự án, 2 dự án chế biến gỗ và trồng hoa, còn lại là 4 dự án xây dựng khách sạn, dịch vụ, giao thông vận tải và ngân hàng. Nhìn chung các dự án triển khai “ trục trặc “ do nhiều nguyên nhân như thay đổi cơ chế xuất khẩu gỗ làm dự án chế biến gỗ tại Đắc Lắc ngừng hoạt động. Trong tổng vốn đăng ký 112 triệu USD, Inđônêxia đã đưa vào 25 triệu USD chiếm khoảng 22%, tạo việc làm cho 300 lao động.
Philipin là nước đứng cuối trong số các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam, đã có 13 dự án với vốn đầu tư 74 triệu USD được cấp giấy phép. Chỉ có 2 dự án có vốn đầu tư lớn là liên doanh sản xuất ôtô Hoà Bình 33 triệu USD và dự án United Pharma 7,5 triệu USD. Số dự án còn lại có số vố đầu tư nhỏ, chủ yếu trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp.
Hầu hết các quốc gia đều đã ký với Việt Nam các hiệp định về xóa bỏ sự cấm đoán về đầu tư vào Việt Nam, hiệp định tránh đánh thuế hai lần và hiệp định bảo hộ đầu tư...Tuy nhiên phần lớn các dự án đầu tư của họ đều tập trung vào các ngành công nghiệp phục vụ tiêu dùng nội địa, chế biến nông - lâm hải sản, khách sạn và du lịch ... vì mục đích khai thác các nguồn tài nguyên sẵn có và lao động rẻ của Việt Nam. Những lĩnh vực đầu tư đó chính là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước ASEAN sang các nước kém phát triển hơn theo logic của sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế toàn cầu. Các nước ASEAN dù là nền kinh tế hàng đầu trong khu vực như Singapo vẫn không thể vượt trội hơn các đối thủ có nhiều điểm tương đồng của “ công nghệ á Đông “ ở từng nấc phát triển cao hơn như Nhật Bản, NIES Đông á. Trong điều kiện quốc tế cho phép thực hiện “ mô hình phát triển rút ngắn “, Việt Nam không thể chỉ tiếp nhận các công nghệ trung bình mà Việt Nam còn tiếp nhận những công nghệ tiên tiến mà các quốc gia ASEAN chưa có hoặc chưa đủ mạnh. Do đó, tuy có vị trí đáng kể trong cơ cấu đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam các quốc gia ASEAN thời kỳ này vẫn phải nhường chỗ cho các nhà đầu tư Châu Âu, Nhật Bản ...
Nhìn chung đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam thời kỳ nay vẫn mang tính chất tiếp cận, thăm dò hợp theo khả năng vốn có hơn là việc hoạch định các chiến lược đầu tư lớn, cụ thể và mang tính dài hạn.
* Sau khi Việt Nam ra nhâp ASEAN.
Nếu tính đến đầu năm 1990, các nước ASEAN mới đầu tư được hơn 16 dự án với số vốn 35 triệu USD, thì sang năm 1991 đã tăng được 28 dự án với số vốn 186 triệu USD.Tính đến tháng 2 năm 1992 số dự án đã tăng lên gấp hai lần so với năm 1991 và đạt tổng số vốn 218 triệu USD. Trong hai năm tiếp theo số dự án và số vốn đầu tư của các nước ASEAN vẫn tiếp tục tăng lên với 147 dự án với tổng vốn đầu tư 1260 triệu USD đến cuối tháng 4 năm 1994.
Nhưng chỉ sau khi Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của Hiệp hội ASEAN năm 1995, đầu tư trực tiếp của các nước này vào Việt Nam đã tăng vọt lên tới 244 dự án với số vốn đầu tư 3265 triệu USD vào đầu năm 1996, chiếm 14% tổng số dự án và 17,9 % tổng FDI của cả nước. Đến cuối năm 1996 các nước ASEAN đã đầu tư vào Việt nam 292 dự án với tổng vốn đầu tư 4666 triệu USD. Đến tháng 12 năm 1997 đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN đã lên tới 362 dự án với vốn đầu tư 8634 triệu USD, chiếm 15,6 % tổng dự án và 27,6 % tổng số vốn FDI của cả nước.
Sau đây là tổng số dự án đầu tư đang hoạt động tại việt Nam ( tính từ 1/1/1989 đến 13/9/1997 ).
Chỉ tiêu
Tổngsố
Singapo
Thái Lan
Malayxia
Philippin
Inđônêxia
Số dự án
322
163
75
55
16
13
Tổng vốn đầu tư
8160,5
5352,3
1044,6
1191,9
238,7
333
Vốn pháp định
2722,2
1715,4
406,8
370,8
104,8
124,4
Vốn thực
hiện
2240,7
909,5
257,8
921,8
78
73,6
Tổng doanh thu
673,33
74,05
161,4
268,06
156,26
13,56
Tổng số lao động
27671
5051
10164
7519
4536
401
+ Singapo hiện vẫn đang là nước dẫn đầu về số dự án đầu tư: 163 dự án, trong đó:
Dự án 100 % vốn nước ngoài là 30 dự án có tổng vốn đầu tư 354,4 triệu USD vốn thực hiện đạt 85,15 % ( 301,6 triệu USD ). Trong 30 dự án này có tới 50 % số dự án mới được cấp phép, 4 dự án đã được đưa vào hoạt động đó là dự án sản xuất ngọc trai Khánh Hoà, dự án chế biến thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh, dự án sản xuất sơn Nipon, dự án sản xuất đá Granit Bình Dương ... Các dự án còn lại tập trung vào sản xuất hàng tiêu dùng như nhôm, nhựa, kẹo...ngoài ra còn có một số dự án tập trung vào sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, sắt, thép, ngói... Các dự án này bước đầu thu hút được 1593 lao động.
Với dự án liên doanh hiện có 122 dự án trong số đó có 56 dự án đã đưa vào hoạt động và có doanh thu. Trong số 56 dự án có 15 dự án đạt hiệu quả cao, chủ yếu trong các lĩnh vực dịch vụ, khách sạn và sản xuất bìa catton để làm bao bì hàng hoá. Hiện nay còn 30 dự án đang được triển khai ở giai đoạn đầu xây dựng cơ bản. Số dự án còn lại chưa được triển khai hoặc mới được cấp giấy phép hoặc thủ tục hành chính còn thiếu.
Với dự án hợp doanh: gồm 11 dự án, các dự án thuộc diện này mới chỉ được đưa vào hoạt động 20 %, số còn lại xin gia hạn và tiếp tục hoàn thành thủ tục hành chính.
Singapo tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nội địa, chế xuất nông - lâm sản, khách sạn và du lịch, đặc biệt từ năm 1996 trở lại đây các dự án của Singapo đã đầu tư vào lĩnh vực máy tính, hàng điện tử, sản xuất ôtô và linh kiện phụ tùng ôtô.
+Thái Lan là nước đứng thứ hai về số dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam trong các nước ASEAN.
Trong 27 dự án 100 % vốn nước ngoài, 14 dự án có số vốn đầu tư từ 5 triệu USD trở lên, trong số đó có 3 dự án đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng hiện hoạt động có hiệu quả còn lại 11 dự án tập trung vào chăn nuôi, cây trồng, chế biến thực phẩm, chế biến thức ăn gia súc, lắp ráp hàng điện tử, máy tính ... 13 dự án với số vốn nhỏ hơn 5 triệu USD tập trung vào chế biến hoa quả, chế tác kim loại và trồng hoa xuất khẩu...
Trong 45 dự án liên doanh, 19 dự án có số vốn đầu tư trên 5 triệu USD, các dự án này tập trung vào khai thác dầu khí, khai thác vàng và chế tác đá quí, số dự án còn lại chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dịch vụ, khách sạn ( 60 % dự án).
3 dự án hợp doanh tập trung vào sản xuất giống ngô lai, băng hình và sản phẩm điện cơ với tổng số vốn của 3 dự án là 2,17 triệu USD.
+ Malayxia là nước đứng thứ ba trong năm nước đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Hiện có 2 dự án lớn nhất trong số 14 dự án có vốn đầu tư 100 % vốn nước ngoài đó là dự án Hualon Corporation Việt Nam, kéo sợi, dệt và nhuộm vải Đồng Nai với số vốn đầu tư 428 triệu USD, hiện nay đã góp vốn 20 % và đã có doanh thu từ cuối năm 1996, tiếp đến là dự án sản xuất dây điện và cáp điện thông tin với số vốn đầu tư 93,8 triệu USD, 4 dự án đã có doanh thu, đạt hiệu quả cao, 8 dự án còn lại tập trung vào lĩnh vực sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến hải sản, thực phẩm ...
Trong 37 dự án liên doanh đã có 14 dự án đi vào sản xuất kinh doanh, và 2/14 dự án này có doanh thu cao là liên doanh vận chuyển, hướng dẫn khách du lịch tại Hà Nội và liên doanh sản xuất hương trừ muỗi Mosfly.
Về dự án hợp doanh, có 4 dự án trong đó 2 dự án đầu tư vào lĩnh vực dầu khí.
+ Philipin.
Hiện có 8 dự án đầu tư 100 % vốn nước ngoài, trong đó 3/8 dự án tập trung vào chế biến hàng thủ công mỹ nghệ và sản xuất mây tre đan với tổng vốn đầu tư 9,425 triệu USD. Một dự án 7,5 triệu USD đầu tư cho ngành dược tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong 8 Dự án này có tới 6/8 dự án được thực hiện tại Khánh hoà và thành phố Hồ Chí Minh, chỉ có một dự án về thiết bị giặt được thực hiện tại Hà nội.
Dự án liên doanh hiện có 8 dự án trong đó có 3 dự án có vốn đầu tư trên 50 triệu USD là dự án sản xuất ôtô Hoà bình với số vốn đâù tư 580 triệu USD, dự án khách sạn đại lộ Kim liên - Hà Nội - với số vốn đầu tư 71,9 triệu USD, dự án chế biến đường ở Ninh bình với số vốn đầu tư 60 triệu USD, 40 % dự án còn lại tập trung vào du lịch - khách sạn và chế biến thực phẩm.
+ Inđônêxia có tổng số 13 dự án.
Trong đó có 4 dự án 100 % vốn nước ngoài. Dự án lớn nhất với số vốn 52,6 triệu USD đầu tư sản xuất phim Fuji và máy ảnh.
Trong 8 dự án liên doanh có 2 dự án có số vốn trên 50 triệu USD là liên doanh Hotel Horison và dự án xí nghiệp liên hợp thực phẩm Vũng tàu. 3/8 dự án thuộc dự án liên doanh đầu tư vào sản xuất, còn lại tập trung vào vận chuyển tầu biển và vận chuyển hành khách, dịch vụ ngân hàng và khách sạn.
Một dự án hợp doanh với số vốn đầu tư 27 triệu USD ở Quảng Ninh về khai thác than.
+ Brunây có 1 dự án đầu tư vào Việt Nam với số vốn 10 triệu USD, đứng cuối cùng trong các nước ASEAN đầu tư trực tiếp vào Việt Nam và đứng thứ tư trong số các quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Tuy nhiên bước sang năm 1998, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và xuất hiện nhiều cản trở của môi trường đầu tư trong nước, FDI của các nước ASEAN vào Việt Nam không những giảm mạnh mà còn bị chậm tiến độ nhiều dự án đang thực hiện hoặc đã được cấp giấy phép. Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy trong 9 tháng đầu năm 1998 chỉ có 15 dự án của các nước ASEAN được cấp phép với 803 triệu USD vốn đầu tư .
Như vậy, đến hết tháng 9 năm 1998 đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN đã tăng nhanh chóng và lên tới 377 dự án với số vốn đầu tư 9437 triệu USD, chiếm 18,4 % tổng số dự án và 27,8 % tổng vốn đầu tư của cả nước. Trong đó hơn một nửa là của Singapo với 205 dự án và vốn đầu tư là 6471 triệu USD chiếm 54,4 % tổng dự án và 68,6 % tổng vốn đầu tư trực tiếp của ASEAN vào Việt Nam. Số còn lại là của Thái Lan ( 78 dự án với 1106 triệu USD ), Malayxia ( 62 dự án với 1342 triệu USD ), Inđônêxia (13 dự án với 281,9 triệu USD ) và Philipin (19 dự án với 258,6 triệu USD).
Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong 11 tháng đầu năm 1998 vốn thực hiện của các nước ASEAN chỉ đạt khoảng 200 triệu USD, giảm tới hơn 70 % so với cùng kỳ năm 1997.
Bảng: Đầu tư của ASEAN tại Việt Nam tính hết tháng 11 năm 1998
Đơn vị: Triệu USD.
Tên nước
Số dự án
Tổng vốn
đăng ký
Tổng vốn đầu tư thực hiện
Doanh thu
Doanh thu xuất khẩu
Số lao động
Singapo
208
6512
1341
1115
118
16300
Malayxia
62
1342
1050
343
169
7800
Thái Lan
77
1110
437
335
70
5000
Philipin
19
310
100
162
11
4400
Inđônexia
13
243
95
22
01
900
Tổng
379
9517
3230
1977
369
34400
Nguồn : Bộ Kế hoạch Đầu tư
* Đầu tư trực tiếp của ASEAN vào Việt Nam thời kỳ này có những đặc điểm sau:
+ Về số lượng dự án đầu tư và vốn đầu tư:
Thứ nhất, tốc độ gia tăng về số dự án và vốn đầu tư khá nhanh, nhất là ở gia đoạn này khi Việt nam đã trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN. Điều này chứng tỏ các nhà đầu tư ASEAN rất quan tâm đến thị trường đầu tư của Việt Nam và khi Việt Nam tham gia vào ASEAN đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chủ đầu tư của các nước ASEAN đầu tư ở Việt Nam.
Thứ hai, số dự án loại vừa và nhỏ còn khá phổ biến, chưa có nhiều dự án đầu tư lớn vì thế qui mô bình quân của dự án chỉ đạt ở mức trung bình khoảng 25 triệu USD/ dự án ( 379 dự án với tổng số vốn đăng ký 9517 triệu USD ).
Thứ ba, Singapo ở vị trí nổi bật chiếm hơn một nửa cả về số lượng dự án và vốn đầu tư trực tiếp của ASEAN ở Việt Nam ( 208 dự án với 379,6512 triệu USD so với 9517 triệu USD ).Trong khi đó, các dự án của Malayxia và Thái Lan chỉ ở mức trung bình.
Cuối cùng, cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á đã làm giảm mạnh dòng vốn đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam. Hiện tượng này phản ánh các nhà đầu tư ASEAN đã bị tác động mạnh của cuộc khủng hoảng và năng lực tài chính của họ cũng chưa mạnh.
Tóm lại, dòng vốn của các nước ASEAN vào Việt Nam tuy tăng nhanh nhưng không ổn định.
+ Về cơ cấu, lĩnh vực và hình thực đầu tư:
Nhằm khai thác lợi thế của mình các nước ASEAN chủ yếu đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến và lắp ráp, khai thác dầu khí, khách sạn - du lịch, dịch vụ tài chính và xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong đó, Singapo có nhiều dự án đầu tư với qui mô lớn, tập trung nhiều vào lĩnh vực công nghiệp, khách sạn và nông - lâm nghiệp với qui mô vừa và nhỏ.
Theo kết quả tính toán từ số liệu thống kê của Vụ quản lý dự án đầu tư trong tổng số 379 dự án đầu tư của các nước ASEAN đang được triển khai ở Việt Nam chỉ có 136 dự án với 3725 triệu USD vào ngành công nghiệp, chiếm 36 % tổng dự án và 39,5 % tổng vốn đầu tư ở Việt nam. Trong khi đó, tỷ lệ tương tự các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp là 61,6 % tổng dự án và 46,5% tổng vốn đầu tư FDI của cả nước. Số dự án còn lại chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực khách sạn, xây dựng và dịch vụ. Thực tế này phản ánh khá rõ các nhà đầu tư ASEAN rất quan tâm đến các lĩnh vực đầu tư mang tính hiệu quả nhanh và phát huy được lợi thế của họ tại Việt Nam. Mặt khác điều náy cũng bộc lộ khá rõ những hạn chế về khả năng phát triển ngành công nghiệp có kỹ thuật cao của các nước này. Đây là điểm đáng lưu ý so với các nhà đầu tư giầu tiềm năng khác ở Việt Nam như: Nhật bản, Đài loan, Hàn quốc, Mỹ.
Các dự án đầu tư của các nước ASEAN chủ yếu tập trung dưới hình thức liên doanh, sau đó đến xí nghiệp 100 % sở hữu nước ngoài và số dự án hợp doanh rất nhỏ. Đặc điểm này phản ánh các nhà đầu tư ASEAN còn sợ mạo hiểm, vì thế họ không muốn chia sẻ rủi ro với các đối tác Việt Nam. Tuy nhên, gần đây do các nhà đầu tư ASEAN đã quen với môi trường đầu tư của Việt Nam và xuất hiện nhiều cản trở của phía đối tác Việt Nam trong liên doanh nên tỷ lệ dự án 100 % vốn nước ngoài tăng lên và hình thức liên doanh giảm dần. Hình thức hợp doanh vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số dự án. Số dự án có vốn đầu tư lớn trên 50 triệu USD còn chưa nhiều chỉ có 32 dự án, chiếm 9,9 % tổng số dự án của ASEAN ở Việt Nam. Số còn lại được phân làm tỷ lệ ngang nhau giữa qui mô trung bình ( 146 dự án ) và qui mô nhỏ ( 144 dự án ). Mặt khác, đối với các hình thức xí nghiệp 100 % vốn nước ngoài, hợp doanh thì loại dự án qui mô nhỏ chiếm tỷ lệ cao nhất, chiếm 51,8 % và 63,2 % theo thư tự. Tổng khi đó, loại dự án có qui mô trung bình lại chiếm tỷ lệ cao 48,2 % trong hình thức liên doanh. Đặc điểm này phản ánh các nha đầu tư ASEAN không muốn chia sẻ rủi ro với các đối tác Việt Nam.
Từ những con số thống kê ở trên có thể đi đến một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam chủ yếu ở các lĩnh vực công nghiệp chế biến và lắp ráp, du lịch và dịch vụ, xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào những ngành không đòi hỏi kỹ thuật cao và sử dụng nhiều lao động.
Thứ hai, các dự án tập trung nhiều dưới hình thức xí nghiệp liên doanh, số dự án qui mô nhỏ chiếm tỷ lệ cao trong tổng số dự án đầu tư.
Vì thế các dự án đầu tư của các nước ASEAN khá phù hợp với trình độ phát triển còn thấp của Việt Nam. Tuy nhiên, xét về mặt chiến lược, tiềm năng đầu tư về kỹ thuật và tài chính của các nước này còn hạn chế trước yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam.
* Về hiệu quả thực hiện dự án đầu tư.
Thực tế triển khai các dự án đầu tư trực tiếp của ASEAN ở Việt Nam thời gian qua cho thấy tỷ lệ vốn thực hiện trên tổng số vốn đăng ký còn ở mức khiêm tốn. Chuyển giao công nghệ phổ biến ở mức trung bình hoặc thấp so với trình độ công nghệ thế giới. Tuy nhiên số dự án giải thể không nhiều, đặc biệt các dự án đã mang lại những kết quả bước đầu đáng kể về tạo việc làm, doanh thu, thuế và xuất khẩu. Tính đến tháng 6 năm 1998, tổng số vốn thực hiện của dự án đầu tư trực tiếp ASEAN ở Việt Nam mới được 3007 triệu USD, đạt mức bình quân 31,9 %. Trong đó, các dự án của Malayxia có tỷ lệ giải ngân cao nhất đạt 78,2%. Các nước lại đều ở mức thấp dưới 50 %, trong đó, đặc biệt là Singapo chỉ đạt 20,5 % so với tỷ lệ chung giữa vốn thực hiện trên tổng vốn FDI của cả nước. Tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện của ASEAN còn khá thấp so với 39,5 % mức bình quân chung của cả nước. Điều này phản ánh tính khả thi của các dự án và năng lực tài chính của các chủ đầu tư ASEAN còn chưa cao.
Bảng: Vốn thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp ASEAN ở Việt Nam (tính đến tháng 6 năm 1998 ).
Đơn vị tính: 1000 USD.
Năm
Singapo
Malayxia
Thái lan
Inđônêxia
Philipin
Cộng
1991
111
986
219
5.000
0
6.316
1992
7.178
15.608
17.582
1.050
8.881
50.299
1993
113.218
130.743
24.471
12.421
11.937
292.790
1994
143.664
280.756
20.220
8.061
14.757
467.458
1995
323.196
178.940
78.525
14.641
19.714
615.016
1996
169.674
147.687
72.288
10.921
9.291
409.861
1997
489.390
237.042
197.544
41.608
35.406
1.009.990
6/98
68.572
56.364
30.762
0
45
155.743
cộng
1.324.003
1.048.126
441.611
93.702
100.031
3.007.473
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Bảng trên cho thấy tốc độ giải ngân của các dự án đầu tư trực tiếp ASEAN không đều qua các năm, chỉ tập trung vào thời kỳ từ năm 1993 đến năm 1997, đặc biệt trong năm 1997. Sau đó giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm 1998, chỉ đạt 155,743 triệu USD. Sở dĩ năm 1997 tỷ lệ giải ngân tăng vọt là do sự gối đầu của nhiều dự án được cấp giấy phép trong năm 1996. Hơn nữa, cuối năm 1997 mới xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam á nên chưa ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải ngân của các dự án đầu tư ASEAN ở Việt Nam. Sang năm 1998, hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng nặng nề đến các chủ đầu tư.
Do đầu tư vào các lĩnh vực như đã nêu, các dự án FDI của nước ASEAN chủ yếu chuyển giao công nghệ vào Việt Nam ở mức độ trung bình và sử dụng nhiều lao động, rất ít công nghệ mới và hiện đại. Do đó, Việt nam có nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp của các nước ASEAN, tuy rằng những công nghệ trên tỏ ra khá thích hợp trong điều kiện của Việt Nam hiện nay.
Các dự án đầu tư trực tiếp của ASEAN đã đem lại một số kết quả bước đầu đáng khích lệ về doanh thu, xuất khẩu, tạo việc làm và thuế.
Bảng: Các chỉ tiêu về doanh thu, xuất khẩu, việc làm và thuế của các dự án đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN ở Việt Nam ( 1/1/1998 - 30/9/1998).
Đơn vị tính: triệu USD.
Tên nước
Doanh thu
Xuất khẩu
Việc làm
Thuế doanh thu
Thuế lợi tức
Thuế nhập khẩu
Thuế xuất khẩu
Singapo
1106,4
118,1
16085
18,9
2,90
8,9
75,20
Malayxia
344,8
169,5
7561
3,4
3,00
1,5
1,70
Thái lan
334,7
69,3
5043
6,7
1,70
4,6
1,00
Inđônêxia
21,8
0,6
940
0,2
0,07
0,3
0,07
Philipin
161,8
11,5
4445
12,7
1,20
18,7
8,20
Tổng
1969,5
369,0
34074
41,9
8,87
34,0
86,17
Tổng FDI
11266,5
3229,3
254020
216,6
67,08
179,4
169,3
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 10/1998.
Nếu so sánh tỷ trọng của các chỉ tiêu đã nêu với tổng vốn đầu tư giữa FDI của ASEAN và FDI của cả nước thì các số liệu của bảng trên phản ánh khá rõ các dự án đầu tư ASEAN hoạt động kém hiệu quả hơn. Tuy vốn đầu tư của các nước ASEAN chiếm tới 27,8 % vốn FDI của cả nước nhưng các dự án FDI của các nước này chỉ đạt được 17,5 % doanh thu, 11,4 % xuất khẩu, 13,4 % việc làm, 19,3 % thuế doanh thu, 13, 2 %thuế lợi tức, 18,9 % thuế xuất khẩu và 50,9% thuế khác trong các chỉ tiêu tương ứng của FDI cả nước.
Như vậy, tính khả thi của các dự án đầu tư trực tiếp của ASEAN ở Việt nam chưa cao, trong đó nguyên nhân quan trọng là do các chủ đầu tư của các nước này còn bị hạn chế về năng lực tài chính và công nghệ. Các chủ đầu tư ASEAN chưa quan tâm nhiều đến xuất khẩu mà còn chủ yếu hướng vào thị trường nội địa của Việt Nam và họ chuyển giao công nghệ sử dụng nhiều lao động, ít công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng nhất của tình hình nàylà do chính sách định hướng xuất khẩu đối với FDI ở Việt Nam chưa rõ ràng và khả năng tiếp nhận công nghệ của Việt Nam còn thấp.
b. Triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN vào Việt Nam.
b.1. Triển vọng trong tương lai:
Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra định hướng chiến lược thu hút vốn FDI tập trung vào 5 lĩnh vực sau:
+ Xây dựng những công trình then chốt trong ngành công nghiệp như dầu khí, điện, xi măng, sắt, thép và hoá chất ... nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, một phần thay thế nhập khẩu, ổn định sản xuất, giảm giá đầu vào.
+ Ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn về công nghệ và kỹ thuật như điện tử, vi điện tử , tin học, công nghệ sinh học ...
+ Khuyến kích các dự án đầu tư phát triển sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu trong các công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm gắn với vùng nguyên liệu.
+ Chú trọng đến các dự án thuộc ngành công nghiệp dịch vụ có tỷ suất sinh lời cao như du lịch, khách sạn, sân bay, cảng khẩu ...
+ Quan tâm đến các dự án sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, tài nguyên sẵn có của Việt Nam.
Các nền kinh tế ASEAN nói chung đều đạt trình độ cao hơn Việt Nam. Họ là nước nhận đầu tư và cũng muốn thực hiện đầu tư trực tiếp vào Việt Nam để chuyển giao một số công nghệ không còn phù hợp với họ như chi phí lao động thấp hơn, có vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên chủ yếu khai thác và xuất thô... Qua đó, họ có thể vừa chuyển giao được công nghệ của họ, lại vừa có điều kiện trang bị công nghệ mới.
Mặt khác, tiềm năng vốn đầu tư của các nước ASEAN còn khá lớn so mức độ hiện nay họ đầu tư vào Việt Nam. Ví dụ như Brunây là nước có mức độ dư thừa tư bản rất cao ( dự trữ ngoại tệ là 30 tỷ USD và GDP đầu người là gần 25000 USD ) song mới chỉ có 1 dự án đầu tư vào Việt Nam.
Tuy bị ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ hai năm trước nhưng nền kinh tế các nước ASEAN đang dần hồi phục, có dấu hiệu khả quan. Mức độ tăng trưởng sẽ không còn được như trước nhưng sẽ chắc chắn, vững mạnh. Triển vọng đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ ngày càng tiến triển tốt đẹp.
b.2. Một số biện pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư FDI của các nước ASEAN vào Việt Nam:
* Cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư:
Môi trường pháp lý về đầu tư là tiêu chuẩn hàng đầu khi các nhà đầu tư lựa chọn cơ hội đầu tư. Với bất kỳ nước nào muốn thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài đều phải đặt lên hàng đầu mục tiêu tạo môi trường pháp lý thật hấp dẫn.
Việt Nam chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện môi trường đầu tư. Song qua thực tiễn vẫn còn không ít những sai sót và hạn chế như hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và cụ thể, thực hiện pháp luật còn tuỳ tiện... Điều này dẫn đến nạn buôn lậu, tham nhũng, tham ô, cửa quyền, quan liêu gây nhiều khó khăn cho chủ đầu tư. Chính vì vậy cần phải cải thiện môi trường đầu tư bằng một số biện pháp sau:
Một là, đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép đầu tư. Thực tế có một số nhà đầu tư bị chậm trễ các dự án dự án vì thủ tực cấp giấy phép đầu tư còn rườm rà, nhiều chủ đầu tư sau khi “ chạy “ được giấy phép đầu tư và thủ tục khác thì cơ hội đầu tư đã hết hoặc không còn ý chí để triển khai dự án.
Hai là, mở rộng thêm điều kiện chuyển nhượng vốn cho các bên tham gia liên doanh. Điều này giúp cho các doanh nghiệp chủ động về vốn và hoạt động có hiệu quả hơn.
Ba là, xem xét các nguyên tắc bỏ phiếu và biểu quyết trong hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh. Nếu thay thế nguyên tắc đa số tương đối hay tuyệt đối thay cho nhất trí toàn bộ để thông qua những vấn đề then chốt của doanh nghiệp liên doanh.
Bốn là, cho phép liên doanh hoạt động trong nhiều lĩnh vực thay vì chỉ hoạt động trong một lĩnh vực nhất định, để giảm thiểu các rủi ro. Khi nhà nước cho phép thì phần lợi nhuận thu được của dự án này là nhà đầu tư sẽ đầu tư vào một dự án khác chứ không mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc chuyển vốn về nước. Điều nay giúp cho nhà đầu tư linh hoạt hơn trong lựa chọn danh mục đầu tư và khả năng sinh lời cao.
Năm là, nhà nước cho phép doanh nghiệp linh hoạt trong vấn đề chuyển ngoại tệ và mở tài khoản, doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Sáu là, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư bằng cách ổn định tình hình chính trị, tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới sâu rộng hơn, tạo hành lang pháp lý an toàn, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, về tài chính tạo thuận lợi cho cho họ dễ dàng dịch chuyển vốn đầu tư.
* Cụ thể hoá chiến lược thu hút vốn FDI.
Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, qui định rõ và cụ thể hoá cơ cấu FDI theo ngành, lãnh thổ, thành phần kinh tế và thị trường. Chúng ta khuyến kích các nhà đầu tư ASEAN đầu tư và các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các vùng kinh tế còn thấp kém, các ngành nghề thu hút nhiều lao động. Đây vừa là ưu thế của các nước ASEAN, vừa là mục tiêu trước mắt giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế. Đồng thời cũng hướng họ vào những lĩnh vực có công nghệ tiên tiến, có tỷ lệ xuất khẩu cao như dầu khí, điện tử, tin học ...
Cải thiện chính sách thuế: khi khu vực đầu tư ASEAN ( AIA ) được thành lập, thuế là một biện pháp quan trọng trong chính sách ưu đãi đầu tư. Các ưu đãi về thuế là sự khuyến khích về mặt tài chính, giá cả hàng hoá, sức mua của người tiêu dùng ...
Thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, tránh tình trạng làm ăn thua lỗ kéo dài. Những “ tế bào “ này của nền kinh tế làm ăn có hiệu quả thì một phần sẽ có tác dụng làm tăng trưởng nền kinh tế, lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư. Đồng thời việc ra đời thị trường chứng khoán sau hơn một năm gián đoạn sẽ càng được đẩy nhanh hơn.
Cùng với các nước ASEAN khác Việt Nam nỗ lực thúc đẩy quá trình ra đời khu vực đầu tư ASEAN. Mới đây, tháng 6 năm 1999, Việt nam đã chính thức gửi cho Hội đồng khu vực đầu tư ASEAN ( gọi tắt là AIA ) danh mục dự án thay thế đầu tư tạm thời theo lộ trình tự do hoá đầu tư đã được ký kết trong Hiệp định khung AIA tháng 10 năm 1998. Ngoài những lĩnh vực được đề cập trong danh mục này, các nhà đầu tư ASEAN sẽ được hưởng toàn bộ ưu đãi bình đẳng với các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư vào Việt Nam.
Trên đây là một số biện pháp góp phần tăng cường khả năng thu hút vốn FDI trong và ngoài khu vực ASEAN được Việt Nam trong thời gian tới để phục vụ thiết thực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
III. Kết luận và kiến nghị.
1. Kết luận:
Qua nghiên cứu về thực trạng đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt nam cho thấy đầu tư đầu tư trực tiếp của các nước này vào Việt Nam ( trừ Singapo ) là khá nhỏ bé về cả qui mô dự án và qui mô vốn đầu tư, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của từng nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta càng cần phải nỗ lực hơn trong việc thu hút vốn đầu tư của ASEAN vào Việt Nam. Mặt khác bên cạnh việc tiếp nhận những dự án vừa và nhỏ, ít vốn, sử dụng nhiều lao động của các nước ASEAN, chúng ta cũng cần phải mạnh dạn tiếp nhận những dự án có qui mô đầu tư tầm cỡ cả về vốn và công nghệ của các nước phát triển như Nhật bản, Mỹ, Đức ... để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong quan hệ đầu tư trực tiếp giữa các nước ASEAN đối với Việt Nam một mặt các nước ASEAN đang là những nhà đầu tư, nhưng mặt khác họ lại là đối thủ cạnh tranh của Việt nam trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Bản thân họ phải cạnh tranh với các nước khác trong cạnh tranh đầu tư vào Việt Nam. Đây chính là cơ hội để Việt Nam cân nhắc khi tiếp nhận một dự án đầu tư của ASEAN hay các nước khác ngoài khối ASEAN.
2. Kiến nghị:
Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, cần tập trung xác định chính sách phát triển công nghiệp thích hợp, trong đó có các biện pháp khuyến khích đầu tư. Chúng ta cũng cần chú trọng phân tích đầu tư và khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh tranh, nhất là yếu tố giá thành sản phẩm trong điều kiện không còn hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan. Chính các yếu tố của đầu ra sẽ quyết định đến qui mô và hình thức đầu tư. Cần hết sức tranh tình trạng đầu tư ồ ạt vào một số ngành mà không tính đến khả năng cạnh tranh, có thể đến sự phá sản hàng loạt dự án đầu tư và là tăng nợ nước ngoài của Việt nam. Khi quyết định một dự án đầu tư ngoài việc xem xét giá thành sản phẩm còn phải tính đến việc bảo vệ môi trường.
Đối với các dự án đầu tư của các nước ASEAN, để bền vững và đạt hiệu quả cao các dự án cấp giấy phép cần được triển khai đúng tiến độ, đặc biệt cần phải nâng cao tỷ lệ vốn pháp định thực hiện và tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu. Việc kết hợp giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với ngoại thương, đặc biệt với tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu từ Việt nam phải là một tiêu chí cần được đặt lên hàng đầu trong các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nói chung và các dự án đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN tại Việt Nam nói riêng.
Công việc lành mạnh hoá môi trường đầu tư cũng phải được đạt lên hàng đầu. Nhà nước phải công khai hoá các thông tin kinh tế, tạo sự công bắng cho các nhà đầu tư, đặc bệt là chống tham nhũng, cửa quyền, buôn lậu không chỉ bằng kiểm tra, giám sát mà phải có những hình phạt rõ ràng, nặng và có tính răn đe cao. Vấn đề này không phải được đặt nhất thời mà phải được tiến hành liên tục, thương xuyên.
Tài liệu tham khảo.
- Tư liệu kinh tế các nước ASEAN - NXB Thống kê 1996.
- Văn kiện đại hội đảng VII, VIII.
- Luật đầu tư nước ngoài.
- Giáo trình Đầu tư nước ngoài - NXB Giáo dục 1997.
- Giáo trình Kinh tế đầu tư - NXB Thống kê 1998.
- Những vấn để kinh tế thế giới: các năm 98, số 4, 5 năm 1999.
- Tạp chí Nguyên cứu Đông Nam á; số 4/1998, số6/1998.
- Tạp chí Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương: các số năm 1997 và 1998.
- Các báo: Thời báo kinh tế, Đầu tư, Thương mại, Du lịch có liên quan.
Mục lục.
Trang
I. Đặt vấn đề.
II. Giải quyết vấn đề.
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam.
a. Các hình thức FDI ở Việt nam.
b. Tình hình FDI ở Việt nam thời gian qua.
2. Quan hệ kinh tế Việt nam và thành viên các nước ASEAN.
a. Khái quát về Hiệp hội các nước ASEAN.
b. Quan hệ thương mại - đầu tư Việt nam - Đông Nam á - ASEAN.
c. Khu vực AFTA.
3. FDI của các nước ASEAN vào Việt nam - thực trạng và triển vọng.
a. Thực trạng:
a.1. Trước khi Việt nam gia nhập ASEAN.
a.2. Sau khi Việt nam gia nhập ASEAN.
b. Triển vọng:
b.1 Những tiềm năng trong tương lai.
b.2 Một số biện pháp thu hút FDI của các nước ASEAN vào Việt nam.
III. Kết luận và kiến nghị.
1. Kết luận.
2. Kiến nghị.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0173.doc