Sáng 20-4, Phó Thủ tưởng Vũ Khoan đã chủ trì cuộc gặp với đại diện các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tranh thủ ý kiến của các nhà đầu tư về các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, đồng thời đánh giá về hiệu quả triển vọng đầu tư tại Việt Nam.
Phát biểu khai mạc cuộc gặp, Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã thông báo về tình hình tăng trưởng GDP của Việt Nam trong quý I-2005 đạt 7,23%, sản xuất công nghiệp tăng 14,4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 16,2%, đầu tư phát triển tăng 37% so với GDP.
Về tổng quan đầu tư nước ngoài, báo cáo của Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho thấy: Năm 2004, cả nước thu hút 4,2 tỷ USD vốn đầu tư mới, tăng 35% so năm 2003, trong đó vốn cấp mới đạt 2,2 tỷ USD và vốn bổ sung là 2 tỷ USD. Quý I-2005, đã có 109 dự án đầu tư nước ngoài được cấp mới với tổng số vốn đăng ký là 1,31 tỷ USD, bằng 91% số dự án nhưng tăng gấp ba lần về vốn đăng ký cấp mới so cùng kỳ năm 2004.
Cũng trong quý I-2005, có 72 dự án tăng thêm vốn đầu tư là 422 triệu USD, tăng gấp hai lần về số dự án tăng vốn và tăng 43% về vốn tăng thêm so cùng kỳ năm 2004. Tổng cộng trong quý I-2005 đã thu hút được hơn 1,7 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 2,4 lần so cùng kỳ năm 2004.
Trong năm 2004, có 403 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài triển khai hoạt động, tạo thêm việc làm cho 74 nghìn lao động. Đưa tổng số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang hoạt động kinh doanh lên hơn 3.200 doanh nghiệp, tạo việc làm trực tiếp cho 760 nghìn người, chưa kể số lao động gián tiếp. Tính cả dầu thô, xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 14,4 tỷ USD trong năm 2004, tăng 42,5% so năm 2003 và chiếm 33,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
31 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t đất đai sửa đổi năm 2003, nhà nước đã bổ sung, hoàn thiện các bộ luật khác để hỗ trợ luật đầu tư nước ngoài và bước đầu đã đạt kết quả khá so với trước. Đáng chú ý là ngày 28/8/2001 chính phủ đã ban hành nghị quyết số 09/2001/NQ-CP về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001-2005. Tiếp đó ngày 17/5/2002 chính phủ ra quyết định số 62/2002/QĐ-TTG ban hành danh mục quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đầu năm 2003, chính phủ thành lập cơ quan xúc tiến đầu tư chuyên trách quốc gia ( cục đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư) nhằm tập trung đầu mối chỉ đạo và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài có hiệu quả hơn. Nhờ những cải tiến này, nhiều vấn đề về chính sách và cơ chế nhằm thu hút vốn FDI đã có chuyển động tích cực. Tính ổn định và thông thoáng của các chính sách cao hơn; thủ tục cấp phép đơn giản và thuận tiện hơn; tính chất minh bạch, rõ ràng không chồng chéo về các loại thuế đã được thể hiện; cơ chế hai giá đang được khắc phục từng bước nhằm tạo thế bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài với đầu tư trong nước. Tuy chưa phải là hoàn hảo song những chuyển động tích cực của chính phủ và sự quan tâm của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã và đang tạo thêm sức hấp dẫn mới cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Kết quả là từ năm 2001 hoạt động đầu tư nước ngoài đã có dấu hiện phục hồi dù còn chậm. Năm 2001 có 550 dự án đầu tư mới với số vốn đăng ký 550 triệu USD; tăng 41% về số dự án và tăng 28,4% về số vốn đăng ký so với năm 2000. Đến cuối năm 2002, đã có hơn 4.500 dự án ĐTTTNN đã được cấp giấy phép, với tổng số vốn đăng ký và tăng vốn lên trên 50 tỷ USD. Trừ các dự án đã giải thể trước thời hạn hoặc hết thời hạn hoạt động, hiện còn trên 3670 dự án đang có hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là trên 39 tỷ USD. Trong số đó có gần 2000 dự án đang triển khai hoạt động kinh doanh, 980 dự án đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản và làm các thủ tục hành chính, gần 700 dự án chưa triển khai do nhiều nguyên nhân. Tổng số vốn đầu tư thực hiện của các dự án đã cấp phép khoảng 24 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện của các dự án còn hiệu lực là trên 21 tỷ USD. ĐTTTNN chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với 66% dự án và 64,5% vốn thực hiện. Lĩnh vực này cũng thu hút trên 70% lao động và tạo ra trên 90% giá trị xuất khẩu của khu vực ĐTTTNN. Lĩnh vực dịch vụ chiếm 21% số dự án và 29,5% vốn thực hiện và lĩnh vực nông-lâm ngư-nghiệp chiếm 13%số dự án và 6% vốn thực hiện.
Xét theo các hình thức đầu tư thì hình thức liên doanh chiếm tới 51% số vốn đăng ký và 30% số dự án, đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm 36% vốn đăng ký và 66% số dự án, ĐTTTNN theo hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh va BOT chiếm 13% vốn đăng ký và 4% số dự án.
Xét theo khu vực các nước đầu tư vào Việt Nam thì khu vực Đông - Bắc Á (gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hông Kông) chiếm 55,4% về số dự án và 40,8% về số vốn đăng ký của tất cẩ các dự án đang còn hiệu lực. Đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam từ năm 1997 đến 2002 có chiều hướng suy giảm, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực và những hạn chế về khả năng khôi phục kinh tế (Xingapo vẫn giữ vị trí đứng đầu với 263 dự án và 7,2 tỷ USD vốn đăng ký). Đầu tư của các nước Châu Âu như: Pháp ,Hà Lan , Anh vẫn nằm trong số 10 nước đầu tư lớn nhất ở Việt Nam, Hoa Ky đứng ở vị trí 13, với hơn 1,1 tỷ USD vốn đăng ký.
Xét theo vùng và địa phương thì ĐTTTNN tập trung chủ yếu vào vùng kinh tế trọng diểm miền Bắc và vùng kinh tế trọng điểm miền Nam. Trong số các địa phương thu hút mạnh mẽ ĐTTTNN , thành phố Hồ Chí Minh giữ vị trí đứng đầu với 1224 dự án và 10394 triệu USD vốn đăng ký còn hiệu lực ;tiếp theo là Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương và Quảng Ninh, với tổng số 634 dự án, 9625 triệu USD vốn đăng ký còn hiệu lực.
ĐTTTNN gia tăng liên tục trong nửa đầu thập niên 90. Sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực năm 1997, ĐTNN vào Việt Nam có suy giảm. Năm 2000 ĐTTTNN đã có dấu hiệu phục hồi và tăng trong năm 2001, nhưng chưa mạnh. Năm 2002 vốn ĐTTTNN thu hút mới lại suy giảm rõ rệt, chỉ bằng gần 60% so với cung kỳ năm 2001 (với 1,3 tỷ USD).
Năm 2002, FDI đã chiếm tỷ trọng 18,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, là một nguồn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển và đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.
Tính đến ngày 31-12-2003, cả nước nước đã thu hút khoảng 5236 dự án đầu tư, trong đó có khoảng 4324 dự án đang hoạt động với số vốn đăng ký 40,8 tỷ USD ,vốn thực hiện khoảng 24,6 triệu USD. Riêng năm 2004 cả nước có thu hút hơn 4,2 tỷ USD , đầu tư mới tăng 35% so với năm 2003. Đây là mức đăng ký cao nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực diễn ra năm 1997. Tính chung đến ngày 31-12-2004 vốn đăng ký là 45 tỷ USD, vốn thực hiện là 27,42 tỷ USD.
Hiện nay hầu hết các tỉnh thành trong cả nước đều có dự án đầu tư nước ngoài, nhưng tập trung chủ yếu vào một số địa phương có cơ sở hạ tầng tốt, điều kiện thuận lợi như: TP Hồ Chí Minh (25%), Hà Nội (18%), Đồng Nai (16%), Bình Dương (9%) và 59 tỉnh thành phố khác (27%). Đối với sự phân bổ ngành, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam được phân bổ tương đối rộng, nhưng chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp và dịch vụ. Khu vực nông – lâm – ngư nghiệp tuy có nhiều chính sách ưu đãi đầu tư nhưng lượng FDI còn thấp. Các dự án trong lĩnh vực dịch vụ và kinh doanh bất động sảncó tỷ trọng lớn, chiếm 1/3 tổng số vốn đăng ký, song vốn FDI vào một số ngành dịch vụ hiện đại còn chưa đáng kể do thị trường dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý, tư vấn kỹ thuật và chuyển giao công nghệ còn chậm phát triển. .
Đạt được con số 4,2 tỷ USD trong thu hút FDI của năm 2004 là một dấu mốc quan trọng ghi nhận sự phục hồi FDI sau nhiều năm trì trệ.
Tuy số dự án cấp mới trong 4 năm 2001-2004 không nhiều nhưng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực này vẫn tăng trưởng khá do nhiều dự án đã đi vào sản xuất ổn định. Vì vậy đóng góp của khu vực kinh tế FDI cho nền kinh tế tiếp tục tăng lên. Tỷ trọng kinh tế FDI trong GDP năm 2000 là 13,28%; năm 2001 là 13,75%; năm 2002 là 13,76% và năm 2003 là 14,47%. Tỷ trọng công nghiệp FDI trong giá trị sản xuất công nghiệp năm 2000 là 41,3%; năm 2001 là 41,5%; năm 2002 là 41,6% và năm 2003 chiếm 31,4%. Đóng góp của khu vực FDI cho nguồn thu ngân sách nhà nước ngày càng lớn và năm nào cũng vượt kế hoạch. Thu từ các doanh nghiệp có vốn FDI năm 2002 đạt 116,4% dự toán năm và tăng 28,2% so với năm 2001; năm 2003 đạt 109,5% và tăng 30% so với năm 2002; 8 tháng đầu năm 2004 thu từ doanh nghiệp FDI (không kể dầu thô) đạt 67,1% dự toán năm, thu về dầu thô đạt 84,2% dự toán năm và ước cả năm tăng trên 30% so với năm 2003. Một số tỉnh nghèo, kinh tế chủ yếu là thuần nông trước đây, thì ngày nay nhờ thu hút nhiều dự án FDI đã trở thành tỉnh khá và giàu, cơ cấu kinh tế và lao động chuyển dịch nhanh theo hướng công nghiệp hoá, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu ngân sách tăng nhanh. Đó là các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Đà Nẵng, Quảng Ninh. Do vậy, vai trò quan trọng và đóng góp của khu vực kinh tế FDI cho phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong 17 năm qua là điều khẳng định đã được thực tế cuộc sống chứng minh rõ ràng. Xu hướng phát triển theo chiều sâu, bền vững, tăng hiệu quả kinh tế xã hội cho cả hai phía: đối tác đầu tư và Nhà nước Việt Nam ngày càng trở thành phổ biến. Và xu hướng này đang được thực tế chứng minh trong 4 năm đầu thế kỷ 21. rong 17 naa
2.2 Giai đoạn 2005 đến nay.
Năm 2005: Quốc hội Việt Nam đã và sẽ thông qua 20 luật , là số lưọng luật được thông qua nhiều nhẩttong 1 năm kể từ trước đến nay, trong đó có Lụât đầu tư và Luật doanh nghiệp thống nhất.
Năm 2004 đến nay, tính chung Việt Nam đã thu hút được hơn 18 tỷ USD vốn FDI đăng ký mới , 13,6 tỷ USD vốn FDI thực hiện. Ước tính khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hiện đóng góp hơn 14% GDP, hơn 20% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, và hơn 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong 5 năm qua, khu vực này đóng góp 1 tỷ USD / năm vào Ngân sách nhà nước , tạo việc làm cho gần 800000 lao động trực tiếp và gần 2 triệu lao động gián tiếp.
Các nhà đầu tư ,các tổ chức quốc tế ngày càng tin tưởng vào Việt Nam: Việt Nam là đất nước ổn định và thanh bình, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao và thu nhập người dân ngày càng tăng lên, do vậy nhu cầu nội địa cũng tăng theo, cộng động quốc tế ngày càng tin tưởng vào những nỗ lực và quyết tâm hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. Niềm tin đó được thể hiện qua hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG 2004) với con số cam kết ODA lên tới trên 3 tỷ USD.
Trong dự thảo luật đầu tư mới, quy mô đầu tư phải xem xét chỉ với các dự án lớn, có vốn đầu tư khoảng 20 triệu USD chiếm chừng 2% doanh nghiệp mới cần phải thẩm định. Tăng cường khuyến khích đầu tư bằng biện pháp hậu điểm sẽ đơn giản hơn các thủ tục thẩm định. Các vấn đề tranh chấp cũng được xử lý theo thông lệ quốc tế.
10 nước và vùng lãnh thổ dẫn đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ( tính đến tháng 10/2005) – Tr.USD
STT
Nước, vùng lãnh thổ
Số dự án
Vốn đầu tư
vốn thực hiện
1
Đài Loan
1.384
7.739,90
2.961,44
2
Singapore
383
7.508,93
4.180,78
3
Hàn Quốc
1.004
5.391,92
2.504,74
4
Hồng Kông
351
3.683,71
1.940,50
5
B.V.Islands
243
2.623,56
1.267,26
6
Pháp
162
2.136,86
1.165,36
7
Hà lan
60
1.886,33
1.784,53
8
Thái Lan
125
1.474,08
716,82
9
Malaysia
175
1.471,38
843,51
10
Hoa Kỳ
245
1.398,48
739,23
10 địa phương dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (tính đến tháng 10/2005) - Tr.USD
STT
địa phương
số dự án
Vốn đầu tư
Vốn thực hiện
1
TP. HCM
1.772
11.937,64
5.963,94
2
Hà Nội
636
9.236,43
3.154,63
3
Đồng Nai
688
8.408,88
3.731,94
4
Bà Ria-Vũng Tàu
119
2.177,35
1.224,52
5
Hải Phòng
178
1.948,88
1.203,92
6
Dầu khí ngoài khơi
27
1.891,19
4.555,11
7
Vĩnh Phúc
87
726,42
413,67
8
Thanh Hoá
16
701,96
410,35
9
Long An
94
690,23
292,58
10
Hải Dương
72
627,50
376,01
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo các lĩnh vực (tính đến tháng 10/2005) - Tr.USD
STT
Lĩnh vực
Số dự án
Vốn đầu tư
Vốn thực hiện
1
CN nặng
1.161
12.210,08
6.326,31
2
CN nhẹ
1.633
8.206,71
3.189,37
3
Xây dựng
304
3.942,21
2.157,90
4
CN thực phẩm
257
3.083,78
1.882,98
5
CN dầu khí
27
1.891,19
4.555,11
6
Nông-Lâm nghiệp
649
3.367,28
1.678,27
7
Thuỷ sản
110
303,47
152,22
8
Xây dựng văn phòng, căn hộ
110
3.884,11
1.692,61
9
GTVT-Bưu điện
158
2.907,51
716,68
10
Khách sạn-Du lịch
171
2.849,07
2.121,81
11
XD khu đô thị mới
4
2.551,67
51,29
12
Dịch vụ khác
416
1.112,82
350,99
13
Văn hóa-Ytế-Giáo dục
201
1.103,26
273,05
14
XD hạ tầng KCX-KCN
20
986,10
521,37
15
Tài chính-Ngân hàng
53
702,55
611,93
3. Đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
3.1 Kết quả đạt được.
Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 29-12-1987 ,Quốc hội nước ta đã thông qua và ban hành Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trải qua hơn 15 năm thi hành luật với 4 làn sửa đổi bổ sung, cùng với những thành tựu chung của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta đã đạt được những kết quả khả quan, đáng khích lệ, thể hiện trên các mặt sau đây:
* Về cơ cấu ngành: các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 2885 dự án, vốn đăng ký 232l3,71 triệu USD (chiếm 66,7% số dự án, 56,9% tổng số vốn đăng ký); nông nghiệp 596 dự án với vốn đăng ký 2898,34 triệu USD (chiếm 13,8% dự án; 7,1% vốn đăng ký); dịch vụ 843 dự án với vốn đăng ký 14682,7 triệu USD (chiếm 20,41% số dự án; 36% vốn số đăng ký).
* Về phân bổ dự án: hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước đều có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng tập trung chủ yếu vào một số địa phương có điều kiện thuận lợi như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa -Vũng Tàu. Những địa phương này chiếm tới 74,8% tổng số dự án và 74,7% tổng số vốn đầu tư của cả nước.
* Về đối tác đầu tư: đến nay đã có hơn 75 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, nhưng các nhà đầu tư lớn chủ yếu đến từ các nước châu Á như. Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Công, Nhật Bản, Singapo. Những nước này chiếm tới 60,12% số dự án và 58,4l% số vốn đầu tư.
* Về hình thức đầu tư: hình thức liên doanh chiếm 51% vốn đăng ký và 30% số dự án, hình thức đầu tư l00% vốn nước ngoài chiếm 36% vốn đăng ký và 66% số dự án hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) chiếm 13% vốn đăng ký và 4% số dự án. Cụ thể về kết quả đạt được thể hiện :
Thứ nhất, chúng ta đã thu hút được một lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khá lớn, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Từ đầu năm 1998 đến giữa năm 2002, Nhà nước ta đã cấp 4047 giấy phép đầu tư nước ngoài với số vốn 41,5 tỷ USD , cộng với số vốn đối ứng trong nước 7,05 tỷ USD thì tổng số vốn đăng ký lên tới 48,6 tỷ USD; trong đó có 3264 dự án đang hoạt động với số vốn đăng ký là 38,3 tỷ USD , giải ngân được 22 tỷ USD. Đây là một nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, bởi vì muốn đạt mức tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và ổn định phải huy động được 30% GDP vào đầu tư phát triển , nhưng thực tế nhiều năm qua chúng ta chỉ huy động được gần 20% GDP , thiếu hụt 10%. Mức thiếu hụt này đước bù đắp chủ yếu bằng nguồn FDI. Hơn nữa ,so với các nguồn vốn khác,FDI có nhiều cái lợi , ít nhất có ba tác động: 1) Kích thích các công ty khác tham gia đầu tư;
2) Là tác nhân thu hút viện trợ phát triển chính thức;
3) Gia tăng tốc độ tăng trưỏng kinh tế và do đó tăng thêm tỷ lệ huy động vốn trong nước.
Năm 2002 có 802 dự án đầu tư với số vốn đăng ký 1621 triệu USD và năm 2003 có 748 dự án đầu tư mới với số vốn đăng ký 1899,6 triệu USD và 10 tháng đầu năm 2004 có 650 dự án và 1745,9 triệu USD vốn đăng ký, tăng 8,1% số dự án và tăng 21,2% vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2003. Vốn đăng ký bình quân một dự án là 2,7 triệu USD. Bên cạnh các dự án đầu tư mới đang tăng chậm, nhiều dự án đã đầu tư bổ sung để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh lâu dài ở Việt Nam. Chỉ tính riêng trong năm 2003 có 266 lượt dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư, 623,4 triệu USD. Nét mới trong thời kỳ này là các dự án không còn tập trung vào vùng đông nam bộ, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh như trước đó mà đã chuyển dần đến các vùng khác như các tỉnh phía bắc, miền trung, đồng bằng sông Cửu Long…Trong số 747 dự án đầu tư mới năm 2003 với số vốn đăng ký 1884 triệu USD có 215 dự án và 688 triệu USD ở các tỉnh phía Bắc; 76 dự án và 236 triệu USD ở các tỉnh miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long; 456 dự án và 961 triệu USD ở vùng đông nam bộ. Đã xuất hiện một số địa bàn thu hút vốn đầu tư mới với quy mô lớn như Long An, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Phú Thọ, Nghệ An, Hải Phòng, Quảng Ninh và một số tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên. Lĩnh vực đầu tư cũng đã chuyển mạnh sang các ngành sản xuất thay cho dịch vụ. Ngành công nghiệp có 556 dự án với 1438 triệu USD vốn đăng ký, chiếm tỷ trọng 74,3% số dự án và 75,7% số vốn đăng ký; ngành nông lâm nghiệp có 29 dự án và 47,3 triệu USD vốn đăng ký, chiếm 3,8% số dự án và 2,5% vốn đăng ký; các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn có 88 dự án và 184 triệu USD vốn đăng ký, chiếm tỷ trọng 11,7% số dự án và 9,7% vốn đăng ký. Khu vực khách sạn nhà hàng chỉ có 20 dự án và 140 triệu USD vốn đăng ký, chiếm tỷ trọng 2,6% số dự án và 7,4% số vốn đăng ký, thấp hơn nhiều so với các thời kỳ trước đây.
Thứ hai, FDI góp phần quan trọng vào việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế. Nhờ đẩy mạnh thu hút FDI chúng ta có điều kiện tiếp nhận các công nghệ thích hợp của thế giới nhằm vừa phát triển một số ngành kinh tế với công nghệ hiện đại như cơ khí điện tử, công nghệ thông tin, bưu chính - viễn thông ,thăm dò và khai thác dầu khí, lắp ráp ôtô, xe máy… ,vừu đổi mới cải tạo và nâng cao trình độ công nghệ của các ngành sản xuất hiện có như cơ khí chế tạo, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng…Cũng nhờ FDI , đã hình thành các khu công nghiệp , khu chế xuất với trình độ công nghệ khá cao. Chính các doanh nghiệp FDI đã sản xuất và đưa ra thị trường nhiều mặt hàng trước đây ta phải nhập khẩu và có nhiều sản phẩm đã có mặt trên thị trường thế giới. Giá trị sản phẩm của các doanh nghiệp FDI năm 2000 đã chiếm tỷ trọng 35,5% tổng sản lượng công nghiệp và chiếm 13,3% GDP cả nước. Chính FDI cũng đã đóng góp phần quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định của nước ta giai đoạn 1991-2000 với tỷ lệ trên 7%/ năm.
Thứ ba, FDI góp phần giải quyết việc làm và quan trọng hơn là đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm trực tiếp cho trên 45 vạn lao động và trên 1 triệu người có lao động gián tiếp, giải quyết được phần nào tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng hiện nay. Mức thu nhập của lao động trong các doanh nghiệp FDI thường cao hơn 2 lần so với các doanh nghiệp trong nước. Vấn đề có ý nghĩa quan trọng hơn là các doanh nghiệp FDI đã góp phần đào tạo và đào tạo lại lực lượng công nhân, cán bộ kỹ thuật và công nghệ, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh. Đã có khoảng 30 vạn lao động, 25 nghìn cán bộ kỹ thuật và hơn 6 nghìn cán bộ được đào tạo và đào tạo lại, không những nâng cao trình độ tay nghề mà còn thay đổi tư duy và phong cách lao động theo kiểu công nghiệp hiện đại, là lực lượng tiếp thu và chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiến bộ. Điều đáng mừng là có nhiều lĩnh vực mới mẻ, khó và phức tạp nhưng cán bộ và công nhân ta đã thay thế được người nước ngoài và đã có khả năng làm việc độc lập và có kết quả.
Thứ tư, FDI góp phần quan trọng vào việc mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Đối với thị trường trong nước, nhiều sản phẩm hàng hoá được sản xuất tại các doanh nghiệp FDI mang nhãn hiệu “Made in Việt Nam” đã chiếm thị phần lớn hoặc toàn bộ thị trường trong nước với chủng loại phong phú, chất lượng tốt, hình thức hấp dẫn, giá cả phải chăng, có thể cạnh tranh và thay thế hàng ngoại nhập. FDI cũng tham gia mở rộng thị trường dịch vụ như tư vấn, bảo hiểm, ngân hàng tín dụng, khách sạn du lịch…về gián tiếp, do thu nhập của lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI được nâng lên, cầu và sức mua của một bộ phận dân cư tăng làm cho thị trường nội địa cũng sôi động lên. Quan trọng hơn là các doanh nghiệp FDI đóng phần đáng kể vào việc mở rộng thị trường ra khu vực và thế giới, tăng kim ngạch xuất khẩu. Nếu như kim ngạch xuất khẩu của FDI năm 1991 chỉ đạt 4% thì năm 2000 đã lên 33,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (trừ dầu thô), riêng sản phẩm công nghiệp chế tạo của FDI đạt tỷ trọng 56,8% kim ngạch xuất khẩu của ngành này.
Từ năm 1997 trở đi đã có trên 70% dự án FDI có trên 50% sản phẩm được xuất khẩu. Các doanh nghiệp FDI chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia, có quan hệ kinh tế và bạn hàng rộng rãi trên thế giới nên là lực lượng quan trọng khai thông và mở đường cho kinh tế nước ta hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm, FDI góp phần lành mạnh hoá các thể chế kinh tế-tài chính và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô. Thông qua hoạt động của các doanh nghiệp FDI, các tổ chức tài chính-tiền tệ quốc tế trên đất nước ta vừa là điều kiện, vừa là đòi hỏi cấp thiết phải đổi mới thể chế tiền tệ, tín dụng, ngoại hối, tài chính cho phù hợp với nguyên tắc thị trường, xoá bỏ tình trạng độc quyền và cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp còn rơi rớt lại. Hơn nữa, mỗi năm FDI đưa vào nước ta số vốn khoảng 2-3 tỷ USD gồm cả máy móc, thiết bị và ngoại tệ mạnh, góp phần quan trọng cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Vấn đề có ý nghĩa quan trọng hơn là, thông qua hoạt động của các doanh nghiệp FDI và quản lý, chúng ta đã tạo điều kiện thay đổi tư duy và phong cách, phương pháp quản lý phù hợp với cơ chế thị trường. Qua các cuộc đối thoại trực tiếp với các nhà quản lý doanh nghiệp FDI mà chính phủ, các bộ, các địa phương nắm rõ hơn tâm tư, nguyện vọng, vướng mắc của họ để chủ động tháo dỡ khó khăn và hoàn thiện hơn cơ chế quản lý đối với thành phần kinh tế đặc thù này.
3.2.Nguyên nhân và hạn chế
Đạt được các thành quả trên là nhờ:
- Ổn định chính trị: môi trường chính trị- xã hội của Việt Nam được đánh giá là ổn định và lành mạnh. Tại Việt Nam độ an toàn của FDI được đảm bảo, theo công ty tư vấn rủi ro chính trị và kinh tế (PERC) của Hồng Kông đã xếp Việt Nam vào vị trí số 1 trong khu vực sau sự kiện 11/9.
- Nền kinh tế của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao cùng với việc triển khai thực hiện hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ và các thoả thuận kinh tế song phương, đa phương đã tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ, giúp các doanh nghiệp khắc phục trở ngại thị trường.
- Môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam tiếp tục được cải thiện cả về môi trường pháp lý. Với Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi vào năm 2000 đã mở rộng thời hạn hướng thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi, huỷ bỏ việc đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, chuyển đổi hình thức đầu tư, chia tách, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp…, cơ sở hạ tầng cũng như các yếu tố liên quan đến chi phí đầu tư sản xuất kinh doanh. Một số chi phí đầu vào (cước phí viễn thông, điện, nước, vận chuyển hàng không, thuế thu nhập cá nhân…)được cắt giảm lộ trình áp dụng cơ chế một giá đã hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Mặc dù hoạt động đầu tư nước ngoài đã có những chuyển biến tích cực trong thời gian qua nhưng vẫn còn nhiều mặt hạn chế cần khắc phục như sau:
- Với con số 4,2 tỷ trong thu hút FDI của năm 2004 là một dấu mốc quan trọng ghi nhận sự phục hồi FDI sau nhiều năm trì trệ. Nhưng con số này chỉ bằng năm 1994 và bằng ½ so với năm 1996, theo đánh giá của nhiều chuyên gia vẫn còn ở dưới mức tiềm năng của Việt Nam, còn rất thấp so với các nước trong khu vực và so với nhu cầu thu hút vốn đầu tư nhằm góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước.
- Số dự án triển khai chậm, tạm ngừng và giải thể có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. Hiện tượng này làm nản lòng nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động và cả những nhà đầu tư đang có ý định muốn đầu tư vào Việt Nam, làm xấu môi trường đầu tư tại Việt Nam.
- Tỷ lệ các dự án công nghệ cao do các tập đoàn xuyên quốc gia ( TNCS) còn thấp, làm hạn chế khả năng chuyển giao công nghệ tiên tiến qua hoạt động đầu tư nước ngoài.
- Trước nhu cầu về nguồn nhân lực có kỹ năng đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế tri thức nói chung và của các nhà đầu tư nói riêng, Việt Nam đã chú trọng nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục- đào tạo theo hướng chuyên nghiệp. Lao động Việt Nam có lợi thế là cần cù, chăm chỉ và ít bạo loạn, nhưng chất lượng lao động của Việt Nam trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài, cán bộ làm việc trong các liên doanh còn nhiều hạn chế về kiến thức chuyên môn, hiểu biết pháp luật và thương trường.
- Trong nhiều năm nay Việt Nam đã tập trung vốn vào xây dựng quy hoạch đô thị, cải thiện hệ thống giao thông nhưng chất lượng của các hàng hoá, dịch vụ công cộng còn thấp. Hiện nay có 25% mạng lưới đường bộ được rải nhựa, đường sắt chỉ có 01 chiều, ngành hàng không còn ít máy bay với mạng lưới bay hẹp và cảng hàng không nhỏ. Bên cạnh đó các cảng biển của Việt Nam còn quá nhỏ bé so với các nước trong khu vực, việc cung cấp điện thiếu ổn định và cắt điện đột xuất, gây ra nhiều chi phí phụ lớn cho người sử dụng điện và cản trở các nhà đầu tư bỏ vốn vào công nghệ cao ở Việt Nam. Do đó, dưới con mắt các nhà đầu tư nước ngoài thì Việt Nam vẫn là nước có hệ thống cơ sở hạ tầng nghèo nàn và kém hấp dẫn nhất trong số các nước ngoài khi so sánh.
- Tỷ lệ góp vốn của Việt Nam còn thấp, chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất đai.
- Tình trạng khai tăng giá trị vật tư, thiết bị của các nhà đầu tư nước ngoài khi góp vốn liên doanh cũng là một tồn tại hoặc chuyển giao công nghệ cao nhưng thực chất là thiết bị cũ kỹ lạc hậu được tân trang lại.
- Tình trạng vi phạm luật pháp, đặc biệt là luật lao động tuy không phải là hiện tượng phổ biến nhưng cũng là vấn đề cần quan tâm.
3.3. Những vấn đề đang đặt ra hiện nay.
Bên cạnh những kết quả khởi sắc đáng ghi nhận, hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, cần có các giải pháp tích cực và đồng bộ.
Một là, tính bền vững không cao. Trong 17 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài (1988-2004) chỉ có 6 năm 1991-1996 hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài phát triển toàn diện và tăng trưởng với tốc độ cao, 11 năm còn lại phát triển không ổn định hoặc giảm sút. Xu hướng này xuất hiện trước hết ở các trung tâm công nghiệp và thương mại như thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội mà nguyên nhân chủ quan là do thủ tục hành chính nhiêu khê nhưng chậm sửa đổi. Một thực tế đáng suy nghĩ là không ít nhà đầu tư nước ngoài đã chuyển dự án từ 2 thành phố này ra các tỉnh xung quanh trong những năm gần đây dù cơ sở hạ tầng yếu kém hơn.
Hai là, cơ cấu đầu tư không hợp lý: tỷ lệ vốn đầu tư cho khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản, cho các vùng nghèo nhưng còn nhiều tiềm năng về đất đai, lao động còn quá ít. Trong số gần 46 tỷ USD vốn cần đăng ký chỉ có 2836 triệu USD đầu tư cho khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ lệ 6,2%. Trong khi đó vốn đầu tư cho hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn là 4637 triệu USD, chiếm tỷ lệ 10,12%; khách sạn nhà hàng, vận tải kho bãi và thông tin liên lạc là 7470 triệu USD, chiếm 16,3%. Hầu hết các dự án vẫn tập trung ở các thành phố, thị xã, khu công nghiệp tập trung, ven các đô thị lớn, gần các đường giao thông; còn các địa phương vùng sâu, vùng xa vùng nghèo vẫn vắng bóng các nhà đầu tư nước ngoài hoặc nếu có chỉ là những dự án nhỏ. Đến năm 2004 vẫn còn 6 tỉnh chỉ có từ 1 dến 3 dự án nhỏ là: Kon tum, Tuyên Quang, Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Sóc Trăng.
Ba là, quy mô các dự án giảm dần bình quân 1 dự án thời kỳ 1991-1996 là 14,8 triệu USD; thời kỳ 1997-2000 là 9,39 triệu USD; thời kỳ 2001-2004 là 2,9 triệu USD. Những năm gần đây rất ít dự án quy mô lớn đầu tư vào Việt Nam nên số dự án tuy tăng nhưng số vốn đăng ký lại giảm là tình trạng phổ biến ở tất cả các địa phương.
Bốn là, hiệu quả đầu tư nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam tăng chậm. Điều đó đã được thể hiện qua: tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế FDI có xu hướng chậm lại so với trước và so với các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước. Tốc độ tăng GDP của khu vực FDI năm 1995 là 14,98%, năm 2000 là 11,44%; năm 2001 còn 7,21%l; năm 2002 là 7,16%; năm 2003 là 10,44% và năm 2004 là 10,5%. Do vậy tỷ trọng trong khu vực này trong cơ cấu GDP cả nước tăng rất chậm; năm 2000 là 13,28%; năm 2001 là 13,75% và năm 2002 là 13,36% và năm 2003 có tăng lên nhưng cũng chỉ là 14,47%.
III.Một số giải pháp tăng cường nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
1. Định hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng hiệu qủa nguồn vốn FDI.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiếp tục thu hút nhiều hơn với chất lượng cao hơn nguồn vốn FDI để đẩy nhanh CNH-HĐH đất nước, hoàn thành tốt kế hoạch 5 năm 2001-2005.
1.Xây dựng chiến lược và quy hoạch thu hút FDI, trong đó xác định rõ những ngành, lĩnh vực, địa bàn cần khuyến khích thu hút FDI.
Chiến lược thu hút FDI được xem là một hình thức biểu hiện cụ thể của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phản ánh sự kết hợp hài hoà việc phát huy nội lực với phát huy nguồn lực bên ngoài để đẩy nhanh quá trình CNH- HĐH nền kinh tế quốc dân. Nó là cơ sở để xây dựng các quy hoạch và kế hoạch thu hút FDI theo ngành, lĩnh vực kinh tế và vùng lãnh thổ.
Xây dựng danh mục dự án kêu gọi ĐTTTNN quốc gia trong 5 năm tới. Danh mục này đước xây dựng dựa trên cơ sở quy hoạch thu hút FDI đã được phê duyệt. Danh mục dự án kêu gọi ĐTTTNN của các bộ, ngành và địa phương là bộ phận cấu thành của danh mục dự án kêu gọi ĐTTTNN quốc gia.
2.Cải thiện môi trường đầu tư.
Việc cải thiện môi trường đầu tư được thực hiện cả trên 5 mặt (luật pháp, kết cấu hạ tầng, thủ tuc hành chính, môi truờng kinh doanh, hệ thống trọng tài và tòa án) .
a) Hoàn thiện hệ thống luật liên quan đến hoạt động ĐTTTNN.
-Xây dựng hệ thống pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định và mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực.Triển khai việc nghiên cứu để tiến tới xây dựng một bộ luật đầu tư chung cho cả đầu tư trong nước và ĐTTTNN. Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý chung về kinh tế để tạo môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng; sớm ban hành Luật về kinh doanh bất động sản, Luật cạnh tranh và chống độc quyền…
-Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp ĐTTTNN; xây dựng chính sách thuế khuyến khích sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá. Hoàn chỉnh thuế xuất khẩu, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt. Hoàn thiện các quy định về hợp đồng kinh tế, sở hữu trí tuệ, cải tiến hệ thống tín dụng, bảo lãnh đầu tư, phá sản đối với doanh nghiệp ĐTTTNN.
- Đa dạng hoá các hình thức ĐTTTNN để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới; cho phép các tập đoàn lớn có nhiều dự án ở Việt Nam thành lập các công ty quản lý vốn; đẩy nhanh việc thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp ĐTTTNN, ban hành danh mục, lĩnh vực cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam.
b) Đổi mới, hoàn thiện chính sách về ĐTTTNN
-Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư. Điều chỉnh già phí các loại hàng hoá dịch vụ để sau một thời gian về cơ bản áp dụng một mặt bằng giá cho các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp ĐTTTNN. Trước mắt, thực hiện giảm giá cước viễn thông, vận tải, giá thuê đất…Tạo điều kiện giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào để tăng sức cạnh tranh, từ đó hấp dẫn các nhà đầu tư mới.
+Đối với đất đai có thể miễn, giảm tiền thuê đất trong một số năm để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, giải quyết dứt điểm tình trạng giải phóng mặt bằngcho việc triển khai dự án đang bị ách tắc. Tiếp tục ban hành văn bản hướng dẫn về điều kiện, thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất.
+Cải tiến công cụ thuế, tín dụng, cơ chế xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan.
Công cụ thuế, cơ chế xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan phải cải tiến mạnh mẽ, linh hoạt hơn, có các chính sách khuyến khích và ưu đãi tạo động lực lớn hơn để hướng mạnh vào xuất khẩu, áp dụng công nghệ cao và chuyển giao công nghệ, thu hút các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư (đã có nhiều trường hợp thuế xuất nhập khẩu các thành phẩm, linh kiện, chi tiết để sản xuất và lắp ráp thành phẩm bị đánh thuế và áp thuế nhập khẩu thành phẩm cao hơn thành phẩm, không khuyến khích sản phẩm nội địa hoá).
-Cho phép các doanh nghiệp trực tiếp thuê lao động để sản xuất. Tình trạng các doanh nghiệp FDI phải sử dụng lao động qua các tổ chức cung ứng của Việt Nam hiện nay cần đựơc xem xét sửa lại theo hướng cho phép các doanh nghiệp ĐTNN được trực tiếp thuê lao động. Để biện pháp này có tính khả thi, cần kết hợp các giải pháp để đảm bảo an ninh trật tự xã hội.
- Xử lý linh hoạt hơn về các hình thức đầu tư. Tạo điệu kiện để việc chuyển đổi các hình thức đầu tư được dễ dàng.
c)Nâng cấp cơ sở hạ tầng. Một trong các điều quan trọng trong thu hút đầu tư là cơ sở hạ tầng tốt. Bên cạnh đầu tư cho cở sở hạ tầng cứng như điện, thông tin viễn thông, đường giao thông, cầu cảng, sân bay, kho bãi…chúng ta nên quan tâm hơn nữa về đầu tư cho cơ sở hạ tầng mềm. Các dịch vụ pháp lý, dich vụ ngân hàng và tài chính, dịch vụ khoa học công nghệ…là không thể thiếu trong nền kinh tế hiện đại.
3. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư
Giải pháp này đòi hỏi phải có sự quan tâm của tất cả các cơ quan nhà nước, đồng thời phải được triển khai đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, nganh, địa phương. Thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại các bộ, ngành, tổng công ty lớn và một số cơ quan đại diện ở một số địa bàn trọng điểm nước ngoài để vận động đối với từng dự án, nhà đầu tư có tiềm năng.
Chương trình vận động xúc tiến đấu tư được đẩy mạnh theo ngành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể, hướng vào các đối tác nước ngoài có tiềm lực về tài chính và công nghệ cao. Về ngành và lĩnh vực, cần tập trung vận động đầu tư cho các dự án áp dụng công nghệ thông tin, dầu khí, điện tử. Về đối tác, cần mở rộng đa phương hoá, hợp tác với các nhà đầu tư thuộc EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, các nước ASEAN…Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường đối tác, nâng cao chất lượng thông tin. Bố trí ngân sách phuc vụ cho hoạt động đầu tư.
4. Đổi mới, hoàn thiện quản lý nhà nước, cải thiện thu tục hành chính đối với ĐTTTNN
-Tập trung điều hành để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho các dự án ĐTTTNN hoạt động có hiệu qủa. Giải quyết kịp thời các kho khăn, vướng mắc phát sinh giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài triển khai dự án thuận lợi.
-Tiếp tục thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài cho các địa phương, song phải đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất về quy hoạch, chính sách; tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các bộ ngành; nâng cao kỷ cương thực hiện và phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương ,cơ sở.
-Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tiếp tục hoàn thiện quy trình ban hành văn bản để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của luật pháp, cơ chế của chính sách. Hình thành đầu mối quản lý thống nhất đối với ĐTTTNN từ trung ương đến địa phương, xây dựng cơ chế phối hợp giữa trung ương và địa phương. Xây dựng chế độ kiểm tra rõ ràng, minh bạch, tránh tình trạng tuỳ tiện, hình sự hoá các quan hệ kinh tế.
-Từng bước mở rộng các phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký, thực hiện thí điểm cơ chế đăng ký đầu tư.
-Khẩn trương xây dựng các đề án tổ chức đào tạo cán bộ kinh doanh, quản lý, công nhân lành nghề làm việc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTTTNN nhằm nâng cao trình độ hiểu biết chuyên môn, tinh thần trách nhiệm trong công việc, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
5. Về phía doanh nghiệp thuộc kinh tế có vốn ĐTNN:
-Hoàn thành công tác quản lý doanh nghiệp. Nội dung cơ bản của công tác quản lý vi mô trước hết tập trung vào quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý nhân lực và thực hiện các cam kết hợp đồng đã ký.
Đề cao tính tự giác và trung thực của các doanh nghiệp trong hoạt động. Trong thực tế một số doanh nghiệp ĐTNN thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm đã cam kết, như cam kết về xuất khẩu, sử dụng và chuyển giao công nghệ hiện đại. Nhẽ ra, các doanh nghiệp đó phải sản xuất hàng xuất khẩu cho thị trường ngoài Việt Nam, nhưng chuyển hướng xuất khẩu vào thị trường nội địa với nhiều lý do không chính đáng. Hay một số doanh nghiệp liên doanh còn sử dụng công nghệ hạng hai hoặc kém chất lượng về môi trường bất chấp cam kết trước đó. Nếu chấn chỉnh được những tiêu cực này sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN ở nước ta. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN bằng cách áp dụng rộng rãi hơn công nghệ mới và tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất kinh doanh là nhu cầu cấp bách trong hoàn thiện công tác quản lý doanh nghiệp.
Duy trì môi trường làm việc hợp tác lành mạnh trong các doanh nghiệp ĐTNN. Việc này cần có sự phối hợp chặt chẽ của hai bên nước ngoài và Việt Nam. Trong môi trường hoà thuận, đội ngũ lao động sẽ được khích lệ làm việc hiệu quả và chất lượng hơn. Điều này đem lại lợi ích cho bản thân người lao động và doanh nghiệp. Hợp tác lành mạnh và môi trường làm việc hấp dẫn tạo đà cho doanh nghiệp hoàn thiện mục tiêu đề ra.
-Đa dạng hoá các hình thức tổ chức doanh nghiệp. Đây là giải pháp nhằm tăng thêm tính năng động và linh hoạt cho các đối tác tham gia thị trường Việt Nam. Tuỳ thuộc vào điệu kiện của mình, họ tự quyết định lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh cho hợp lý.
2.Triển vọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong năm 2004 và những năm tới.
2.1 Mặt khách quan.
-Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế đang là xu hướng tất yếu lôi kéo tất cả các quốc gia làm cho thị trường của từng nước gắn kết với thị trường thế giới, tạo sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế dẫn đến làn sóng nhập thôn tính giữa các công ty đa quốc gia. Hơn nữa cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang diễn ra như vũ bão các nước đang phát triển đang vươn lên chiếm lĩnh công nghệ mới thực hiện chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển thúc đẩy dòng chảy của vốn đầu tư.
Nhìn sự luân chuyển vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới và Việt Nam chúng ta có thể nhận xét dòng vốn đầu tư vào Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của sự tăng, giảm FDI toàn cầu:
Các nhà đầu tư quốc tế đánh giá cao môi trường đầu tư tại Việt Nam, trong cuộc thăm dò hiện nay của UNTAD, nước ta được các công ty xuyên quốc gia lựu chọn là một trong những điểm ưu tiên trong chiến lược đầu tư của họ ra nước ngoài với 5% tổng số phiếu thăm dò cao hơn Thai Lan (1% số phiếu), Hông Kông (4%), Singapore(4%).
2.2 Mặt chủ quan.
Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, như diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM), APEC, ASEAN…và đang chuẩn bị gia nhâp WTO. Hơn nữa, tiến trình gia nhập WTO đang bước vào giai đoạn đàm phán song phương với từng đối tác thành viên, đòi hỏi cần phải gỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch, giấy phép, các biện pháp hạn chế định lượng, thủ tục định giá, hải quan, trợ cấp xuất khẩu, quy định xuất xứ và mở cửa thị trường dịch vụ ở nhiều lĩnh vực như: Ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông tư vấn. Đặc biệt đến năm 2006, thực hiện lộ trình khu vực mậu dịch ASEAN (AFTA), Việt Nam sẽ cắt giảm thuế của những hàng hóa nằm trong danh mục cắt giảm thuế suất 0-5%. Điều này dẫn đến tác động kép:
-Một là, nguồn vốn đầu tư nội bộ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ tăng lên dựa trên lợi thế so sánh về chi phí nhân công, các nước này sẽ chuyển ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động mà đối với họ đã mất dần lợi thế do giá nhân công tăng cao.
-Hai là, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư sẽ có kế hoạch tăng vốn mở rộng quy mô sản xuất, từ đó xuất khẩu sang các nước ASEAN khác.
-Sự ổn định kinh tế - chính trị ở Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát được kiểm soát, tỷ giá hợp lý, an ninh – xã hội được đảm bảo.
-Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xem khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế nhiều thành phần, xem nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn vốn quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
- Chính phủ đã giao cho Bộ kế hoạch và đầu tư cùng các cơ quan chức năng soạn thảo đề án về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó nhấn mạnh đến việc mở rộng hơn nữa lĩnh vực đầu tư, đổi mới cơ cấu đầu tư, đổi mới chính sách, hoàn thiện hơn nữa môi trường đầu tư, đổi mới công bằng với các doanh nghiệp có vốn đầu tư TTNN. Tạo ưu đãi cho dự án có vốn đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, nhằm thu hút hơn nữa lượng vốn đầu tư vào nước ta cho những năm tới.
3.Thu hút vốn đầu tư nước ngoài không chỉ bằng chính sách.
Sáng 20-4, Phó Thủ tưởng Vũ Khoan đã chủ trì cuộc gặp với đại diện các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tranh thủ ý kiến của các nhà đầu tư về các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, đồng thời đánh giá về hiệu quả triển vọng đầu tư tại Việt Nam.
Phát biểu khai mạc cuộc gặp, Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã thông báo về tình hình tăng trưởng GDP của Việt Nam trong quý I-2005 đạt 7,23%, sản xuất công nghiệp tăng 14,4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 16,2%, đầu tư phát triển tăng 37% so với GDP.
Về tổng quan đầu tư nước ngoài, báo cáo của Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho thấy: Năm 2004, cả nước thu hút 4,2 tỷ USD vốn đầu tư mới, tăng 35% so năm 2003, trong đó vốn cấp mới đạt 2,2 tỷ USD và vốn bổ sung là 2 tỷ USD. Quý I-2005, đã có 109 dự án đầu tư nước ngoài được cấp mới với tổng số vốn đăng ký là 1,31 tỷ USD, bằng 91% số dự án nhưng tăng gấp ba lần về vốn đăng ký cấp mới so cùng kỳ năm 2004.
Cũng trong quý I-2005, có 72 dự án tăng thêm vốn đầu tư là 422 triệu USD, tăng gấp hai lần về số dự án tăng vốn và tăng 43% về vốn tăng thêm so cùng kỳ năm 2004. Tổng cộng trong quý I-2005 đã thu hút được hơn 1,7 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 2,4 lần so cùng kỳ năm 2004.
Trong năm 2004, có 403 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài triển khai hoạt động, tạo thêm việc làm cho 74 nghìn lao động. Đưa tổng số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang hoạt động kinh doanh lên hơn 3.200 doanh nghiệp, tạo việc làm trực tiếp cho 760 nghìn người, chưa kể số lao động gián tiếp. Tính cả dầu thô, xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 14,4 tỷ USD trong năm 2004, tăng 42,5% so năm 2003 và chiếm 33,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Góp ý của một số hiệp hội doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như: Amcharm, Eurocharm, Nhật Bản, Australia... đều bày tỏ ủng hộ mạnh mẽ quá trình Việt Nam gia nhập WTO, đánh giá cao những chính sách cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam. Theo họ, chính sách đầu tư của Việt Nam đang tạo một khung pháp lý bình đẳng, công bằng giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt lĩnh vực đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước bao gồm cả thành phần kinh tế quốc doanh.
Các doanh nghiệp đề nghị phải có sự thống nhất từ Trung ương đến các địa phương về thực hiện các chính sách đầu tư. Nhiều địa phương còn cản trở đầu tư với nhiều lý do chưa xác đáng...
Thủ tướng Phan Văn Khải đã chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục cải tiến mạnh mẽ thủ tục đầu tư, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài theo hướng mở rộng việc phân cấp cấp giấy phép đầu tư và quản lý đầu tư nước ngoài, áp dụng chế độ đăng ký cấp phép đầu tư phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế.
Thủ tướng cho rằng các cấp, các ngành cần sớm xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài đến năm 2010 và các năm tiếp theo phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, trong đó xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho từng năm, từng giai đoạn.
Các ban, ngành, địa phương cần nhanh chóng xây dựng kế hoạch chủ động thực hiện các cam kết quốc tế, đặc biệt là trong năm 2005 cần tập trung thực hiện các cam kết trong AFTA, trong Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ, Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản cũng như trong các thỏa thuận với EU, đồng thời khẩn trương chuẩn bị thực hiện các cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
4.Mục tiêu, phương hướng thực hiện.
Giai đoạn 2006-2010: Trong số 94 dự án được nêu trong dự thảo Danh mục dự án trọng điểm quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra tại Diễn đàn đầu tư nước ngoài tổ chức tuần trước tại Hà Nội, có một nửa dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp. Trong đó tập trung vào các ngành sản xuất sắt thép và kim loại màu, cơ khí chế tạo, điện lực, hoá chất và hoá dầu, vật liệu xây dựng, khu khoa học kỹ thuật cao và công nghiệp điện tử.
Để thúc đẩy việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã liên tục có những bổ sung, sửa đổi và ban hành nhiều qui chế, chính sách hấp dẫn và đặc biệt, trong những ngày này, Quốc hội đang thảo luận dự thảo Luật Đầu tư (chung) nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống luật pháp, tạo sự thông thoáng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế ở Việt Nam.
1. Về quan điểm chỉ đạo
a) Trong kế hoạch năm 2005 và các năm 2006 - 2010, cần quán triệt ở mọi cấp chính quyền quan điểm của Đảng về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn đầu tư nước ngoài theo nhiệm vụ đề ra tại Nghị quyết Trung ương 9 (khoá IX) của Đảng. Trên cơ sở đó đạt được sự thống nhất cả về nhận thức và hành động giữa các Bộ, ngành, giữa trung ương và địa phương trong việc thu hút, quản lý và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài.
b) Từng bước giảm thiểu để tiến tới xoá bỏ việc bảo hộ có thời hạn, có điều kiện đối với những ngành cần phát triển và có khả năng cạnh tranh; từng bước mở cửa thị trường phù hợp với lộ trình cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.
c) Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài; tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các dự án hoạt động hiệu quả; khuyến khích mở rộng quy mô đầu tư, đổi mới công nghệ, đa dạng hoá mục tiêu đầu tư phù hợp với quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài và quy hoạch phát triển ngành và sản phẩm.
d) Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xúc tiến đầu tư; đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và đối tác đầu tư nhằm thu hút hút có hiệu quả đầu tư nước ngoài, nhất là của các tập đoàn xuyên quốc gia; hướng mạnh hơn vào những ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn.
2. Về công tác quy hoạch
a) Xây dựng sớm Chiến lược thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài đến năm 2010 và các năm tiếp theo phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong đó xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho từng năm, từng giai đoạn.
b) Rà soát, điều chỉnh quy hoạch ngành kết hợp với xây dựng quy hoạch theo vùng lãnh thổ theo hướng xoá bỏ các hạn chế và phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện cho khu vực đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào phát triển các ngành, vùng lãnh thổ. Đẩy nhanh công tác xây dựng các quy hoạch ngành còn thiếu như quy hoạch mạng lưới các trường đại học, dạy nghề cùng với các điều kiện, tiêu chuẩn cấp phép cho các dự án đầu tư vào các ngành này.
c) Trong quá trình hoàn chỉnh quy hoạch, chú trọng khuyến khích các thành phần kinh tế, bao gồm cả đầu tư nước ngoài, tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhất là đối với các công trình giao thông, cảng biển, cung cấp điện, nước, bệnh viện, trường học, khu vui chơi giải trí, khu đô thị…
3. Về công tác xây dựng pháp luật, chính sách
a) Trong năm 2005 và các năm tiếp theo cần tập trung xây dựng, ban hành và hướng dẫn thực hiện Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp áp dụng chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Khi Luật đầu tư chung được Quốc hội thông qua, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần chủ động rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các nội dung không còn phù hợp..
b) Tiếp tục nghiên cứu mở rộng các lĩnh vực đầu tư và đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài phù hợp với lộ trình đổi mới doanh nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế như hình thức công ty mẹ - con, hình thức mua lại - sáp nhập đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
c) Tiếp tục nghiên cứu các giải pháp nhằm giảm chi phí đầu tư, nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực cước phí vận tại, cước phí quảng cáo.
PHẦN BA
KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển mới và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trong đó có sự đóng góp không nhỏ của thương mại quốc tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được coi là khu vực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế quốc dân trong giai đoạn hiện nay. Bởi vì nó “hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo nhiều việc làm”. Trong khuôn khổ của đề tài, đã đề cập đến những mặt thành công và hạn chế của khu vực này, từ đó đưa ra những bước đi tiếp theo nhằm “tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi”. Với hiệu quả và tiềm năng to lớn của ĐTTTNN trong những năm tiếp theo, chúng ta xác định đây là nguồn vốn đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta cần có những giải pháp hữu ích nhằm thu hút nguồn vốn này trong từng thời kỳ nhất định. Cùng với sự biến đổi của nền kinh tế toàn cầu , nhất là trong điều kiện toàn cầu hoá ngày nay, luôn luôn đổi mới, hoàn thiện chính sách khuyến khích đầu tư sao cho phù với tình hình phát triển của thế giới bên ngoài. Có như vậy chúng ta mới có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới trong việc thu hút các nhà đầu tư. Bên cạnh đó chúng ta cũng không ngừng tìm hiểu thị trường không chỉ trong nước mà cả nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước đi trước và đã thành công, từ đó tìm ra con đường đúng đắn cho riêng mình, phát huy những tiềm năng đầu tư trong nước, tạo môi trường kinh tế hoàn thiện, góp phần nâng cao tính hấp dẫn hơn nữa đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá nhấn mạnh ưu điểm của ĐTTTNN mà cần thường xuyên tổng kết và có những cái nhìn tổng thể, khách quan, điều chỉnh theo hướng phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm; góp phần vào phát triển nền kinh tế bền vững, toàn diện; làm cho ĐTTTNN thật sự là một yếu tố quan trọng trong sự nghiệp đưa đất nước đi lên, đuổi kịp các nước lớn trong khu vực và trên thế giới. Xây dựng một đất nước CNXH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
MỤC LỤC
Phần một.
LỜI MỞ ĐẦU 1
Phần hai.
NỘI DUNG CHÍNH.
I. Lý luận chung về ĐTTTNN 2
1.Quan niệm và tính tất yếu khách quan của hoạt động ĐTTTNN 2
1.1.Quan niệm về đầu tư trực tiếp. 2
1.2.Tính tất yếu khách quan của hoạt động ĐTTTNN 2
2. Đặc điểm của ĐTTTNN 3
3. Vai trò của hoạt động ĐTTTNN 4
3.1.Vai trò của hoạt động ĐTTTNN. 4
3.2. Một số hạn chế 5
II. Thực trạng ĐTTTNN tại Việt Nam 5
1. Một số nhận xét về môi trường đầu tư ở Việt Nam từ 1988 đến nay 5
2. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ 1988 đến nay. 7
2.1 Giai đoạn 1988-2004. 7
2.2 Giai đoạn 2005 đến nay 12
3. Đánh giá hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam 15
3.1.Kết quả đạt được 15
3.2.Nguyên nhân và hạn chế 18
3.3.Những vấn đề đang đặt ra hiện nay 20
III. Một số giải pháp tăng cường nguồn vốn ĐTTTNN vào Việt Nam 21
1. Định hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI 21
2. Triển vọng thu hút nguồn vốn ĐTTTNN vào Việt Nam trong năm 2004 và những năm tới 24
3. Thu hut vốn đầu tư nước ngoài không chỉ bằng chính sách 25
4. Mục tiêu, phương hướng thực hiện. 27
Phần ba.
KẾT LUẬN 29
TÀI LIỆUTHAM KHẢO
1.Lý luận chính trị số 6-2003.
2.Lý lụân chính trị số 4-2003.
3.Lý luận chính tri 1-2004.
4.Sinh hoạt lý luận 5-2005.
5.Sinh hoạt lý luận 3-2005.
6.Sinh hoạt lý luận 6-2003
7. Tin từ Báo ĐT, TBKT , www.vneconomy.com.vn các ngày 2-4/11
8.
9.
10.Giáo trình Kinh tế chính trị.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0212.doc