Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy rõ những đóng góp lớn lao của khu vực công nghiệp có vốn ĐTNN đối với nền kinh tế Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần tiếp tục có các giải pháp, chính sách, định hướng cụ thể để xoá bỏ những rào cản, tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp. Từ đó có biện pháp hỗ trợ cụ thể và thiết thực để khu vực công nghiệp này tăng trưởng với nhịp độ cao, trên cơ sở đó cùng với các khu công nghiệp nhà nước và công nghiệp ngoài quốc doanh đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH, nhằm thực hiện mục tiêu tới năm 2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp như mục tiêu đã đề ra.
95 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 925 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các ngành có vốn FDI:
Bảng 14: Giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp có vốn FDI
so với các ngành khác.
1991-1995
1996
1997
1998
1999
2000
Ngành Công nghiệp
(tr.USD)
718,1
766,3
1.094
1.493
1.495
952,9
% so với các ngành
77,62
84,17
82%
91,67
92,12
94,43
(Nguồn: Vụ Quản lý dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu tư )
Trong một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đã chiếm tới 42% xuất khẩu hàng giầy dép; 25% hàng may mặc; 84% xuất khẩu hàng điện tử, máy vi tính và linh kiện.
Giá trị xuất khẩu của FDI trong công nghiệp đã góp phần làm tỷ lệ xuất khẩu so với doanh thu của khu vực có vốn FDI tăng nhanh qua các năm: Năm
1995 đạt 16,3%; năm 1996 đạt 28,7%; tăng vọt lên 50,7% năm 1998 và 56%
vào năm 1999.
Thứ năm: Hoạt động các dự án ĐTNN đã tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam.
FDI đã tạo thêm việc làm cho khoảng 30-32 vạn lao động thường xuyên và hàng chục vạn lao động thời vụ, giảm bớt tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở cả thành thị và nông thôn.
Mặt khác, thông qua việc thu hút lao động xã hội, người lao động Việt Nam được đào tạo và nâng cao tay nghề. Đặc biệt là lao động trong các doanh nghiệp FDI, hiện tại có khoảng 16-17 vạn người. Lao động trong các doanh nghiệp này không những được đào tạo nâng cao trình độ kỹ thuật mà còn được tiếp cận với các phương pháp tổ chức và quản lý tiên tiến, được học tập tác phong lao động công nghiệp và rèn luyện ý thức tổ chức và kỹ thuật lao động phù hợp với quy trình sản xuất hiện đại. Thu nhập của công nhân lao động trong các doanh nghiệp này cũng rất cao, bình quân 100USD/ tháng (riêng ngành dầu khí 692 USD/ tháng, các ngành ôtô xe máy, điện tử - tin học từ 70-
80 USD/ tháng).
FDI nói chung và FDI trong ngành công nghiệp nói riêng đã thực sự góp phần biến tiềm năng về lao động của Việt Nam trở thành hiện thực.
Những đóng góp của FDI vào Ngành Công nghiệp trong giai đoạn qua đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành phù hợp với chiến lược phát triển CNH, HĐH mà nhà nước đề ra. Tuy nhiên với thời gian chưa phải là dài, với số vốn kinh nghiệm chưa phong phú nên đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ngành Công nghiệp Việt Nam không tránh khỏi những hạn chế, tồn tại.
IV. MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, FDI vào công nghiệp Việt Nam còn tồn tại một số vấn đề sau:
Một là: Công tác quy hoạch nói chung, quy hoạch liên quan đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể.
Do quy hoạch ngành và một số sản phẩm quan trọng làm chậm hoặc chưa có, lại dựa trên một số dự báo thiếu chuẩn xác chưa lường hết diễn biến phức tạp của thị trường...nên đã cấp phép đầu tư nước ngoài vào một số lĩnh vực và sản phẩm ngành công nghiệp vượt quá nhu cầu hiện tại như các dự án bia, nước giải khát có ga, sản phẩm nghe nhìn, điện tử gia dụng, lắp ráp ôtô, chất tẩy rửa...Tình hình trên cộng với ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực đã làm cho công suất huy động của nhiều sản phẩm ngành công nghiệp thuộc khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt thấp như ôtô 5%; xe máy, máy giặt, tủ lạnh trên 30%. Việc cấp phép những năm đầu còn chạy theo số lượng, thiên về thay thế nhập khẩu; tuy có bổ sung hàng hoá cho thị trường, tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu, nhưng tình trạng này kéo dài dẫn đến một số sản phẩm chèn ép sản xuất trong nước.
Cũng do thiếu quy hoạch cụ thể về sử dụng kết hợp các nguồn vốn nên chủ trương đối với một số dự án liên quan đến một số sản phẩm quan trọng hoặc lĩnh vực nhạy cảm của ngành công nghiệp là chưa rõ ràng, xảy ra tình trạng các địa phương phải chờ xin ý kiến của các cơ quan Trung ương mất nhiều thời gian. Mặt khác, dẫn đến việc xử lý chủ trương đối với dự án không nhất quán, có lúc cho phép đầu tư nước ngoài nhưng có lúc lại để đầu tư trong nước tự làm.
Các Khu công nghiệp đã thành lập do thiếu thiết kế kết cấu hạ tầng kinh tế
-xã hội, chưa đủ sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nên mới chỉ lấp kín được gần
30% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. Nhiều KCN ở miền Bắc và miền Trung tỷ lệ cho thuê đất rất thấp (Khu công nghiệp Nomurai- Hải Phòng chưa lấp đầy 10%). Quy hoạch tổng thể của nhiều địa phương, nhiều KCN đã được phê duyệt nhưng thiếu quy hoạch chi tiết, dẫn đến bị động trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư. Giá phí sử dụng cơ sở hạ tầng trong các KCN cao đã triệt tiêu lợi thế về giá thuê đất rẻ trong các KCN.
Hai là: Một số mục tiêu trước mắt và lâu dài đặt ra nhưng các liên doanh chưa thực hiện được.
+Mục tiêu chuyển dần từ lắp ráp bằng linh kiện nước ngoài sang lắp ráp bằng các linh kiện trong nước là chủ yếu vẫn chưa đủ điều kiện thực hiện. Chương trình nội địa hoá các sản phẩm điện tử, ôtô, xe máy hầu như không tiến triển được.
Nguyên nhân chính là do việc thực hiện nội địa hoá cần đầu tư lớn về vốn, nhà xưởng, thiết bị công nghệ trong khi đó số sản phẩm tiêu thụ còn hạn chế (2%-20% công suất thiết kế) nên ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Một số liên doanh chưa ký hợp đồng chuyển giao công nghệ nên việc đào tạo kỹ thuật cho công nhân Việt Nam cũng chậm lại làm chậm chương trình nội địa hoá. Bên cạnh đó, một số lĩnh vực sản xuất lắp ráp như điện tử, viễn thông...dây chuyền công nghệ rất hiện đại chỉ sau 4 đến 6 năm là lạc hậu cần đổi mới song giá lại cao không dễ gì thay đổi và khấu hao trong một thời gian ngắn do đó việc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá gặp nhiều khó khăn.
+ Việc góp vốn bằng máy móc, công nghệ trong các liên doanh chưa thực hiện một cách trung thực, nghiêm túc. Một số đối tác là nhà đầu tư nước ngoài đưa vào liên doanh những máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu trung bình tiên tiến. Một số khác nâng giá thiết bị máy móc góp vào liên doanh cao hơn giá trị thực của nó. Đây cũng là một hạn chế của nước ta vì chưa có một đội ngũ chuyên gia am hiểu và có trình độ để đánh giá chất lượng công nghệ, Bên Việt
Nam tham gia liên doanh cũng bị hạn chế về trình độ khoa học công nghệ.
+Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam với động cơ kiếm lợi nhuận và nhằm vào thị trường tiêu thụ nội địa gần 80 triệu dân. Nhưng một mặt, quy mô của thị trường Việt Nam còn nhỏ bé, sức mua rất thấp, nhất là các vùng nông thôn; mặt khác, nước ta lại chủ trương khuyến khích đầu tư hướng về xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp bị ràng buộc bởi điều kiện xuất khẩu trên
80% và phải tự cân đối ngoại tệ... nên tính khả thi của dự án không cao. Nhiều lĩnh vực đầu tư có sức hấp dẫn nhưng vào thời điểm hiện nay đã và đang bão hoà như: lắp ráp ôtô xe máy, điện tử gia dụng, sắt thép xây dựng, xi măng...
Ba là: Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài vào ngành Công nghiệp có một số bất hợp lý, dẫn đến hiệu quả kinh tế của khu vực đầu tư nước ngoài chưa cao.
Chiều hướng tăng tỷ trọng vốn FDI trong lĩnh vực công nghiệp là tốt. Tuy nhiên, tỷ trọng vốn FDI vào các dự án thay thế nhập khẩu, hướng vào nội địa còn cao, nhất là các dự án của EU, Mỹ, Nhật Bản; số doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu trên 80% còn hạn chế, một số doanh nghiệp đã xin Nhà nước hạ tỷ lệ này xuống thấp hơn hoặc giãn thời gian thực hiện dài hơn.
Đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào các KCN ở những địa phương có điều kiện thuận lợi (TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hà Nội...), tuy có góp phần làm cho các vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ tăng trưởng cao, tạo động lực lôi kéo các vùng khác phát triển, nhưng cũng làm cho chênh lệch kinh tế - xã hội giữa các vùng ngày càng lớn. Đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng hầu như không đáng kể đến khu vực miềm núi phía Bắc, một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Hơn nữa, tỷ lệ đỗ vỡ phải rút Giấy phép đầu tư ở các địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn cao hơn địa bàn khác.
Chủ trương đa phương hoá nguồn vốn FDI chưa được thực hiện tốt. Vốn đầu tư từ các nước Châu Á chiếm tới gần 67%, trong đó ASEAN gần 23%; trong khi vốn đầu tư từ Tây- Bắc Âu, Bắc Mỹ còn thấp (các nước EU chiếm
12,9%; Mỹ và Canada chiếm 4%); các nước G7 (trừ Nhật Bản) mới chiếm khoảng 12%. Do vậy, FDI ở nước ta bị ảnh hưởng lớn khi các nước xung quanh lâm vào khủng hoảng.
Một số doanh nghiệp FDI đưa vào Việt Nam các dây chuyền công nghệ quá hiện đại, công suất sử dụng thấp cho nên rất phí. Ngược lại, không ít các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam công nghệ lạc hậu, trung bình tiên tiến như ở lĩnh vực Dệt -may, Da -Giầy. Đối tác nước ngoài chủ yếu là các nước trong khu vực, các nước ASEAN (23% vốn đầu tư), hiện các nước này đang tiến hành đổi mới công nghệ nên họ chuyển giao công nghệ trung bình tiên tiến sang Việt Nam. Nếu Việt Nam không cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề này thì nguy cơ Việt Nam sẽ là bãi thải công nghệ của các nước ASEAN. Hơn nữa, nước ta thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật để có thể giám định, cũng như tìm đúng công nghệ mình cần mà chuyển giao công nghệ chủ yếu do bên nước ngoài giới thiệu và thực hiện. Nước ta thiếu kế hoạch và chiến lược cụ thể nên hoạt động chuyển giao công nghệ diễn ra lẻ tẻ, khập khiễng.
Bốn là: Các điều kiện kinh tế-xã hội còn nhiều bất cập
+ Thị trường vốn phát triển chậm, thị trường chứng khoán chưa hình thành nên đã hạn chế khả năng đáp ứng yêu cầu vốn vay của các thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.
+ Chi phí đầu tư ở Việt Nam cao hơn so với một số nước trong khu vực, do đó không phải là địa điểm lý tưởng để đầu tư. Theo điều tra của Jetro tại 24 thành phố thuộc 14 nước Châu Á tại thời điểm tháng 12/1999 thì lương công nhân ở Việt Nam cao gấp 1,6 lần tại Jakarta; giá điện gấp 2 lần Thượng Hải và Bangkok; cước vận chuyển cao gấp đôi Singapore và Kualalumpua; cước phí điện thoại quốc tế cao gấp đôi các nước khác và thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam là cao nhất, trên cả Thượng Hải... Đã hạn chế việc sử dụng lao động Việt Nam vào các cương vị quản lý điều hành doanh nghiệp vì trả cả lương và thuế cho người Việt Nam cao hơn hai đến ba lần so với lao động thuê ở các nước
trong khu vực.
+ Vẫn còn tồn tại việc áp dụng chi phí hai giá phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanhnghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải trả giá điện, nước, cước phí điện thoại, giá vé đi lại và các dịch vụ khác cao hơn các doanh nghiệp trong nước.
+ Cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội còn nhiều hạn chế (giao thông vận tải, điện nước, các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, giải trí cho đối tượng nước ngoài...)
+ Việc cung cấp nguyên liệu phụ tùng tại chỗ cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài gặp khó khăn và không ổn định, ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh và làm tăng giá thành sản phẩm. Theo Jetro, Việt Nam hầu như không có phụ tùng có thể sử dụng được; 3/ 4 số doanh nghiệp do Jetro điều tra chỉ tự cung cấp được nguyên liệu phụ tùng tại chỗ dưới 20%. Khả năng cung cấp lao động kỹ thuật, có tay nghề cao ở Việt Nam rất hạn chế.
+ Các địa phương chưa chú trọng đến công tác đào tạo lao động cung cấp cho các doanh nghiệp mà việc này các doanh nghiệp phải tự tổ chức thực hiện từ cách ăn mặc, tác phong làm việc cho đến cách thức sử dụng máy móc của người lao động. Việc này dẫn đến một số doanh nghiệp FDI không làm đúng quy định và Luật lao động của Nhà nước. Mặt khác, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa địa phương và doanh nghiệp FDI trên địa bàn về việc đào tạo công nhân kỹ thuật cho nên có sự bất cập về số lượng cũng như chất lượng người lao động. Một vấn đề nữa là thái độ đối xử của chủ đầu tư nước ngoài với người lao động Việt Nam chưa công bằng cả trong cách cư xử lẫn tiền lương. Một cán bộ kỹ thuật nước ngoài có mức lương gấp 10-13 lần tổng lương của 10 lao động Việt Nam. Đây đó vẫn xảy ra tình trạng chủ đầu tư nước ngoài có hành vi xúc phạm lao động Việt Nam. Công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI thường phải làm thêm giờ và rất vất vả, quy định của doanh nghiệp rất khắt khe. Đây cũng là một trong những lý do tại sao tỷ trọng lao động từ nông
thôn tới làm việc trong các doanh nghiệp FDI cao trong khi lao động thành thị lại thấp. Bên cạnh đó, mục tiêu nâng cao trình độ tay nghề cho lao động Việt Nam cũng chưa đạt được yêu cầu.
Thực tế người lao động Việt Nam kém về trình độ và hạn chế về nhận thức, lao động chưa qua đào tạo chiếm 60-70%; hoạt động của Công đoàn trong các liên doanh chưa làm trọn vai của mình. Nguyên nhân chính là do công tác đào tạo cán bộ quản lý FDI từ Trung ương đến địa phương, công tác đào tạo công nhân kỹ thuật chưa được quan tâm đúng mức; các cơ quan cử người vào liên doanh thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý, hầu như khoán trắng.
Năm là: Nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bị thua lỗ dẫn tới mức nộp Ngân sách Nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với thực lực của nó
Theo báo cáo điều tra hoạt động của doanh nghiệp Nhật Bản JETRO công bố, số công ty làm ăn ở Việt Nam thua lỗ năm 1998 tới 56% (trong khi tỷ lệ trung bình điều tra 5 nước ASEAN là 35%); ước tính tỷ lệ này năm 1999 còn
32%; số công ty có doanh thu năm sau cao hơn năm trước giảm dần; số công ty muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh chỉ chiếm 51%. Tình hình trên ảnh hưởng tiêu cực đến các nhà đầu tư tiềm năng.
Nguyên nhân chủ yếu là do nhà đầu tư không lường hết được sự biến động của thị trường quốc tế cũng như dự báo thiếu chính xác dung lượng thị trường Việt Nam. Gần như cùng một lúc có quá nhiều dự án FDI đi vào hoạt động ở cùng một lĩnh vực dẫn đến hàng hoá ứ đọng không tiêu thụ được, công suất sử dụng rất thấp như lĩnh vực ô tô. Một số doanh nghiệp khác hạch toán chưa phù hợp như đưa toàn bộ chi phí hình thành dự án vào ngay năm đầu kinh doanh, tỷ lệ khấu hao cao, chi phí dành cho quảng cáo tiếp thị lớn nên giá thành cao. Bên cạnh đó cũng có một số doanh nghiệp của các Công ty đa quốc gia, các tập đoàn lớn “lỗ giả nhưng lãi thật”, công ty con ở Việt Nam lỗ song công ty mẹ ở nước ngoài lại có lãi, dẫn đến đóng nộp Ngân sách rất hạn chế.
Nhiều liên doanh kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ, Bên Việt Nam không tiếp tục
liên doanh được đành bán lại phần vốn góp của mình, xẩy ra tình trạng các liên doanh chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài (như Liên doanh nước giải khát Coca-Cola; Công Công ty liên doanh ô tô Việt Nam-Daewoo xin chuyển nhượng toàn bộ cổ phần cho phía nước ngoài vì không chịu nổi lỗ quá lớn...)
Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực tài chính của bên Việt Nam hạn chế, khả năng trình độ quản lý cũng có hạn. Cho nên khi gặp khó khăn cần bàn bạc giải quyết Bên Việt Nam thường lúng túng thoái thác cho Bên nước ngoài. Hơn nữa, các liên doanh thường thua lỗ 4-5 năm đầu, yêu cầu tăng vốn góp, tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nhưng phía Việt Nam không đáp ứng được đành chuyển phần vốn góp của mình cho bên nước ngoài.
Trên đây là những phân tích, đánh giá tình hình FDI vào ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua đồng thời đã nêu ra những ưu điểm và những tồn tại, hạn chế của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ đó sẽ đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI
I. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Mục tiêu phát triển Ngành công nghiệp trong thời gian tới
Đối với Việt Nam thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ cao, tạo ra năng suất lao động xã hộ cao. Mục tiêu lâu dài của CNH, HDH là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vưng chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh
Mục tiêu trung hạn là ra sức phấn đấu đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành mộ nước công nghiệp, do đó tốc độ phát triển công nghiệp phải đạt cao (trên 12%/năm) trong nhiều năm, năm 2020 giá trị gia tăng công nghiệp trong GDP đạt trên 40%.
2. Định hướng phát triển Ngành công nghiệp trong thời gian tới
-Phát triển công nghiệp nhằm khai thác hết tiềm năng của nền kinh tế. Công nghiệp cần hướng mạnh về xuất khẩu.
-Phát triển công nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội thông qua quá trình cơ giới hoá, tự động hoá, hoá học hoá...
- Chiến lược phát triển dài hạn công nghiệp cần xác định được cơ cấu công
nghiệp hợp lý, lựa chọn các ngành công nghiệp chiến lược quan trọng để có chính sách nuôi dưỡng và phát triển các ngành có lợi thế so sánh và có khả năng cạnh tranh trong tương lai trên thị trường khu vực và thế giới.
Cụ thể như sau:
+ Phát triển mạnh những ngành công nghiệp ta đang có lợi thế về nguồn nhân lực và tài nguyên, nhằm tạo ra những khởi động tốt cho phát triển công nghiệp như: Ngành Dệt - May; Ngành công nghiệp chế biến hướng về xuất khẩu, đặc biệt là chế biến sâu các sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản, những vùng có quy mô sản phẩm hàng hoá nguyên liệu lớn; Ngành công nghiệp khai thác dầu khí.
+ Nuôi dưỡng và phát triển các nghành công nghiệp quan trọng có sức cạnh tranh mạnh mẽ. Đó là: Ngành công nghiệp cơ khí chế tạo và Ngành công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin.
+ Phát triển có chọn lọc những ngành công nghiệp nặng, nhằm tạo ra nguyên liệu cơ bản cho công nghiệp, đồng thời phát huy các lợi thế về tài nguyên. Đó là các ngành: Công nghiệp lọc, hoá dầu; Công nghiệp luyện kim. Tạo tiền đề cho phát triển các ngành khác như Cơ khí, chế tạo, đóng tàu, sản xuất ôtô và một số ngành công nghiệp khác.
Để đạt được mục tiêu và định hướng này, ngành Công nghiệp cần có những tháo gỡ tích cực hơn trong quá trình thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn đó. Sau đây, xin kiến nghị một số giải pháp.
II. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Hoàn thiện thêm một bước về luật pháp, cơ chế chính sách về ĐTNN.
1.1 Bộ Công nghiệp cần có quy hoạch và đệ trình danh mục các lĩnh vực, ngành, địa bàn cần khuyến khích và ưu đãi đầu tư lên Chính phủ để nhằm thu
hút FDI đúng hướng.
- Cần khuyến khích mạnh mẽ ĐTNN vào các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử, năng lượng, những ngành ta có thế mạnh về nguyên liệu (như lĩnh vực Dầu khí) và lao động (như lĩnh vực Dệt-may, Da-Giầy,...). Thực hiện thuế nhập khẩu thực sự khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ cao sản xuất cơ khí, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo, đặc biệt là công nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện và nguyên liệu để giúp các doanh nghiệp sản xuất ô tô, lắp ráp xe gắn máy hạ giá thành sản phẩm, vừa giúp các doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm ở thị trường nội địa vừa hướng ra xuất khẩu.
- Thu hút đầu tư, áp dụng những chính sách ưu đãi để lấp đầy các KCN, KCX đã được thành lập và khai thác các vùng kinh tế trọng điểm mới. Ngoài các KCN nhỏ, các cụm công nghiệp để giãn các nhà máy tại các thành phố lớn, cần xem xét chặt chẽ việc thành lập các KCN mới. Trước mắt cần rà soát các KCN đã có quyết định thành lập để dừng hoặc giãn tiến độ xây dựng những KCN không đủ yếu tố khả thi, chỉ thành lập KCN mới khi hội đủ điều kiện. Nên quy hoạch và xây dựng các KCN tập trung cho các vùng kinh tế trọng điểm (gần trung tâm giao dịch buôn bán, đường xá giao thông thuận lợi, gần vùng cung cấp nguyên, nhiên liệu...) để tạo sức đột phá, các địa bàn khác cần đầu tư có chọn lọc tránh dàn trải và bất hợp lý. Hiện nay, cả nước đã có 61 KCN, tập trung chủ yếu ở TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Hà Nội, Đà Nẵng...Nhìn chung, hoạt động đầu tư vào KCN chưa thực sự sôi động, tỷ lệ lấp đầy KCN còn thấp (KCN Nomurai-Hải Phòng, chưa lấp đầy 10% diện tích cho thuê...). Để tạo thuận lợi thu hút đầu tư vào KCN, cần thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp KCN; bảo đảm các công trình hạ tầng kỹ thuật (đường xá, điện, nước, thông tin liên lạc...) đến tận hàng rào các KCN; ưu đãi ở mức cao nhất các dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với KCN (nhà ở cho công nhân, trường học, trường dạy nghề, cơ sở khám chữa bệnh, thương mại và các dịch vụ đời sống của các thành phần kinh tế).
Cần lựa chọn một vài địa phương có điều kiện địa lý, kinh tế-xã hội thuận lợi để thành lập khu kinh tế và tập trung đầu tư đúng mức cả về vốn, con người. Tổ chức và có cơ chế chính sách phù hợp để xây dựng thành công các khu kinh tế này.
Tiếp đến là Khu chế xuất (KCX), hoạt động của các KCX thời gian qua kém hiệu quả, có nhiều khu triển khai chậm hoặc không triển khai được và xin chuyển thành KCN để có thể linh hoạt trong đầu tư. Trong thời gian tới, nước ta cần tập trung đẩy nhanh hoạt động của các KCX đã được thành lập bằng các chính sách ưu đãi, khuyến khích hơn, đồng thời tạm ngừng thành lập các KCX mới.
1.2 Xử lý một cách linh hoạt các định hướng đối với từng lĩnh vực đầu tư trong ngành Công nghiệp
- Một số lĩnh vực hiện nay năng lực sản xuất đã bão hoà với thị trường nội địa. Một mặt, cần hạn chế hoặc tạm thời chưa cấp phép cho các dự án mới như sản xuất bia... mặt khác, cần chuyển hướng thu hút đầu tư như lĩnh vực Điện tử - Tin học: hướng tập trung sẽ là điện tử công nghiệp và phát triển phần mềm, phần cứng trong Tin học, hạn chế sản xuất lắp ráp điện tử tiêu dùng. Lĩnh vực sản xuất nước giải khát, hướng thu hút FDI sẽ là: tập trung đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nước giải khát không có ga, nước hoa quả cho tiêu dùng nội địa và cho xuất khẩu; hạn chế đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nước giải khát có ga...Một mặt đi vào khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến (sản xuất lắp ráp ôtô xe máy, khai thác dầu khí...); mặt khác, chú trọng công nghệ thích hợp, máy móc thiết bị đã qua sử dụng (với điều kiện thiết bị đó không gây ô nhiễm môi trường hoặc có hại cho sức khoẻ công nhân) để tận dụng giá trị sử dụng còn lại, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động trong một số lĩnh vực nhất định (Da giầy, Dệt - may...).
- Việc thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bổ sung sửa đổi được Quốc hội thông qua tháng 6/2000 và Nghị định số 24/2000 hướng dẫn thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực từ tháng 7 năm 2000; cùng với
các Thông tư hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài; thêm vào đó, việc ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã tác động tích cực đến tâm lý các nhà đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu và trao đổi hàng hoá cho các doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho thu hút vốn FDI trong thời gian tới. Vì vậy,Chính phủ cần gấp rút có những chính sách khuyến khích, ưu đãi và tăng cường đầu tư cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao (như Dệt - may, Da giầy...). Để trong tương lai không xa, các doanh nghiệp FDI trong các lĩnh vực này sẽ là đại diện của Việt Nam có đủ năng lực về tài chính, công nghệ... cạnh tranh trên trường quốc tế.
- Việc bảo hộ sản xuất trong nước đối với những doanh nghiệp mới đi vào sản xuất còn nhiều lúng túng. Nhiều doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu có nguy cơ phải đóng cửa do chính sách của Nhà nước ta chưa khuyến khích tiêu dùng hàng trong nước đã sản xuất được, đạt tiêu chuẩn quốc tế; điển hình là trường hợp Công ty Mitsui ViNa sản xuất nguyên liệu PVC...
- Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động trong ngành công nghiệp gặp nhiều khó khăn cả về thị trường tiêu thụ lẫn sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại nhập. Điển hình có ngành sản xuất và lắp ráp ô tô, đây là ngành mới đầu tư vào Việt Nam với dây chuyền công nghệ hiện đại, công suất thiết kế rất lớn song thực tế công suất chưa phát huy hết 5%, thị trường tiêu thụ hạn chế (20-25%), do đó, để ngành này phát triển cần kết hợp đồng thời hai chính sách: một mặt, tăng thuế nhập khẩu nguyên chiếc lên 200%, mặt khác bỏ thuế tiêu thụ đặc biệt, điều chỉnh thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng theo từng giai đoạn và thực hiện các biện pháp nhằm giúp các doanh nghiệp hạ giá thành lắp ráp tại Việt Nam. Trên cơ sở đã tồn tại và đứng vững trên thị trường nội địa, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam mới có thể phát triển bền vững trong tiến trình hội nhập quốc tế.
1.3 Đẩy nhanh lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá thống nhất cho đầu tư trong nước và ĐTNN
- Trong năm 2003, cần tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hoá, dịch vụ để sau 1 hoặc 2 năm về cơ bản áp dụng một mặt bằng thống nhất một số giá, phí cho các doanhnghiệp có vốn FDI. Hiện nay còn nhiều khác biệt trong đối xử giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải trả giá điện, nước, cước phí điện thoại, giá vé đi lại, và cá dịch vụ cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Điều này tạo ra một môi trường cạnh tranh không lành mạnh khiến nhà đầu tư nước ngoài còn thấy e ngại.
- Bên cạnh việc kiểm soát độc quyền và giảm ngay các dịch vụ có giá quá cao của các doanh nghiệp độc quyền hiện nay, cần lưu ý giảm chi phí các sản phẩm trung gian cho sản xuất công nghiệp.
Hiện tại các ngành công nghiệp hỗ trợ để sản xuất các bộ phận, linh kiện của ta rất yếu, nhất là trong điện tử gia dụng. Trong khi đây là lĩnh vực thu hút nhiều lao động vừa giản đơn vừa lành nghề. Một bộ phận đòi hỏi trình độ lao động có kỹ năng cao rất thích hợp với cơ cấu lao động của Việt Nam . Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy đối với các nhà ĐTNN, tỉ lệ sản xuất các bộ phận, linh kiện trong nước càng cao càng tốt để giảm giá thành và nâng cao hiệu quả cũng như sức cạnh tranh. Điều này có lẽ khác với nhận thức của một số người, trong đó có cả những nhà hoạch định chính sách, khi cho rằng các công ty đa quốc gia thường không muốn tăng tỉ lệ nội địa hóa để đưa linh kiện từ ngoài vào.
Vì thế trước mắt ta không nên tiếp tục dùng biện pháp hành chính hay thuế quan ép buộc các công ty đa quốc gia tăng tỉ lệ nội địa hoá mà phải phát triển công nghệ hỗ trợ trong nước để có thể cung cấp nhanh, rẻ các bộ phận, linh kiện chất lượng cao. Muốn vậy, Việt Nam phải có ngay một kế hoạch tạo bước đột phá tăng nhanh việc sản xuất linh kiện mà ta có lợi thế cạnh tranh trước hết ở ba vùng kinh tế trọng điểm từ khâu thiết kế, sản xuất, tiếp thị, cung cấp nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng, dịch vụ sửa chữa. lao động có tay nghề...Việc này, theo kinh nghiệm của thế giới, chủ yếu nên dựa vào các doanh nghiệp có qui mô nhỏ và vừa trên cơ sở hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Cần hết sức lưu ý đến các biện pháp để các công ty đa quốc gia không di chuyển các cơ sở sản xuất của họ từ Việt Nam sang các nước ASEAN khác sau khi AFTA được thực hiện đầy đủ vào năm 2006. Gần đây các biện pháp tăng thuế, hạn chế hạn ngạch nhập khẩu (xe máy, ô tô...) để ép các công ty tăng tỉ lệ nội địa hoá không được các nhà ĐTNN, thậm chí cả chính phủ của họ ủng hộ cho dù mục tiêu của chính sách này về lâu dài là đúng. Trong tình hình hiện nay nên cân nhắc có lựa chọn cho tự do nhập khẩu, miễn thuế những loại linh kiện mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh để giảm giá thành lắp ráp, vừa duy trì khả năng cạnh tranh với các nước ASEAN vừa giữ chân các công ty đa quốc gia.
1.4 Sửa đổi, ổn định một số luật thuế
- Nhiều doanh nghiệp FDI tiếp tục kiến nghị Chính phủ về những bất cập trong chính sách thuế chưa khuyến khích sản xuất, chế tạo sản phẩm trong nước, đặc biệt là việc áp dụng thuế VAT làm đội giá thành sản phẩm quá cao, không được thị trường chấp nhận, buộc một số doanh nghiệp phải sản xuất cầm chừng, điển hình là các doanh nghiệp sản xuất hàng điện gia dụng (máy điều hoà, tủ lạnh).
Đề nghị Quốc hội xem xét sửa đổi Luật thuế VAT, đưa ra ngoài diện đối tượng áp dụng thuế VAT các máy móc thiết bị nhập khẩu để tạo tài sản cố định của các doanh nghiệp FDI .
Đối với những mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, phải có biện pháp khấu trừ thuế VAT đầu vào cho các doanh nghiệp (hiện nay không thể khấu trừ vì sản phẩm không thuộc điều chỉnh của thuế VAT).
- Cần xem xét việc miễn thuế nhập khẩu đối với phụ tùng thay thế trong các dây chuyền công nghệ sản xuất đồng bộ và các loại máy móc hiện đại, máy chính xác trong thời gian ổn định từ 5-10 năm. Miễn giảm thuế đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu phục vụ cho sản xuất thử.
- Quy định lại thời hạn tạm miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu là 80 ngày. Đơn giản thủ tục hoàn thuế cho
doanh nghiệp, đảm bảo thời gian làm thủ tục hoàn thuế không quá 30 ngày kể từ
khi cơ quan có thẩm quyền nhận được công văn xin hoàn thế.
- Bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với doanh nghiệp FDI, cho doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế theo luật mới đồng thời đảm bảo nguyên tắc không hồi tố, nghĩa là những quy định của luật cũ có lợi cho doanh nghiệp đã được cấp Giấy phép trước ngày luật mới có hiệu lực thì doanh nghiệp được hưởng theo luật cũ.
- Một số doanh nghiệp sản xuất đồ điện gia dụng như các Công ty điện tử Sony, JVC, Công ty Amtronics (Toshiba), LG - Meca, Carier, phản ánh việc áp dụng Thông tư 1994/1998 của Bộ Tài chính về đánh thuế nhập khẩu linh kiện theo tỉ lệ nội địa hoá đối với sản phẩm này sau năm 2000 không hợp lý, vì trong nước hiện nay hầu như không sản xuất được linh kiện. Đề nghị Quốc hội xem xét cho phép các doanh nghiệp kéo dài thời gian chuẩn bị điều kiện nội địa hoá sản phẩm tới năm 2003 chưa áp dụng các biện pháp bắt buộc nội địa hoá đối với các sản phẩm trong nước chưa đủ điều kiện thực hiện.
- Đề nghị Quốc hội xem xét cho phép Chính phủ điều tiết bằng các biện pháp phi thuế quan đối với những sản phẩm mà doanh nghiệp trong nước đã sản xuất đáp ứng nhu cầu về số lượng cũng như chất lượng, hạn chế nhập khẩu.
- Việc ban hành một số văn bản thiếu cân nhắc như Thông tư 40/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Quyết định 176/1999/QĐ -TTg của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư 45/2000/TT-TCHQ về lệ phí hải quan đã gây trở ngại lớn cho sản xuất của các doanh nghiệp, lãng phí thời gian của doanh nghiệp và các cơ quan Nhà nước, dẫn đến việc phải bãi bỏ các văn bản trên ngay sau khi ban hành, ảnh hưởng tới niềm tin của doanh nghiệp vào đường lối nhất quán của Nhà nước ta trong thu hút đầu tư nước ngoài
1.5. Giảm nhẹ các thủ tục hành chính
Giờ đây sức cạnh tranh không phải chỉ ở giá thành và chất lượng mà còn phụ
thuộc khả năng tiếp thị và tốc độ cung cấp. Trong đó tốc độ cung cấp lại phụ
thuộc một phần rất quan trọng vào tốc độ xử lý hành chính mà rất tiếc là tốc độ
này ở ta rất chậm, có lẽ tệ nhất trong các nước ASEAN.
Theo điều tra của Tổ chức Xúc tiến thương mại của Nhật Bản (JETRO) năm
2002, 42% các doanhnghiệp Nhật được hỏi nói rằng khó khăn lớn nhất của họ tại Việt Nam là thủ tục hành chính, trong khi con số này ở Thái Lan chỉ 13%, Philippines 18% và Indonesia 22%. Một ví dụ cụ thể: Nhật hàng năm nhập khẩu hơn 500 tỉ yen (4 tỉ USD) sản phẩm quần áo có nguyên liệu là len đan. Do vậy len đan xuất khẩu từ Nhật để gia công ở nước ngoài khi nhập thành phẩm trở lại chỉ bị đánh thuế nhẹ. Có tới 80% sản phẩm gia công theo cách này được nhập khẩu từ Trung Quốc, còn nhập khẩu từ Việt Nam không đáng kể. Nguyên nhân chính là do thủ tục hải quan của ta quá rắc rối, tốc độ xử lý chậm trong khi điều kiện chi phí lao động cho gia công ở Trung Quốc và Việt Nam ngang nhau.
Các cơ quan hành chính các cấp nên có thái độ đối xử với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp FDI như cách chính quyền tỉnh Bình Dương đang làm. Đó là tinh thần phục vụ doanh nghiệp và lo cái lo của doanh nghiệp.
2. Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, công chức nhà nước, và công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp hoạt động kinh tế đối ngoại, trình độ ngoại ngữ và tay nghề kỹ thuật cao, đủ khả năng để đáp ứng tốt yêu cầu thu hút và quản lý hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài .
2.1 Chú trọng công tác cán bộ, đào tạo công nhân có tay nghề cao phù hợp với yêu cầu của các nhà đầu tư, kịp thời tham gia lao động khi có nhu cầu ở các KCN, KCX
Trong hoạt động FDI, công tác cán bộ đặc biệt quan trọng vì cán bộ vừa tham gia hoạch định chính sách, vừa là người vận dụng luật pháp, chính sách để xử lý tác nghiệp hàng ngày liên quan đến mọi hoạt động FDI. Cán bộ quản lý Việt Nam trong các liên doanh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của
Nhà nước Việt Nam, của doanh nghiệp Việt Nam, của người lao động; đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật. Do đó, phải đặc biệt chú trọng đến công tác đào tạo nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức Nhà nước các cấp, đôị ngũ cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp FDI.
- Có những doanh nghiệp FDI thuộc ngành cơ khí không tuyển nổi một công nhân kỹ thuật dưới 30 tuổi có tay nghề bậc 5. Hầu hết lao động trực tiếp của các doanh nghiệp FDI đều tuyển từ các vùng nông thôn, chưa qua đào tạo. Các nhà quản lý nước ngoài đều có đánh giá chung là lao động Việt Nam tuy chịu khó và cần cù nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp ít, không có tác phong công nghiệp cho nên năng suất lao động rất thấp. Để hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả, đạt được mục tiêu đề ra, vấn đề quan trọng là chúng ta không thể không có kế hoạch, quy hoạch đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật để vừa đáp ứng kịp thời cho nhu cầu trước mắt, vừa chuẩn bị một cách cơ bản và lâu dài cho loại hoạt động này.
Trước mắt nhà nước cần xây dựng Quy chế cán bộ Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh, trong đó cần quy định rõ tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ trong và sau thời gian làm việc tại các doanh nghiệp FDI; chế độ báo cáo, kiểm tra. Hiện nay, Ban Tổ chức Trung ương đang phối hợp với các Bộ liên quan (trong đó có Bộ Công nghiệp) nghiên cứu chuyên đề quan trọng này, để trình Bộ chính trị.
- Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đào tạo chính quy cán bộ làm công tác FDI, cán bộ quản lý các doanh nghiệp có vốn FDI, trong ngành công nghiệp .
- Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thường xuyên việc tập huấn số cán bộ Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các liên doanh trong ngành công nghiệp, trang bị kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ,
luật pháp cũng như những kinh nghiệm cần thiết nhất cho họ.
- Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh-Xã hôị, Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh, Ban quản lý KCN tổ chức đào tạo công công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp FDI. Thực tế cho thấy, công tác đào tạo của nước ta những năm qua còn nhiều bất hợp lý, tỷ lệ Đại học/ trung học là
4/1 trong khi đó ở các nước tiên tiến, tỷ lệ đó là 1/6, điều đó dẫn đến tình trạng “thừa thầy thiếu thợ “ như hiện nay (theo số liệu thống kê trong ngành công nghiệp Tp. Hồ Chí Minh, tỷ lệ cán bộ kinh tế/ công nhân lành nghề là 4/1). Công nhân có trình độ tay nghề cao không nhiều, lao động chủ yếu chưa qua đào tạo (chiếm 60-70%).
2.2 Cùng với các chính sách linh hoạt về vấn đề chuyển giao công nghệ trong ngàng Công nghiệp, cần phải có các chế độ ưu đãi phù hợp đối với các cán bộ nghiên cứu khoa học
Hoạt động hợp tác đầu tư kèm theo nó là hoạt động chuyển giao công nghệ (CGCN) vào Việt Nam. Muốn xây dựng xã hội Xã hội Chủ nghĩa, trước hết cần xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước nhà. Muốn vậy, CGCN là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, do nôn nóng và thiếu hiểu biết nên trong thời gian qua nước ta đã cho chuyển giao nhiều dây chuyền công nghệ lạc hậu từ 40-60 năm và nước ta có nguy cơ trở thành bãi thải công nghệ của các nước trong khu vực và trên thế giới; năng lực sản xuất thì không hiệu qủa. Một số công nghệ lại quá hiện đại, công nhân Việt Nam không kịp tiếp nhận, làm quen trong một thời gian ngắn cho nên phải thuê chyên gia nước ngoài; các dây chuyền công nghệ này lại không phát huy hết công suất thiết kế.
Do đó để hoạt động CGCN đạt hiệu quả, Nhà nước cần đầu tư kinh phí cho công tác nghiên cứu ứng dụng cho các Viện nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, các trường Đại học... Có chính sách về lương và các chế độ kèm theo cho cán bộ nghiên cứu khoa học. Đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật đủ trình độ tiếp thu kinh nghiệm quản lý và vận hành các dây chuyền công nghệ, tiến tới làm chủ
công nghệ đó. Năm 2001, dự tính đầu tư cho khoa học công nghệ khoảng 2,3% tổng chi Ngân sách, song theo dự tính với nguồn kinh phí này cũng chỉ đủ đáp ứng được 40-50% nhu cầu hoạt động của ngành khoa học công nghệ. Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng cần có sự quan tâm đúng mức các công trình nghiên cứu khoa học công nghệ trong địa bàn, thực hiện tốt, nhanh làm thủ tục thẩm định, xét duyệt các dự án bằng cách phối hợp với ngân hàng... khuyến khích các doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết với các Viện nghiên cứu, các trung tâm, các trường Đại học cùng đầu tư, nghiên cứu, ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học.
Muốn tiến hành phát triển mạnh ngành Công nghiệp, cần có thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại... hoạt động CGCN có thể đáp ứng được yêu cầu đó. Song, để hoạt động CGCN đạt được hiệu quả và phục vụ cho nhu cầu thiết thực của ngàng cũng như của cả nước, một trong những đòi hỏi cơ bản là nước ta cần có một trình độ khoa học công nghệ nhất định.
3. Sớm hình thành một thị trường vốn đồng bộ, tạo ra khả năng đa dạng hoá trong huy động vốn cho đầu tư.
- Nhà nước phải tạo điều kiện để các doanh nghiệp FDI được tiếp cận thị trường vốn; được vay tín dụng kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động ở Việt Nam, tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của các dự án và có thể bảo đảm bằng tài sản của các Công ty mẹ ở nước ngoài; được phép thí điểm phát hành cổ phiếu, trái phiếu ở thị trường trong và ngoài nước để thu hút thêm vốn đầu tư.
- Phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn đầu tư bằng các nguồn huy động dài hạn như: trái phiếu, cổ phiếu; tiến tới thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp FDI. Sớm ban hành các quy định về cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để đẩy nhanh việc giải ngân vốn vay của các doanh nghiệp FDI; có quy định cụ thể về hoạt động của các quỹ đầu tư.
- Xây dựng Quy chế quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp FDI; ban
hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp; đồng thời bảo đảm sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
- Cho phép các doanh nghiệp FDI được chuyển nhượng và thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn từ các ngân hàng nước ngoài trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam .
- Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt buộc khi có điều kiện; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai.
- Một vấn đề nữa là cân đối ngoại tệ cho các dự án đầu tư nước ngoài. Đây đang là một thách thức cho sự phát triển các dự án. Nhiều doanh nghiệp triển khai sớm nhằm vào thị trường trong nước, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, đã đến thời kỳ phải trả vốn vay trong khi khả năng đáp ứng nhu cầu ngoại tệ trên của các ngân hàng thương mại rất hạn chế, nhất là vào thời điểm cuối chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
- Hiện vẫn còn nhiều khác biệt trong đối xử giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải trả giá điện, nước, cước phí điện thoại, giá vé đi lại và các dịch vụ khác cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Ngược lại, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải dùng cho sản xuất kinh doanh trong khi đó các ưu đãi này không được áp dụng cho các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa thuế suất, thuế lợi tức được áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thấp hơn các doanh nghiệp trong nước.
Trong thực tế, bù lại chi phí cao, sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường đạt chất lượng cao và giá bán cũng cao, khả năng chiếm lĩnh thị trường tốt hơn. Bởi vậy, trong giai đoạn đầu, lợi nhuận của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể chưa cao hoặc bị lỗ, nhưng về lâu dài,
họ bù đắp được chi phí để đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi. Năm 1996, số thuế mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp cho Ngân sách nhà nước chiếm gần 23% tổng số thu Ngân sách nhà nước là con số không nhỏ.
Thiết nghĩ, vốn đầu tư nhà nước là cần thiết song vốn đầu tư trong nước vẫn là yếu tố quyết định sự tồn tại, phát triển lâu dài của nền kinh tế nói chung, của ngành công nghiệp nói riêng. Do đó, trong thời gian tới, một mặt thu hút hơn nữa vốn đầu tư nóng vào ngành công nghiệp Việt Nam , mặt khác cần có các chính sách ưu đãi, khuyến khích và hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp trong nước.
4. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư.
Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần phải được đổi mới về nội dung và phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có hiệu quả. Trước hết, cần xác định xúc tiến đầu tư cũng như xúc tiến thương mại là nhiệm vụ và trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, của Bộ, ngành, các tỉnh, Ban quản lý các Khu công nghiệp. Cần thành lập bộ phận xúc tiến tại Bộ Công nghiệp, tổng công ty, các cơ quan đại diện của nước ta tại một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài để chủ động thu hút đầu tư nước ngoài. Ngân sách nhà nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư.
Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc thu hút các nhà đầu tư truyền thống ở Châu á, ASEAN vào các dự án mà họ có kinh nghiệm và thế mạnh như công nghiệp chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu...Cần chuyển hướng mạnh sang Châu âu, Bắc Mỹ nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ kỹ thuật hiện đại của các Tập đoàn xuyên quốc gia để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại.
Trên cơ sở quy hoạch ngành, sản phẩm, lãnh thổ và danh mục dự án kêu gọi
đầu tư được phê duyệt; Bộ Công nghiệp cùng với các địa phương cần chủ động
tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với dự án, trực tiếp đối từng tập đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng. Đối với một số dự án lớn, quan trọng, liên quan đến quôc kế dân sinh, cần chuẩn bị kỹ lưỡng dự án kể cả việc đề nghị một số nước hỗ trợ lập báo cáo nghiên cứu khả thi. Trên cơ sở đó, Chính phủ lựa chọn, mời trực tiếp một số Tập đoàn lớn trong ngành để đàm phán, tham gia đầu tư vào các dự án đó.
Bộ Công nghiệp cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, BộThương mại tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế thị trường đầu tư, chính sách của các nước, các Tập đoàn xuyên quốc gia, các tập đoàn và các công ty lớn để có chính sách vận động thu hút đầu tư phù hợp. Nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới để kịp thời có đối sách thích hợp.
Cần tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư hiện có dự án đầu tư đang hoạt động, giúp họ giải quyết các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý nghĩa quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới.
5. Đối với việc lựa chọn các đối tác nước ngoài: cần xác định chiến lược lâu dài là dành sự ưu tiên hơn cho việc thu hút các nhà đầu tư thuộc các công ty xuyên quốc gia lớn, thực thụ, tiến tới xoá bỏ tình trạng thu hút các nhà đầu tư thiếu năng lực hoặc làm trung gian, môi giới đầu tư.
Đặc điểm nổi bật của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vừa qua, phần lớn không phải xuất phát từ các công ty mẹ, mà là xuất phát từ các công ty thuộc thế hệ thứ hai, tức là xuất phát từ các chi nhánh công ty nước thứ hai đầu tư vào nước ta (nước thứ ba), còn quá ít các công ty xuyên quốc gia lớn. Trong khi đó hầu hết các lĩnh vực trong ngành công nghiệp đều đòi hỏi nhu cầu vốn lớn, trang thiết bị công nghệ hiện đại (công nghiệp dầu khí, công nghiệp nặng).
Một trong những điều kiện có tính chất quyết định khả năng thu hút các công ty xuyên quốc gia lớn đến đầu tư là phải có các doanh nghiệp đối tác trong nước
đủ mạnh về nhiều mặt. Và, để có được các doanh nghiệp loại này, Nhà nước ta cần có sự lựa chọn, hỗ trợ, đầu tư, xây dựng tạo cho những điều kiện, cơ hội thử thách và phát triển. Chúng ta cần có sự đầu tư thoả đáng để sớm hình thành các tập đoàn kinh tế hùng mạnh làm trụ cột cho sự phát triển kinh tế nước nhà, vừa đủ sức vươn ra hoạt động có hiệu quả trên thị trường quốc tế.
Tóm lại, để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trong ngành Công nghiệp, một mặt Bộ Công nghiệp kiến nghị các cơ quan soạn thảo Luật và các văn bản quy phạm pháp luật tạo điều kiện pháp lý nhằm giúp Bộ Công nghiệp tiếp cận được nguồn thông tin báo cáo trực tiếp từ các doanh nghiệp công nghiệp FDI để không ngừng cập nhật thông tin phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước theo chuyên ngành; mặt khác bản thân ngành cũng phải có những cải cách, thay đổi mang bản sắc riêng của ngành để tạo hiệu quả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng cao hơn.
KẾT LUẬN
Chỉ sau hơn một thập kỷ triển khai, đến nay khu vực công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) đang có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Sự lớn mạnh của khu vực này không những góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới và phát triển các ngành công nghiệp của Việt Nam theo hướng hiện đại hoá, mà còn góp phần trực tiếp tăng cường khả năng xuất khẩu của Việt Nam.
Khu vực công nghiệp có vốn ĐTNN bao gồm 4 chuyên ngành: Công nghiệp Dầu khí; Công nghiệp nặng; Công nghiệp nhẹ và Công nghiệp thực phẩm. Trong khi công nghiệp dầu khí đang phát triển theo chiều sâu, tạo ra những sản phẩm mới như năng lượng, khí đốt, dầu nhờn, bột PVC và tiến tới sản xuất sản phẩm xăng dầu các loại thì công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm cũng ngày càng lớn mạnh, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài (hầu hết các hãng lớn nổi tiếng trên thế giới đều đã đầu tư vào Việt Nam như các hãng Toyota, Mercedes,...vào lĩnh vực sản xuất ô tô; Suzuki, Yamaha, Honda,...vào lĩnh vực sản xuất lắp ráp xe máy; Adidas, Bata, Reebox,... vào lĩnh vực da-giầy; Heneken, Coca-Cola,...vào công nghiệp thực phẩm...). Chỉ riêng trong 8 tháng đầu năm 2002, trong khi xuất khẩu dầu thô đạt 1.740 triệu USD, thì kim ngạch xuất khẩu của các ngành khác đạt 2.798 triệu USD.
Công nghiệp có vốn ĐTNN hiện có mặt trong hầu hết các ngành công nghiệp trọng yếu của Việt Nam, kể cả ngành đóng tàu biển, khai thác than...Công thiệp có vốn ĐTNN hiện chiếm 100% sản phẩm của 2 ngành dầu khí và bột ngọt; trên 80% của ngành sản xuất xe máy; trên 90% về sản xuất ô tô, ti vi và xe đạp; trên 50% trong sản xuất thép...Ngoài ra công nghiệp có vốn ĐTNN đã và đang tham gia đánh thức các tiềm năng kinh tế ở các địa phương biến nhiều vùng đất hoang vắng thành các khu công nghiệp lớn. Có thể kể đến những địa phương như Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng,
Hà Nội, TP HCM...
Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy rõ những đóng góp lớn lao của khu vực công nghiệp có vốn ĐTNN đối với nền kinh tế Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần tiếp tục có các giải pháp, chính sách, định hướng cụ thể để xoá bỏ những rào cản, tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp. Từ đó có biện pháp hỗ trợ cụ thể và thiết thực để khu vực công nghiệp này tăng trưởng với nhịp độ cao, trên cơ sở đó cùng với các khu công nghiệp nhà nước và công nghiệp ngoài quốc doanh đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH, nhằm thực hiện mục tiêu tới năm 2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp như mục tiêu đã đề ra.
Mục tiêu giới hạn của bài viết chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu tổng hợp để minh hoạ một bức tranh tổng quát về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực công nghiệp mà chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu tài chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh, lỗ - lãi của từng doanh nghiệp, từng chuyên ngành nhỏ của khu vực này.
Bài viết của em đã đề cập thực trạng cũng như những tồn tại hạn chế của tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp Việt Nam và có một số nhận định riêng của bản thân. Tuy nhiên, do hạn chế về kinh nghiệm cũng như thời gian nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý của các thầy cô giáo để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện bài viết, phục vụ tốt cho công cuộc thu hút, sử dụng và quản lý vốn FDI trong ngành công nghiệp.
Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “ Đầu tư nước ngoài: - Đại học Ngoại Thương.
2. Báo cáo tổng hợp năm 2001/2002 Vụ Quản lý Dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3. Bộ Công nghiệp
- Báo cáo tình hình hoạt động năm 2000 của Bộ Công nghiệp
- Chiến lược và chính sách công nghiệp số 1 và 6 năm 2001.
- Quy hoạch phát triển các ngành Công nghiệp đến năm 2005
4. Các văn bản pháp lý về đầu tư nước ngoài.
5. “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Cơ sở pháp lý - Hiện trạng - cơ hội - triển vọng” Phan Hữu Thắng, Hoàng Văn Huấn, Nguyễn Anh Tuấn/ Vụ Quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
6. “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc CNH, HĐH ở Việt Nam” TS.
Nguyễn Trọng Xuân/ Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Kinh tế học-Xuất bản năm 2002
7. “Dầu khí Việt Nam” Đoàn Thiên Tích-Nguyên Phó Chủ tịch Công đoàn Dầu khí Khoá I (1993-1998)/ Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
8. Thời báo kinh tế các số: 135 ra ngày 11/11/2002; số 14 ra ngày 24/1/2003;
số 17-22 ra ngày 7/2/2003,
9. Báo Đầu tư ra ngày 30/8/2002; số 11 ra nganỳ 5/3/2003
10.Tạp chí Thương mại/ Bộ Thương mại Số 3+4+5-2003; số 22-23 tháng
2/2003
11. Kinh tế và dự báo số 1, 2 năm 2003
12. Nghiên cứu kinh tế số 294 tháng 11/2002, số 296 tháng 1/2003
13. Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương; số 6/12/2002 / Trung tâm kinh tế Châu
Á- Thái Bình Dương (VAPEC)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8404.doc