Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ năm 2000 đến nay

Chiến lược thu hút FDI là một bộ phận tổng thể nền kinh tế nói chung và chiến lược kinh tế đối ngoại nói riêng. Do đó, chiến lược thu hút FDI phải được thể hiện với những nội dung chủ yếu sau: Xây dựng và ban hành quy hoạch đầu tư dài hạn ở Việt Nam để tránh đầu tư dàn trải và kém hiệu quả, tạo điều kiện cải thiện cơ sở hạ tầng (vùng trọng tâm, vùng trọng điểm thu hút vốn FDI). Nên chăng, Chính phủ lập bản đồ quy hoạch về đầu tư kể cả đầu tư trong và ngoài nước trên từng lĩnh vực, từng nhóm mặt hàng với nguyên tắc không hạn chế số lượng dự án sản xuất hàng xuất khẩu, chỉ hạn chế về số lượng, quy mô dự án sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa để tránh hỗn loạn cung cầu thị trường, tránh lãng phí đầu tư. Các địa phương được phân cấp và chủ động cấp giấy phép đầu tư nhưng phải tuân thủ quy hoạch về đầu tư để tránh rối loạn thị trường nội địa, gây khó khăn cho điều hành của chính phủ và thiệt hại cho nhà đầu tư.

doc48 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ năm 2000 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o với mức trung bình chung là 20%). Lĩnh vực dịch vụ đã thu hút 636 dự án, trong đó có 169 dự án bị giải thể trước thời gian (chiếm 26,5%), tổng vốn đầu tư là 4418 triệu USD (chiếm 54,6%). Nhìn chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ đã góp phần khai thác được những thế mạnh của lĩnh vực này nhưng lại chưa hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bởi lẽ mức độ rủi ro trong ngành này cũng khá cao. Theo hình thức đầu tư: tỷ lệ các dự án FDI bị giải thể là các doanh nghiệp liên doanh (chiếm 69% về dự án và 68% về vốn đầu tư). Theo tính toán sơ bộ, tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký của dự án liên doanh chỉ đạt 11,6%, trong khi có dự án 100% vốn nước ngoài đạt 26,7%. Tỷ lệ giải thể các liên doanh lên tới 73% số dự án và 69% tổng vốn đăng ký trong khi các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chỉ có tỷ lệ giải thể 17% dự án và 8% vốn đăng ký. Phần lớn các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có đối tác là Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản chiếm 65% số dự án và 57% vốn đầu tư. Trong khối ASEAN, chỉ có Singapore, Malaysia và Thái Lan là có dự án đầu tư ở Việt Nam với 575 dự án (chiếm 21%) và vốn đăng ký đạt 8.868 tỷ USD (chiếm 24,4%). Phần lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian gần đây tại Việt Nam là từ các nước trong khu vực (88% dự án và 81% vốn đăng ký). Trên đây là thực trạng chung về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, qua đó, có thể thấy được những khó khăn và thách thức như sau: Thứ nhất: Một số hạn chế: Nhiều dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam hoạt động không có hiệu quả. Trong 9 tháng đầu năm 2001, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải quyết định giải thể 40 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 765 triệu USD. Dự báo đến hết năm 2002, vẫn còn một số dự án phải giải thể trước thời hạn, tổng số dự án giải thể trong năm nay có thể có số vốn lên đến 1 tỷ USD. Các dự án này tập trung vào khu vực sản xuất vật liệu xây dựng và dịch vụ khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê. Trong số các dự án bị giải thể sớm so với thời hạn nói trên có không ít dự án mới được cấp phép vào năm 1999 và năm 2000. Nhiều chủ dự án không có đủ vốn như đăng ký. Một số chủ dự án đã kéo dài thời hạn đầu tư vốn và giải ngân do chính sách của ta ưu đãi và hấp dẫn, họ đã đăng ký đầu tư trước sau đó mới thu xếp vốn. Theo một số nhà kinh tế, thì có những chủ đầu tư đăng ký, xin đầu tư sau đó bán lại dự án để ăn lãi chênh lệch. Một số dự án được cấp đất sau nhiều năm nhưng vấn đề đất hoang hoá mà ta không kịp thời xử lý theo pháp luật Việt Nam như Trung tâm thương mại Hà nội, khách sạn Hà nội nằm bên hồ Hoàn Kiếm. Hầu hết các dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chưa thể hiện việc các nhà đầu tư mang công nghệ mới, hiện đại của thế giới vào Việt Nam. Ngoài việc họ đưa vào nước ta công nghệ điện tử có tính thời đại nhưng hàng hoá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài này sản xuất ra vẫn kém tính cạnh tranh so với Công ty mẹ của họ. Ngoài ra, những dự án chúng ta rất mong mỏi như cơ khí chế tạo, công nghiệp vật liệu, công nghệ kỹ thuật cao thì đến nay vẫn chưa vào Việt Nam. Ngay một số dự án ta vừa ưu đãi trên chính sách, vừa ưu đãi thực tế như công nghiệp ô tô, công nghiệp xe máy ... cũng chỉ ở trình độ lắp ráp. Hầu hết các phụ tùng, phụ kiện đòi hỏi sản xuất bằng công nghệ cao thì đến được chế tạo ở nước khác rồi đưa vào Việt Nam để lắp ráp. Lợi dụng sự ưu đãi, khuyến khích đầu tư của nước ta, nhiều nhà đầu tư đưa vào Việt Nam các công nghệ thiết bị không đồng bộ. Sự không đồng bộ thể hiện ở nhiều mặt. Lĩnh vực mà nhiều người nhìn thấy rõ nhất đó là công nghệ xử lý chất thải công nghiệp. Nhiều nhà đầu tư chỉ tập trung vốn cho sản xuất, trong khi lại đầu tư nhỏ giọt cho bảo vệ môi trường. Một thực tế đã xảy ra là khu vực tập trung nhiều nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài thì khu vực đó môi trường suy thoái, nhất là môi trường nước. Sông Đồng Nai đoạn chảy qua Biên Hoà, Bình Dương và Sông Thị Vải ở Bà Rịa - Vũng Tàu là những minh chứng. Để khôi phục lại môi trường chắc chắn chúng ta phải đầu tư một khoản tiền khổng lồ chưa tính trước được và khi có tiền nhưng chưa chắc khôi phục lại được môi trường. Thêm vào đó, nhiều dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh đối với các doanh nghiệp Việt Nam theo cách giảm tỉ lệ hàng xuất khẩu để tranh giành thị trường nội địa Việt Nam. Mặt khác, một số nhà đầu tư mặc dù nhận được sự ưu đãi và thân thiện của Việt Nam vẫn dùng các thủ pháp chia sẻ rủi ro với bên Việt Nam trong liên doanh vào thời kỳ đầu, khi giành được thị trường và ổn định sản xuất thì biến doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bán ra thị trường các loại hàng hoá rất đắt so với nước sở tại và so với các nước lân cận trong khi chính chúng ta vẫn tạo ra các hàng rào bảo hộ cho các loại hàng hoá ấy. Thể hiện rõ nhất là các dự án lắp ráp ô tô, xe gắn máy. Theo tính toán của một số chuyên gia kinh tế, giá xe ô tô do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bán tại Việt Nam cao bằng 163% giá xe ô tô tại Mỹ, giá xe máy cao hơn các nước trong khu vực và Đài Loan từ 600 - 1000 USD/chiếc. Ngoài ra, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không xuất khẩu hàng hoá tạo ra sự khủng hoảng thừa về hàng hoá, nhất là vật liệu xây dựng. Thứ hai: Cơ hội và thách thức. Trong những năm qua, Việt Nam đã ký kết hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với: 41 nước và vùng lãnh thổ, đã tham gia công ước về bảo đảm đầu tư đa biên (MGA) và hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, đặc biệt, với việc ký kết hiệp định thương mại với Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 2000. Việt Nam đã cam kết thực hiện tiêu chuẩn quốc tế về đầu tư ở phạm vi và mức độ cao nhất so với các điều ước trước đó. Theo đánh giá của Bộ kế hoạch và đầu tư, việc Mỹ thông qua hiệp định, nước ta có điều kiện tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách nhằm tạo dựng một môi trường đầu tư có tính hấp dẫn và cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Hiệp định tạo cơ sở để Việt Nam phát triển một nền kinh tế lành mạnh có cạnh tranh, do đòi hỏi của Hiệp định là xoá bỏ các phân biệt đối xử có lợi cho kinh tế quốc doanh và tạo “sân chơi” bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Việc các doanh nghiệp Mỹ và các nước khác đầu tư vào các ngành kinh tế trong nước sẽ tạo cạnh tranh, giảm giá thành, có lợi cho người tiêu dùng và giúp Việt Nam có cơ hội phát triển, nắm thông tin, mở rộng thị trường ra nước ngoài. Nó cũng giúp làm trong sạch thị trường tài chính, tín dụng của Việt Nam, đồng thời buộc các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, tiếp thu công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, đổi mới phương thức quản lý ... Khi hiệp định chính thức có hiệu lực, sẽ mở ra cho Việt Nam một thị trường rộng lớn cho thuế nhập khẩu hàng hoá Việt Nam vào Mỹ giảm xuống bằng mức của các nước đang phát triển khác. Thuế nhập khẩu nói chung từ 40 - 60% xuống còn 3%. Ngay lập tức, việc giảm thuế này có lợi cho ngành sản xuất quần áo, giấy dép, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những ngành này sẽ tăng đáng kể trong thời gian tới, vì các nước có vốn muốn tận dụng lợi thế nhân công rẻ ở Việt Nam để sản xuất hàng hoá để xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Cơ hội là vậy, nhưng biến nó thành hiện thực không phải là điều đơn giản, bởi nước ta phải đối mặt với những thách thức to lớn. Trước hết, hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài ở nước ta còn thiếu đồng bộ, chưa đủ mức cụ thể, còn nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo. Việc thực thi pháp luật, chính sách còn tuỳ tiện, không nhất quán ... Đây là một thách thức to lớn trong quá trình thực thi các cam kết. Thứ hai, bộ máy quản lý cồng kềnh, chồng chéo và thủ tục hành chính quá phức tạp, nhất là các thủ tục liên quan đến triển khai dự án đầu tư như đất đai, xây dựng, xuất nhập khẩu, hải quan ... Các tiêu chí cấp phép và từ chối cấp phép còn thiếu minh bạch, chưa rõ ràng. Thứ ba, các quy định hiện hành về hình thức pháp lý của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chưa đa dạng và chưa đáp ứng yêu cầu mở rộng các phương thức huy động vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, nhà đầu tư nước ngoài chưa được phép thành lập Công ty cổ phần, Công ty hợp danh như quy định tại luật doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài vẫn duy trì một số hạn chế nhất định, như yêu cầu về hình thức đầu tư trong một số lĩnh vực, yêu cầu về xuất khẩu đối với các sản phẩm, yêu cầu về nội địa hoá, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Thứ tư, hệ thống hạ giá thành từ nhiều năm nay, không đáp ứng yêu cầu dành đối xử quốc gia cho nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời làm giảm sức hấp dẫn và áp lực cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam. Thứ năm, việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực không theo kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và các yêu cầu về mặt xã hội. Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề quá thiếu cả về số lượng và chất lượng, không đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp. Điều khó khăn thứ hai đó là sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút FDI giữa các nước và các khu vực. Kể từ 1995, kinh tế Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản bắt đầu phục hồi sau một thời gian suy thoái, tình hình đó thúc đẩy các nhà đầu tư trên thế giới dùng 70% tổng vốn FDI đầu tư cho những nước công nghiệp phát triển (tổng FDI của cả thế giới gần 300 tỉ USD). Phần vốn còn lại là các nước đang phát triển phân chia và cạnh tranh với nhau. Do đó, mức độ cạnh tranh thu hút FDI càng trở nên gay gắt, nhất là khu vực Châu á. ở đây có những thị trường mới nổi lên như Trung Quốc, ấn Độ và Inđônêxia. Hàng năm trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài đổ vào các nước đang phát triển thì Trung Quốc tiếp nhận 1/2, ấn Độ sau những năm gần đây tích cực cải cách kinh tế, môi trường đầu tư được cải thiện nên FDI vào nước này đang tăng nhanh. So với Việt Nam thì các đối thủ này rất mạnh, xét về nhiều phương diện, từ quy mô thị trường đến trình độ công nghiệp hoá và các cơ chế chính sách thu hút FDI. Thứ ba: Vấn đề công nghệ Các Công ty đa quốc gia luôn nắm bắt hầu hết các công nghệ hiện đại của thế giới. Nếu FDI của họ vào nước ta càng nhiều thì quá trình chuyển giao công nghệ càng nhiều và càng nhanh. Nhưng nó chỉ là khả năng. Tất cả các quốc gia nhận FDI đều mong muốn nhận được công nghệ hiện đại. Nhưng hiện đại đến đâu lại tuỳ thuộc vào điều kiện của các nước sở tại. Việt Nam cũng như một số nước đang phát triển khác, cảm giác bao trùm là các nhà đầu tư chỉ đưa đến các công nghệ cũ kỹ và lạc hậu. Điều này có lý do của nó vì: 1. Chính sách của Việt Nam hiện nay vẫn là khuyến khích thay thế nhập khẩu và bảo hộ thị trường trong nước. Thực tế cho thấy, nếu như sản xuất để thay thế nhập khẩu và để tiêu dùng trong nước, lại được Nhà nước bảo hộ thì không phải nhập khẩu công nghệ hiện đại, đắt tiền bởi vì các nhà đầu tư dùng nguyên liệu và lao động rẻ, công nghệ lạc hậu vẫn sản xuất ra các mặt hàng có thể tiêu thụ được. Nếu chuyển mạch sang thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu, khuyến khích đầu tư vào các ngành xuất khẩu chắc chắn các nhà đầu tư và các cơ quan tiếp nhận đầu tư sẽ phải viện trợ công nghệ tiên tiến hơn để nâng cao năng lực cạnh tranh và tiêu thụ được sản phẩm trên thị trường quốc tế. Việc chuyển từ chính sách thay thế nhập khẩu sang chính sách hướng về xuất khẩu đòi hỏi không chỉ phải đổi mới tư duy về chính sách kinh tế mà cả công nghệ nhập khẩu và cơ chế quản lý cũng phải thay đổi. Không thể đồng nhất việc bảo hộ sản xuất của một số doanh nghiệp với việc bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhà nước có thể tăng thuế xuất nhập khẩu để bảo hộ sản xuất cho một số ngành nghề tiếp tục hoạt động, đảm bảo việc làm cho hàng ngàn người nhưng tại hại rất lớn mà hàng triệu người tiêu dùng phải gánh chịu là mua hàng hoá đắt, chất lượng thấp. Nếu như thuế nhập khẩu giảm đi, hàng ngoại sẽ cạnh tranh với hàng nội, điều đó buộc các doanh nghiệp sẽ phải đổi mới công nghệ theo hướng tiên tiến, hiện đại. 2. Kinh nghiệm của các nước Đông Nam á như Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy, muốn sử dụng công nghệ hiện đại phải có nguồn nhân lực được đào tạo căn bản để tiếp thu và làm chủ các công nghệ đó. ở Nhật Bản, Hàn Quốc, việc nhập khẩu công nghệ được suy xét rất kỹ. Thời kỳ đầu có thể phải nhập khẩu thiết bị toàn bộ qua FDI, nhưng đến giai đoạn sau họ nhập bản quyền, thiết bị lẻ và cải tiến công nghệ đó, nâng cao tính năng và hiệu suất máy móc. Họ làm được như vậy vì có đội ngũ công nhân lành nghề và các chuyên gia có trình độ cao. Hiện tại ở Việt Nam do thiếu hụt nghiêm trọng đội ngũ lao động kỹ thuật, nếu giả sử có thực hiện một cách tích cực chính sách hướng về xuất khẩu thì với điều kiện nhân lực như hiện nay việc nhập khẩu công nghệ thực sự tiên tiến và hiện đại chưa hẳn đã là hiệu quả. Đây là một khó khăn đòi hỏi phải sớm khắc phục. 3. Cơ sở hạ tầng để phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam rất lạc hậu. Đầu tư cho khoa học công nghệ còn thấp, bên cạnh đó các ngành, các cấp cũng chưa thực quan tâm đến công tác này, đặc biệt là công tác nghiên cứư ứng dụng triển khai. Thứ ba: Vấn đề thị trường. Thị trường trong nước mới là 80 triệu dân nhưng sức mua không lớn. Những năm gần đây, nhiều mặt hàng sản xuất ra tiêu thụ rất khó hoặc bị ứ đọng, điển hình là xi măng, sắt thép, hàng may mặc, đường ... Một số mặt hàng như ô tô, xe máy mới đầu tư những năm gần đây nhưng tiêu thụ trong nước rất chậm đã làm cho việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp khó khăn. Năm 1996, Việt Nam đã nhập khẩu hơn 1,1 tỷ USD, phần lớn số hàng nhập khẩu này là hàng trong nước chưa sản xuất được. Vì thế các Công ty nước ngoài đầu tư tại Việt Nam đang nhằm vào sản xuất các mặt hàng mà Việt Nam phải nhập khẩu. Tuy nhiên, do nhiều Công ty của cả nước ngoài và trong nước đều tập trung vào sản xuất ra các mặt hàng này nên cạnh tranh rất gay gắt và mức tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp càng giảm, làm cho FDI giảm theo. Bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á xảy ra vào cuối năm 1997, nhiều nhà kinh doanh cho rằng, đó là điều kiện thuận lợi để Việt Nam thu hút FDI. Theo họ, khi các nước trong khu vực mất ổn định về tài chính, thì đầu tư ở Việt Nam sẽ ít rủi ro hơn và có hiệu quả hơn. Thực tế cho thấy cuộc khủng hoảng tài chính không những gây thiệt hại nặng nề cho các nước đó mà còn làm cho dòng FDI vào Việt Nam và mức xuất khẩu của Việt Nam giảm mạnh. Ngoài những đặc điểm chính nêu trên thì một tồn tại không nhỏ là cơ cấu đầu tư ở Việt Nam một mặt vừa phân tán, manh múm, mặt khác lại quá tập trung vào một số ngành, lĩnh vực và địa phương. Không ít trường hợp cùng một mặt hàng nhưng có nhiều dự án cùng đầu tư sản xuất chẳng hạn như xi măng, đường ... Nhiều nhà đầu tư nước ngoài cho rằng cơ cấu đầu tư ở Việt Nam hình như không theo quy luật của cơ chế thị trường. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện có nhiều cơ hội và không ít những thách thức và xét một cách toàn diện thì những gì mà chúng ta đã làm chưa phát huy hết được các lợi thế của chính mình. Có thể rút ra một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng về FDI tại Việt Nam như sau: Thứ nhất: Nguyên nhân xuất phát từ môi trường đầu tư: Môi trường đầu tư tại Việt Nam chứa đựng nhiều rủi ro, ví dụ như sự thay đổi chính sách, sự bất đồng về văn hoá, sự chấp hành pháp luật của nhân dân, thủ tục hành chính rườm rà ... làm cho các nhà đầu tư e ngại khi quyết định đầu tư vào Việt Nam. Mặt khác, trong khi các nước trên thế giới và trong khu vực đang hết sức nỗ lực trong việc cạnh tranh thu hút FDI thì ở Việt Nam công việc này tỏ ra quá chậm chạp và chưa có những chính sách thích hợp. Thứ hai: Nguyên nhân từ phía chính phủ. Nhà nước ta chưa có một chính sách, bộ luật hoàn chỉnh nhằm điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sự thay đổi chính sách đầu tư thông qua việc sửa đổi nhiều lần luật đầu tư mà lần sửa đổi căn bản nhất vào năm 1996 đã làm cho các nhà đầu tư e ngại và chờ đợi. Theo họ, việc thay đổi luật đầu tư có mặt khuyến khích các nhà đầu tư nhưng cũng có các điều khoản thắt chặt hơn điều kiện đầu tư. Hơn nữa, việc sửa đổi nhiều lần cũng thể hiện sự thiếu ổn định về chính sách và pháp luật. - Một điều nữa cần phải nhắc đến đó là thủ tục hành chính, việc phê duyệt, thẩm định, cấp phép cho các dự án đầu tư còn rườm rà, phức tạp, mặc dù thời gian gần đây có nhiều chuyển biến nhưng vẫn chưa làm hài lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ ba: Nguyên nhân từ phía đối tác Việt Nam. Sự khác nhau về cơ bản giữa văn hoá và lối sống của người Việt Nam và người nước ngoài là một trở ngại rất lớn trong việc liên doanh thực thi dự án đầu tư. Một điều nguy hiểm ở đây là tính bảo thủ, trì trệ và tác phong “chậm chạp” của người Việt Nam. Điều này khiến cho các nhà đầu tư rất lo ngại. Một điểm đáng lưu ý nữa đó là do nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn nên vốn góp trong các dự án là nhỏ, đôi khi chưa thể phát huy hết khả năng chỉ đạo của bên Việt Nam, dẫn đến sự kém hiệu quả của nguồn vốn đầu tư. Trước thực trạng cũng như những khó khăn và thách thức mà Việt Nam đã và đang đối mặt đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp hữu hiệu để đảnh mạnh thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Mục III: Một số giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hoạt động FDI tại Việt Nam trong thời gian tới. A- Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Tháng 12 năm 1987, quốc hội thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tạo cơ sở pháp lý cơ bản, đầu tiên cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại nước ta. Luật quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư, về hình thức đầu tư, về quyền lợi và nghĩa vụ của tổ chức, các nhà đầu tư nước ngoài và về cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài. Luật được ban hành trong bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ đổi mới sau đại hội VI của Đảng, nền kinh tế trong nước về cơ bản vẫn được tổ chức quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung, chưa có đạo luật kinh tế theo nguyên tắc của kinh tế thị trường được thông qua và ban hành. Tháng 6/1990, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được sửa đổi, bổ sung 15 trong 42 điều của luật năm 1987. Nội dung sửa đổi, bổ sung bao các vấn đề về bên Việt Nam, hợp đồng hợp tác kinh doanh; về xí nghiệp liên doanh (hội đồng quản trị, ban giám đốc, miễn giảm thuế lợi tức...) và về việc các tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài. Như vậy, Luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lần thứ nhất đã xác định rõ ràng, cụ thể hơn các khái niệm, nội dung, quan hệ trong các doanh nghiệp liên doanh đồng thời xử lý một số vấn đề có tính nguyên tắc là cho phép các tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được trực tiếp hợp tác đầu tư với nước ngoài. Trong luật sửa đổi thứ 2 luật đầu tư nước ngoài tháng 12 năm 1992, quốc hội đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung các quy định về bên Việt Nam gồm 1 hoặc nhiều doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế; về khu chế xuất, xí nghiệp chế xuất; hình thức BOT; về việc bên Việt Nam góp vốn pháp định bằng các nguồn tài nguyên, về việc thoả thuận tăng dần vốn góp của các bên Việt Nam trong vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh; về thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; về việc mở tài khoản vốn vay tại ngân hàng ở nước ngoài; về nguyên tắc không hồi tố, quyền hạn của cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài. So với luật sửa đổi bổ sung lần thứ nhất, luật sửa đổi bổ sung lần thứ hai đã sửa đổi bổ sung nhiều nội dung có chất cơ bản hơn. Đó là đã mở ra các hình thức thu hút vốn đầu tư và góp vốn đầu tư mới; đã đưa ra các biện pháp mới để bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam và Nhà nước Việt Nam, đồng thời cũng có những biện pháp để làm an tâm và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đại hội Đảng VIII, tháng 6/1996 đã đề ra những nhiệm vụ, mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu chiến lược đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá yêu cầu phải duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, giải quyết tốt các vấn đề xã hội cấp bách, phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời chú trọng phát triển khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Như vậy, vốn đầu tư trở thành yêu cầu hết sức cần thiết. Đảng và Nhà nước xác định vốn đầu tư trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng. Trước mắt và lâu dài, chính sách của Nhà nước luôn nhằm và việc phát huy cao nhất khả năng huy động vốn từ bên ngoài. Theo định hướng đó, ngày 12/11/1996 quốc hội đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) tại Việt Nam. Trong luật này có một số điểm cởi mở hơn nhằm hu hút FDI tập trung vào các hướng ưu tiên cho các ngành xuất khẩu. Nuôi trồng, chế biến các sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản; các lĩnh vực sử dụng công nghệ cao; phát triển của từng thời kỳ, chính phủ quy định những địa bàn khuyến khích đầu tư, danh mục dự án đầu tư có điều kiện và những lĩnh vực không cấp giấy phép đầu tư. Có thể nói luật đầu tư năm 1996 là luật đầu tư phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy có một số quy định thay đổi, có thể gây thiệt thòi cho một số nhà đầu nhưng bù lại họ có hỗ trợ nhiều hơn trong các dự án mà chính phủ đang khuyến khích ưu tiên đầu tư. Mặt khác, trong quá trình đổi mới xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Quốc hội, chính phủ đã ban hành nhiều văn bản luật, dưới luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài như: Luật đất đai, Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước.v.v... Nghị định 12/CP ngày 18/2/1997; Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997. Nghị định số 10/CP ngày 23/1/1998 về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trước thực trạng cũng như những khó khăn và thách thức mà Việt Nam đã và đang đối mặt đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Tháng 6 năm 2000, Quốc hội đã thông qua Luật Nhà nước sửa đổi; bổ sung, nhằm giải quyết những bất cập và tạo thuận lợi hơn nữa cho nhà đầu tư nước ngoài nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu tủ trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Ngày 14/1/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết địn số 54/QĐ - TTg thành lập tổ công tác về đầu tư nước ngoài. Ông Văn Trọng Lý, phó chủ nhiệm văn phòng chính phủ được giao làm tổ trưởng. Nhiệm vụ của tổ công tác là đôn đốc các bộ, ngành, địa phương thực hiện các quy định theo Nghị quyết 03/2000/NQ - CP và 19/2000/CT - CP về các chính sách tiếp tục đẩy mạnh, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đề xuất các chủ trương, chính sách mới nhằm tạo môi tường đầu tư thuận lợi hơn, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, rà soát danh mục các dự án cần tranh thủ đầu tư nước ngoài, đề xuất phương thức vận động đầu tư trong điều kiện mới. Một khuôn khổ pháp lý như vậy đã và đang tạo điều kiện cho Việt Nam trở thành một địa bàn hấp dẫn đầu tư đối với các nhà đầu tư thế giới. Tuy nhiên, để thu hút nhiều hơn và có hiệu quả hơn FDI, đòi hỏi phải khắc phục không ít những vướng mắc, cải thiện một cách cơ bản môi trường đầu tư. Trước hết, phải tiếp tục giảm thiểu những thủ tục phiền hà đưa ra một quy hoạch cụ thể, rõ ràng cùng với một danh mục ưu tiên gọi vốn đầu tư phù hợp với định hướng phát triển kinh tế và công nghiệp hoá đất nước. Hướng ưu tiên đó, trước hết phải được giành cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, hình thành các khu công nghiệp tập trung với công nghệ cao, những ngành công nghiệp mà trong nước không đủ khả năng hoàn thiện hệ thống pháp luật, khắc phục nhược điểm của sự thiếu nhất quán và không đồng bộ, làm ảnh hưởng đến môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư. Thứ ba, tập trung vốn của Nhà nước và vốn ODA vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng: đường sá, điện, nước, sân bay, bến cảng... cho một nền kinh tế hiện đại, mà các cơ sở hiện có còn lạc hậu so với yêu cầu của sự phát triển. Thứ tư, Đào tạo và bồi dưỡng các cán bộ Việt Nam hiểu được thông lệ quốc tế, nắm vững luật pháp, biết cách giao tiếp và sẵn sàng hợp tác với người nước ngoài, cùng chia sẻ lợi ích và rủi ro trong các dự án liên doanh. Thứ năm, kết hợp vốn trong nước với vốn nước ngoài trong một thể thống nhất, phù hợp với kế hoạch chung của đất nước và quy hoạch của từng ngành, từng địa phương. Đồng thời, để tăng cường khả năng tiếp nhận vốn FDI phục vụ công nghiệp hoá cần tạo đủ nguồn vốn đối ứng trong nước. Trong thời gian tới, đầu tư nước ngoài cần được khuyến khích vào các lĩnh vực sau đây: - Xây dựng ngành công nghiệp dầu khí, bao gồm thăm dò và khai thác dầu, lọc dầu, sử dụng khí thiên nhiên để phát điện, làm phân bón. Bằng hình thức liên doanh cần khẩn trương xây dựng khu công nghiệp hoá, lọc dầu; hoàn thành đường ống dầu khí từ mỏ dầu và khí ở thềm lục địa để phát điện, sản xuất phân bón và làm khí hoá lỏng. - Khai thác các tài nguyên, khoáng sản khác như sắt, ô xít, đồng, kẽm than. Trong đó có dự án khai thác quặng ở Hà Tĩnh. - Đầu tư vào các dự án sản xuất vật liệu xây dựng như xi măng, bê tông, các cấu kiện đúc sẵn, thiết vị vệ sinh, trang trí nội thất để đáp ứng đủ sự gia tăng nhanh chóng về nhu cầu xây dựng những năm tới. - Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp đã đang được hình thành ở nhiều địa phương trong cả nước, đặc biệt là 3 vùng kinh tế trọng điểm: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu; khu vực Duyên Hải Miền Trung với Đà Năng là trung tâm. Đồng thời khuyến khích đầu tư xây dựng các nhà máy phù hợp với yêu cầu của các khu công nghiệp nặng về mặt cơ cấu ngành, xây dựng công nghệ, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu. B- Những giải pháp cụ thể nhằm thu hút vốn FDI tại Việt Nam trong những năm tới. Với mục tiêu thu hút nhiều hơn nữa vốn FDI vào Việt Nam, có lẽ phải cần đến một chương trình, kế hoạch cụ thể và toàn diện, với sự góp sức của tất cả các ngành, các cấp, với điều kiện Việt Nam hiện nay, em xin đưa ra một số giải pháp như sau: Nhóm giải pháp thứ nhất: cải thiện môi trường đầu tư trong nước Môi trường đầu tư trong nước có lẽ là yếu tố đầu tiên được các nhà đầu tư xem xét để quyết định đầu tư. Một môi trường ổn định và lành mạnh là một điều kiện quan trọng trong việc thu hút FDI. Những công việc cần thiết để tạo lập và duy trì một môi trường ổn định, lành mạnh: 1- Duy trì sự ổn định chính trị - xã hội: Rủi ro về chính trị làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thu hút và thực hiện FDI. Chúng ta phải duy trì sự ổn định chính trị, ngăn ngừa và loại bỏ các nguy cơ gây mất ổn định chính trị, xã hội, tạo ra tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài khi xem xét đầu tư vào Việt Nam. 2- Cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư: Môi trường đầu tư của nước ngoài là tổng hoà các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội có liên quan tác động đến hoạt động đầu tư và đảm bảo khả năng sinh lợi của vốn đầu tư nước ngoài. Những phương pháp hoàn thiện môi trường đầu tư: - Cho phép thành lập liên doanh hoạt động trong nhiều lĩnh vực thay vì chỉ hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định. Thành lập các doanh nghiệp đa mục đích hay đa dự án. Chính điều đó làm cho các nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất: Bó buộc các chủ đầu tư phải thành lập một thực thể pháp luật đối với mọi dự án, và như vậy, xin phép đầu tư và chi phí thành lập sẽ buộc phải tăng lên rất nhiều. Thứ hai: Nó làm chậm trễ các dự án đầu tư dẫn đến làm mất cơ hội và làm nản lòng các nhà đầu tư. Thứ ba: Nó không cho phép củng cố các kết quả đã đạt được ở các dự án khác nhau cùng thực thể tức là không cho phép đa dạng hoá kinh doanh và tận dụng lợi thế của nó. - Mở rộng thêm điều kiện chuyển nhượng vốn cho các bên. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hình thức pháp lý của Công ty liên doanh là công TNHH, chứ không phải là Công ty cổ phần. Do đó, có sự thiếu tự do trong việc chuyển nhượng vốn góp trong các nhà đầu tư và kìm hãm đầu tư. Việc cần phải cho phép đầu tư để bán toàn bộ hay một phần vốn góp của mình để hạn chế khả năng vay và như vậy cũng chính là tăng đầu tư. Để khắc phục tình trạng này, có thể quyết định việc chuyển nhượng vốn giữa các đối tác nước ngoài sẽ không cần phải có giấy phép đầu tư, mà chỉ cần khai báo với cơ quan này và nếu sau một thời gian nhất định mà không có ý kiến phản hồi; thì mặc nhiên được coi như việc chuyển nhượng được chấp thuận. Mặt khác, cần xúc tiến khẩu trương, tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Đơn giản hoá thủ tục cấp phép đầu tư: Nâng cao tính chất đồng bộ và pháp lý của các văn bản hướng dẫn đầu tư, tránh chồng chéo. Cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan liên quan trong việc thẩm định dự án khả thi: Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ khoa học công nghệ và môi trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với luận chứng kinh tế - kỹ thuật cần chú ý nhiều hơn đến phần giải trình các lợi ích kinh tế - xã hội của dự án khi triển khai đem lại cho toàn bộ nền kinh tế. Các cơ quan thẩm định không nên can thiệp quá sâu vào các chỉ tiêu cụ thể mà các chủ đầu tư phải tự tính toán. - Vấn đề chuyển đổi và cân đối ngoại tệ: Theo quy định hiện hành, các Công ty có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có thể đổi VNĐ ra ngoại tệ khi được phép chuyển đổi ngoại tệ. Không phải bất kỳ trường hợp nào ngân hàng Nhà nước cũng cho phép chuyển đổi ngoại tệ. Tình trạng này đã gây ra khó khăn vì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần phải có khả năng đảm bảo viẹc cung ứng cho xí nghiệp từ nước ngoài và chuyển lợi nhuận về nước nhà đầu tư nước ngoài. Nhà nước cần đảm bảo cân đối ngoại tệ cho các dự án đầu tư quan trọng, có lợi ích kinh tế - xã hội cao. Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các dự án đó đi vào hoạt động và phát huy tác dụng. - Vấn đề tổ chức và nguyên tắc hoạt động trong doanh nghiệp liên doanh: Quy định về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý: Hội đồng quản trị, ban giám đốc, kế toán trưởng ... còn tồn tại một số bất cập, điều này làm cho các nhà đầu tư rất lo ngại vì nó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty dẫn đến mâu thuẫn trong nội bộ Công ty. Trong gần 300 dự án bị rút giấy phép thì một tỷ lệ không nhỏ là do mâu thuẫn nội bộ hội đồng quản trị mà không giải quyết được. Vì vậy, cần phải khẩn trương nghiên cứu cơ chế này theo hướng vừa đảm bảo quá trình sản xuất, kinh doanh của Công ty. - Vấn đề tài khoản của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhà nước cần cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở tài khoản tại nhiều ngân hàng tại Việt Nam, để buộc các ngân hàng phải thực sự điều chỉnh theo quy luật cạnh tranh, tránh tình trạng độc quyền, cửa quyền của ngân hàng, gây phiền hà cho người đầu tư và không phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường. 3- Tiếp tục hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Chính sách kinh tế cần phải được hoàn thiện theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường hội nhập để thu hút các nhà đầu tư vào các vùng trọng điểm, các khu công nghiệp, chấm dứt tình trạng độc quyền để tạo ra môi trường đầu tư lành mạnh giữa các thành phần kinh tế (tất nhiên kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo). Ngoài ra, cần lưu ý, giữa đầu tư và thương mại có quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Vì vậy, để FDI tăng mạnh thì xuất khẩu phải tăng. Do đó, Việt Nam cần mau chóng gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO), tiếp cận các thị trường lớn như Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản. Khi quan hệ thương mại hai chiều giữa Việt Nam và các quốc gia này tăng lên thì FDI của các nước đó vào Việt Nam sẽ tăng lên nhiều lần. 4- Tăng cường kết cấu hạ tầng nhằm thu hút FDI Kết cấu hạ tầng là điều kiện tiên quyết đối với thu hút FDI. Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng đã hạn chế nhiều thu hút đầu tư vào Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian trước mắt phải tập trung thích đáng cho công việc này, nhất là hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, cấp thoát nước đô thị, hệ thống công nghệ phụ trợ và các trung tâm công nghệ phụ trợ. Cần điều chỉnh chính sách để tạo hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào kết cấu hạ tầng, nông lâm ngư nghiệp, trung du, miền núi. Chấn chỉnh lại các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm. Do điều kiện vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng còn ít, để tránh đầu tư dàn trải cần tập trung vào việc đầu tư cho những khu vực trọng điểm, vùng trọng điểm, để nhanh chóng có cơ sở hạ tầng tốt, phục vụ thu hút và hấp thu FDI. 5- Hoàn thiện chính sách thuế. Để thực hiện mục tiêu thu hút FDI trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực, nhằm đảm bảo nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010, chính sách thuế cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng sau: - Đối với thuế giá trị gia tăng (VAT): Việc cắt giảm thuế quan theo lộ trình CEPT sẽ được hoàn thành vào năm 2006 và thuế suất tối đa, thuế nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu chỉ còn 5%. Vì vậy, thuế VAT trong giai đoạn này cần phải đảm bảo là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước, khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là xuất khẩu, phải phù hợp với thông lệ quốc tế, đơn giản hoá chính sách, tăng cường tính trung lập của thuế. Để thực hiện mục tiêu đó thì cần phải mở rộng đối tượng chịu thuế, bổ sung các mặt hàng chịu thuế ở khâu sản xuất và nhập khẩu, giảm đối tượng không chịu thuế VAT. Về thuế suất nên áp dụng thống nhất một mức thuế suất 10%, vừa thực hiện được mục tiêu đơn giản, công bằng, vừa khắc phục được tính tuỳ tiện khi áp dụng khung thuế suất. Đề nghị không đánh thuế VAT đối với máy móc thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng, vật tư xây dựng mà trong nước chưa sản xuất được, nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp FDI, kể cả trong trường hợp mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ. - Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Đứng trước bối cảnh quốc tế thay đổi và mục tiêu kinh tế của đất nước hiện nay là tận dụng những lợi thế khi Việt Nam tham gia hội nhập vào các tổ chức kinh tế và thương mại quốc tế và khu vực, chuyển đổi từ chính sách thay thế nhập khẩu sang nền kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu, chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam đã bộc lộ những hạn chế nhất định, đó là: thiếu tính ổn định và tính trung lập, còn bảo hộ tràn lan, tạo tâm lý ỷ lại cho các doanh nghiệp trong nước, không vươn lên để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, chưa phát huy được lợi thế của Việt Nam khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. - Vì vậy chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cần phải được hoàn thiện theo hướng bảo hộ có chọn lọc, có thời gian và có điều kiện và phải phù hợp với lịch trình cắt giảm thuế quan khi thực hiện AFTA, cũng như có thể thực hiện được các thoả thuận với EU, WTO, APEC ... với các nội dung cơ bản là biểu thuế nhập khẩu phù hợp với định hướng bảo hộ hiệu quả các ngành kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xác định trị giá Hải quan theo yêu cầu của WTO, thu hẹp diện miễn giảm thuế, thu hẹp số lượng mức thuế suất, việc phân loại hàng hoá trong biểu thuế phải tuân theo cách phân loại của “Danh mục mô tả và mã hoá hàng hoá” (danh mục HS) của Tổ chức Hải quan Thế giới (W.C.O). Đề nghị tiếp tục duy trì chính sách khuyến khích về thuế nhập khẩu đối với tài sản cố định hình thành bằng vốn đầu tư như hiện nay, mở rộng miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được, nhập khẩu để xây dựng tài sản cố định của doanh nghiệp. - Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt: Thuế tiêu thụ đặc biệt phải được hoàn thiện theo hướng bổ sung đối tượng chịu thuế, điều chỉnh thuế suất các mặt hàng cho phù hợp và đồng bộ với các luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và luật thuế VAT, sửa đổi căn cứ tính thuế từ số lượng hàng hoá, giá tính thuế và thuế suất sang số lượng sản phẩm và mức thuế tiêu thụ đặc biệt trên sản phẩm như ở Philipines, Đan Mạch, Nhật ... vừa đơn giản vừa dễ thực hiện. - Đối với thuế thu nhập: Trong giai đoạn 2001 - 2010, mục tiêu hai sắc thuế thu nhập doanh nghiệp và thu nhập cá nhân là thực hiện sự bình đẳng, công bằng bãi bỏ các quy định giảm thuế đối với các đối tượng chính sách. Để thực hiện được mục tiêu đó cần mở rộng diện nộp thuế đi đôi với hạ thuế suất. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp nên thống nhất một mức thuế suất chung là 30%, mở rộng ưu đãi về thuế suất đối với các doanh nghiệp FDI hoạt động trong ngành sản xuất có thời hạn 10 năm trở lên, miễn giảm thuế thu nhập theo địa bàn đầu tư, các dự án đầu tư vào lĩnh vực mới, các dự án sử dụng công nghệ tiên tiến. Ngoài ra, một số khoản chi phí gián tiếp của nhà đầu tư liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải được chấp nhận là chi phí sản xuất kinh doanh, thống nhất các loại giá dịch vụ (điện, nước, điện thoại, giao thông vận tải, thuế cơ sở hạ tầng ...) cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Đối với thuế thu nhập cá nhân nên áp dụng chung một biểu thuế suất cho người Việt Nam và nước ngoài, mở rộng diện nộp thuế trên cơ sở hạ thuế suất. - Đối với một số loại thuế khác: Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài hiện nay có 3 mức: 7%, 5%, 3%. Để phù hợp với nhiều nước trong khu vực và thế giới, nâng cao sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập, đề nghị bỏ loại thuế này. Đề nghị tiếp tục cắt giảm tiền thuê đất, mặt nước, hoặc thực hiện miễn giảm tiền thuê đất tuỳ thuộc vào sự hoàn thiện của cơ sở hạ tầng, tuỳ thuộc vào khu vực kêu gọi đầu tư. 6. Một số giải pháp chủ yếu nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong triển khai các dự án FDI tại Việt Nam. Thứ nhất: Đồng bộ hoá hệ thống pháp luật liên quan đến quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong triển khai thực hiện các dự án FDI. Cho phép thành lập Công ty có nhiều mục tiêu hoạt động trên cơ sở từng dự án cụ thể, tiếp tục nghiên cứu để giảm bớt thời gian chờ đợi giấy phép đầu tư làm lỡ cơ hội kinh doanh của các nhà đầu tư, cho phép miễn giảm hơn nữa thuế lợi tức và tiền thuê đất đối với những dự án đặc biệt khuyến khích, bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiếp tục thực hiện tốt hơn nguyên tắc không hồi tố để giữ vững lòng tin của cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài, tiếp tục mở rộng phân cấp quản lý về đầu tư nước ngoài cho các Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương, các ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất trên cơ sở làm tốt công tác quy hoạch, cung cấp thông tin và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện chủ trương này trong quá trình triển khai thực hiện các dự án. Nhà nước nên sớm ban hành các quy định đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng và các dự án BOT để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này; tích cực tham gia các Công ước quốc tế và các Nghị quyết của khối ASEAN; thực hiện chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với những dự án có đào tạo công nhân và cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp FDI. Thứ hai: Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong hoạt động triển khai dự án FDI. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư thông qua xây dựng mặt bằng giá thống nhất giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; sửa đổi chính sách thuế, Luật đất đai; chính sách tài chính - tín dụng - ngoại hối ... nhằm cải thiện môi trường kinh doanh. Nếu không tích cực cải thiện môi trường đầu tư thì các nhà đầu tư sẽ chuyển hướng đầu tư sang những thị trường có nhiều thuận lợi hơn, ổn định hơn và do đó mức độ rủi ro vướng mắc cũng ít hơn. Thứ ba: Nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án FDI nhằm lựa chọn các dự án có tính khả thi cao, giảm thiểu những rủi ro tiềm năng trong triển khai dự án FDI. Để nâng cao chất lượng của công tác thẩm định dự án FDI, các nhà thẩm định nên đi sâu nghiên cứu những vấn đề chủ yếu thường dẫn đến các rủi ro cho dự án FDI như vấn đề thị trường, khả năng tài chính, các nguồn số liệu, các giả định sử dụng trong dự án, đặc biệt là cần phải làm rõ những vấn đề chưa rõ và phải trả lời được các câu hỏi của các nhà phản biện... Thứ tư: Tăng cường công tác quản lý điều hành để tháo gỡ kịp thời khó khăn khi xảy ra vướng mắc, hỗ trợ các doanh nghiệp FDI hoạt động có hiệu quả nhằm hạn chế rủi ro từ khi mới phát sinh. Các cơ quan quản lý Nhà nước đối với FDI cũng nên giành sự quan tâm thường xuyên để nắm chắc tình hình thực hiện dự án, theo sát diễn biến để chủ động xử lý bằng các biện pháp hợp lý với những dự án đang triển khai ở các giai đoạn khác nhau như: Bắt đầu triển khai xây dựng cơ bản, hay đang hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi những khó khăn, vướng mắc mới phát sinh, các dự án FDI được các cơ quan quản lý Nhà nước xử lý kịp thời và hợp lý sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp FDI triển khai dự án một cách thuận lợi, khuyến khích họ tăng cường đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất kinh doanh để thu được hiệu quả cao hơn cho chủ đầu tư và đóng góp cho xã hội. Thứ năm: Đa dạng hoá hơn nữa các hình thức đầu tư để mở rộng cơ hội lựa chọn chuyển đổi hình thức đầu tư cho các doanh nghiệp FDI nhằm hạn chế các rủi ro có thể làm cho doanh nghiệp bị giải thể trước thời hạn. Để mở rộng hơn nữa các cơ hội lựa chọn hình thức đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ nên quy định thêm một số hình thức đầu tư mới như doanh nghiệp cổ phần có vốn FDI, các khu thương mại tự do, thành phố mở, doanh nghiệp sở hữu chung... Việc mở rộng cơ hội chuyển đổi hình thức đầu tư cũng chính là hạn chế tình trạng giải thể của các doanh nghiệp có vốn FDI vì họ không còn con đường nào khác để duy trì doanh nghiệp của mình. Thứ sáu: Đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực nâng cao trình độ chuyên môn về quản trị dự án FDI nhằm loại trừ những rủi ro trong triển khai dự án FDI. Trước hết, cần tổ chức bồi dưỡng, nâng cao trình độ về pháp luật, chính sách, chuyên môn, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý dự án đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, cần chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao, có khả năng tiếp thu các công nghệ tiên tiến khi làm việc trong các doanh nghiệp FDI và đặc biệt chú trọng bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ ở các địa phương. Nhóm giải pháp thứ hai: Tăng cường công tác đào tạo, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước, lập kế hoạch nhằm thu hút và phát huy hiệu quả các dự án đầu tư. 1- Cụ thể hoá chiến lược và kế hoạch thu hút FDI. Chiến lược thu hút FDI là một bộ phận tổng thể nền kinh tế nói chung và chiến lược kinh tế đối ngoại nói riêng. Do đó, chiến lược thu hút FDI phải được thể hiện với những nội dung chủ yếu sau: Xây dựng và ban hành quy hoạch đầu tư dài hạn ở Việt Nam để tránh đầu tư dàn trải và kém hiệu quả, tạo điều kiện cải thiện cơ sở hạ tầng (vùng trọng tâm, vùng trọng điểm thu hút vốn FDI). Nên chăng, Chính phủ lập bản đồ quy hoạch về đầu tư kể cả đầu tư trong và ngoài nước trên từng lĩnh vực, từng nhóm mặt hàng với nguyên tắc không hạn chế số lượng dự án sản xuất hàng xuất khẩu, chỉ hạn chế về số lượng, quy mô dự án sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa để tránh hỗn loạn cung cầu thị trường, tránh lãng phí đầu tư. Các địa phương được phân cấp và chủ động cấp giấy phép đầu tư nhưng phải tuân thủ quy hoạch về đầu tư để tránh rối loạn thị trường nội địa, gây khó khăn cho điều hành của chính phủ và thiệt hại cho nhà đầu tư. 2- Xây dựng và lựa chọn đối tác đầu tư Đây là một vấn đề hết sức cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt. Với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các hình thức quan hệ thì nếu luật đầu tư hấp dẫn đương nhiên sẽ có nhiều loại đối tác vào đầu tư. Do vậy, việc lựa chọn đối tác đầu tư phải quán triệt hai vấn đề quan trọng: Một là: Lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần phải hướng trọng tâm lâu dài vào các Công ty xuyên quốc gia thực thụ, bởi vì nó là nguồn vốn, nguồn kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, đồng thời ở mức độ đúng đắn, mức độ tin cậy trong quan hệ càng cao, khả năng thu hút các Công ty này là hiện thực, bởi vì hiện nay ta đã quan hệ với nhiều nước tư bản phát triển, nơi có nhiều Công ty xuyên quốc gia và trên thực tế đã có nhiều Công ty có tầm cỡ lớn thăm dò và đã đầu tư vào Việt Nam. Song cần chuẩn bị điều kiện trong nước, nhất là cần có các đối tác mạnh. Điều này đòi hỏi phải nhanh chóng xây dựng các tập đoàn kinh tế đủ mạnh, các tổng Công ty phải hướng tới kinh doanh xuyên quốc gia. Đây là vấn đề lớn nhưng không thể chậm trễ và càng không thể bỏ qua vì không có tập đoàn mạnh thì sẽ không có đối tác có tiềm lực để quan hệ và rơi vào thế bất lợi trong đàm phán, hợp tác, và sau nữa là các tập đoàn mạnh không chỉ hoạt động ở trong nước. Hai là: Lựa chọn đối tác cho từng ngành, từng lĩnh vực. Phương án tốt nhất là kêu gọi được những nhà đầu tư đầu đàn trong mỗi lĩnh vực. Song trước mắt nếu không đạt được yêu cầu đó, vẫn cần phải tranh thủ cả những Công ty nhỏ môi giới, rồi từng bước hướng tới mục tiêu trên. Thông qua thông tin nhiều chiều cần nắm chắc các đối tác và kịp thời sàng lọc cũng như có biện pháp đối phó với những nhà đầu tư có ý đồ xấu muốn phá hoại ngầm hoặc không có khả năng thực thi các dự án. 3- Vấn đề nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực ở đây đề cập tới hai đối tượng đó là nguồn lao động và đội ngũ cán bộ. Thứ nhất: Về nguồn lao động Hiện nay lao động rẻ không còn là lợi thế so sánh tạo nên sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nữa. Một đội ngũ lao động có tay nghề cao, cần cù, chịu khó, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tác phong công nghiệp và do đó năng suất lao động cao mới là những yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Theo như ông Lâm Chí Quang - Phó giám đốc Công ty Toyota Việt Nam trong cuộc trao đổi với phóng viên tạp chí Thương mại và môi trường đầu tư nước ngoài thì “Hiệu Việt Nam còn thiếu lao động có kỹ thuật, kỹ năng cao, nhất là ở hình thức quản lý, lĩnh vực công nghệ cao như chế tạo sản phẩm cơ khí chính xác, công nghệ thông tin ... Lao động được đào tạo ở trường đại học hay ở các trường nghề phần lớn thiếu kiến thức và kỹ năng cần thiết đáp ứng đòi hỏi của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”. Vì vậy, chúng ta cần chú trọng thích đáng đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. Cụ thể là: Trước tiên phải đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, có vốn ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh) đủ để có thể tiếp thu nhanh các kỹ thuật và công nghệ cao. ở nước ta hiện nay, cơ cấu giữa kỹ sư và công nhân lành nghề là chưa hợp lý. Vì thế vấn đề đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề là cần thiết. Tiếp đến phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có đầy đủ kiến thức khoa học của các hoạt động quản trị kinh doanh tránh tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Thực hiện tự do hoá tuyển dụng trên cơ sở pháp luật. Thứ hai: Về đội ngũ cán bộ: Cần phải bố trí có năng lực, phẩm chất vào các vị trí chủ chốt trong các doanh nghiệp liên doanh. Bồi dưỡng đào tạo lại cán bộ đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Gấp rút nâng cao năng lực điều hành của các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là các cơ quan có liên quan đến lĩnh vực đầu tư nước ngoài. 4- Tăng cường hoạt động, xúc tiến vận động đầu tư nước ngoài. - Đổi mới về nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư. Triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể. Chuẩn bị kỹ một số dự án đầu tư quan trọng, lựa chọn mời một vài tập đoàn lớn vào đàm phán. - Chú trọng cả xúc tiến đầu tư thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài mới và hỗ trợ các dự án đang hoạt động. Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại. Sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng Internet, tiếp xúc trực tiếp ... - Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương. - Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tập đoàn và Công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư cho phù hợp. Phần kết luận Mục tiêu của Việt Nam trong 5 năm tới là tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phấn đấu duy trì mức tăng trưởng kinh tế ít nhất 7% một năm, đưa GDP năm 2005 tăng gấp đôi so với năm 1995 và đạt tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế trên 30% GDP. Để đạt được những mục tiêu này, một mặt cần huy động tối đa các nguồn nội lực và sáng tạo của mọi thành phần kinh tế trong nước, mặt khác tiếp tục tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế và khu vực, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài. Phân tích thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua, từ đó đề xuất những biện pháp cụ thể để huy động tối đa nguồn vốn này cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới là vấn đề cần được quan tâm đúng mức. Với những nỗ lực rất cao của Nhà nước Việt Nam trong tất cả các công việc nhằm thu hút nguồn vốn FDI, có thể tin rằng cơ hội đầu tư tại Việt Nam tiếp tục được mở rộng và công việc đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam sẽ ngày càng thuận lợi hơn. Hy vọng các nhà đầu tư sẽ đến Việt Nam để cùng hợp tác làm ăn lâu dài và khai thác những tiềm năng, thế mạnh của Việt Nam, tạo ra những sản phẩm có uy tín và chất lượng. Tới đây, em xin được kết thúc bài viết của mình. Với nhận thức còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn Em xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo 1- Giáo trình Kinh tế Đầu tư - Khoa Kinh tế đầu tư - trường Đại học KTQD - Hà Nội 2- Giáo trình Kinh tế học Quốc tế - Khoa kinh tế và Kinh doanh quốc tế -Trường Đại học KTQD - Hà Nội 3- Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI - Khoa Kinh tế & Kinh doanh quốc tế - Trường Đại học KTQD - Hà Nội 4- Văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII, IX. 5- Luật Đầu tư nước ngoài 1990, 1992, 1996, 2000 và các văn bản dưới luật 6- Thời báo Kinh tế Việt Nam các số năm 2000, 2001 và 2002 7- Tạp chí Kinh tế & Phát triển các số năm 2000, 2001 và 2002 8- Tạp chí Kinh tế & Dự báo số tháng 12/2001 Mục lục Phần mở đầu 1 Phần nội dung 2 Mục I: Vài nét về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 3 1- Sự di chuyển vốn quốc tế 3 2- Đầu tư trực tiếp nước ngoài 3 3- Hoạt động FDI trên thế giới hiện nay 6 Mục II: Thực trạng FDI tại Việt Nam từ năm 2000 đến nay 9 Mục III: Một số giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hoạt động FDI tại Việt Nam trong thời gian tới 29 A- Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 29 B- Những giải pháp cụ thể nhằm thu hút vốn FDI tại Việt Nam trong những năm tới 33 Phần kết luận 46

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0169.doc
Tài liệu liên quan