Đề tài Đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam, thực trạng và triển vọng

Giá chuyển nhượng nội bộ được áp dụng trong các hoạt động giao dịch kinh doanh nội bộ công ty như vậy có thể khác xa với giá thị trường tương ứng nằm ngoài tầm kiểm soát của nó và nó có thể phải trả trong quan hệ buôn bán giữa các bên không có quan hệ với nhau. Việc lập hoá đơn hàng thấp hơn hay cao hơn so với số thực có là nhằm thay đổi mức lợi nhuận tính thuế, hay để tránh thuế ngoại thương, hoặc kiểm soát hối đoái đều là những vấn đề chung cho mọi hoạt động thương mại. Nhưng cơ hội cho các hoạt động như vậy rõ ràng lớn hơn trong nội bộ công ty. Điều này đặt gánh nặng tương ứng lên khả năng kiểm soát hải quan đặc biệt là đối với các sản phẩm có thể phân chia nhỏ được (chẳng hạn như các loại dược phẩm), hoặc đối với các cấu kiện chuyên dùng không có một mức giá nhất định với khách hàng bên ngoài. d> Và những vấn đề khác: Các vấn đề ô nhiễm môi trường cùng với tài nguyên bị cạn kiệt và những lợi dụng về chính trị đó là một trong những điều tất yếu mà nước chủ nhà phải hứng chịu khi quá trình FDI diễn ra.

doc85 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1417 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam, thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là nước có qui mô một dự án lớn nhất trong EU tới gần 53 triệu USD cho một dự án. Thụy Điển đầu tư vào Việt Nam chủ yếu theo hình thức liên doanh với 4 dự án, chiếm 57% số dự án, tổng vốn đầu tư 27,8 triệu USD, chiếm 7% vốn đầu tư. Vốn đầu tư của Thụy Điển tập trung vào dự án BCC về thông tin di động giữa Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông và Comvik, tổng vốn đầu tư 341 triệu USD, chiếm 92% vốn đăng ký của Thụy Điển tại Việt Nam. Hai bên đã góp 87 triệu USD trong đó bên nước ngoài góp 65 triệu USD. Dự án đang triển khai tốt. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu là viễn thông. Lĩnh vực kinh doanh khách sạn có dự án xây dựng khách sạn SAS Hà Nội, vốn đầu tư 25 triệu USD, tuy nhiên dự án này hiện đang xin giãn tiến độ. Nhìn chung các dự án còn lại đầu tư qui mô nhỏ. Sau đây là bảng tổng kết tình hình đầu tư trực tiếp của Thụy Điển tính đến 28/02/2000: Bảng 13: Đầu tư của Thụy Điển vào Việt Nam phân theo ngành (Từ ngày 01/01/1988 đến ngày 01/03/2000) TT Chuyên ngành Số DA Tổng VĐT (ng.USD) Vốn TH (ng.USD) DT (ng.USD) LĐ (người) 1 CN nặng 1 500 150 934 76 2 CN Dầu khí 1 326 246 0 10 3 KS - DL 1 25.000 7.460 0 9 4 GTVT - BĐ 1 341.500 87.238 99.421 709 5 Xây dựng 3 3.500 1.331 2.114 98 Tổng số 7 370.826 96.426 102.469 902 Số dự án đã hết hạn: 1 dự án Vốn hết hạn: 2.007.400 USD Số dự án đã giải thể: 0 dự án Vốn giải thể: 0 USD Tổng số dự án đã cấp GP: 8 dự án Tổng vốn đầu tư: 372.833.240 USD Ghi chú: Không tính đến các dự án đầu tư ra nước ngoài Các dự án của Thụy Điển tập trung tại Hà Nội với 6 dự án với số vốn chiếm tới 99,9% tổng vốn, còn một dự án nhỏ tại Bình Dương vốn đầu tư có 1 triệu USD trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng. Các dự án của Thụy Điển hoạt động khá tốt, doanh thu cũng đã vượt so với số vốn thực hiện. Với 7 dự án còn hiệu lực, Thụy Điển mới thực góp 96,4 triệu USD đạt 26% vốn đăng ký (trong đó 90% là vốn góp vào dự án viễn thông), tạo việc làm cho khoảng 90 lao động. 6. Đầu tư trực tiếp của Đan Mạch: Đan Mạch hiện đứng thứ 28 trong các nước đầu tư vào Việt Nam với 6 dự án đã được cấp giấy phép, tổng vốn đầu tư 112 triệu USD, trừ 2 dự án giải thể trước thời hạn thì Đan Mạch có 4 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 105 triệu USD. Như vậy qui mô bình quân của 1 dự án là khá lớn (đứng thứ 3 sau Thụy Điển và Anh). Sau đây là bảng đầu tư phân theo ngành của Đan Mạch tính đến 28/02/2000: Bảng 14: Đầu tư của Đan Mạch vào Việt Nam phân theo ngành (Từ ngày 01/01/1988 đến ngày 01/03/2000) TT Chuyên ngành Số DA Tổng VĐT (ng.USD) Vốn TH (ng.USD) DT (ng.USD) LĐ (người) 1 CN thực phẩm 2 103.944 51.273 196.310 522 2 Dịch vụ 2 1.242 0 0 0 Tổng số 4 105.186 51.273 196.310 522 Số dự án đã hết hạn: 0 dự án Vốn hết hạn: 0 USD Số dự án đã giải thể: 2 dự án Vốn giải thể: 7.300.000 USD Tổng số dự án đã cấp GP: 6 dự án Tổng vốn đầu tư: 112.485.840 USD Ghi chú: Không tính đến các dự án đầu tư ra nước ngoài Nhìn vào bảng trên ta thấy, Đan Mạch tập trung vốn đầu tư vào ngành sản xuất bia với 2 nhà máy lớn là Nhà máy bia Đông Nam á (bia Halida và Carlsberg), vốn đầu tư 79,6 triệu USD và Công ty bia Huế (Huda) vốn đầu tư 24 triệu USD. Hai dự án này đều triển khai hoạt động tốt, doanh thu thậm chí đã vượt cả vốn đầu tư mặc dù vốn thực hiện mới chỉ đạt chưa đầy 50%. Hai dự án còn lại mới được địa phương cấp năm 1999 nhưng qui mô nhỏ. Do Đan Mạch chỉ thực sự mạnh trong lĩnh vực này nên đầu tư của họ không theo từng năm như các nước EU khác mà là từng đợt theo thoả thuận với các nhà chức trách của Việt Nam. Số dự án giải thể của Đan Mạch là 2, như vậy là tỷ lệ tương đối cao so với mức mặt bằng chung. Các dự án của Đan Mạch đã tạo việc làm cho khoảng 500 lao động trực tiếp. 7. Đầu tư trực tiếp của Italia: Là một trong số các nước thuộc G7 và có mối quan hệ khá tốt với Việt Nam (Italia là nước phương Tây đầu tiên viện trợ chính thức cho ta), tuy nhiên Italia đứng thứ 29 trong số các nước đầu tư vào Việt Nam với 11 dự án được cấp phép, tổng vốn đầu tư 65,8 triệu USD, trừ 1 dự án đã hết hạn hoạt động, vốn 75.000 USD và 5 dự án giải thể trước thời hạn vốn 26 triệu USD Italia còn 5 dự án đang hoạt động, vốn đầu tư 39,6 triệu USD. Vốn đầu tư của Italia rất thất thường và hay nhỏ giọt theo từng năm, và các dự án này đều là các dự án có qui mô nhỏ về vốn. Các dự án của Italia hoạt động không có hiệu quả, doanh thu chỉ đạt có 5,7 triệu USD (tính đến 20/3/1999) nhỏ hơn nhiều so với vốn góp là 26,6 triệu USD. Dự án lớn nhất là dự án liên doanh container Đà Nẵng tổng vốn đầu tư 20 triệu USD, hiện hoạt động không hiệu quả xin giải thể và dự án sản xuất nhôm Việt Nam - Italia, vốn đầu tư 11 triệu USD. Các dự án còn lại hoặc chưa triển khai hoặc đã ngừng hoạt động. Bảng 15: Đầu tư trực tiếp của Italia phân theo ngành (từ ngày 01/01/1988 đến ngày 31/12/1999) TT Chuyên ngành Số DA Tổng VĐT (ng.USD) Vốn TH (ng.USD) DT (ng.USD) LĐ (người) 1 CN nặng 1 20.000 4.649 0 11 2 CN nhẹ 2 2.500 0 0 2 3 Nông lâm nghiệp 1 1.583 1.583 350 6 4 Dịch vụ 1 250 0 0 0 5 Xây dựng 1 11.000 0 0 7 Tổng số 6 35.333 6.232 350 26 Số dự án đã hết hạn: 1 dự án Vốn hết hạn: 75.000 USD Số dự án đã giải thể: 5 dự án Vốn giải thể: 26.041.142 USD Tổng số dự án đã cấp GP: 12 dự án Tổng vốn đầu tư: 61.449.142 USD Ghi chú: Không tính đến các dự án đầu tư ra nước ngoài Hầu hết các dự án của Italia là các dự án liên doanh với 4 dự án cùng 38 triệu USD (chiếm 96%), còn một dự án còn lại là đầu tư 100% vốn nước ngoài. Các dự án của Italia tập trung vào lĩnh vực công nghiệp với 3 dự án với số vốn 27 triệu USD (chiếm 68,2% vốn đầu tư). Có 5 dự án đang hoạt động thì phân bố tại 5 tỉnh khác nhau là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quảng Bình, Quảng Nam. Trong đó Đà Nẵng là tỉnh được đầu tư có số vốn lớn nhất là 20.000.000 USD, tiếp đến là Quảng Nam với số vốn là 11.000.000 USD, các tỉnh thành còn lại có số vốn đầu tư không đáng kể. Các dự án của Italia hầu hết vốn thực hiện chưa có hoặc với số vốn không nhiều so với vốn cam kết đầu tư, thêm vào đó hầu hết các dự án này thiếu sự hiệu quả (có tới 5 dự án doanh thu bằng 0) và lao động của các dự án này đều rất thấp có 26 lao động trực tiếp. 8. Đầu tư trực tiếp của Bỉ: Bỉ là nước đứng thứ 30 trong số các nước đầu tư tại Việt Nam. Hiện có 12 dự án được cấp phép hoạt động, vốn đầu tư là 59 triệu USD. Trừ 1 dự án Chế tác Kim cương tại Hà Nội bị giải thể trước hạn do Bên nước ngoài (Công ty International Gem Manufactuers N.V) không triển khai, còn lại 11 dự án vốn 58 triệu USD. Sau đây là bảng tổng kết tình hình đầu tư trực tiếp của Bỉ tại Việt Nam tính từ ngày 01/01/1988 đến 31/12/1999 (nguồn Bộ KH & ĐT): Bảng 17: Đầu tư trực tiếp của Bỉ phân theo địa phương (Từ ngày 01/01/1988 đến ngày 31/12/1999) TT Chuyên ngành Số DA Tổng VĐT (ng.USD) Vốn TH (ng.USD) DT (ng.USD) LĐ (người) 1 CN nặng 7 28.610 5.123 29.487 974 2 CN thực phẩm 1 2.419 0 0 0 3 Nông lâm nghiệp 2 10.480 7.850 9.287 357 4 Khách sạn - Du lịch 1 16.913 15.089 1.015 113 Tổng số 11 58.422 28.051 39.789 1.444 Số dự án đã hết hạn: 0 dự án Vốn hết hạn: 0 USD Số dự án đã giải thể: 1 dự án Vốn giải thể: 1.050.000 USD Tổng số dự án đã cấp GP: 12 dự án Tổng vốn đầu tư: 59.471.775 USD Ghi chú: Không tính đến các dự án đầu tư ra nước ngoài Hình thức đầu tư của Bỉ là liên doanh và 100% vốn nước ngoài, hai hình thức này chiếm bằng nhau về số dự án. Các dự án của Bỉ phần lớn có qui mô đầu tư nhỏ. Các nhà đầu tư Bỉ đầu tư tập trung chủ yếu vào lĩnh vực gia công chế tác với 4 dự án - đây là điểm mạnh của họ. Các dự án có thể kể đến là dự án cấp nước cho Khu công nghiệp Đình Vũ vốn đầu tư 19 triệu USD, mới được cấp phép năm 1999, đang hoàn thành các thủ tục hành chính. Dự án xây dựng trung tâm giao dịch thương mại Hải Phòng, vốn đầu tư 16,9 triệu USD đã khai trương và đi vào hoạt động từ tháng 6 năm 1998. Dự án liên doanh chè Phú Bền vốn đầu tư 10 triệu USD đang triển khai hoạt động tốt, tạo nguồn thu ổn định cho hàng trăm hộ trồng chè tại Phú Thọ. Nhìn chung các dự án của Bỉ hoạt động cũng tương đối hiệu quả có doanh thu cũng đã vượt số vốn góp. 9. Đầu tư trực tiếp của Luxembourg: Luxembourglà một trong những nước có một diện tích nhỏ nhất của châu Âu, tuy nhiên đây là một đất nước có thể nói là có mức GNP/người luôn đứng trong số 3 nước cao nhất trên thế giới. So với các nước trong EU khác, mãi đến năm 1993 Luxembourg mới đầu tư vào Việt Nam với số vốn rất nhỏ là 2 triệu USD. Hiện nay Luxembourg là nước đứng thứ 37 trong số các nước đầu tư tại Việt Nam. Hiện có 11 dự án được cấp phép hoạt động, vốn đầu tư là 35 triệu USD. Trừ 1 dự án Nhà máy Dệt Hải Vân chuyển thành quốc doanh Việt Nam, còn lại 10 dự án với vốn xấp xỉ 30 triệu USD. Về hình thức đầu tư: Luxembourg tập trung vào hình thức liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Ngành công nghiệp xây dựng là lĩnh vực được các nhà đầu tư Luxembourg quan tâm nhất chiếm tới hơn 40% tổng số vốn đăng ký tại Việt Nam, điều này được nêu rõ trong bảng tóm tắt tình hình đầu tư trực tiếp của Luxembourg tại Việt Nam tính đến ngày 28/02/2000: Bảng 15: Đầu tư của Luxembourg vào Việt Nam phân theo ngành (Từ ngày 01/01/1988 đến ngày 01/03/2000) TT Chuyên ngành Số DA Tổng VĐT (ng.USD) Vốn TH (ng.USD) DT (ng.USD) LĐ (người) 1 CN nhẹ 2 2.600 0 0 0 2 CN Thực phẩm 2 6.800 9.299 12.455 246 3 Dịch vụ 2 850 300 224 9 4 XD VPCH 2 12.569 2.350 0 10 5 Xây dựng 2 5.166 525 28 7 Tổng số 10 27.985 12.474 12.707 272 Số dự án đã hết hạn: 0 dự án Vốn hết hạn: 0 USD Số dự án đã giải thể: 1 dự án Vốn giải thể: 7.576.000 USD Tổng số dự án đã cấp GP: 11 dự án Tổng vốn đầu tư: 35.561.324 USD Ghi chú: Không tính đến các dự án đầu tư ra nước ngoài Nhìn chung các dự án của Luxembourg có qui mô nhỏ, triển khai không có gì vướng mắc với mức hiệu quả trung bình khá. 10. Đầu tư trực tiếp của áo: áo là nước đứng thứ 43 trong các nước đầu tư tại Việt Nam và là nước có số dự án cũng như là vốn đầu tư ít nhất của EU đầu tư tại Việt Nam. áo hiện có 4 dự án đã được cấp phép hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư 5,3 triệu USD chiếm có 0,12 % tổng số vốn của EU tại Việt Nam. Nhìn chung các dự án này đang triển khai bình thường, và đạt mức hiệu quả trung bình. áo chưa có dự án nào bị rút giấy phép, 2 trong số 4 dự án này vừa được cấp giấy phép năm 1999. Cũng giống như Luxembourg mãi đến năm 1993 áo mới đầu tư vào Việt Nam. Các dự án đáng chú ý của áo là một dự án vào lĩnh vực khách sạn du lịch, và một dự án vào lĩnh vực nông - lâm nghiệp. Sau đây là bảng tóm tắt tình hình đầu tư của áo tính đến 28/02/2000: Bảng 16: Đầu tư của áo vào Việt Nam phân theo ngành (Từ ngày 01/01/1988 đến ngày 01/03/2000) TT Chuyên ngành Số DA Tổng VĐT (ng.USD) Vốn TH (ng.USD) DT (ng.USD) LĐ (người) 1 CN nặng 1 135 0 0 0 2 Nông lâm nghiệp 1 1.910 2.135 685 47 3 Khách sạn - Du lịch 1 2.800 160 0 5 4 Xây dựng 1 500 0 0 0 Tổng số 4 5.345 2.295 685 52 Số dự án đã hết hạn: 0 dự án Vốn hết hạn: 0 USD Số dự án đã giải thể: 0 dự án Vốn giải thể: 0 USD Tổng số dự án đã cấp GP: 4 dự án Tổng vốn đầu tư: 5.345.000 USD Ghi chú: Không tính đến các dự án đầu tư ra nước ngoài Hình thức đầu tư của áo cũng như các nước nửa sau của bảng xếp hạng các nhà đầu tư EU vào Việt Nam là hai hình thức liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Các dự án của áo đã tạo được cho 52 lao động trực tiếp. Chương III Triển vọng và Các giải pháp thu hút và QUản lý nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư của EU trong thời gian tới vào Việt Nam I. Những thuận lợi và khó khăn cho đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam 1. Những thuận lợi 1.1. Xu thế hoà bình, ổn định hợp tác trong khu vực: Việt Nam có một vị trí địa lý hết sức thuận lợi là nằm ngay trong lòng khu vực châu á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam châu á nói riêng. Hiện nay đây là khu vực năng động nhất thế giới về thương mại, vận chuyển hàng hoá, viễn thông, … Sau cuộc khủng hoảng hồi tháng 7 năm 1997, những tưởng khu vực này đã bị mất đi sự năng động đó, thì chỉ sau có hơn một năm thôi, từ mức tăng trưởng âm đã thành mức tăng trưởng dương ở một số nước như Thái Lan, Malaisia, và đặc biệt là Nhật Bản nước mạnh nhất về kinh tế trong khu vực này đã hồi phục được nền kinh tế. Các nhà kinh tế trên thế giới đã dự đoán rằng trong 50 năm nữa thì khu vực này vẫn là khu vực phát triển nhất trên thế giới về kinh tế với sự lớn mạnh của Trung Quốc và Nhật Bản. Việt Nam hiện nay đã gia nhập tổ chức ASEAN, tổ chức này có một mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc và Nhật Bản và mới đây là liên minh châu Âu (EU) bằng các cuộc gặp thượng đỉnh như ASEM hay giữa các nhà đầu tư lớn với ASEAN nói chung và các thành viên ASEAN nói riêng. Đây là một điều kiện hết sức thuận lợi để Việt Nam có một vị thế, một chỗ đứng ngày càng được củng cố trên trường quốc tế về mặt kinh tế, chúng ta luôn muốn hợp tác với tất cả các nước trong vấn đề làm ăn miễn không là không ảnh hưởng đến chủ quyền lãnh thổ và đôi bên cùng có lợi: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”. Chính vì tiêu chí này hiện nay đã dần có nhiều những nhà đầu tư quốc tế bắt đầu chú ý tới nước ta, họ đã bắt đầu có những cuộc đầu tư thử nghiệm, cả các tổ chức quốc tế cũng dành cho Việt Nam những sự giúp đỡ có ý nghĩa như việc xoá nợ, viện trợ không hoàn lại hoặc hoàn lại với lãi suất thấp để ta có thể cải tạo lại cơ sở hạ tầng, hệ thống y tế và giáo dục, … Đây chính là thời cơ thuận lợi mà chúng ta cần phải nắm bắt lấy để có thể phát triển được nền kinh tế - xã hội của đất nước, đuổi kịp các nước trên thế giới và đưa Việt Nam thành nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào năm 2020. 1.2. Tình hình ổn định về chính trị, kinh tế cũng như xã hội ở trong nước Sau khi “mở cửa” cho các nhà đầu tư nước ngoài vào, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển biến rõ rệt, từ một nước phải thiếu ăn thì cho đến nay chúng ta là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Đó quả là một thành tựu to lớn về mặt kinh tế. Tăng trưởng hàng năm là rất ổn định và tương đối cao từ 8 - 9% trong suốt 5 năm 1992 - 1997, riêng năm khủng hoảng (1997) trong khi các nước thuộc khối ASEAN có mức tăng trưởng âm thì chúng ta vẫn đạt mức t ăng trưởng dương 6%, đó cũng là một kỳ tích về mặt kinh tế. Sau khi đổi mới đã có rất nhiều ngành nghề mới được ra đời, giúp cho việc chuyển đổi cơ cấu một cách hợp lý, đào tạo cán bộ ngày càng lành nghề. Các tài nguyên thiên nhiên được khai thác hợp lý hơn, mang lại nhiều nguồn lợi cho đất nước. Chúng ta đã tận dụng được những lợi thế về mặt vị trí về địa lý trong việc phát triển các đường vận chuyển hàng hoá quốc tế. Đây là những ưu thế mà trước đây ta chưa phát huy được. Thêm vào đó, là sự lãnh đạo của Đảng ngày càng hợp lòng dân. Trong khi các nước thuộc khối ASEAN có rất nhiều sự mất ổn định về chính trị như Thái Lan, Indonesia, Malasia, Philippines,… thì nước ta ngược lại Đảng ta ngày càng hoàn thiện về bộ máy, được lòng tin trong dân. Đảng và Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. 1.3. Quan hệ hợp tác lâu năm giữa các nước EU và Việt Nam: Đối với khối ASEAN, EU có rất nhiều dấu ấn để lại đó, trong khi Đông Dương trước đây là thuộc địa của Pháp, Thái Lan và Singapore là thuộc địa của Anh, Indonesia và Malaisia, Philippines là thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha,… do vậy đối với khu vực này EU có mối quan tâm nhất định, bởi vì trong khi châu Phi ngày càng mất ổn định về chính trị, chiến tranh xảy ra liên miên; châu Mỹ Latinh có sự cản trở của Mỹ thì chỉ còn châu á, mà khu vực Biển Đông là nơi có sự phát triển mạnh mẽ nhất và rất nhiều tiềm năng chưa khai thác. Đồng thời nó là bàn đạp có thể nhảy vào hai thị trường lớn đông dân là Trung Quốc và ấn Độ, chính điều này càng tăng sức hấp dẫn của thị trường khu vực ASEAN đối với EU. Việt Nam là một nước có quan hệ hợp tác với một số nước EU rất thân thiết, trong chiến tranh chống Mỹ rất nhiều các nước hiện nay là thành viên của EU đã lên tiếng ủng hộ Việt Nam, công nhận độc lập chủ quyền của Việt Nam và đã thành lập mối quan hệ hữu nghị trước năm 1975, trong đó có Pháp, Anh, và Thụy Điển, Đan Mạch, Đức,… Họ rất ngưỡng mộ Việt Nam trong trận chiến này và có một tình cảm đặc biệt đối với ta. Đã có nhiều nước như Pháp, Anh, Đức đã xoá nợ dần dần cho Việt Nam, đồng thời có một số nước như Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển hỗ trợ ta trong việc xoá đói giảm nghèo, công tác giáo dục và xây dựng lại cơ sở hạ tầng sau chiến tranh. Gần đây Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã đi thăm các nước Bắc Âu để thúc đẩy quan hệ hợp tác với bạn, tiếp đó là sự cho phép các mặt hàng thuỷ hải sản của ta được xuất khẩu vào châu Âu của EU. Đó là những tình cảm mà ta cần phải giữ gìn và ngày càng phát huy, tăng cường quan hệ hợp tác để thắt chặt tình hữu nghị này. 2. Những khó khăn 1.1. Về phía chủ quan Mặc dù đã có nhiều tiến bộ vượt bậc trong thời gian qua, nhưng có rất nhiều việc đòi hỏi phải có thời gian để có thể đạt được kết quả mong muốn. Mặc dù đã có rất nhiều lần sửa đổi Luật ĐTNN và ban hành nhiều chính sách khuyến khích nhưng chúng ta vẫn bị các nhà đầu tư phàn nàn về sự yếu kém của môi trường pháp lý, sự chồng chéo và thiếu đồng bộ của các cấp là một căn bệnh kinh niên của nước ta. Thêm vào đó là sự chưa đáp ứng kịp về hệ thống cơ sở hạ tầng, như đường xá, điện, nước, và hệ thống ngân hàng, tài chính,… Tiếp đó là có một khoảng cách quá lớn về công nghệ cũng như phương pháp quản lý giữa Việt Nam và EU, đã vậy là sự thiếu hụt về các cán bộ giỏi hoặc công nhân kỹ thuật cao, do vậy việc tiếp nhận công nghệ cao là rất khó khăn, các nhà ĐTNN thường phải bỏ tiền ra để đào tạo lại cho các lao động Việt Nam. Một yếu tố nữa là việc Việt Nam tham gia vào AFTA, tuy sẽ góp phần tăng đầu tư của các nước trong khu vực, nhưng sẽ làm giảm các hoạt động đầu tư của các tập đoàn lớn trong đó có các tập đoàn của EU do Việt Nam phải cắt giảm thuế quan như vậy họ sẽ bị giảm quyền lực hiện có, và chắc chắn sẽ làm giảm đầu tư. 1.2. Về phía khách quan Đó là tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng, từ giữa năm 1997 cho đến nay lượng vốn đầu tư nước ngoài liên tục giảm, trong đó có các nguồn vốn của EU; một ảnh hưởng nữa của nó là sự mất giá của đồng tiền các nước trong khu vực nên giá công nhân, tiền phí sinh hoạt Việt Nam lại đắt lên tương đối so với các nước khác trong khu vực; và cuối cùng là tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã giảm đi, sản xuất bị đình trệ ở một số lĩnh vực quan trọng làm tăng số người thất nghiệp và làm ứ đọng một số lượng lớn sản phẩm dở dang không đưa được vào sản xuất. II. Chủ trương và các giải pháp nhằm tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả FDI của EU vào Việt Nam 1. Chủ trương: Trong những năm tới, nhu cầu vốn đầu tư phát triển nhằm thực hiện những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đặt ra là rất lớn. Theo ước tính sơ bộ, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 2001 -2005 lên tới 65 - 70 tỷ USD, trong đó nguồn vốn nước ngoài cần tới 22 - 25 tỷ USD (đầu tư của EU khoảng 5 - 7 tỷ USD), chiếm 30 -35 % tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong khi đó, nguồn vốn ODA có chiều hướng giảm cả về qui mô vào mức độ ưu đãi; nguồn vốn vay thương mại để tự đầu tư không nhiều, phải chịu lãi suất cao, điều kiện cho vay khắt khe, chịu rủi ro của biến động tỷ giá …Do vậy, cùng với việc phấn đấu động viên ở mức cao nhất nguồn vốn trong nước, phát huy tối đa nội lực, ngay từ bây giờ phải xây dựng và thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ, nhằm thu hút và quản lý sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) với yêu cầu phải gắn đầu tư trực tiếp nước ngoài với kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 và mục tiêu chiến lược đến 2010; gắn với qui hoạch, chuyển đổi cơ cấu kinh tế; phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, không chạy theo số lượng; thu hút và sử dụng vốn ĐTNN phải bảo đảm giữ vững độc lập tự chủ, an ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Giải pháp về thu hút vốn FDI 2.1. Thay đổi về quan điểm nhận thức: Trước hết và quan trọng nhất vẫn là vấn đề phải có nhận thức. Cần phải có nhận thức đúng và nhất quán đối với FDI, phải xem FDI là một bộ phận chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta, sẽ sai lầm nếu cho rằng, thu hút nguồn vốn FDI chỉ là cần thiết trong giai đoạn hiện nay, khi Nhà nước ta còn thiếu vốn, sau này sẽ không cần thiết nữa. Đồng thời coi các doanh nghiệp có vốn ĐTNN là một bộ phận của kinh tế quốc dân, nó là một bộ phận của cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam … như đã được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Nhận thức đúng vấn đề này có tác dụng đặc biệt quan trọng trong việc định hướng chiến lược đối với các chính sách kinh tế xã hội nhằm thu hút nguồn vốn FDI. Cho nên khi nhận thức cần tính đến những vấn đề sau: Một là, cần có sự chia xẻ những thành đạt cũng như khó khăn của các nhà ĐTNN. Nhà nước cần có những giải pháp cấp bách, tập trung cao độ hỗ trợ cho các dự án đang hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, có những cơ chế tài chính thích hợp nhằm tạo ra những ưu đãi cạnh tranh đối với khu vực để các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả hơn. Hai là, cần phải đổi mới tư duy kinh tế đồng bộ với tư duy chính trị, tư duy an ninh quốc phòng để xử lý đúng đắn mối quan hệ của cặp phạm trù kinh tế chính trị, kinh tế - an ninh quốc phòng; kinh tế xã hội. Để giải quyết đúng đắn các cặp quan hệ này cần dựa trên cơ sở tư duy mới về thế giới sau chiến tranh lạnh, về một thế giới đa cực, đang chạy đua vào thế kỷ mới bằng sức mạnh về kinh tế và khoa học công nghệ hiện đại. Ba là, cần phải nhất quán quan điểm để cho cả người nước ngoài cùng làm (tức là đẩy mạnh thu hút FDI) hay ta tự làm là chính trên cơ sở nguồn vốn của ta và vốn vay nước ngoài (chủ yếu là từ ODA). Vấn đề này hiện đang nổi lên như một vấn đề thời sự đối với các nhà hoạch định chính sách đầu tư. Có lẽ vào thời điểm hiện nay, sau hơn 10 năm thực hiện đường lối “đổi mới và mở cửa” của Đảng và kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á,, chúng ta có đủ điều kiện để bàn bạc và đi đến kết luận về việc ta tự làm mà phần lớn bằng vốn vay ODA của nước ngoài, hay cho người nước ngoài cùng làm (thu hút FDI) mặt nào là có lợi? Chúng ta làm chủ đất nước, nên có cả hai quyền mà người nước ngoài không có: đó là quyền muốn làm cái gì, làm ở đâu, với qui mô nào cũng được và quyền cho phép người nước ngoài làm trong lĩnh vực nào, theo phương thức nào đối với các dự án đầu tư của họ. Thử tính xem với cả hai quyền đó, trong hơn 10 năm qua ta làm được bao nhiêu dự án có giá trị về công nghiệp, về khách sạn và du lịch? … Chúng ta không nên tranh luận một cách trừu tượng tượng, lý thuyết chung chung, mà phải thật sự xuất phát từ thực tế đã diễn ra ở nước ta trong một thời gian có lẽ đã đủ dài để đưa ra kết luận cần thiết, vì đây là vấn đề rất quan trọng trong chiến lược phát triển sắp tới. Bốn là, gắn liền với vấn đề trên là việc xử lý mối quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài, vốn ODA với vốn FDI. Trong 5 năm 1991 - 1995, nước ta đã sử dụng 15,6 tỷ USD vốn đầu tư, trung bình mỗi năm hơn 3 tỷ USD, mặc dù đó là số vốn quá ít nếu so với các nước trong khu vực, nhưng cũng đã tạo ra được tốc độ phát triển cao, bởi vì xuất phát để tính chỉ số tăng trưởng hàng năm còn rất thấp. Nhu cầu về vốn đầu tư của thời kỳ 1996 - 2000 là 40 -42 tỷ USD, gấp 2,7 lần năm trước đó, dù rằng sự lựa chọn vẫn là “liệu cơm gắp mắm”. Vốn trong nước cần huy động là 21 - 22 tỷ USD, trong đó chỉ có vốn ngân sách mỗi năm khoảng 1 tỷ USD là chắc chắn, mà nguồn vốn này xem ra cũng khó tăng nhanh được, bởi vì nguồn thu ngân sách tăng thêm từ cần phải thoả mãn bao nhiêu yêu cầu cấp bách về tăng chi thường xuyên để duy trì bộ máy nhà nước, chi phí cho giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội. Hai nguồn vốn đầu tư lớn nhất và ngày càng quan trọng hơn, là vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và vốn nhàn rỗi của dân cư thì vẫn còn là những đại lượng khó xác định. Các doanh nghiệp trước đây cũng trông vào vốn vay nước ngoài, hiện đang ở vào giai đoạn suy thoái, thua lỗ, ít có tích luỹ; còn các ngân hàng trong nước thì sau những cú va đập mạnh vừa qua, đang cần có thời gian củng cố thì mới mở rộng hoạt động tín dụng đầu tư được. Vốn trong dân là bao nhiêu, huy động được bao nhiêu thành vốn đầu tư?. ở một nước mà việc thu chi bằng tiền mặt còn thống trị, vàng và đô la còn là phưong tiện cất trữ có lợi hơn, tâm lý dân cư còn chưa thật tin vào hệ thống tài chính, ngân hàng … thì việc tính chính xác vốn đầu tư có thể huy động được từ nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư là điều cực kỳ khó khăn. Như vậy trong 3 nguồn vốn đầu tư trong nước, thì có hai nguồn rất khó xác định, nên khả năng không thực hiện được kế hoạch như dự kiến là trường hợp có thể xảy ra, lúc đó làm gì để bù vào chỗ thiếu hụt ấy nếu muốn đảm bảo được tốc độ tăng trưởng dự kiến?. Đối với vốn ngoài nước, thì ODA cũng có giới hạn và tuỳ thuộc vào tốc độ giải ngân, còn ĐTNN thì còn nhiều dư địa, nhưng thu hút được nhiều hay ít là do môi trường đầu tư có cải thiện hay không. Trong tình hình nguồn vốn trong nước còn hạn chế như hiện nay thì có nên chủ động thêm vốn ĐTNN, hay chỉ nên giữ nguyên tỷ lệ đã định?. Nếu chúng ta coi nhiệm vụ có tính chiến lược của vài chục sắp năm tới là tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định, thì lời giải của bài toán là phải tranh thủ mọi nguồn vốn có thể huy động được để đảm bảo mục tiêu đó, mà không nên tự định ra một giới hạn trên cho việc huy động các nguồn vốn đầu tư. Ngoài 4 vấn đề nêu trên thuộc về nhận thức ở tầm vĩ mô, cũng cần lưu ý về nhận thức và quan điểm đối với những vấn đề cụ thể, như việc chuyển giao công nghệ, nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng trong hoạt động ĐTNN, như tranh chấp giữa chủ và thợ trong doanh nghiệp, như tình trạng được gọi là “chảy máu chất xám” do việc chuyển dịch lao động và cán bộ kỹ thuật từ khu vực Nhà nước sang các doanh nghiệp có vốn ĐTNN … 2.2. Nâng cao chất lượng qui hoạch thu hút ĐTNN Qui hoạch ĐTNN phải là bộ phận hữu cơ trong qui hoạch tổng thể các nguồn lực chung của cả nước, gồm vốn và các nguồn lực trong nước, vốn ODA, vốn ĐTNN trên cơ sở phát huy cao độ nội lực; các gì tự đầu tư được thì nhất thiết phải để doanh nghiệp trong nước đầu tư; phải gắn chặt với qui hoạch ngành, lãnh thổ, từng sản phẩm chủ yếu và đặt trong chiến lược phát huy cao độ nội lực, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, gắn với tiến trình hội nhập nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Qui hoạch ĐTNN phải kết hợp ngay từ đầu với an ninh, quốc phòng; các dự án lớn khi thẩm định và quyết định đầu tư phải gắn với an ninh, quốc phòng. Khuyến khích mạnh mẽ ĐTNN vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, năng lượng, những ngành ta có thế mạnh về nguyên liệu và lao động. Cần có chính sách, cơ chế, biện pháp để tạo bước chuyển căn bản hướng mạnh hơn nữa ĐTNN vào xuất khẩu, góp phần tích cực làm biến đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội. Trên cơ sở đó, hình thành danh mục các dự án gọi vốn ĐTNN cho thời kỳ 2001 -2005, trong đó xác định rõ sản phẩm, công suất, tiến độ, trình độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, địa bàn thực hiện dự án, các chính sách khuyến khích, ưu đãi. 2.3. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thích ứng với điều kiện cạnh tranh mới: Có một điều đáng lo ngại ở đây không phải là nguồn vốn đầu tư cạn kiệt mà chúng ta cần phải thấy môi trường đầu tư đang trở nên xấu đi, thiếu sức hấp dẫn và thiếu khả năng cạnh tranh. Bên cạnh ta những thị trường rộng lớn, hấp dẫn như Trung Quốc, ấn Độ, Myanma, Indonesia, Thái Lan, … mà muốn giành được thắng lợi với họ trong cuộc cạnh tranh quyết liệt này thì phải tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn hơn họ. Cuộc cạnh tranh mà diễn ra liên tục, mà nước nào cũng cần tìm ra những ưu đãi hấp dẫn hơn nước khác để chiếm ưu thế cạnh tranh. Do vậy, chúng ta phải nhanh chóng xây dựng một hệ thống chính sách để cải thiện môi trường kinh doanh, đồng thời với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật. * Đối với việc xây dựng một hệ thống chính sách để cải thiện môi trường kinh doanh, ta tiến hành theo các bước sau đây: a> Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm đầu tư: Quyết định 53/1999/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ là bước đi đầu tiên trong việc thực hiện lộ trình tiến tới tạo dựng một mặt bằng thống nhất giá hàng hoá, dịch vụ đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn ĐTNN theo tinh thần Nghị quyết TW lần thứ IV. Trong năm 200 cần tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hoá, dịch vụ để đến năm 2001 về cơ bản áp dụng một mặt bằng thống nhất một số giá, phí cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Một số giá, phí có thể thực hiện theo một lộ trình dài hơn, căn cứ tình hình kinh tế chung, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp có liên quan. b> Sửa đổi một số chính sách để tạo thuận lợi hơn cho việc thu hút ĐTNN: Chúng ta nên có các chính sách ưu tiên trong lĩnh vực đất đai với việc thế chấp quyền sử dụng đất, công tác đền bù cùng với việc chấm dứt cơ chế góp vốn bằng đất mà chuyển sang chế độ Nhà nước cho thuê đất,…; lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngoại hối với việc giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp ĐTNN được tiếp cận thị trường vốn và kèm với nó là các khoản vay tín dụng,…; bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao hơn đối với những lĩnh vực, địa bàn và dự án ta cần thu hút vốn ĐTNN. c> Bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với những lĩnh vực, địa bàn và dự án ta cần thu hút ĐTNN: Để thu hút được ĐTNN vào các lĩnh vực, địa bàn và các dự án ưu tiên và khuyến khích đầu tư, cần tạo dựng và công bố một hệ thống ưu đãi có sức cạnh tranh cao. Chúng ta nên thực hiện chính sách thuế nhập khẩu thực sự khuyến khích các doanh nghiệp có công nghệ cao sản xuất cơ khí, điện tử, thiết bị viễn thông, … cùng với việc bổ sung các ưu đãi cao hơn đối với các dự án chế biến nông - lâm - thuỷ sản, và các dự án tại vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Đối với một số hạn chế của những dự án đặc biệt quan trọng, cần xử lý đặc cách và có chính sách hỗ trợ hợp lý trong khuôn khổ cam kết theo lộ trình hội nhập. Thêm vào đó cần sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích doanh nghiệp hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu. d> Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư: Cần mở rộng hơn nữa các danh mục dự án cho phép nhà ĐTNN được lựa chọn các hình thức đầu tư xuất phát từ hiệu quả sản xuất kinh doanh nếu các dự án không ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, bản sắc dân tộc,…Trên cơ sở tiêu chí đó cho phép trong một số trường hợp được chuyển đổi hình thức đầu tư từ doanh nghiệp liên doanh sang 100% vốn nước ngoài hoặc ngược lại, đồng thời đa dạng hơn nữa hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới. e> Khu công nghiệp, khu chế xuất: Nhiệm vụ trọng tâm là thu hút đầu tư để lấp đầy các khu công nghiệp đã được thành lập. Ngoài các khu công nghiệp nhỏ, các cụm công nghiệp để giãn các nhà máy tại các thành phố lớn, cần xem xét chặt chẽ việc thành lập các khu công nghiệp mới. Trước mắt cần rà soát các khu công nghiệp đã có quyết định thành lập để dừng hoặc giãn tiến độ xây dựng những khu công nghiệp không đủ yếu tố khả thi, thành lập khu công nghiệp mới khi hội đủ điều kiện. Để tạo thuận lợi thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, cần thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp khu công nghiệp; bảo đảm các công trình hạ tầng kỹ thuật; ưu đãi mức cao nhất các dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với khu công nghiệp. * Đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật: Phải tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư Nước ngoài để nó được ngày càng hoàn thiện, phát huy được tính khả thi của nó. Chúng ta phải bảo đảm một khung khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng rõ ràng, ổn định, một hệ thống ưu đãi và khuyến khích mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực, đồng thời phù hợp với các văn bản luật khác của Việt Nam như Luật doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước,…nhằm tạo mặt bằng ưu đãi bình đẳng giữa các dự án đầu tư trong nước và ĐTNN. Bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với ĐTNN, thực hiện nguyên tắc không hồi tố để giữ vững lòng tin của cộng đồng nhà ĐTNN. Chủ động xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến việc thực hiện các cam kết của nước ta trong lộ trình hội nhập quốc tế. Tiến hành sửa đổi một số điều khoản trong các văn bản pháp luật có liên quan đến ĐTNN nhằm tháo gỡ khó khăn trong hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN (các vấn đề như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập và thế chấp tài sản). Để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các nước đang phát triển cần tạo ra lợi thế so sánh bằng một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn các nước khác. Đây phải là công việc thường xuyên của hoạt động quản lý nhà nước, chứ không phỉa chỉ là một vài sửa đổi nhất thời. 2.4. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư: Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần được đổi mới về nội dung và phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có hiệu quả. Trước hết, cần xác định xúc tiến đầu tư, cũng như xúc tiến thương mại, là nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, của các Bộ, ngành, các tỉnh, Ban quản lý các khu công nghiệp. Cần thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài để chủ động vận động thu hút ĐTNN. Ngân sách Nhà nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư. Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác ĐTNN để tạo thế chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các nhà đầu tư truyền thống ở châu á, khối ASEAN vào các dự án họ có kinh nghiệm và thế mạnh như chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu … cần chuyển hướng sang các đối tác như EU và Bắc Mỹ nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại. Trên cơ sở qui hoạch ngành, sản phẩm, lãnh thổ và danh mục dự án kêu gọi đầu tư được phê duyệt; các ngành, các địa phương cần chủ động tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với từng dự án, trực tiếp với từng tập đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các nước, các tập đoàn đa quốc gia, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách vận động, thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút ĐTNN của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. Cần tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư hiện đang có dự án hoạt động, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới. 2.5. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng công trình cơ sở hạ tầng: Đây là một công việc đòi hỏi nhiều thời gian, sức lực cũng như tiền của và đây là một công việc cấp bách trước mắt cần phải làm ngay. Chính vì sự yếu kém của cơ sở hạ tầng mà đã gây ra sự trở ngại đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nên hầu hết các dự án của họ mới chỉ ở những nơi nào có điều kiện cơ sở hạ tầng tương đối tốt, còn những nơi nào chưa có được điều này mặc dù có tiềm năng họ đầu tư rất ít. Nhà nước ta đã đầu tư rất nhiều vào việc đầu tư để có thể đáp ứng yêu cầu này, mỗi năm chúng ta tốn hàng trăm triệu USD để mở đường, và cũng ngần ấy tiền để xây dựng các công trình hạ tầng khác như điện, nước, và mạng thông tin liên lạc. Chúng ta nên chọn một số dự án cần đòi hỏi có công nghệ và kỹ thuật cao là các dự án theo kiểu phương thức BOT để đạt được những tính năng cần thiết. Trong tương lai không xa khi chúng ta đã làm được điều này thì sẽ là một yếu tố cần thiết để thu hút FDI. 2.6. Tăng cường xúc tiến thương mại với từng nước EU: Nếu khả năng thương mại được tăng cường với cả khối cũng như từng nước EU thì chắc chắn đầu tư trực tiếp của từng nước sẽ tăng lên. Chúng ta phải gắn thương mại với đầu tư, coi hai yếu tố này luôn luôn bổ sung và hỗ trợ cho nhau, dùng yếu tố thương mại làm nhân tố gián tiếp để thu hút thêm đầu tư từ phía bạn. Đặc biệt Việt Nam có một số các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường EU như thuỷ, hải sản và các mặt hàng dệt may, nếu chúng ta ký kết được các hiệp định thương mại với thị trường của EU, thì đồng thời ta cũng sẽ khuyến khích các nhà đầu tư của EU đầu tư vào trong lĩnh vực này sau đó các mặt hàng này lại xuất khẩu sang EU nhưng sẽ dễ dàng hơn vì nó đạt được những tiêu chuẩn chất lượng do EU đề ra. Do vậy việc xúc tiến thương mại đa biên và song biên giữa các thành viên EU là một yếu tố quan trọng để thu hút FDI của họ. 3. Giải pháp quản lý sử dụng: 3.1. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với FDI: Sau khi tạo dựng được môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thông thoáng, hấp dẫn, vấn đề then chốt có tính quyết định là việc chỉ đạo điều hành tập trung, thống nhất và kiên quyết của Chính phủ, việc nghiêm túc thực hiện của các Bộ, ngành và địa phương. Xây dựng qui chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ tổng hợp, các Bộ quản lý ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc quản lý hoạt động ĐTNN theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng Cơ quan quản lý Nhà nước, tránh sự chồng chéo và sự ra đời của các văn bản quản lý sai lệch nhau vi phạm luật. Bộ Kế hoạch và Đầu tư bảo đảm thực hiện đúng và đầy đủ vai trò là cơ quan quản lý Nhà nước về ĐTNN, giúp Chính phủ quản lý thống nhất hoạt động những vấn đề phát sinh trong hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN. Các Bộ, ngành và địa phương thực hiện quản lý Nhà nước về ĐTNN theo đúng chức năng, thẩm quyền đã qui định theo Luật Đầu tư nước ngoài, các Nghị định của Chính phủ. Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố phải chịu trách nhiệm về quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn, tập trung giải quyết các vấn đề phát sinh, giúp đỡ các doanh nghiệp giải quyết các khó khăn và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật; giám sát, kiểm tra các cán bộ thừa hành thực hiện nghiêm túc các qui định của luật pháp, chính sách, chủ trương của Nhà nước, kịp thời xử lý các cán bộ có hành vi tham nhũng, sách nhiễu, tiêu cực. Cần qui định cụ thể chế độ kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, hết sức tránh hình sự hoá kinh tế của doanh nghiệp; đồng thời vẫn bảo đảm giám sát được các doanh nghiệp và áp dụng chế tài đối với sự vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp. Cần triệt để và kiên quyết hơn trong việc qui định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các qui trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính trong lĩnh vực ĐTNN; duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư. Có như vậy thì Bộ máy quản lý Nhà nước về lĩnh vực ĐTNN mới trở nên bớt cồng kềnh và hoạt động có hiệu quả. 3.2. Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo công nhân kỹ thuật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Công đoàn và các tổ chức đoàn thể trong các Doanh nghiệp có vốn ĐTNN: Trong hoạt động ĐTNN, công tác cán bộ đặc biệt quan trọng vì cán bộ vừa tham gia hoạch định chính sách, vừa là người vận dụng luật pháp, chính sách để xử lý tác nghiệp hàng ngày liên quan đến mọi hoạt động ĐTNN. Cán bộ quản lý Việt Nam trong các liên doanh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước Việt Nam, của doanh nghiệp Việt Nam, của người lao động; đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật. Do đó, phải đặc biệt chú trọng đến công tác đào tạo nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức Nhà nước các cấp, đội ngũ cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp ĐTNN; trước mắt tập trung vấn đề sau: - Xây dựng Qui chế cán bộ Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh, trong đó cần qui định rõ tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ trong và sau thời gian làm việc tại các doanh nghiệp ĐTNN; chế độ báo cáo, kiểm tra. Hiện nay, Ban Tổ chức TW đang phối hợp với các Bộ liên quan nghiên cứu chuyên đề quan trọng này để trình Bộ Chính trị. - Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đào tạo chính qui cán bộ làm công tác ĐTNN, cán bộ quản lý các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành trong năm 2000 việc tập huấn số cán bộ Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các doanh nghiệp liên doanh, trang bị kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp, kinh nghiệm cần thiết nhất. - Bộ Lao động - Thươngbinh và Xã hội, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Ban quản lý Khu công nghiệp tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp ĐTNN. - Ban Tổ chức TW Đảng qui định và hướng dẫn phương thức sinh hoạt và nội dung hoạt động của các tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, phù hợp với đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này. - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có kế hoạch vận động thành lập Công đoàn ở tất cả các doanh nghiệp ĐTNN và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp này; Chính phủ xem xét hỗ trợ một phần kinh phí cho các tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp. Xây dựng tổ chức công đoàn thật sự trở thành người bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động; giáo dục kỷ luật lao động, tác phong lao động công nghiệp cho công nhân, quan hệ hợp tác xây dựng với chủ đầu tư, đóng góp vào hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. 3.3. Kinh nghiệm của nước ngoài: Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế châu á cũng cho thấy hầu hết các doanh nghiệp sụp đổ do quản lý yếu kém các nguồn đầu tư. Đầu tư có hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cho nên các nhà quản lý doanh nghiệp luôn tìm cách giảm chi phí vào các dự án lớn, hoặc giảm đầu tư qui mô lớn để tăng hiệu quả đầu tư. Thực tế các nước châu á cho thấy, biện pháp chủ yếu các nhà quản lý áp dụng để giảm chi phí vào các dự án lớn là thương lượng giá thấp với các nhà cung cấp. Một cách khác là cắt giảm chi phí một phần của dự án, nhưng trì hoãn hay huỷ bỏ một bộ phận của dự án nhằm giảm chi phí đầu tư, mà không tính toán kỹ, thì vác vấn đề nảy sinh liên quan công suất, chức năng của thiết bị hay chất lượng sản phẩm, là điều không tránh khỏi. Nhiều doanh nghiệp nâng cao tối đa hiệu quả đầu tư (tức là mối quan hệ giữa năng suất với chi phí đầu tư) là lời giải cho bài toán này và tiến hành song song việc cắt giảm chi phí đầu tư và tăng năng suất lao động. Các chuyên gia thuộc công ty tư vấn McKinsey & Co (Thái Lan) đã tìm ra 5 yếu tố quyết định hiệu quả quản lý đầu tư. Công trình nghiên cứu “Nghệ thuật mua và bán” của họ nêu cụ thể là phân tích các yếu tố đầu tư trước khi thông qua toàn bộ dự án. Theo các chuyên gia, trước khi thông qua dự án, cần phân tổng đầu tư làm nhiều phần và tiến hành đánh giá cụ thể, chi tiết từng phần. Quyết định thực hiện đầu tư lớn phải được tiến hành trên cơ sở giá trị thực tế của toàn bộ dự án đó: Điều chỉnh kế hoạch để đạt lợi ích cao nhất là khâu quan trọng. Tăng tốc độ thực hiện dự án luôn là sự lựa chọn đúng nếu việc hoàn thành sớm dự án đem lại lợi ích thực sự, nhưng trong một vài trường hợp cần điều chỉnh tốc độ để xem xét kỹ lưỡng khả năng cắt giảm chi phí. Tặng thưởng các thành viên tham gia dự án có thành tích giảm chi phí đầu tư, dựa trên hiệu quả công việc thực tế là việc nên làm. Thực hiện tự do hoàn toàn trong thiết kế, nhằm khuyến khích các nhà thiết kế và nhân viên dự án tìm phương án, giải pháp thiết kế mới, phù hợp qui định và tiêu chuẩn kỹ thuật của dự án là điều không thể thiếu. Cuối cùng, việc chấp thuận một giải pháp thiết kế tối ưu, với chi phí đầu tư thấp nhất có ý nghĩa quyết định đối với tương lai dự án. Để đảm bảo những yếu tố có tính quyết định nói trên, các chuyên gia gợi ý một vài “bí quyết”. Một là, xác định “mục tiêu thông minh” cho doanh nghiệp, nghĩa là những chiến lược “khó khăn” nhưng “đáng tin cậy”, nhằm thúc đẩy con người loại bỏ lối tư duy cũ, phát huy sáng kiến tăng hiệu quả đầu tư, cũng như sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Hai là, thành lập “nhóm làm việc liên chức năng” ngay từ khi bắt đầu thực hiện dự án, gồm những người trong công ty, thuộc các lĩnh vực nghiên cứu, quản lý, kinh doanh, kỹ thuật, …và các chuyên gia ngoài công ty (các nhà cung cấp). Sự kết hợp những kinh nghiệm và kỹ năng khác nhau giúp nhóm có nhiều sáng kiến hơn. Ba là, thực hiện “minh bạch trong tính toán đầu tư”. ý kiến chung khẳng định thành công của dự án phụ thuộc rất nhiều khả năng đánh giá chính xác của những thành viên về các chi tiết kỹ thuật cũng như số liệu đầu tư, tính khả thi của dự án, hiệu quả kinh tế - xã hội, tác động môi trường, … Kết luận Tuy có ít dự án và số vốn đầu tư chưa thật cao khi so sánh với tiềm năng kinh tế của mình, nhưng đầu tư trực tiếp của Liên minh châu Âu EU đã có những đóng góp tương đối quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Các dự án của EU cũng có những dự án rất lớn và những dự án này đang tập trung trong những lĩnh vực rất rất quan trọng như lĩnh vực thông tin, hay lĩnh vực dầu khí hoặc ngân hàng - tài chính. Đó chính là những lĩnh vực nòng cốt của nền kinh tế nước ta khi nước ta tiến lên xây dựng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời nó cũng đã góp phần tạo công ăn việc làm cùng với việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế của ta theo hướng tiến bộ. Chính vì vậy, bên cạnh việc thắt chặt mối quan hệ hợp tác hữu nghị để thu hút nguồn vốn đầu tư ngày càng tăng hơn nữa, chúng ta cần phải quản lý và sử dụng nguồn vốn này thật sự có hiệu quả để đóng góp cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những nội dung chính của đề tài này. Tôi xin trân trọng cảm ơn TS Đỗ Đức Bình đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành chuyên đề thực tập này. Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn tới các chuyên viên khác thuộc Vụ Quản lý dự án đầu tư Nước Ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu Tư đã cung cấp những tài liệu cần thiết cho quá trình thực tập và những ý kiến hay tạo điều kiện cho việc hoàn thiện chuyên đề được thuận lợi hơn. Một lần nữa, tôi mong muốn có được sự góp ý và phê bình của các Thày cô cùng các bạn đọc cho đề tài của tôi được ngày càng hoàn chỉnh. Tôi xin cảm ơn. Tài liệu tham khảo 1. Europe from A to Z (tài liệu của Uỷ ban châu Âu - European Documentation). 2. EU - ASEAN Relations (Tài liệu của Uỷ ban châu Âu). 3. Foreign Direct Investment của WB. 4. Giáo trình Kinh tế Đầu tư của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 5. Học trình 9 về Đầu tư trực tiếp nước ngoài của WB. 6. International Investment: Towards 2002 của UN. 7. Tạp chí Kinh tế và Dự báo. 8. Tạp chí Nghiên cứu châu Âu. 9. Tạp chí Thương mại. 10. Tạp chí Công nghiệp. 11. World Economic Outlook (Tài liệu của IMF). 12. Europe in ten points by Pascal Fontaine (Tài liệu của Uỷ ban Châu Âu). 13. Enterprise reform and foreign investment in Viet Nam (Tài liệu của OECD). 14. The Importance of increased FDI for Việt Nam (phát biểu của Bà Phạm Chi Lan - Phó Chủ tịch VCCI tại Diễn đàn doanh nghiệp tư nhân ngày 7 tháng 4 năm 2000). Phụ lục Phụ lục 1: Thống kê cơ bản về EU và các nước thành viên; So sánh giữa EU với Mỹ và Nhật Số liệu năm 1998 Nguồn: Liên minh châu Âu Nước Diện tích Dân số Mật độ dân số GDP GDP trên vốn Bỉ 31 10,2 332 228,9 22.452 Đan Mạch 43 5,3 121 120,1 22.678 Đức 357 82,0 229 1.787,6 21.740 Hy Lạp 132 10,5 79 143,8 13.607 Tây Ban Nha 505 39,4 78 619,7 15.592 Pháp 544 58,8 107 1.218,9 20.694 Ai len 70 3,7 52 74,9 20.244 Italia 301 57,6 190 1.177,7 20.069 Luxembourg 3 0,4 158 13,9 32.678 Hà Lan 41 15,7 377 329,1 20.964 áo 84 8,0 95 180,4 22.261 Bồ Đào Nha 92 9,9 108 140,2 14.094 Phần Lan 337 5,2 15 102,1 19.813 Thụy Điển 450 8,8 22 173,3 19.528 Anh 244 59,0 242 1.163,1 19.669 EU - 15 3.234 374,5 117 7.471,1 19.834 Mỹ 9.373 268,9 29 7.747,5 28.812 Nhật Bản 378 126,3 334 2.901,0 23.017 Đơn vị: - Diện tích: 1.000km2 - Dân số : triệu người - Mật độ dân số: số người/km2 - GDP, GDP trên vốn: tính theo giá thị trường, đơn vị 1.000 triệu PPS (sức mua chuẩn - purchasing power standard). Ghi chú: 1PPS = BFR 41,99; DM 2,31; UKL 0,68; DRA 223,77; LIT 1.648,04; IRL 0,71; LFR 41,9; HFL 2,31; ESC 136,52; OS 15,67; SKR 10,76; FMK 6,95; USD 1,03; YEN 193,17. Phụ lục 3: Các nước đầu tư chủ yếu vào Việt Nam Đơn vị: 1.000.000 USD TT Tên nước Số DA Tổng VĐT Vốn PĐ VN góp NN góp 1 Singapore 247 5.766,1 1.818,3 521,1 1.333,9 2 Đài Loan 626 4.866,6 2.190,4 405,0 1.683,5 3 Nhật Bản 324 3.521,7 1.853,0 429,4 1.299,8 4 Hongkong 318 3.344,6 1.467,2 379,2 1.134,7 5 Hàn Quốc 291 3.132,4 1.233,7 285,1 904,9 6 Pháp 155 2.174,3 1.253,3 258,1 992,5 7 British Virgin Island 89 1.711,0 687,8 169,5 506,2 8 Liên bang Nga 61 1.519,2 942,7 460,3 480,6 9 Mỹ 115 1.330,2 625,8 122,9 500,4 10 Anh 38 1.128,2 766,1 116,9 648,7 11 Malaixia 85 1.095,4 462,8 75,9 387,2 12 Australia 96 1.020,1 576,2 122,0 453,8 13 Thái Lan 123 1.009,2 448,3 112,1 327,6 14 Các nước khác 472 5.306,0 3.018,9 7.407 2.333,3 Tổng số 3.040 36.925.0 17.344.5 4.198.2 12.987.1 Phụ lục 4: Đầu tư trực tiếp của EU theo vùng và lãnh thổ Đơn vị: triệu USD TT Địa phương Số DA % so với S Tổng VĐT % so với S Vốn TH % so với S 1 TP. HCM 85 35,71 1.828,9 42,47 476,5 26,06 2 Hà Nội 54 22,69 1.195,5 27,76 322,2 26,95 3 Đồng Nai 20 8,40 292,4 6,79 87,7 30,01 4 Bà Rịa - Vũng Tàu 4 1,68 228,5 5,31 23,1 10,11 5 Tây Ninh 1 0,42 111,0 2,58 63,4 57,11 6 Hải Phòng 6 2,52 74,9 1,74 41,1 54,95 7 Đà Nẵng 5 2,10 42,6 0,99 24,4 57,26 8 Bình Thuận 1 0,42 35,0 0,81 3,5 10,00 9 Vĩnh Phúc 1 0,42 30,0 0,70 0,0 0,00 10 Long An 3 1,26 28,1 0,65 11,9 42,38 11 Thừa Thiên Huế 3 1,26 27,2 0,63 28,0 103,20 12 Nghệ An 3 1,26 22,2 0,51 6,0 26,96 13 Quảng Nam 3 1,26 19,8 0,46 1,5 7,79 14 Các tỉnh còn lại 43 18,07 104,3 2,42 63,1 60,46 Tổng số 238 100 4.306,2 100 1.714,1 39,81 Dầu khí ngoài khơi 6 2,52 265,9 6,17 561,6 211,21 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0044.doc
Tài liệu liên quan