Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại nies vào Việt Nam

Trong thời gian qua chúng ta vẫn chưa phát huy được nhiều hình thức đầu tư đó, chúng ta mới chỉ thu hút đầu tư theo hai hình thức chủ yếu là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, còn các hình thức khác, chúng ta chưa thu hút được nhiều do các quy định trong đó vẫn kém hấp dẫn các nhà đầu tư. Vì vậy, trong giai đoạn tới chúng ta cần có các biện pháp tích cực hơn nữa để nhằm phát huy hơn nữa các hình thức đầu tư. Nghiên cứu và ứng dụng các hình thức đầu tư mới như công ty cổ phần, công ty hợp doanh đầu tư nước ngoài theo hình thức mua lại và sáp nhập, các công ty quản lý vốn, huy động vốn từ các quỹ đầu tư. 2.4. Xây dựng và công khai quy hoạch vốn FDI dài hạn đối với từng ngành và từng vùng cụ thể.

doc58 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1064 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại nies vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c không phù hợp, dựa trên những dự báo không chính xác về cung và cầu...) nhưng vẫn được cấp GPĐT do các lý do khác nhau, không loại trừ sự cả nể của các cơ quan có thẩm quyền. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT HƠN NỮA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CỦA HÀN QUỐC VÀO VIỆT NAM I. Mục tiêu và định hướng thu hút FDI của Việt Nam. Chủ trương chung là tạo điều kiện thuận lợi để khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu tăng khả năng cạnh tranh và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm việc làm, cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý đẻ thu hút mạnh đầu tư nước ngoài. Trong những năm tới, nhu cầu về vốn đầu tư và phát triển nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đặt ra là rất lớn. Do đó Việt Nam cần phải có biện pháp tích cực hơn để thu hút đầu tư nước ngoài. Mục tiêu của kế hoạch 5 năm (2001-2005) là: - Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm tối thiểu 7%, tích cực tạo điều kiện thực hiện mức tăng trưởng cao hơn và có bước chuẩn bị cho những năm tiếp theo. - Phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt chú trọng công nghiệp cơ khí chính xác, điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ lọc dầu, công nghệ luyện kim. Tốc độ bình quân năm đạt từ 14% – 15%. Để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng trên, theo tính toán ban đầu, nhu cầu các nguồn vốn cho đầu tư phát triển trong giai đoạn 2001 - 2005 dự báo khoảng 56 - 60 tỷ USD (theo giá năm 2000) với mức tăng trưởng bình quân 8-10% năm. Trong đó nguồn vốn huy động trong nước dự kiến từ 34 đến 36 tỷ USD (chiếm 60-61% tổng vốn đầu tư toàn xã hội); nguồn vốn từ bên ngoài chiếm khoảng 22 đến 24 tỷ USD (chiếm khoảng 39-40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội). Vì vậy, bên cạnh việc huy động cao nhất nguồn vốn đầu tư trong nước, phát huy nội lực, ngay từ bây giờ trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế thế giới Việt Nam phải xây dựng và thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm thu hút mạnh mẽ và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI với yêu cầu phải gắn FDI với kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2005 và mục tiêu chiến lược đến năm 2010; gắn với quy hoạch, chuyển đổi cơ cấu, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả. II. Bối cảnh tình hình. 1. Những thuận lợi căn bản. - Tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định và phát triển. Đặc biệt, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới đã làm cho thế và lực của ta mạnh lên, cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Sự phát triển của nền kinh tế trong môi trường chính trị – xã hội cơ bản ổn định, môi trường hợp tác, liên kết quốc tế có nhiều thuận lợi cùng với những tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động của đất nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ các nguồn ngoại lực, trong đó có đầu tư nước ngoài để phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. - Môi trường kinh doanh nói chung và môi trường đầu tư nói riêng không ngừng được cải thiện, công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm và dần đi vào nề nếp, đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ngày một trưởng thành. - Xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế đang gia tăng mạnh cùng sự phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin đã thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế trí thức, tạo nên sự dịch chuyển mạnh cơ cấu kinh tế quốc tế và gia tăng các dòng chuyển tiền trên thế giới. Mặt khác, kinh tế thế giới đã phục hồi và tăng trưởng trở lại. Thời gian tới, Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động của thế giới. Trong bối cảnh đó, nước ta cũng có những cơ hội thuận lợi để tăng cường thu hút thêm nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 2. Những khó khăn và thách thức. - Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế 5 năm qua chậm dần. Năm 2002 có chiều hướng tăng lên nhưng chưa đạt mức tăng trưởng cao như 5 năm đầu thập niên 90. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm, tích lũy nội bộ nền kinh tế còn thấp, các cân đối vĩ mô còn thiếu vững chắc. - Môi trường kinh doanh, đầu tư còn nhiều hạn chế, nhu cầu thị trường tăng chậm, dung lượng thị trường nhỏ và sứ mua trong nước còn rất thấp. Trong khi cung về nhiều sản phẩm trước mắt đã bão hòa; hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn nhiều thiếu thốn, các yếu tố thị trường chưa được xác lập đầy đủ. Quản lý nhà nước về Đầu tư nước ngoài còn bất cập, đặc biệt là thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà, tình trạng chấp hành chưa nghiêm luật pháp chính sách, hiện tượng tham nhũng chưa bị chặn đứng. - Cạnh tranh trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới trên thế giới và trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt. Hiện nay, ba phần tư vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới là đầu tư lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển do sự tăng cường liên kết giữa các công ty đa quốc gia của Mỹ, Nhật, Tây Âu. Một phần tư số vốn đầu tư còn lại chảy vào các nước đang phát triển, nhưng chủ yếu bị thu hút vào các nước công nghiệp mới (NICs) hoặc vào các thị trường đầu tư lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazin, Mêhicô Trong bối cảnh đó, các nước đang phát triển, nhất là các nước trong khu vực như Trung Quốc, ASEAN đã và đang cải thiện mạnh môi trường thu hút ĐTNN nhằm vượt lên trên các nước khác, coi đó là giải pháp chiến lược phục hồi và phát triển kinh tế. Chính điều này tạo nên sức cạnh tranh mạnh và là thách thức to lớn đối với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hiện nay môi trường đầu tư tại Việt Nam so với chung quanh đang bị đánh giá là mất dần tính cạnh tranh và độ rủi ro trong kinh doanh là cao hơn các nước trong khu vực. III. Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước nước ngoài của Hàn Quốc vào Việt Nam trong thời gian tới. 1. Chính sách đầu tư nước ngoài. Do nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư nước ngoài đối với sự tăng trưởng sự tăng trưởng phát triển, nhiều nước đã sử dụng các chính sách khácnhau để thu hút nguồn vốn này. Những chính sách cơ bản thường được nhiều nước sử dụng là: sở hữu và đảm bảo đầu tư: lĩnh vực và định hướng đầu tư, khuyến khích tài chính, kiểm soát ngoại hối, phê duyệt và quản lý đầu tư. Mức độ thông thoáng, hợp lý và hấp dẫn của các chính sách này có ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. 1.1. Sở hữu và đảm bảo đầu tư. Trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nước nhận đầu tư, nhất là nước đang phát triển, luôn đứng trước một vấn đề về điều chỉnh tỷ lệ sở hữu vốn đầu tư giữa trong nước và ngoài nước. Một mặt Việt Nam rất muốn thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài, nhưng mặt khác lại không muốn tỷ lệ sở hữu vốn nước ngoài quá lớn so với đầu tư trong nước, đặc biệt tình trạng này xảy ra trong các lĩnh vực đầu tư nhạy cảm và có triển vọng thu lợi nhuận cao. Mục đích chủ yếu của chính sách sở hữu đối với đầu tư nước ngoài là: chủ động kiểm soát các hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài; điều chỉnh hài hòa lợi ích giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Làm điều kiện để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo định hướng phát triển của nước chủ nhà. Đối với nước nhận đầu tư như Việt Nam khống chế mức sở hữu vốn đầu tư của nước ngoài là một biện pháp quan trọng để hạn chế sự can thiệp của họ vào nền kinh tế – xã hội của nước chủ nhà. Mặt khác, nếu sở hữu của nước ngoài quá cao so với sở hữu của các nhà đầu tư trong nước thì người bản sứ ít nhận được lợi ích từ đầu tư nước ngoài. Chính sách sở hữu có ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn hình thức đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài thì hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài rất khó thực hiện. Trái lại hình thức đầu tư liên doanh sẽ là chủ yếu trong các hình thức đầu tư nước ngoài ở nước chủ nhà. Đây là đặc trưng phổ biến trong chính sách đầu tư nước ngoài ở các nước đang phát triển. Trong quá trình thực hiện chính sách sở hữu vốn đầu tư nước ngoài thường nảy sinh nhiều bất đồng giữa mục tiêu của nước chủ nhà với mục tiêu của nước chủ nhà với mục tiêu của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi nước chủ nhà muốn các nhà đầu tư chọn các hình thức đầu tư đáp ứng được tối đa nhu cầu của mình thì các nhà đầu tư lại căn cứ vào tính hiệu quả để lựa chọn cho hình thức đầu tư của họ. Trong nhiều trường hợp, giữa hai mục tiêu này không gặp nhau và hậu quả là nước chủ nhà không tạo được sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Đảm bảo an toàn tài sản cho các nhà đầu tư nước ngoài luôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong các chính sách đầu tư nước ngoài của nước chủ nhà. Hầu hết trong luật pháp về đầu tư nước ngoài của các nước đều quy định rất rõ sẽ đảm bảo không quốc hữu hóa tài sản hợp pháp của các nhà đầu tư. chính sách của nước. Chính sách này nhằm tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nướcngoài. Để thực hiện thực hiện chính sách trên, nước chủ nhà thường ký các hiệp định đảm bảo đầu tư (investment guarantee agreement – IGA) với các nước đầu tư. Hiệp định này bao gồm các nội dung cơ bản về không quốc hóa, tịch thu tài sản của cácnhà đầu tư nước ngoài; bồi thường đầy đủ và nhanh chóng những thiệt hài về tài sản cho các nhà đầu tư trong trường hợp tài sản của họ bị trưng dụng vào mục đích công, cho phép các nhà đầu tư nướcngoài được tự do chuyển lợi nhuận, vốn đầu tư và các tài sản hợp pháp khác ra khỏi biên giới. 1.2. Lĩnh vực và định hướng thu hút đầu tư. Định hướng chung là khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, dầu khí, những ngành ta có thế mạnh về tài nguyên, nguyên liệu và lao động. - Trong lĩnh vực nông – lâm nghiệp cần khuyến khích và có chính sách ưu đãi thỏa đáng đối với các dự án môi trường, chế biến các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp gắn với việc phát triển các vùng nguyên liệu để phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước; chú trọng các dự án ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất các loại giống mới có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao; khuyến khích các dự án cơ khí phục vụ nông nghiệp, các dự án phục vụ nông nghiệp. - Trong lĩnh vực công nghiệp, việc thu hút đầu tư nước ngoài vừa hướng vào những ngành sử dụng nhiều lao động, vừa chú trọng những ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao (tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hóa, dầu khí..) Một số định hướng cụ thể: + Tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực quan trọng: tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí và phát triển các cơ sở công nghiệp hạ nguồn dầu khí. + Thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản Việt Nam; đầu tư sản xuất phôi thép, hoàn nguyên quặng, cán thép lá, thép hợp kim, thép hình, sắp xốp, ... + Sản xuất linh kiện, phụ tùng, lốp, ôtô, xe máy; sản xuất, lắp ráp thiết bị xe máy thi công xây dựng, thiết bị kỹ thuật cho ngành vận tải; thiết bị phụ tùng máy nông nghiệp và thiết bị cho các ngành công nghiệp khác; + Phát triển nguyên liệu hoá chất cơ bản, vật liệu mới (chất dẻo, sợi tổng hợp, polyme, ...); các chất hoạt động bề mặt (LAS, LAB, ..), chất bảo vệ thực vật, nguyên liệu nhựa (PE, PS, PP, PVC2), Methanol, Ethylen, các loại phân DAP, UH, Kali. + Các dự án may mặc-da giầy xuất khẩu; sản xuất nguyên liệu, phụ kiện cho ngành may mặc, da giầy; chú trọng các dự án kéo sợi, dệt, in hoa, nhuộm; các dự án sản xuất công cụ, gia cụ, đồ dùng gia đình ... + Các dự án điện tử, điện gia dụng chú trọng vào sản xuất linh kiện điện, điện tử, màn hình vi tính; thiết bị, phần mềm tin học, điện tử công nghiệp, điện tử y tế phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; các dự án điện gia dụng xuất khẩu trên 80%. + Các dự án sản xuất các loại dược phẩm thay thế hàng nhập khẩu; khuyến khích các dự án sản xuất nguyên liệu thuốc kháng sinh, nguyên liệu hóa dược; sản xuất thiết bị y tế, dịch truyền. 1.3. Khuyến khích tài chính. Trong chính sách khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài của các nước, các khuyến khích về tài chính luôn chiếm vị trị quan trọng và luôn được nước chủ nhà coi là những “củ cà rốt” để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Các khuyến khích về tài chính thường bao gồm các mức thuế, thời gian miễn giảm thuế, ưu đãi tín dụng, lệ phí và quy định thời gian khấu hao. Đây là những công cụ quan trọng không chỉ tạo nên sự hấp dẫn cho cácnhà đầu tư nước ngoài mà còn hướng dẫn họ đầu tư theo định hướng phát triển của nước chủ nhà. Mức độ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc rất lớn vào việc quy định mức thuế đầu tư đối với họ. Nếu các mức thuế đầu tư thấp và hợp lý sẽ góp phần giảm được chi chí đầu tư, nhờ đó tăng được cơ hội thu được lợi nhuận cao. Mặt khác, cơ cấu thuế đầu tư còn ảnh hưởng đến việc lựa chọn đối tượng, định hướng, quy mô và hình thức đầu tư. Để khuyến khích đầu tư nước ngoài theo định hướng phát triển của nước chủ nhà, các lĩnh vực, định hướng, hình thức đầu tư ưu tiên thường được áp dụng mức thuế suất thấp. - Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xóa bỏ việc kết hối bắt buộc khi có điều kiện; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hóa chuyểnđổi ngoại tệ dối với các giao dịch vãng lai. Có chính sách bổ sung đảm bảo việc bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp ĐTNN đã thực hiện nghĩa vụ kết hối để đáp ứng nhu cầu hợp lý của doanh nghiệp. Ban hành văn bản hỗ trợ và đảm bảo cân đối ngoại tệ đối với các dự án cơ sở hạ tầng và dự án quan trọng đầu tư theo chương trình của Chính phủ. - Nghiên cứu ban hành mức lãi suất trần hợp lý đối với khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp ĐTTN) để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn thực hiện dự án. Xây dựng, hoàn thiện các quy định về đảm bảo vay vốn, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đẻ doanh nghiệp ĐTNN có thể vay vốn của các ngân hàng trong nước và tổ chức quốc tế; từng bước nới lỏng hạn chế áp dụng đối với ngân hàng nước ngoài nhận tiền gửi bằng tiền đồng Việt Nam. - Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường vốn, được vay tín dụng, kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam tùy thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của dự án và có thể đảm bảo bằng tài sản của các công ty mẹ ở nước ngoài; được phép thí điểm phát hành cổ phiếu ở thị trường trong và ngoài nước để thu hút thêm vốn đầu tư. Phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn đầu tư bằng các nguồn huy động dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu - Xây dựng Quy chế quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp ĐTNN, ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của doanh nghiệp; đồng thời đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp. 1.4. Quản lý ngoại hối Việc nới lỏng chính sách kiểm soát ngoại hối của các nước phát triển đã đầy mạnh các công ty của họ đầu tư ra nước ngoài. Đối với các nước nhận đầu tư, chính sách kiểm soát ngoại hối thường bao gồm các quy định về mở tài khoản ngoại tệ, chuyển đổi giữa các đồng ngoại tệ và bản tệ, chuyển ngoại tệ ra ngoài lãnh thổ và tỷ giá hối đoái. Đối với nhiều nước việc mở tài khoản ngoại tệ của các doanh nghiệp nước ngoài tại các ngân hàng nước chủ nhà phải được phép của cơ quan quản lý tiền tệ của nước này. Nếu cơ quan chức năng nước chủ nhà không quản lý được các tài sản ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ của mình thì hiện tượng không kiểm soát được dòng tiền vào ra lãnh thổ là điều khó tránh khỏi. Vì thế, nước chủ nhà cần phải quy định cụ thể các điều kiện được mở tài khoản ngoại tệ tại cho các nhà đầu tư nước ngoài. 1.5. Phê duyệt và quản lý dự án đầu tư. Trong quá trình hình thành và triển khai dự án đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài phải chịu sự kiểm soát của nước chủ nhà thông qua các chính sách phê duyệt và quản lý dự án đầu tư. Các chính sách này bao gồm các quy định về: cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài; quy trình thẩm định dự án và cấp giấy phép đầu tư; quản lý dự án đầu tư nước ngoài sau khi được cấp phép. Quy trình thẩm định dự án đầu tư là các bước thực hiện đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư nước ngoài để phê duyệt cấp giấy phép đầu tư hoặc có cho phép đầu tư hay không. Các khía cạnh thường được xem xét đánh giá là mục tiêu dự án, thị trường, nguyên vật liệu, địa điểm, công nghệ, tài chính, môi trường, nói chung là các nội dung của dự án. Mỗi khía cạnh cơ bản của dự án thường do một cơ quan chức năng thẩm định. Thông thường, một dự án được phê duyệt phải được thực hiện qua một số bước nhất định và nhiều cơ quan chức năng tham gia. Qua thực tế cho thấy, công việc thẩm định dự án thường kéo dài hơn thời gian quy định. Một dự án được phê duyệt phải có sự đồng ý của đa số ý kiến từ các Bộ, ngành hữu quan. Trong nhiều trường hợp chỉ cần tắc một khâu là dự án không được phê duyệt hoặc bị ngâm lại. Hiện tượng này đã làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Bởi vậy, để khắc phục tình trạng trên, một số nước đã áp dụng chính sách một cửa (one door policy) trong thẩm định dự án đầu tư nước ngoài. Chính sách này quy định việc thẩm định dự án đầu tư nước ngoài được tập trung vào một cơ quan chức năng (một đầu mối), tại đây, các công việc thẩm định dự án được thực hiện từ các chuyên gia lấy từ các Bộ, ngành hữu quan. Ưu điểm nổi bật của chính sách này là ở chỗ các chuyên gia thẩm định được chuyên môn hóa cao, thẩm định cùng một đầu mối nên họ không những có trình độ chuyên môn thành thạo để nâng cao chất lượng thẩm định dự án mà còn phối hợp kịp thời để giải quyết những bất đồng giữa các cơ quan chức năng trong quá trình thẩm định. 2. Một số biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài của NIEs vào Việt Nam. 2.1. Thống nhất nhận thức, xây dựng chiến lược và nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút đầu tư nướcngoài. - Khu vực ĐTNN là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Để thống nhất quan điểm, nhận thức, định hướng phát triển làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lược, quy hoạch về sử dụng ĐTNN thời gian tới và cải thiện mạnh mẽ môi trường ĐTNN tại Việt nam, đề nghị Chính phủ có Nghị Quyết về ĐTNN cho 5 năm 2001-2005. -Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, cần xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn ĐTNN; trong đó bao quát chiến lược ngành và lĩnh vực, chiến lược đối tác cụ thể; xử lý quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài; bảo hộ sản xuất và hội nhập, mở cửa; vấn đề hợp tác đầu tư của các thành phần kinh tế; quan hệ giữa thu hút ĐTNN hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu... - Cần gấp rút xây dựng quy hoạch ĐTNN như là một bộ phận trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực chung của cả nước; phải gắn chặt với quy hoạch ngành, lãnh thổ, từng sản phẩm chủ yếu, kết hợp ngay từ đầu với an ninh, quốc phòng. Trong quy hoạch cần khuyến khích mạnh mẽ ĐTNN vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, năng lượng, những ngành ta có thế mạnh về nguyên liệu và lao động nhằm góp phần tích cực làm biến đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội. Xây dựng danh mục các dự án gọi vốn ĐTNN quốc gia cho thời kỳ 2001-2005; trong đó xác định rõ sản phẩm, công suất, tiến độ, trình độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, địa bàn thực hiện dự án, các chính sách khuyến khích, ưu đãi... Kiến nghị: - Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị quyết về ĐTNN 5 năm 2001-2005; xây dựng định hướng chiến lược, quy hoạch thu hút ĐTNN cho thời kỳ tới; chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng danh mục dự án quốc gia gọi vốn ĐTNN trình Chính phủ. - Giao các Bộ, ngành, địa phương xây dựng danh mục dự án kêu gọi ĐTNN của ngành, địa phương mình, hoàn thành quy hoạch ngành, sản phẩm chủ yếu trong năm 2001. 2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động ĐTNN. - Xây dựng hệ thống pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định và mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Triển khai việc nghiên cứu để tiến tới xây dựng một Bộ Luật đầu tư chung cho cả đầu tư trong nước và ĐTNN. Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý chung về kinh tế để tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng; sớm ban hành Luật về kinh doanh bất động sản, Luật Hải quan, Luật cạnh tranh và chống độc quyền, ... - Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp ĐTNN; xây dựng chính sách thuế khuyến khích sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá. Hoàn chỉnh hệ thống thuế xuất nhập khẩu, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt. Hoàn thiện các quy định về hợp đồng kinh tế, sở hữu trí tuệ, cải tiến hệ thống tín dụng, bảo lãnh đầu tư, phá sản đối với các doanh nghiệp ĐTNN. - Đa dạng hoá các hình thức ĐTNN để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới; cho phép các tập đoàn lớn có nhiều dự án ở Việt nam thành lập các công ty quản lý vốn (holding company); đẩy nhanh việc thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp ĐTNN, ban hành danh mục lĩnh vực cho phép nhà ĐTNN được mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam; thành lập một số mô hình khu kinh tế mở. - Ban hành các chính sách ưu đãi và đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam để sử dụng có hiệu quả nguồn lực, thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá và lao động; tranh thủ ưu đãi của Khu vực đầu tư ASEAN. - Chủ động xử lý các vấn đề pháp lý về ĐTNN liên quan đến việc thực hiện các cam kết của nước ta trong lộ trình hội nhập kinh tế (Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, Khu vực đầu tư ASEAN, ...). Kiến nghị: - Giao cho Bộ kế hoạch và Đầu tư triển khai, nghiên cứu Bộ luật đầu tư chung; trình Chính phủ đề án cổ phần hoá các doanh nghiệp ĐTNN. - Giao Bộ Tài chính hoàn chỉnh đề án liên quan đến thuế, kinh doanh bất động sản, hướng dẫn phá sản đối với doanh nghiệp ĐTNN. - Giao Bộ Thương mại hoàn chỉnh văn bản Luật cạnh tranh chống độc quyền. - Giao Bộ Tư pháp làm đầu mối rà soát các văn bản cần ban hành, sửa đổi cho phù hợp với các Điều ước quốc tế Việt nam đã ký. 3. Đổi mới và triển khai hiệu quả các chính sách về ĐTNN 3.1. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư. Quyết định 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là bước đi đầu tiên thực hiện lộ trình tiến tới một mặt bằng thống nhất giá phí dịch vụ đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp ĐTNN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ IV. Thực hiện chủ trương này, xin kiến nghị Chính phủ: - Tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hóa, dịch vụ để sau một thời gian, về cơ bản áp dụng một mặt bằng giá, phí thống nhất cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp ĐTNN. Trước hết, trong năm 2001 thống nhất giá, phí đăng kiểm phương tiện cơ giới, phí cảng biển, phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tiếp tục lộ trình giảm giá cước viễn thông, giá vé máy bay nội địa... căn cứ tình hình kinh tế chung, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp liên quan. Kiên quyết không ban hành thêm các loại giá, phí mới với sự phân biệt giữa các doanh nghiệp ĐTNN và doanh nghiệp trong nước. - Ban hành khung giá thống nhất về tiền đền bù giải toả mặt bằng. - Trong năm 2001, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam thanh toán dứt điểm, hợp lý các công trình điện ngoài hàng rào do các chủ đầu tư đã ứng vốn xây dựng. 3.2. Sửa đổi một số chính sách để tạo thuận lợi hơn cho hoạt động ĐTNN. A. ĐẤT ĐAI. - Soát xét lại giá cho thuê đất, miễn giảm tiền thuê đất trong một số năm đầu để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc đối với việc triển khai dự án. Giá cả đền bù, giải phóng mặt bằng phải hợp lý, không phân biệt đối xử với dự án ĐTNN và trong nước để tránh đẩy giá thuê đất thực tế lên cao. Cần sớm chấm dứt cơ chế các doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, chuyển sang thực hiện chế độ Nhà nước cho thuê đất. - Ngân hàng Nhà nước cùng với Bộ Tư pháp, Tổng cục địa chính ban hành các văn bản hướng dẫn việc thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam; nghiên cứu khả năng cho phép các dự án lớn và dự án xây dựng cơ sở hạ tầng được thế chấp quyền sử dụng đất ở tổ chức tài chính nước ngoài. b. Tài chính, tín dụng, ngoại hối. - Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xóa bỏ việc kết hối bắt buộc khi có điều kiện; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hóa chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai. Có chính sách bổ sung đảm bảo việc bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp ĐTNN đã thực hiện nghĩa vụ kết hối để đáp ứng nhu cầu hợp lý của doanh nghiệp. - Nghiên cứu ban hành mức lãi suất trần hợp lý đối với khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp ĐTNN). Xây dựng, hoàn thiện các quy định về bảo đảm vay vốn, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để doanh nghiệp ĐTNN có thể vay vốn của các ngân hàng trong, ngoài nước và các tổ chức quốc tế; từng bước nới lỏng hạn chế áp dụng đối với ngân hàng nước ngoài nhận tiền gửi bằng tiền đồng Việt Nam. - Các doanh nghiệp ĐTNN được tiếp cận thị trường vốn; được vay tín dụng, kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của dự án và có thể bảo đảm bằng tài sản của các công ty mẹ ở nước ngoài. Thí điểm việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu ở thị trường trong và ngoài nước để thu hút thêm vốn đầu tư. - Phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn đầu tư bằng các nguồn huy động dài hạn như: trái phiếu, cổ phiếu. Tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp ĐTNN có đủ điều kiện được niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán. Tổ chức vận hành an toàn, hiệu quả thị trường chứng khoán, bảo hiểm; từng bước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả thu hút ĐTNN. Từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư. Khuyến khích các nhà ĐTNN tham gia phát triển các loại thị trường dịch vụ khoa học, công nghệ, sản phẩm trí tuệ, các dịch vụ tư vấn phục vụ kinh doanh. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp tình hình đất nước và các cam kết quốc tế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất. Xin kiến nghị - Giao Ngân hàng Nhà nước sớm có văn bản hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với doanh nghiệp ĐTNN theo hướng không mở rộng đối tượng kết hối, và bảo đảm cân đối ngoai tệ đối với các dự án cơ sở hạ tầng, dự án quan trọng đầu tư theo chương trình Chính phủ được xác định trong GPĐT. - Giao Bộ tài chính ban hành Quy chế về hoạt động của các quỹ đầu tư; ban hành Quy chế quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp ĐTNN; ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, quản lý được hoạt động tài chính của doanh nghiệp. - Sớm ban hành quy định về thành lập cơ quan đăng ký quốc gia về các giao dịch có bảo đảm (Đề án Bộ Tư pháp đã trình). c. Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư. - Ngoài các dự án không cấp phép đầu tư, các dự án do yêu cầu an ninh, quốc phòng, giữ gìn bản sắc dân tộc về văn hoá, thuần phong, mỹ tục và những dự án quốc kế dân sinh quan trọng, cần mở rộng danh mục các dự án cho phép nhà ĐTNN được chủ động lựa chọn hình thức đầu tư xuất phát từ hiệu quả sản xuất kinh doanh; xử lý linh hoạt việc cho phép các liên doanh trong một số trường hợp được chuyển đổi hình thức đầu tư sang doanh nghiệp 100% vốn trong nước hoặc 100% vốn nước ngoài. - Đối với các liên doanh hiện nay hoặc trong tương lai gần làm ăn có lãi và những liên doanh quan trọng cần phải duy trì, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, giải quyết dứt điểm các vấn đề phát sinh, cho doanh nghiệp Việt Nam vay tín dụng nâng dần tỷ lệ góp vốn, tăng cường cán bộ có năng lực cho các doanh nghiệp liên doanh. Đề nghị Chính phủ sớm xem xét thông qua đề án xử lý các hình thức đầu tư, chuyển đổi doanh nghiệp liên doanh sang hình thức 100% vốn nước ngoài. (Đề án Bộ Kế hoạch và đầu tư đã trình tháng 8-1999). 3.3. Bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với những lĩnh vực, địa bàn cần thu hút ĐTNN. - Thực hiện chính sách thuế khuyến khích các dự án công nghệ cao, sản xuất thiết bị điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo, công nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện; khuyến khích đẩy nhanh chương trình nội địa hoá, chuyển giao công nghệ; sử dụng các sản phẩm trung gian phục vụ xuất khẩu. - Bổ sung các ưu đãi cao hơn đối với các dự án chế biến nông, lâm, thủy sản; đầu tư vào nông thôn và các địa bàn khó khăn, các dự án phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Có chính sách hỗ trợ cần thiết để hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế biến xuất khẩu. - Sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích ĐTNN hướng mạnh vào xuất khẩu (khuyến khích chế biến sâu, sử dụng nguyên vật liệu sẵn có trong nước, tạo giá trị gia tăng cao) và khai thác thị trường xuất khẩu mới, sản phẩm xuất khẩu mới. Sửa đổi theo hướng thu hẹp danh mục dự án phải đảm bảo xuất khẩu 80% sản phẩm trở lên. - Đối với một số dự án đặc biệt quan trọng, cần xử lý đặc cách và có chính sách hỗ trợ hợp lý trong khuôn khổ những cam kết theo lộ trình hội nhập. Kiến nghị: Giao Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các Bộ chuyên ngành xây dựng các chính sách ưu đãi trên. 3.4. Tăng cường thu hút ĐTNN vào các Khu công nghiệp, khu chế xuất. - Xem xét chặt chẽ việc thành lập các KCN mới khi hội đủ điều kiện; rà soát các KCN đã có quyết định thành lập để dừng hoặc giãn tiến độ xây dựng những KCN không đủ yếu tố khả thi. Áp dụng mô hình KCN với quy mô khác nhau, chú trọng các KCN vừa và nhỏ, các cụm công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn và để giãn các nhà máy tại các thành phố lớn. Tăng cường thu hút ĐTNN lấp đầy các KCN còn triển khai chậm, có phương án sử dụng đất tiết kiệm ở các KCN có tỷ lệ cho thuê đất cao. - Nghiên cứu tách riêng việc Nhà nước cho thuê đất nguyên thổ với việc kinh doanh cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp phát triển KCN để ngăn tình trạng đầu cơ đất. - Rà soát chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng để xác định hợp lý giá cho thuê lại đất trong các KCN để tránh đẩy giá cho thuê đất lên cao làm tăng chi phí đầu tư của các doanh nghiệp. - Bảo đảm hỗ trợ các công trình hạ tầng kỹ thuật (đường, điện, nước, thông tin liên lạc) đến tận hàng rào các KCN; ưu đãi ở mức cao nhất các dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với KCN (nhà ở cho công nhân, trường học, trường dạy nghề, cơ sở chữa khám chữa bệnh, thương mại và các dịch vụ đời sống của các thành phần kinh tế). - Hoàn thiện bộ máy quản lý, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước theo hướng đơn giản thủ tục hành chính. Nghiên cứu việc thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng. Kiến nghị: - Giao Tổng cục địa chính hoàn thiện văn bản hướng dẫn việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp để tạo thuận lợi cho việc thế chấp, cầm cố giá trị quyền sử dụng đất và tài sản trên đất để vay ngân hàng. - Giao Bộ KHĐT nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Quy chế KCN, KCX, KCNC phù hợp với tình hình mới theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư; thu hẹp khoảng cách và tiến tới thống nhất cơ chế, chính sách đối với đầu tư trong nước và ĐTNN trong các KCN. 4. Nâng cao hiệu quả quản lý và hiệu lực điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực ĐTNN. 4.1. Tập trung cao độ công tác quản lý, điều hành để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các dự án ĐTNN hoạt động có hiệu quả. Giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất. - Đối với các dự án chưa thực hiện, cần rà soát lại tính khả thi của dự án và liên hệ với nhà ĐTNN để nắm dự định, năng lực thực sự của họ. Nếu dự án không thể tiếp tục triển khai được thì nên sớm xử lý rút giấy phép đầu tư để có thể quy hoạch đất dự án vào việc khác hoặc kêu gọi nhà ĐTNN khác đầu tư vào dự án. Cần tính đến lợi ích chính đáng của các nhà ĐTNN khi thanh lý, giải thể dự án ĐTNN. Nếu dự án có thể tiếp tục triển khai, nhưng chủ đầu tư có khó khăn tạm thời về huy động vốn hoặc về thị trường tiêu thụ sản phẩm thì có thể xem xét cho phép dãn, hoãn tiến độ trong một khoảng thời gian nhất định. - Đối với những dự án mới bắt đầu triển khai hoặc đang xây dựng cơ bản thì cần hỗ trợ họ giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính để nhanh chóng đưa nhà máy vào hoạt động. - Hỗ trợ những dự án đang hoạt động sản xuất-kinh doanh thông qua việc chủ động điều chỉnh Giấy phép đầu tư để các dự án ĐTNN nhanh chóng được hưởng các ưu đãi mới trong Luật, Nghị định vừa ban hành; cho phép dự án sản xuất hàng xuất khẩu tăng tỷ lệ nội tiêu nếu sản phẩm đó trong nước có nhu cầu và ta vẫn phải nhập khẩu; xem xét việc cho vay tín dụng; tạo thuận lợi cho việc chuyển nhượng vốn ĐTNN. - Tổng kết ĐTNN trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng như dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, bưu chính-viễn thông, nông lâm ngư nghiệp... để đánh giá đúng thực trạng và định hướng thu hút, sử dụng ĐTNN phù hợp với thực tiễn đất nước. 4.2. Tiếp tục thực hiện phân cấp quản lý Nhà nước về ĐTNN cho các địa phương. - Phân cấp quản lý Nhà nước về ĐTNN cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố và các Ban quản lý KCN phải bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất về quy hoạch, cơ cấu, chính sách, cơ chế quản lý; tăng cường sự hướng dẫn và kiểm tra, giám sát của các Bộ, Ngành trung ương; nâng cao kỷ luật thực hiện để vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương, vừa tránh phá vỡ quy hoạch, tránh mọi sơ hở. Việc phân cấp liên quan đến mọi khâu của quản lý Nhà nước đối với ĐTNN, kể cả các khâu trước và sau khi cấp GPĐT. - Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp ĐTNN của NIEs trên địa bàn; tập trung giúp đỡ các doanh nghiệp giải quyết các khó khăn và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật; giám sát, kiểm tra các cán bộ thừa hành thực hiện nghiêm túc các quy định của luật pháp, chính sách, chủ trương của Nhà nước. - Trong điều kiện đã chuyển các Ban quản lý KCN cấp tỉnh về chịu sự quản lý của UBND cấp tỉnh, đề nghị xem xét chuyển cơ chế Bộ Kế hoạch và Đầu tư uỷ quyền cho Ban quản lý KCN hiện nay thành cơ chế Thủ tướng Chính phủ phân cấp cho UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý Nhà nước về ĐTNN trong các KCN, KCX, KCNC (gồm cả khâu trước và sau cấp GPĐT) trên cơ sở điều kiện và tiêu chí trước đây của cơ chế uỷ quyền ( theo đó, UBND cấp tỉnh được phân cấp cấp GPĐT cho các dự án trong KCN thuộc lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ công nghiệp quy mô vốn đầu tư tới 40 triệu USD, trừ dự án nhóm A). Đồng thời, UBND cấp tỉnh sẽ uỷ quyền cho Ban quản lý KCN cấp tỉnh cấp và điều chỉnh GPĐT cho các dự án trong KCN thuộc thẩm quyền quyết định của Ban quản lý KCN cấp tỉnh theo quy định trước đây để duy trì sự hoạt động của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh ( theo đó Ban quản lý KCN cấp tỉnh được uỷ quyền cấp GPĐT cho các doanh nghiệp chế xuất quy mô vốn đầu tư tới 40 triệu USD, các dự án công nghiệp hội đủ điều kiện có quy mô từ 5-10 triệu USD). - Đối với các Ban quản lý không trực thuộc sự quản lý của UBND cấp tỉnh (như KCN Việt Nam - Singapore, KCN Dung Quất, KCNC Hoà Lạc) vẫn thực hiện cơ chế Bộ Kế hoạch và Đầu tư uỷ quyền như hiện nay. Kiến nghị: giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm chủ trì tổng kết tình hình phân cấp và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về phân cấp quản lý Nhà nước về ĐTNN cho UBND cấp tỉnh trong quý II năm 2001. 4.3. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với ĐTNN. - Hoàn chỉnh quy trình ban hành các văn bản pháp quy để ngăn chặn việc các Bộ, ngành, địa phương ban hành các văn bản trái quy định chung hoặc thực hiện không nghiêm các quyết định của Chính phủ trong lĩnh vực ĐTNN. Rà soát có hệ thống các văn bản của các ngành, các cấp liên quan đến hoạt động ĐTNN. - Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc quản lý hoạt động ĐTNN theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm. Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Chính phủ quản lý thống nhất hoạt động ĐTNN, là đầu mối phối hợp giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN. - Quy định cụ thể chế độ kiểm tra để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, tránh hình sự hoá các quan hệ kinh tế; đồng thời vẫn bảo đảm giám sát được các doanh nghiệp. Áp dụng các chế tài đối với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật. - Quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính; công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý; giảm đầu mối, giảm các thủ tục không cần thiết nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản về cải cách hành chính trong lĩnh vực ĐTNN; duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư. - Từng bước mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp Giấy phép đầu tư, từng bước thực hiện thí điểm cơ chế đăng ký đầu tư. - Ngăn chặn, xử lý nghiêm khắc các hiện tượng sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và sự tắc trách trong công việc của cán bộ công quyền; thay thế những cán bộ trong các liên doanh không đủ năng lực, phẩm chất. Kiến nghị: - Giao Bộ Tư pháp hoàn chỉnh quy trình ban hành văn bản pháp quy. - Giao Bộ kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương rà soát các văn bản pháp quy liên quan đến ĐTNN, kiến nghị bãi bỏ những văn bản, những loại giấy phép không còn cần thiết; xây dựng quy chế phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý hoạt động ĐTNN; xây dựng đề án về đăng ký cấp phép và đăng ký đầu tư. 5. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư. - Đổi mới về nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư theo một chương trình chủ động, có hiệu quả phù hợp với từng địa bàn, loại hình doanh nghiệp (TNCs, doanh nghiệp vừa và nhỏ). Thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại các Bộ, ngành, Tổng công ty lớn, tại các cơ quan đại diện nước ta ở một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài để chủ động vận động, xúc tiến đầu tư trực tiếp đối với từng dự án, từng tập đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng. Đối với một số dự án lớn, quan trọng, cần chuẩn bị kỹ dự án, lựa chọn, mời trực tiếp một vài tập đoàn lớn trong ngành, lĩnh vực đó vào để đàm phán, tham gia đầu tư vào các dự án đó. Ngân sách Nhà nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng cho công tác này. - Tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư hiện đang có dự án hoạt động, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới. Kiến nghị: - Giao Bộ Tài chính chuẩn bị ngân sách thường xuyên cho hoạt động xúc tiến đầu tư. - Giao bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các nước, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút ĐTNN của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. 6. Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo công nhân kỹ thuật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Công đoàn và các tổ chức đoàn thể trong các Doanh nghiệp ĐTNN. Trong hoạt động ĐTNN, công tác cán bộ đặc biệt quan trọng vì cán bộ vừa tham gia hoạch định chính sách, vừa là người vận dụng luật pháp, chính sách để xử lý tác nghiệp hàng ngày liên quan đến mọi hoạt động ĐTNN, là người bảo vệ lợi ích phía Việt Nam; đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật. Để nâng cao chất lượng của đội ngũ công chức Nhà nước các cấp, cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp ĐTNN, xin kiến nghị: - Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ xây dựng Quy chế cán bộ Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh, quy định rõ tiêu chuẩn tuyển chọn về chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ làm việc tại các doanh nghiệp ĐTNN; - Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đào tạo chính quy cán bộ làm công tác ĐTNN, cán bộ quản lý các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. - Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Ban quản lý KCN tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp ĐTNN. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thường xuyên việc tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp, kinh nghiệm cần thiết nhất cho cán bộ Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các doanh nghiệp ĐTNN. - Ban Tổ chức Trung ương Đảng quy định và hướng dẫn phương thức sinh hoạt và nội dung hoạt động của các tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, phù hợp với đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có kế hoạch vận động và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn ở tất cả các doanh nghiệp ĐTNN để bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động. Chính phủ xem xét hỗ trợ một phần kinh phí cho các tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp./. Việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng. Chính sự lãnh đạo của Đảng sẽ là nhân tố quyết định sự ổn định chính trị, kinh tế và việc thu hút đầu tư đúng hướng chiến lược. Mọi sự buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng chắc chắn sẽ thất bại. Để làm được điều này thì trước hết, đội ngũ lãnh đạo phải là người có phẩm chất chính trị tốt, được đào tạo, có kinh nghiệm lãnh đạo. Đội ngũ lãnh đạo phải hiểu và nắm vững được đường lối của Đảng để thu hút FDI theo đúng hướng, đúng mục tiêu đề ra. Trong quá trình quản lý cần quán triệt nguyên tắc “một cửa” đối với nhà đầu tư, tránh tình trạng “một cửa” nhưng “nhiều chìa khóa”, “một cửa” mà lại cửa quyền hay chỉ quản lý một cửa còn các cửa khác bỏ ngỏ. Lựa chọn những cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn vững, giỏi về ngoại giao, nhạy bén, năng động trong công việc để nhanh chóng và nắm bắt trực tiếp được các vấn đề, cũng như có khả năng giải quyết chúng. Chú trọng người trẻ tuổi, thử thách sàng lọc ngay trong hoạt động thực tiễn để tạo ra một lớp người mới có năng lực đáp ứng được tình hình thực tế 2.1. Xúc tiến đầu tư. Xúc tiến đầu tư (Investment Promotion) là các hoạt động giới thiệu, quảng cáo cơ hội đầu tư và hỗ trợ đầu tư của nước chủ nhà. Các hoạt động này được thực hiện bởi quan chức Chính phủ, các nhà khoa học, các doanh nhân, và dưới nhiều hình thức như các chuyến thăm viếng ngoại giao cấp chính phủ, các hội thảo khao học, các diễn đàn đầu tư, các đoàn thăm quan khảo sát, và thông tin qua các phương tiện thông tin, xây dựng các mạng lưới văn phòng đại diện tại nước ngoài. Một môi trường đầu tư dù có nhiều thuận lợi nhưng ít được thế giới bên ngoài biết đến hoặc hiểu không đầy đủ, sai lệch thì cũng không thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài. Do đó, việc giới thiệu, quảng cáo môi trường đầu tư rộng rãi ra bên ngoài là rất cần thiết và được nhiều nước chú trọng. Hàng năm Việt Nam cần phải tổ chức các đoàn cấp chính phủ (do Thủ tướng hoặc Bộ trưởng dẫn đầu) đi các nước hoặc tham gia các diễn đàn kinh tế khu vực và quốc tế để giới thiệu, quảng bá môi trường đầu tư của mình nhằm vận động đầu tư nước ngoài. Tại các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với các đối tác, các thành viên của đoàn thường thông báo cho các nhà đầu tư về các cơ hội đầu tư của nước mình và trả lời những câu hỏi mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm. Việc giới thiệu, quảng cáo cơ hội đầu tư có thể được thực hiện qua các cuộc hội thảo khoa học ở trong nước và quốc tế. Các báo cáo tại hội thảo tập trung vào các vấn đề của môi trường đầu tư của nước mình. Tại đây, các nhà khoa học, chuyên môn, doanh nhân, bàn luận với nhau về môi trường đầu tư, nhờ đó giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài hiểu tốt hơn về các cơ hội đầu tư của nước chủ nhà. Tổ chức hoặc tham gia các diễn đàn đầu tư (investment forum), kinh tế khu vực và kinh tế thế giới cũng là biện pháp tốt để giới thiệu, quảng cáo cơ hội đầu tư của nước chủ nhà. Các diễn đàn này là một trong những nơi tốt nhất để nước chủ nhà giới thiệu, quảng cáo môi trường đầu tư của mình với các nhà đầu tư nước ngoài. Việc tổ chức và tạo điều kiện thuận lợi cho các đoàn (chủ yếu là các doanh nhân) ra nước ngoài thăm quan, khảo sát thực tế có hiệu quả rất lớn trong hoạt động xúc tiến đầu tư. Các doanh nhân là những người nắm chắc thực tế và có nhu cầu tìm kiếm đối tác cụ thể. Khi thăm quan, khảo sát ở nước ngoài họ sẽ có nhiều cơ hội gặp trực tiếp đối tác để trao đổi cơ hội làm ăn với nhau. Các phương tiện thông tin có vai trò hết sức quan trọng trong các hoạt động xúc tiến đầu tư. Thông qua hệ thống truyền hình, băng đĩa, ấn phẩm, các hình ảnh về đất nước, con người và các cơ hội đầu tư của Việt Nam được giới thiệu đầy đủ và sinh động. Đây là các phương tiện được các nước phát triển triệt để khai thác sử dụng và đã mang lại hiệu quả to lớn trong các hoạt động xúc tiến đầu tư ở các nước này. Thành lập mạng lưới văn phòng đại diện xúc tiến đầu tư tại các nước NIEs là một trong những biện pháp rất hiệu quả trong các hoạt động xúc tiến đầu tư. Thông qua văn phòng này, các nhà đầu tư nắm bắt nhanh chóng và chính xác các cơ hội đầu tư của nước chủ nhà. Đồng thời họ còn nhận được sự hỗ trợ cần thiết trong các công việc nghiên cứu khả thi và các thủ tục đầu tư. Qua kinh nghiệm của những nước thành công trong thu hút đầu tư nước ngoài cho thấy, biện pháp này đặc biệt coi trọng. Ở nước ta, việc thành lập các văn phòng xúc tiến đầu tư ở nước ngoài còn rất nhiều hạn chế. 2.2. Phát triển cơ sở hạ tầng. Có thể nói cơ sở hạ tầng (cứng) có vai trò làm nền móng cho các hoạt động đầu tư, nhất là trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ sử dụng công nghệ hiện đại. Cơ sở hạ tầng tốt không chỉ đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật, giá thành của sản phẩm mà còn hạn chế được các rủi ro trong đầu tư. Chính vì thế, trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng của Việt Nam là một trong những mối quan tâm lớn của các nhà đầu tư nước ngoài. Để đáp ứng các yêu cầu trên, Việt Nam phải chuẩn bị cơ sở hạ tầng đủ tốt trước khi tiếp nhận đầu tư nước ngoài (các công việc tiền đầu tư). Đó là các công việc xây dựng hệ thống giao thông (đường xá, nhà ga, bến cảng,..), kho bãi, điện nước, thông tin, bưu điện, Đây là các biện pháp có tính quyết định đến sự thành công trong thu hút đầu tư nước ngoài của các nước NIEs vào Việt Nam. Xây dựng hệ thống giao thông đủ tốt đòi hỏi lượng kinh phí rất lớn và thời gian thu hồi vốn đầu tư dài. Do đó, nguồn vốn đầu tư phát triển hệ thống này (nhất là ở các nước đang phát triển như Việt Nam) chủ yếu được huy động từ các nguồn ngân sách nhà nước, nhận viện trợ, vay nợ chính phủ (ODA) hoặc khuyến khích đầu tư tư nhân (chủ yếu là đầu tư nước ngoài) tham gia dưới hình thức BOT, BT. Hệ thống kho bãi với số lượng, quy mô và tiêu chuẩn kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu sản xuất và phân phối của các nhà đầu tư nước ngoài cũng được nước chủ nhà chú trọng phát triển. Ở nhiều nước, các công việc này thường do các công ty phát triển cơ sở hạ tầng tư nhân thực hiện. Nhà nước chỉ hỗ trợ cung cấp thông tin, ưu đãi thuế hoặc bảo lãnh vay nợ nước ngoài. Ở Việt Nam, việc xây dựng hệ thống kho bãi đạt tiêu chuẩn quốc tế còn rất hạn chế, phần lớn do các công ty nhà nước thực hiện và thường tập trung ở các cảng biển là chủ yếu. Khả năng cung cấp điện nước cho các hoạt động đầu tư là yếu tố quyết định quy mô của dự án. Một nước không thể thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài nếu khả năng cung cấp điện nước bị hạn chế. Bởi vậy, nước chủ nhà cần ưu tiên đầu tư phát triển điện lực và các nhà máy cung cấp nước sạch. Đây cũng là những hạng mục đòi hỏi vốn đầu tư lớn và có tính nhạy cảm cao. Thông tin, bưu điện là nhu cầu không thể thiếu được trong các hoạt động điều hành kinh doanh và trong cuộc sống của các nhà đầu tư nước ngoài. Bởi thế, việc xây dựng một hệ thống thông tin, bưu điện đạt chất lượng cao là một trong những biện pháp ưu tiên phát triển hàng đầu để tăng hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2.3. Đa dạng hóa các hình thức đầu tư. Tích cực mở rộng các hình thức đầu tư trong khuôn khổ pháp luật theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa. Theo luật đầu tư nước ngoài mới được sửa đổi bổ sung của Việt Nam năm 2000 thì ở nước ta hiện nay có các hình thức đầu tư chủ yếu như: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) và các biến thể của nó. Trong thời gian qua chúng ta vẫn chưa phát huy được nhiều hình thức đầu tư đó, chúng ta mới chỉ thu hút đầu tư theo hai hình thức chủ yếu là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, còn các hình thức khác, chúng ta chưa thu hút được nhiều do các quy định trong đó vẫn kém hấp dẫn các nhà đầu tư. Vì vậy, trong giai đoạn tới chúng ta cần có các biện pháp tích cực hơn nữa để nhằm phát huy hơn nữa các hình thức đầu tư. Nghiên cứu và ứng dụng các hình thức đầu tư mới như công ty cổ phần, công ty hợp doanh đầu tư nước ngoài theo hình thức mua lại và sáp nhập, các công ty quản lý vốn, huy động vốn từ các quỹ đầu tư. 2.4. Xây dựng và công khai quy hoạch vốn FDI dài hạn đối với từng ngành và từng vùng cụ thể. Trên thực tế hiện nay, do giữa các địa phương có sự cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo số lượng nên đã phá vỡ quy hoạch tổng thể ngành sản phẩm và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, sản xuất thừa công suất. Công tác xây dựng quy hoạch nói chung và các quy hoạch cụ thể liên quan đến hoạt động FDI còn chậm, chưa được thực hiện thống nhất từ trung ương đến địa phương, chất lượng chưa cao và thiếu tính cụ thể. Khiến cho các nhà đầu tư vào Việt Nam còn phải mất thời gian tìm hiểu. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần nhanh chóng lập quy hoạch các ngành, lãnh thổ , cơ cấu kinh tế thống nhất trên phạm vi cả nước. Trước hết, cần khẩn trương quy hoạch các KCN, KCX các sản phẩm quan trọng thuộc các ngành công nghiệp chế biến: Như chế biến thực phẩm, dệt may; công nghiệp chế tạo như cơ khí, hóa chất, điện tử vật liệu xây dựng, công nghiệp hóa lọc dầu, công nghiệp luyện kim, công nghệ thông tin. Trên cơ sở đó, xác định các dự án trong nước tự đầu tư hoặc vay vốn để đầu tư, những dự án có thể kêu gọi đầu tư theo ngành và lãnh thổ cũng như xác định yêu cầu tương ứng về công nghệ. Các ngành cần hoàn chỉnh thêm một bước quy hoạch, phối hợp với các thành phố địa phương xây dựng quy hoạch trên địa bàn lãnh thổ, nhằm thu hút một cách hiệu quả hơn, đảm bảo quản lý thuận tiện và khắc phục tình trạng yếu kém về cơ sở hạ tầng. Trừ một số dự án đặc thù như khai thác chế biến khoáng sản, chế biến nông sản gắn với vùng nguyên liệu; các dự án đầu tư vào miền núi, Tây Nguyên, miền núi phía Bắc cần tập trung, giảm bớt tỷ lệ đầu tư phân tán. Hướng dẫn công bố rộng rãi các danh mục các ngành, lĩnh vực đầu tư vào các khu vực nói trên.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8167.doc