- Khẩn trương xây dựng “Chiến lược thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI”. Trong chiến lược, phải cụ thể hóa một cách đầy đủ, có hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương hướng phát triển FDI mà các Nghị quyết Đại hội IX, X ,XI đã đề ra. Chiến lược phải phản ánh quyết tâm thực hiện các chỉ tiêu đề ra tương xứng với yêu cầu, đòi hỏi của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và phát huy được lợi thế so sánh, tiềm năng của Việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chiến lược phải đề ra được mục tiêu tổng thể có tính lâu dài đến năm 2010 và xa hơn; đồng thời phải chỉ ra những mục tiêu cụ thể cho từng thời kỳ (bao gồm cả mục tiêu về chất lượng hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI). Chiến lược này còn chỉ ra các nguồn lực và lộ trình thực hiện cho từng giai đoạn cụ thể với hệ thống các giải pháp tích cực có tính khả thi cao; chú ý tới các cơ chế, chính sách thật sự hấp dẫn, có sức cạnh tranh cao, có tính ổn định, đồng thời có tính linh hoạt, mềm dẻo nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI.
Chiến lược thu hút và sử dụng FDI phải được coi là bộ phận cấu thành của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là cơ sở để xây dựng các quy hoạch tổng thể và kế hoạch thu hút FDI theo ngành, khu vực và theo từng KCN, KCX. Để xây dựng chiến lược có chất lượng, sát với tình hình thực tế, cần chú trọng công tác dự báo, cập nhật thông tin thị trường trong nước và quốc tế, tăng tính mở, tính linh hoạt trong các phương án để thích ứng được với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường và xu hướng vận động của các luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu.
96 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1962 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gian thử việc hoặc chỉ ký hợp đồng ngắn hạn đối với công nhân làm việc có tính chất thường xuyên, hoặc hợp đồng ghi nhận số lương thấp hơn số lương thực tế (để không hoặc giảm bớt trách đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động), Không giao kết hợp đồng lao động nhằm trốn tránh các nghĩa vụ tài chính với nhà nước…Chính vì vậy xuất hiện tình trạng tranh chấp lao động và đình công công nhân ngày càng gia tăng.
- Vấn đề ô nhiễm môi trường và nguy cơ bãi thải công nghệ
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp FDI thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta.
Tuy vậy,khả năng chuyển giao công nghệ hạn chế trong nhiều lĩnh vực. Một mặt do nhu cầu đầu tư từ các nước phát triển chưa nhiều như Mĩ, EU nên Việt nam chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với công nghệ nguồn mà chỉ là các công nghệ tương đối lạc hậu của thế giới, nhất là khi FDI đến từ các nước trong khu vực mới chỉ tiếp cận công nghệ thế hệ thứ hai từ các nước công nghiệp phát triển. Mặt khác việc độc quyền công nghệ và yêu cầu bảo hộ sở hữu trí tuệ khiến nhiều nhà sản xuất trong nước khó có khả năng tiếp cận với công nghệ cao,chưa kể sự khó khăn khi tiếp cận công nghệ của đội ngũ cán bộ của ta.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao mà chúng ta chưa biết đến. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. Một số trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà đầu tư nước ngoài có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam.
Hoạt động của khu vực FDI tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái.Theo cách gián tiếp thí dụ việc sản xuất ô tô xe máy gây ra ô nhiễm môi trường, ách tắc giao thông nghiêm trọng ở các thành phố lớn. Theo cách trực tiếp rác, nước thải , khói bụi, tiếng ồn và các yếu tố độc hại khác do hoạt động sản xuất của nhiều xí nghiệp FDI thải ra đe dọa môi trường của các vùng lân cận và chính sức khỏe của người lao động làm việc trong chính xí nghiệp đó. Chẳng hạn, tại khu công nghiệp Hòa khánh, Đà nẵng, các chỉ tiêu về môi trường như COD, BOD, SO2 của các doanh nghiệp sản xuất đều quá tiêu chuẩn cho phép. Lượng thải từ KCN này đã làm ô nhiễm nguồn nước của dân cư xung quanh và gây thiệt hại lớn cho ngành nuôi trồng thủy sản ở đây.
2.3. Nguyên nhân .
- Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Tuy nhận thức về chung về đầu tư nước ngoài đều thống nhất như các chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước coi đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác nhưng thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và nước ngoài, chưa thực sự coi đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép thành phần nước ngoài tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam. Trong những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn FDI nhưng khi điều kiện thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích FDI mà để trong nước tự làm; những biểu hiện này có tác động làm nản lòng nhà đầu tư nước ngoài.
- Hệ thống luật pháp, chính sách ưu đãi về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ. Các mức ưu đãi hiện nay áp dụng theo ngành nghề (khuyến khích và ít khuyến khích), mức độ sử dụng lao động và mức ứng dụng công nghệ tiên tiến đều cao hơn ở các KCN, KCX. Chính sách ưu đãi vấn chưa tính đến đầy đủ các đặc điểm kinh tế- xã hội và nhu cầu của từng địa phương .
- Môi trường đầu tư- kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt.
- Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, một số ngành, sản phẩm quan trọng chưa có qui hoạch hoặc qui hoạch đưa ra triển khai chậm dự báo thiếu chuẩn xác, thêm vào đó chủ trương luôn thay đổi, buộc địa phương phải chờ đợi xin ý kiến,mất thời gian, gây tâm lí bất ổn cho nhà đầu tư. Nhiều hạn chế trong qui hoạch ngành chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với qui định pháp luật và các cam kết quốc tế.
- Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao.
- Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Sự phối hợp trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình đầu tư nước ngoài vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư- kinh doanh.
Chương ba: Định hướng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3.1. Quan điểm & phương hướng của Đảng và Nhà nước về thu hút FDI.
3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước.
Khu vực kinh tế FDI có vai trò quan trọng và to lớn trong phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao động. Quan trọng hơn nó là một trong các lực lượng chủ yếu hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH. Vì vậy, khu vực kinh tế này phải được đối xử bình đẳng như các khu vực kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Ngày 29 tháng 12 năm 1987, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài. Vào thời điểm đó, Luật này được dư luận quốc tế đánh giá là một luật đầu tư thông thoáng nhất trong khu vực .
Điều 1 của Luật này qui định:
«Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoan nghênh và khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam, tuân thủ pháp luật của Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng có lợi. Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tạo những điều kiện thuận lợi và qui định các thủ tục dễ dàng cho tổ chức, cá nhân đó đầu tư vào Việt Nam » .
Luật Đầu tư năm 2005 thay thế và thống nhất Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2006 đã tiếp tục khẳng định quan điểm khuyến khích và đối xử bình đẳng đối với FDI; về thể chế, đã cải thiện cơ bản môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư, tạo một sân chơi bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế khi nước ta là thành viên WTO, tăng cường sự quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, trong đó có FDI
Hiến pháp hiện hành của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khẳng định “Nhà nước khuyến khích các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp, đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.”.(điều 25)
Đại hội X của Đảng khẳng định: “Các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh” và “Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được đối xử bình đẳng như những doanh nghiệp Việt nam” . Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn FDI.
Như vậy, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước ta là nhất quán trong việc đánh giá đúng và sử dụng có hiệu quả khu vực kinh tế này. Từ đó hình thành quan điểm cơ bản trong chỉ đạo thực tiễn, đồng thời tạo điều kiện và môi trường để nó phát triển. Trong đó, coi trọng việc đồng bộ hoá các giải pháp, tạo thuận lợi và bình đẳng tối đa, đồng thời đáp ứng tốt nhất các yêu cầu hội nhập đã cam kết, tạo những ưu đãi mọi mặt không thua kém mức cao nhất của các nước về môi trường đầu tư FDI.
Mục tiêu chiến lược.
3.1.2.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước với việc thu hút FDI .
Việt Nam đang đứng trước tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều chuyển biến, phức tạp, với những cơ hội và thách thức đan xen lẫn nhau, nhất là đối với những nước nghèo và chậm phát triển. Trong xu hướng toàn cầu hóa, tự do hóa đầu tư đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt tại khu vực các nước đang phát triển, việc cạnh tranh thu hút FDI để phát triển kinh tế- xã hội diễn ra rất gây gắt. Tình hình đó ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút FDI của Việt Nam .Hơn nữa, hiện nay ba phần tư vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới là đầu tư lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển, một phần tư còn lại chảy vào các nước đang phát triển, nhưng chủ yếu bị hút vào các nước công nghiệp mới ở Châu Á hoặc vào các thị trường lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Mêxicô. Chính những điều này tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ và cũng là thách thức to lớn đối với Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI.
Việt Nam được xếp vào một trong những nước an toàn về đầu tư, do tình hình chính trị ổn định và môi trường đầu tư đang được cải thiện tích cực. Theo báo cáo đầu tư của thế giới năm 2005 do Diễn đàn Thương mại và phát triển Liên hiệp quốc (UNCTAD) công bố Việt Nam được xếp vào danh sách những nước có chỉ số thực hiện đầu tư cao thứ 18 trong số 140 quốc gia được xếp hạng, tuy nhiên về tiềm năng thu hút đầu tư nước ngoài Việt Nam chỉ đứng thứ 68/140. Các nhà đầu tư đánh giá ngày càng thận trọng hơn, không đầu tư ồ ạt theo hướng “đón đầu” như những năm 90 mà thực hiện chính sách đầu tư phù hợp với tình hình kinh tế và sức mua thực tế của người dân.
Trước bối cảnh đó Nhà nước Việt Nam đã khẳng định “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, coi các doanh nghiệp nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế nước ta”. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ X cũng đã chỉ rõ: “Phát huy cao nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”. Theo tinh thần đó, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành và sửa đổi nhiều luật, nghị định, chính sách quan trọng phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế mà nước ta tham gia. Việc ký kết thực hiện hiệp định thương mại Việt-Mỹ, tham gia vào các diễn đàn, tổ chức quốc tế APEC,ASEM, ASEAN, AFTA, là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2006 đã tạo ra nhiều thuận lợi cho việc thu hút vốn FDI vào Việt Nam, dự báo trước cho một làn sóng đầu tư mới vào Việt nam.
3.1.2.2.Mục tiêu tổng quát kinh tế- xã hội.
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.Tiếp tục củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt nam trong khu vực và trên trường quốc tế
Tổng sản phẩm trong nước(GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn 2,1 lần so với năm 2000.tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2000-2010 đạt 7,5-8% phấn đấu đạt trên 8%.Qui mô GDP đến năm 2010 đạt khoảng 1690- 1760 nghìn tỉ đồng( theo giá hiện hành) tương đương với 94-98 tỉ $ và GDP bình quân đầu người khoảng 1050-1100 $
Giá trị tăng thêm của ngành nông lâm nghiệp và thủy sản đạt 3-3,2%
Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp và xây dựng tăng 9,5-10,2%
Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng 7,7-8,2%.
Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến :nông lâm nghiệp và thủy sản khoảng 15-16%; công nghiệp và xây dựng khoảng 43-44%; các ngành dịch vụ chiếm khoảng 40-41%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16% năm,đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 770-780 USD người, gấp đôi năm 2005.
Tổng đầu tư toàn xã hội trong 5 năm khoảng 2200 nghìn tỉ đồng(theo giá năm 2005)tương đương gần 140 tỉ USD chiếm 40%GDP trong đó vốn trong nước chiếm 65% và vốn nước ngoài chiếm 35%.
Tỉ lệ lao động qua đào tạo năm 2010 đạt 40% tổng lao động xã hội.Tỉ lệ thất nghiệp đô thị xuống dưới 5% năm 2010, giải quyết thêm việc làm bình quân mỗi năm trên 1,6 triệu lao động,trong đó 50% là lao động nữ.Giảm tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) xuống còn 10-11% vào năm 2010…
Mục tiêu cụ thể về FDI.
a) Nhu cầu vốn của nền kinh tế:
- Vốn ĐTNN thực hiện: đạt khoảng 24 - 25 tỷ USD (tăng 70-75% so với giai đoạn 2001-2005) chiếm khoảng 17,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Vốn đăng ký bao gồm cả vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng vốn đạt khoảng 55 tỷ USD (tăng hơn 2 lần so với giai đoạn 2001–2005), trong đó vốn cấp mới đạt 41 tỷ USD và vốn bổ sung đạt khoảng 14 tỷ USD. Bình quân mỗi năm đạt khoảng 11 tỷ USD.
- Doanh thu: khoảng 163,4 tỷ USD
- Xuất - nhập khẩu: xuất khẩu đạt khoảng 93,3 tỷ USD (không kể dầu thô); nhập khẩu đạt 103,tỷ USD.
- Nộp ngân sách nhà nước: đạt khoảng 8,4 tỷ USD.
b) Cân đối nguồn vốn FDI:
- Cơ cấu vốn thực hiện theo ngành: vốn FDI thực hiện trong ngành công nghiệp chiếm khoảng 60%, nông-lâm-ngư nghiệp khoảng 5% và dịch vụ khoảng 35%.
Ngành Công nghiệp-Xây dựng:
▪ Các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ.
▪ Công nghiệp phụ trợ: Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên- phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. Để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, cần tạo điều kiện để các dự án sản xuất lắp ráp các sản phẩm công nghiệp nhanh chóng mở rộng quy mô và thị trường tiêu thụ.
Ngành Dịch vụ:
▪ Ngành dịch vụ còn dư địa lớn để đầu tư phát triển góp phần quan trọng trong nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như dịch vụ ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chính-viễn thông, y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực dịch vụ khác.
Với định hướng trên, tiến hành xem xét, giảm bớt các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện đối với đầu tư nước ngoài có tính tới các yếu tố hội nhập và toàn cầu hóa theo lộ trình “mở cửa”; tạo bước đột phá trong thu hút FDI bằng việc xem xét đẩy sớm lộ trình mở cửa đối với một số lĩnh vực dịch vụ, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển hạ tầng. Cụ thể là:
▪ Khuyến khích mạnh vốn FDI vào các ngành du lịch, y tế, giáo dục-đào tạo. Mở cửa theo lộ trình các lĩnh vực dịch vụ “nhạy cảm” như ngân hàng, tài chính, vận tải, viễn thông, bán buôn và bán lẻ và văn hoá.
▪ Khuyến khích đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng các phương thức thích hợp gồm BOT, BT để xây dựng cảng biển, cảng hàng không, đường cao tốc, đường sắt, viễn thông, cấp nước, thoát nước… nhằm góp phần nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng nhanh của nền kinh tế.
Ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp:
Theo Luật Đầu tư năm 2005, nuôi trồng, chế biến nông, lâm thuỷ sản, làm muối; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới là một trong những lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư. Phù hợp chiến lược phát triển ngành, thu hút FDI định hướng theo ngành hàng, sản phẩm chủ yếu như sau:
▪ Về trồng trọt và chế biến nông sản, đầu tư nước ngoài tập trung vào các dự án xây dựng các vùng trồng và chế biến nông sản xuất khẩu như lúa gạo, cây lương thực, rau quả, cà phê, cao su, chè... theo hướng thâm canh, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đổi mới thiết bị các xưởng chế biến.
▪ Về chăn nuôi và chế biến sản phẩm chăn nuôi, đầu tư nước ngoài tập trung thu hút vào các dự án sản xuất giống lợn, bò và gia cầm có chất lượng cao tại các vùng có điều kiện thuận lợi về lao động, đất đai, đảm bảo vệ sinh môi trường khi phát triển chăn nuôi với quy mô lớn, đồng thời tiếp tục thu hút đầu tư sản xuất thức ăn gia súc có chất lượng cao.
▪ Về trồng rừng - chế biến gỗ đầu tư nước ngoài tập trung vào các dự án sản xuất giống cây có chất lượng, năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu trồng rừng nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ, lâm sản.
- Ưu tiên thu hút FDI vào các ngành có tác động lớn trên các phương diện như thúc đẩy chuyển giao công nghệ nhất là công nghệ cao, công nghệ nguồn, gia tăng xuất khẩu tạo việc làm, các dự án sản xuất sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh, các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng.Các ngành công nghiệp đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học...chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa kì, EU, Nhật bản.. coi trọng thu hút đầu tư nước ngoài gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó sẽ khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên phụ liệu của các ngành công nghiệp góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước.
- Về đối tác đầu tư, chú trọng thu hút FDI từ các tập đoàn đa quốc gia (TNCs) nhất là các tập đoàn đến từ các trung tâm kinh tế lớn của thế giới như Hoa kì, Nhật, EU..theo hướng để thực hiện những dự án lớn, công nghệ cao hướng vào xuất khẩu tạo điều kiện để một số TNCs xây dựng các trung tâm nghiên cứu phát triển , vườn ươm công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực.
3.1.3. Phương hướng thực hiện.
Thứ nhất, thu hút và sử dụng vốn FDI như một nguồn ngoại lực nhằm phát huy cao độ nội lực, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết của Đảng đã chỉ ra là: “Nội lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển, có phát huy nội lực mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Ngoại lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển, kết hợp tốt nội lực và ngoại lực sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp, xây dựng đất nước”
Thứ hai, gắn chặt việc thu hút và sử dụng hiệu quả FDI với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ ba, phải đặt nhiệm vụ thu hút, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI là một bộ phận khăng khít của chính sách phát triển kinh tế đối ngoại và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; trong đó, vốn FDI đóng vai trò vừa là động lực, vừa là nguồn lực quan trọng thúc đẩy nhanh công cuộc Công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Các bộ phận của kinh tế đối ngoại liên quan mật thiết với nhau: FDI gắn với thương mại, du lịch và dịch vụ quốc tế; FDI và các hình thức thu hút đầu tư nước ngoài khác. Trong bối cảnh hiện nay, để phát huy tổng thể kinh tế đối ngoại, không thể coi nhẹ FDI phải coi nó như một bộ phận quan trọng để phối hợp và thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, trước hết là xuất nhập khẩu, du lịch và các dịch vụ quốc tế liên quan (vận tải, viễn thông, tài chính, ngân hàng, tư vấn…). Do vậy, FDI còn có vai trò làm cầu nối, thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, nó phản ánh sự kết hợp hài hoà việc phát huy nội lực với khai thác sử dụng các nguồn lực bên ngoài để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH. Chiến lược thu hút FDI là cơ sở để xây dựng các quy hoạch và kế hoạch thu hút FDI theo ngành, lĩnh vực kinh tế và vùng lãnh thổ.
Thứ tư, đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn FDI phải gắn liền với việc nâng cao hiệu quả trong phân bổ, sử dụng một cách toàn diện và hợp lý để phát huy cao nhất vai trò, tác dụng của FDI đối với sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế địa phương và khu vực.
Thứ năm, FDI phải góp phần thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường. Kết hợp kinh tế- xã hội với quốc phòng, an ninh theo phương châm phát triển kinh tế- xã hội là nền tảng để bảo vệ Tổ quốc; ổn định chính trị; củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế-xã hội.“Kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng địa phương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt chính sách xã hội trên cơ sở phát triển, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển KT-XH”.
3.2.Các giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3.2.1.Hoàn chỉnh qui hoạch phát triển kinh tế- xã hội, qui hoạch về xây dựng công nghiệp, chương trình thu hút và sử dụng vốn FDI từ nay đến 2010 và tầm nhìn 2020.
- Khẩn trương xây dựng “Chiến lược thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI”. Trong chiến lược, phải cụ thể hóa một cách đầy đủ, có hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương hướng phát triển FDI mà các Nghị quyết Đại hội IX, X ,XI đã đề ra. Chiến lược phải phản ánh quyết tâm thực hiện các chỉ tiêu đề ra tương xứng với yêu cầu, đòi hỏi của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và phát huy được lợi thế so sánh, tiềm năng của Việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chiến lược phải đề ra được mục tiêu tổng thể có tính lâu dài đến năm 2010 và xa hơn; đồng thời phải chỉ ra những mục tiêu cụ thể cho từng thời kỳ (bao gồm cả mục tiêu về chất lượng hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI). Chiến lược này còn chỉ ra các nguồn lực và lộ trình thực hiện cho từng giai đoạn cụ thể với hệ thống các giải pháp tích cực có tính khả thi cao; chú ý tới các cơ chế, chính sách thật sự hấp dẫn, có sức cạnh tranh cao, có tính ổn định, đồng thời có tính linh hoạt, mềm dẻo nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI.
Chiến lược thu hút và sử dụng FDI phải được coi là bộ phận cấu thành của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là cơ sở để xây dựng các quy hoạch tổng thể và kế hoạch thu hút FDI theo ngành, khu vực và theo từng KCN, KCX. Để xây dựng chiến lược có chất lượng, sát với tình hình thực tế, cần chú trọng công tác dự báo, cập nhật thông tin thị trường trong nước và quốc tế, tăng tính mở, tính linh hoạt trong các phương án để thích ứng được với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường và xu hướng vận động của các luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu.
- Trên cơ sở chiến lược, phải xây dựng được quy hoạch và các chương trình, kế hoạch đồng bộ, ăn khớp, cụ thể hóa cho từng giai đoạn, trong đó xác định rõ những ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng điểm cần tập trung khuyến khích thu hút FDI và hệ thống giải pháp phù hợp, nhằm tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong nhận thức và hành động cụ thể của tất cả các ngành, các cấp, tạo ra sức bật mới trong thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI. Chú trọng nâng cao chất lượng công tác lập quy hoạch, kế hoạch, cụ thể hóa, chính xác hóa, cập nhật hóa danh mục dự án thu hút FDI, làm cơ sở cho việc tổ chức thực hiện được rõ ràng, đồng bộ và thuận lợi. Trước mắt, phải rà soát để bổ sung, hoàn thiện danh mục dự án kêu gọi FDI trong những năm sắp tới. Danh mục dự án kêu gọi FDI phải được xây dựng trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch thu hút FDI đã được phê duyệt.
- Song song với việc xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút FDI, cần tiến hành rà soát, bổ sung và điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Để thực hiện việc này cần rà soát, bổ sung các quy hoạch phát triển ngành, gồm: quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, du lịch, thương mại, nông nghiệp, giáo dục - đào tạo, văn hoá - thông tin, y tế… Cũng cần rà soát, điều chỉnh quy hoạch xây dựng các tỉnh thành phố , thực hiện đồng nhất các quy hoạch chi tiết, rà soát điều chỉnh thường xuyên, đảm bảo phù hợp với quy hoạch chung. Cần gấp rút thực hiện quy hoạch thêm một số khu công nghiệp, khu công nghệ cao để chuẩn bị đón đầu các làn sóng đầu tư mới sau khi tham gia vào WTO.
Để thực hiện những giải pháp quy hoạch nêu trên, chúng ta phải tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quy hoạch. Một mặt đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn đối với đội ngũ hiện có, mặt khác mời các công ty tư vấn giỏi trong nước và nước ngoài cùng tham gia thực hiện công tác quy hoạch thành phố, đặc biệt đối với các khu trung tâm, các điểm nhấn kiến trúc và các công trình mang tầm vóc, quy mô lớn. Sau khi đã hoàn thành quy hoạch, cần công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong nước và nước ngoài để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nắm bắt và tìm hiểu cơ hội đầu tư. Bên cạnh đó, chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, bảo đảm chấp hành nghiêm theo đúng quy định của pháp luật.
3.2.2.Áp dụng ban hành & thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư.
Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan.
Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006-2007 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh.
Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành.
Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ.
Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành với các nhà đầu tư nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án đang hoạt động, đảm bảo các dự án hoạt động có hiệu quả, đúng tiến độ và nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các hiệp hội doanh nghiệp thông qua các hoạt động của Nhóm R & D, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam...
3.2.3.Nhóm giải pháp cải thiện môi trường đầu tư.
Cải thiện cơ sở hạ tầng:
- Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng.
- Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước như vốn ODA, các nguồn vốn hỗ trợ phát triển phi chính phủ khác ; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; hành lang kinh tế- Đông Tây giữa các nước Đông Dương.. nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v.
Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời.
- Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập.
- Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế
- Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng.
- Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu.
Hoàn thiện chính sách thuế, ưu đãi đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Tiếp tục hoàn thiện Luật thuế giá trị gia tăng và thuế lợi nhuận công ty. Đây là hai loại thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động ổn định (các ưu đãi về thuế lợi tức, thuế giá trị gia tăng của Việt Nam chưa thật hấp dẫn so với các nước trong khu vực và còn nhiều vướng mắc, bất cập).
- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các biện pháp ưu đãi tài chính đối với nhà đầu tư như: vấn đề hoàn thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển lợi nhuận về nước. Không hạn chế hoặc không đưa ra quy định bắt buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn bằng tiền mặt khi họ đang gặp khó khăn.
- Xoá bỏ ấn định tỷ lệ nguồn vốn trong các dự án và lĩnh vực cần phát triển mà vốn trong nước không đủ, không có khả năng đầu tư.
- Cần tiếp tục đề ra và thực hiện các cam kết về ưu đãi thuế trong khuôn khổ AFTA, WTO. Đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát để xử lý nghiêm theo luật định những hành vi trốn thuế, lậu thuế.
- Rà soát, củng cố lại các công cụ tài chính - kế toán để tăng cường giám sát kiểm tra hoạt động tài chính của doanh nghiệp FDI nhằm khắc phục những sơ hở gây thiệt hại đến lợi ích quốc gia (đặc biệt là vấn đề chuyển giá).
Cải thiện chính sách lao động, tiền lương:
- Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau.
- Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỉ trọng lao động vào các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỉ trọng lao động sản xuất nông nghiệp.
- Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm: Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
- Triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ người lao động làm việc trong các KCN, nhất là về nhà ở và điều kiện sinh hoạt của người lao động.
- Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả về cán bộ quản lý các cấp và cán bộ kỹ thuật. Cải cách hành chính:
- Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án FDI, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. Thực tế Luật Đầu tư năm 2005 xác định việc phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý Khu Công nghiệp, Khu chế xuất, Khu Công nghệ cao và Khu kinh tế (sau đây gọi là Ban quản lý) cấp Giấy Chứng nhận đầu tư (GCNĐT) cũng như quản lý hoạt động đầu tư và giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về nguyên tắc đối với một số dự án quan trọng chưa có trong quy hoạch, hoặc chưa có quy hoạch. Những dự án đã có trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế cũng như các dự án còn lại sẽ do UBND cấp tỉnh và Ban quản lý tự quyết định và cấp GCNĐT.
Việc phân cấp cấp GCNĐT về UBND cấp tỉnh và Ban quản lý là một chủ trương thực hiện cải cách hành chính trong quản lý kinh tế và đã được tổng kết trong nhiều năm qua, đã tạo điều kiện thuận lợi để UBND cấp tỉnh và Ban quản lý thực hiện được trách nhiệm quản lý hoạt động đầu tư trong nước và nước ngoài trên địa bàn. Việc phân cấp mạnh cho UBND tỉnh và Ban quản lý đã tạo điều kiện cho các Bộ, ngành quản lý nhà nước tập trung thực hiện chức năng hoạch định chính sách, dự báo, kiểm tra, giám sát.
- Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan.
- Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể.
- Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài.
- Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư .
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước.
3.2.4.Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Tổ chức bồi dưỡng, nâng cao trình độ về pháp luật, chính sách, chuyên môn đối với đội ngũ cán bộ làm công tác hợp tác đầu tư với nước ngoài, hướng tới đáp ứng yêu cầu hội nhập và giao lưu quốc tế.
Có kế hoạch đào tạo thường xuyên, liên tục cán bộ đối ngoại, cán bộ làm công tác quản lý đầu tư nước ngoài, cán bộ trực tiếp tham gia vào các liên doanh không chỉ giỏi về kinh tế, quản lý mà phải am hiểu luật pháp trong nước và quốc tế, trong đó chú ý cán bộ chủ chốt hoạt động kinh tế đối ngoại: có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, giàu về kiến thức, thông thạo ngoại ngữ, hiểu biết pháp luật và có khả năng đàm phán quốc tế để có thể đảm bảo làm việc tốt, có hiệu quả trong môi trường vừa hợp tác vừa đấu tranh. . Về lâu dài, cần tuyển chọn các sinh viên tốt nghiệp đại học loại giỏi thuộc các chuyên ngành như: kinh tế đối ngoại, luật kinh tế, kinh tế đầu tư... vào làm việc theo chế độ công chức dự bị tại Sở KH-ĐT, Ban Quản lý các KCN; sau đó tổ chức cho thi công chức và nếu trúng tuyển cho đi đào tạo tiếp ở nước ngoài. Đây là nguồn nhân lực có chất lượng cao bổ sung cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN đối với hoạt động FDI, đồng thời có thể cử họ tham gia vào Hội đồng quản trị các doanh nghiệp liên doanh mà đối tác phía Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước.
Công tác cán bộ và đào tạo phải hướng vào việc nâng cao trình độ quản lý của cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi để đảm trách những công việc trong các DN FDI. Không chỉ thông qua hệ thống các trường chuyên ngành trong nước để đào tạo cán bộ chuyên trách hoạt động trong lĩnh vực FDI mà cần mạnh dạn gửi ra nước ngoài đào tạo cũng như thuê các chuyên gia hàng đầu của nước ngoài vào làm việc ở những khâu mà ta chưa đảm đương được hoặc còn yếu (chẳng hạn kiểm toán...). Điều chỉnh mạnh về nhân sự, nhất là cán bộ chủ chốt liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại và đặc biệt là trong lĩnh vực FDI. Có đề án dài hạn về đào tạo và sử dụng cán bộ nguồn trẻ, được tạo cơ bản và xuất thân từ những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc các trường đại học trong nước hoặc ngoài nước. Đó cũng chính là cách để nhanh chóng tiếp cận được những kỹ năng trong hoạt động đầu tư đáp ứng tốt hơn cho công việc trước mắt và lâu dài.
Song song, với công tác đào tạo cán bộ, cần chú trọng tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các DN FDI theo các chương trình phù hợp nhu cầu và triển vọng sử dụng thực tế số lao động này. Khuyến khích và có quy định cụ thể đối với các DN FDI về đào tạo tay nghề, nhất là huấn luyện kỹ thuật; có chính sách yêu cầu các DN FDI có kế hoạch đào tạo công nhân và cán bộ quản lý doanh nghiệp.
Trên cơ sở từng ngành đã có quy hoạch chi tiết cho việc gọi vốn FDI theo từng dự án cụ thể, phải có quy hoạch cán bộ dự kiến tham gia các dự án liên doanh, qua đó có các kế hoạch đào tạo cụ thể nhằm chuẩn bị cán bộ đủ điều kiện cử vào tham gia các chức vụ chủ chốt trong liên doanh.
Đối với đội ngũ cán bộ đang tham gia ở các liên doanh cần có kế hoạch biện pháp quản lý, giúp đỡ, bồi dưỡng thông qua các cuộc sinh hoạt, trao đổi kinh nghiệm, hội nghị, hội thảo để nâng cao trình độ.
Kiên quyết xử lý các cán bộ công chức nhà nước ở bất cứ cương vị nào có thái độ và hành động sách nhiễu, gây khó khăn cản trở nhà đầu tư nước ngoài; có chế độ phụ cấp, khen thưởng cho những người có nhiều thành tích trong công tác đầu tư nước ngoài; Biểu dương các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn có hiệu quả và có nhiều đóng góp cho Việt Nam.
3.2. Các giải pháp đối với các doanh nghiệp & tổ chức.
3.2.1. Đổi mới cơ chế, tổ chức bộ máy Ban quản lý các KCN, KCX, trung tâm xúc tiến đầu tư.
Hoạt động của Ban Quản lý các KCN và chế xuất lâu nay hiệu quả chưa cao, chẳng hạn việc một Phó Chủ tịch UBND thành phố kiêm chức danh Trưởng Ban Quản lý các KCN và chế xuất chưa phải là giải pháp tối ưu về mặt nhân sự. Hoạt động xúc tiến đầu tư giữa Ban Quản lý các KCN và chế xuất các tỉnh và Trung tâm Xúc tiến đầu tư còn chồng lấn nhau, đôi khi gây mâu thuẫn với nhau. Chúng ta cần tìm ra một giải pháp tối ưu hơn.
Phương án thứ nhất: Vẫn duy trì hai tổ chức như hiện nay, đều là các cơ quan trực thuộc UBND tỉnh. Ban Quản lý các KCN và chế xuất làm nhiệm vụ quản lý nhà nước và xúc tiến các dự án đầu tư nước ngoài vào các KCN thẩm định và cấp giấy chứng nhận đầu tư theo thẩm quyền được giao. Trung tâm Xúc tiến đầu tư thuộc Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh thực hiện chức năng xúc tiến các dự án đầu tư ngoài KCN, thẩm định và trình UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh, trình Bộ kế hoạch và Đầu tư đối với các dự án lớn vượt quá thẩm quyền
Phương án thứ hai: Sáp nhập hai tổ chức này thành một tổ chức gọi tên là Ban Quản lý các KCN và thu hút đầu tư, thực hiện nhiệm vụ của hai bên gộp lại, tạo thành một đầu mối tập trung thống nhất về hoạt động, tạo cho nhà đầu tư cảm giác yên tâm và thông tin nhất quán, tinh giảm bớt bộ máy hành chính. Trong trường hợp này, bộ máy lãnh đạo cơ quan này phải có đủ năng lực, năng động, giỏi ngoại ngữ thì mới có thể đáp ứng được nhiệm vụ giao.
Đối với công việc xúc tiến đầu tư:
- Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư, chọn lựa những cán bộ trẻ, khỏe, thực sự năng động, sáng tạo, tâm huyết, đồng thời nghiên cứu có chính sách hỗ trợ kinh phí phụ cấp ngoài lương cho đội ngũ này yên tâm công tác lâu dài, ổn định.
- Xây dựng hệ thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu điện tử như website riêng của các KCN, KCX, in và phát miễn phí giới thiệu tóm tắt về quy hoạch phát triển, chính sách thu hút FDI cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thường xuyên cập nhật các cơ chế ưu đãi mới nhằm hỗ trợ đắc lực cho công tác tìm kiếm thông tin của nhà đầu tư .
- Thành lập Văn phòng đại diện của Trung tâm Xúc tiến đầu tư tại một số nước (Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Hoa Kỳ) để thường xuyên bám sát các nhà đầu tư lớn. Thiết lập đội ngũ cộng tác viên với Trung tâm Xúc tiến đầu tư cả trong nước và nước ngoài nhằm hỗ trợ cho các hoạt động Trung tâm, nhất là trong việc viết dự án cơ hội, nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin.
- Tăng kinh phí từ ngân sách cho hoạt động của Trung tâm Xúc tiến đầu tư để đẩy mạnh các hoạt động quảng bá hình ảnh, tổ chức các đoàn công tác ra nước ngoài kêu gọi đầu tư tuy nhiên cần có chọn lọc và trọng điểm tránh tình trạng dàn trải kém hiệu quả,gây tốn kém và lãng phí.
3.2.2. Nâng cao năng lực quản lý và uy tín thương hiệu của các doanh nghiệp trong nước để phát triển liên doanh với nước ngoài
Chính quyền các tỉnh thành phố thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình hoạt động của các doanh nghiệp nhằm phát hiện những khó khăn, những yêu cầu chính đáng của doanh nghiệp để có những biện pháp giải quyết, hỗ trợ thích đáng và kịp thời. Đẩy mạnh phát triển thành phần kinh tế tư nhân, khuyến khích thành lập các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề để các doanh nghiệp cùng liên kết, hỗ trợ nhau phát triển.
Tiến hành khảo sát, lựa chọn một số cán bộ quản lý điều hành doanh nghiệp nhà nước trẻ, giỏi, phẩm chất tốt đưa đi đào tạo ở nước ngoài để nâng cao kỹ năng quản lý điều hành, hợp tác quốc tế nhằm sẵn sàng đại diện cho phía Việt Nam khi tham gia liên doanh.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác khuyến khích đầu tư trong nước, kêu gọi một số tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp mạnh trong nước mở rộng đầu tư, sản xuất kinh doanh nhằm góp phần tạo nên thị trường hàng hoá đa dạng, phong phú, chất lượng cao; tạo lập môi trường làm ăn sôi động đủ sức hấp dẫn, lôi kéo các nhà đầu tư nước ngoài .
3.2.3. Phát triển các dịch vụ phát triển kinh doanh và các ngành sản xuất phụ trợ cho các ngành công nghiệp, dịch vụ.
Công nghiệp phụ trợ là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ kiện, phụ tùng...
Ngành công nghiệp phụ trợ hoặc thầu phụ (outsourcing) đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu hút vốn FDI. Ngoài hiệu quả tạo nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa, công nghiệp phụ trợ đóng vai trò rất quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình CNH theo hướng vừa theo chiều rộng (broadening) vừa theo chiều sâu (deepening). Do sự phân công lao động quốc tế ngày càng cao nên không phải tất cả các công ty trên thế giới đều sản xuất ra một sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, một sản phẩm có thể được lắp ráp từ các bộ phận khác nhau do các nước khác nhau sản xuất. Xu hướng chung là sản phẩm cuối cùng đưa ra thị trường phải gần thị trường tiêu thụ lớn để giảm bớt chi phí sản xuất, vận chuyển, vận hành bảo dưỡng... Nếu công nghiệp phụ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, đồng thời giảm bớt tính cạnh tranh của sản phẩm do tăng chi phí nhập khẩu, vận chuyển…
Khảo sát thực tế về doanh nghiệp FDI hoạt động cho thấy, do tình hình hoạt động kém hiệu quả của doanh nghiệp nội địa, các doanh nghiệp FDI rất muốn tăng tỷ lệ nội địa hoá để giảm giá thành sản phẩm nhưng ít tìm được nguồn cung cấp nguyên vật liệu phụ trợ đáng tin cậy. Đặc biệt những doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc những doanh nghiệp hướng vào xuất khẩu có khuynh hướng dùng linh kiện và nguyên liệu nhập khẩu hoặc do các công ty FDI khác sản xuất.
Bên cạnh đó, các dịch vụ phục vụ cho nhà đầu tư nước ngoài đến phát triển kinh doanh ở Việt nam cũng còn yếu kém. Từ dịch vụ hàng không, cảng biển, ngân hàng, bãi biển cho đến khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí. Do vậy, việc phát triển các dịch vụ và các ngành sản xuất phục vụ cho các ngành công nghiệp, dịch vụ là vô cùng quan trọng nếu chúng ta muốn cải thiện môi trường đầu tư của mình.
Các biện pháp cần tập trung là các doanh nghiệp trong nước cần nỗ lực và có sự hỗ trợ của Nhà nước đầu tư sản xuất các ngành công nghiệp phụ trợ trên một số lĩnh vực như điện tử, cơ khí, dệt may, hoá chất... thu hút các nhà đầu tư nước ngoài xây dựng thêm một số khu nghỉ mát 5 sao ven biển, các khách sạn 5 sao ở khu vực trung tâm, chung cư cao cấp, văn phòng cho thuê, phát triển dịch vụ ngân hàng, dịch vụ vận chuyển hàng hoá, hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng sân golf, tennis.. tiếp tục mở thêm các trường quốc tế, bệnh viện quốc tế.
Thực tế cho thấy, thành tích về số vốn đầu tư, số lượng dự án tất nhiên là quan trọng, nhưng nhìn trên toàn cục, việc “thông” giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa trong nền kinh tế mới quan trọng hơn cả. Một trong những mục đích lớn của thu hút FDI là tạo ra những hiệu ứng lan tỏa từ khu vực FDI tới khu vực doanh nghiệp trong nước. Khi doanh nghiệp nước ngoài tiêu thụ các sản phẩm sẵn có trong nước, thay vì nhập khẩu sẽ dẫn đến tăng thu nhập và lợi nhuận cho công ty nội địa, mang lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân.
Kết luận.
Nguồn vốn FDI đóng một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nghị quyết Đại hội X,XI của Đảng và các nghị quyết của Đảng đều nhấn mạnh rằng: kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng đối với các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, đẩy mạnh thu hút vốn FDI nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo là nhiệm vụ mang tính chiến lược, lâu dài, là yếu tố quyết định sự phát triển của Việt nam .
Việt Nam thời gian qua đã có nhiều cố gắng trong thu hút vốn FDI nhưng nhìn chung còn tồn tại nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Để đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH trong giai đoạn tới nhằm đạt thắng lợi mục tiêu chiến lược đề ra thì vấn đề thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó tập trung đổi mới công tác qui hoạch đầu tư nước ngoài gắn với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lí nhà nước đối với đầu tư nước ngoài, bên cạnh đó phát triển công nghiệp phụ trợ nhằm thu hút đầu tư của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước và làm tăng hiệu ứng tạo việc làm gián tiếp từ khu vực đầu tư nước ngoài….
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt đã giúp đỡ tác giả trong quá trình làm đề tài này.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo kế hoạch kinh tế- xã hội 5 năm 2006-2010, Hà nội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo tình hình thu hút FDI 2006.
CIEM: Kinh tế Việt Nam 2006.
Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, nxb CTQG, HN.
GS.TS.Vũ ngọc Phùng(2006): Giáo trình Kinh tế phát triển, nxb LĐXH, HN
Lê Xuân Bá (2006), Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Luật Đầu tư 2005, nxbCTQG, HN.
Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài(1987),nxbCTQG, HN.
Một số vấn đề phát triển kinh tế của Việt nam hiện nay.
Nguyễn Bích Đạt(2005) : Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài& nhiệm vụ đặt ra đối với ngành Kế Hoạch & Đầu Tư, nxb CTQG, Hà nội.
Nguyễn Văn Tuấn(2005):Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, nxb Tư pháp, HN.
PGS.TS.Nguyễn bạch Nguyệt, PGS.TSTừ Quang Phương(2007): Giáo trình Kinh tế Đầu tư,nxb ĐHKTQD, HN
Thời Báo kinh tế Việt Nam: Kinh tế 2006-2007: Việt Nam và thế giới.
Tạp chí Kinh tế & Phát triển.
Tạp chí Kinh tế& Dự báo.
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế
Tạp chí Nghiên cứu tài chính kế toán.
Tạp chí Thông tin tài chính.
Tạp chí Quản lý kinh tế.
Website: .
Website: .
Website: .
Website: .
Website: http:// vietnamnet.vn
Website:
Website:
Website:
Website:
Website:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24731.doc