Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài với vấn đề tạo việc làm cho người lao Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa

Một lần nữa chúng ta khẳng định vai trò to lớn của FDI trong quá trình đổi mới và mở nền kinh tế nền kinh tế, đặc biệt là việc thu hút FDI để tạo việc làm cho người lao trong tiến trình toàn cầu hoá. Hiện nay, ở nước ta nguồn vốn FDI đang phát triển một cách mạnh mẽ điều đó sẽ là đòn bẩy để phát triển nền kinh tế cũng như vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có biện pháp để khắc phục những mặt yếu kém của FDI và đưa ra những giải pháp hữu hiệu phát huy hết vai trò của FDI. Vì vậy Nhà nước ta cũng cần phải có các giải pháp, các chính sách ưu đãi để thu hút được nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn FDI trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay.

doc68 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1674 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài với vấn đề tạo việc làm cho người lao Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phố. Nâng cao chất lượng xúc tiến đầu tư bằng cách sử các công nghệ thông tin để quảng bá, chuyển bị làm tốt tài liệu quảng bá cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Sẽ thành lập một trung tâm xúc tiến của Thành phố bao gồm xúc tiến đâu tư thương mại, du lịch và hợp tác lao động. Các nhà đầu tư sẽ được thông tin miễn phí về những chuẩn bị cơ bản về đầu tư vào thủ đô Hà Nội. Sẽ giảm thời gian chờ cấp giấy phép đầu tư. Hiện nay, theo quy định của Chính phủ là từ 30- 60 ngày để cấp giấy phép, nhưng Hà Nội sẽ giảm mức tối đa là 20 ngày, tối thiểu là 10 ngày. Hiện nay, Hà Nội đang chuẩn bị một số chính sách đặc biệt cho đầu tư nước ngoài như: đối với các dự án thuộc nhóm B, sẽ thực hiện sự miễn giảm tiền thuê đất, miễn 2 năm và giảm 2 năm ; Đối với các dự án có quy mô lớn trên 50 triệu USD hoặc sử dụng trên 5 ha đất thì sẽ được kéo dài thời gian miễn giảm trong phạm vi 7 năm, đồng thời xem xét đến việc giảm 3% cho 3 năm tiếp theo. Hà Nội sẽ xây dựng hạ tầng kỹ thuật đến chân hàng rào các dự án, hỗ trợ đào tạo lao động cho các dự án có 100% vốn nước ngoài. Hàng loạt các dự án khác đang được Hà Nội triển khai như tạo điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư xây dựng nhà ở cho nước ngoài thuê với giá thấp và mở các văn phòng đại diện về xúc tiến đầu tư tại nhiều nơi… III. Xu hướng đầu tư quốc tế trên toàn cầu Theo báo cáo của LHQ và tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), bức tranh đầu tư quốc tế trên toàn cầu đầu năm 2003 vẫn khá ảm đạm. Theo OECD thì FDI vào 30 nước thành viên của khối này giảm 20% so với cùng kỳ năm 2002. Đây là năm thứ ba liên tiếp, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào OECD nói riêng và toàn thế giới nói chung suy giảm. FDI bao gồm các hoạt động sát nhập xuyên quốc gia và đầu tư xây dựng các nhà máy mới, bị tác động mạnh bởi tình trạng bất ổn của nền kinh tế toàn cầu, các thị trường chứng khoán hoạt động yếu kém làm giảm lòng tin của giới doanh nghiệp. Mặt khác, sự thay đổi thái độ của các nước đối với các hoạt động sát nhập cùng với các luật chống độc quyền ở các nước đã làm trì hoãn các cuộc sát nhập và làm nản lòng các nhà đầu tư. Theo OECD, trong cả năm 2002và đầu 2003 trong OECD chỉ có sáu cuộc sát nhập trị giá 5 tỷ USD, trong thời kỳ bùng nổ kinh tế, hoạt động sát nhập công ty diễn ra hầu như hàng ngày. Trên toàn thế giới các hoạt động sáp nhập xuyên quốc gia chín tháng đầu năm 2002 giảm tới 45%, chỉ đạt giá trị 250 tỷ USD so với mức 460 tỷ USD cùng kỳ năm 2001. Đáng chú ý là suy giảm FDI diễn ra mạnh nhất ở các nước phát triển (31%) so với các nước đang phát triển (23%) và khu vực Trung và Đông Âu ( 1%), theo tổ chức thương mại và phát triển của LHQ (UNCTAD). Các nhà phân tích kinh tế LHQ cho rằng các nhà đầu tư phải chấp nhận rủi ro lớn hơn nhiều so với thời kỳ nền kinh tế thế giới tăng trưởng khá. Mặt khác, các hoạt động khủng bố, chiến tranh và hoạt động kinh tế yếu kém ở các nước giầu làm cho độ rủi ro trong hoạt động đầu tư càng lớn, nhiều khi vượt quá khả năng chịu đựng của các nhà đầu tư. Các dự án báo về giảm phát triển của nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản và Đức, các vụ bê bối trong kinh doanh của các công ty đa quốc gia hàng đầu thế giới khiến các nhà đầu tư lo ngại mất vốn nếu tung tiền ra đầu tư. Các công ty ngày càng khó thuyết phục các cổ đông cũng như các nhân tố có nguồn vốn lớn tin vào triển vọng kinh doanh sáng sủa trong tương lai ngắn hạn và trung hạn. Các nhà đầu tư ra nước ngoài có xu hướng tập trung vào các nhà kinh doanh đã có và không muốn mở rộng đầu tư. ở 25 nước phát triển, dòng FDI đổ vào các nước này chỉ đạt 349 tỷ USD năm 2002 so với 503 tỷ USD năm trước. FDI suy giảm mạnh nhất là ở Anh và Mỹ ( tới 3/4 hay từ 54 tỷ USD xuống 12 tỷ USD và 2/3 từ 124 tỷ USD xuống còn 44 tỷ USD), hai nước luôn dẫn đầu về tiếp nhận vốn FDI những năm trước đây. Năm 2002, Trung quốc trở thành nước nhận FDI lớn nhất thế giới, đạt mức kỷ lục 50 tỷ USD. Mặc dù các nền kinh tế hàng đầu ở Châu á có sự tăng trưởng mạnh năm 2002, châu Âu và châu Mỹ đã đầu tư vào ít hơn. FDI đổ vào các nước đang phát triển châu á giảm 12% so với năm trước, đạt 90 tỷ USD so với 102 tỷ USD năm 2001. Tình hình đầu tư nước ngoài vào châu Phi, mỹ La- Tinh và Ca-ri-bê cũng rất ảm đạm, với mức FDI vào châu Phi giảm 2/3 (còn 6 tỷ USD so với 17 tỷ USD năm 2001) và 27% ở Mỹ la-tinh và Ca- ri- bê (từ 85 tỷ USD xuống còn 62 tỷ USD). Tuy nhiên, bức tranh đầu tư nước ngoài vào khu vực Trung- Đông Âu lại sáng sủa. Khu vực này ngăn chặn được khuynh hướng giảm FDI năm 2002 và đạt 27 tỷ USD. Dòng FDI đổ vào các nước An- ba- ni, Bugari, CH Séc, Lát-vi-a, Lít-va, Xlo- vê-ni-a tăng ; không thay đổi ở Nga, Rumani, Croatia, Bôxiahecxovina. Đáng chú ý là CH Sec trở thành “ngôi sao” dẫn đầu các nước trong khu vực Trung- Đông Âu về tiếp nhận vốn FDI: từ 5 tỷ USD năm 2001 lên tới 9 tỷ USD năm 2002. Các nước Trung- Đông Âu là thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài do những lợi thế: đội ngũ công nhân có trình độ lành nghề được đào tạo tốt, chi phí lương thấp, có các dự án tư nhân hoá có liên quan tới FDI và có chính sách thu hút vốn FDI đáp ứng yêu cầu của EU khi chuẩn bị gia nhập khối này vào năm tới. OECD dự báo xu hướng giảm đầu tư nước ngoài vào các nước OECD có thể tiếp diễn trong năm 2003 và mức giảm có thể từ 25% đến 30% tuỳ thuộc sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ. Đối với các nước đang phát triển, nơi FDI là nguồn lớn nhất trong các nguồn tài chính, sự suy giảm FDI đồng nghĩa với ít nguồn để phát triển. Sự thận trọng vẫn là xu thế áp đảo trong tính toán của các nhà đầu tư quốc tế vào thời điểm này. Phần III Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu qủa của vốn đầu tư trực tiếp (FDI) trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá. Cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư. Môi trường đầu tư của nước ngoài là tổng hoà các yếu tố chính trị, kinh tế – xã hội có liên quan, tác động đến hoạt động đầu tư và đảm bảo khả năng sinh lợi của vốn đầu tư nước ngoài. Chúng tôi đi vào phân tích tất cả các yếu tố của môi trường đầu tư nước ngoài và chủ yếu nêu ra những hạn chế, yếu kém về hệ thống pháp luật và cản trở việc thu hút FDI, làm giảm hiệu quả kinh tế – xã hội của nó. Đồng thời đưa ra những phương pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đảm bảo khả năng sinh lợi cho các chủ đầu tư cũng như lợi ích của toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa trong điều kiện luôn có dự cạnh tranh quốc tế và khu vực về thu hút đầu tư thì việc cải thiện môi trường đầu tư là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với Việt Nam. Chúng ta không phủ nhận những tiềm năng nổi bật trong công tác xây dựng và ban hành pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài tại Việt nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, qua thử nghiệm thực tiễn đã bộc lộ không ít những sai sót và hạn chế như: hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ và cụ thể, thực hiên pháp luật còn tuỳ tiện, gây nhiều khó khăn phức tạp cho chủ đầu tư. Nhiều văn bản pháp lý ban hành chậm, nội dung của một số điều khoản trong văn bản pháp lý còn chồng chéo, chưa thống nhất, thậm chí còn có chỗ mâu thuẫn. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam được đánh giá là một trong những Bộ luật “thông thoáng” và “hấp đẫn” các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng còn nhiều vấn đề quy định trong Bộ luật chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế với những điều kiện của một nền kinh tế thị trường và mở ra bên ngoài, cụ thể những vấn đề sau: 1.1. Cho phép thành lập liên doanh hoạt động trong nhiều lĩnh vực thay vì chỉ hoạt động trong một lĩnh vực nhất định. Cho đến nay, theo sự quy định của pháp luật hiện hành ở Việt nam thì hầu như không cho các nhà đầu tư thành lập các doanh nghiệp đa mục đích hay đa dự án. Chính điều này, hiện đang làm cho các nhà đầu tư gặp những khó khăn. Thứ nhất, nó buộc các chủ đầu tư phải thành lập một thực thể pháp luật đối với những dự án, và như vậy xin pháp đầu tư và chi phí thành lập sẽ buộc phải tăng lên rất nhiều. Thứ hai: nó làm chậm trễ các dự án đầu tư, vì vậy các dự án này chỉ có thể được triển khai khi có Giấy phép đầu tư. Thậm chí có trường hợp sau khi “chạy” được Giấy phép đầu tư và các thủ tục khác thì chủ đầu tư không còn ý trí để triển khai dự án nữa. Thứ ba, nó không cho phép củng cố các kết quả đã đạt được ở các dự án khác nhau cung thực thể, bởi vì thực thể nay không thể lấy phần lợi nhuận ở một số hoạt động để bù đắp về mặt thuế khoá cho phần lỗ ở các hoạt động khác. 1.2. Mở rộng thêm điều kiện chuyển nhượng vốn cho các bên tham gia liên doanh. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hình thức pháp luật của công ty liên doanh là một công ty trách nhiệm hữu hạn, chứ không phải là công ty cổ phần. Do đó, thiếu tự do trong việc chuyển nhựng vốn góp trong các công ty liên doanh có thể gây ảnh hưởng xấu tới tâm lý của các nhà đầu tư và kìm hãm đầu tư. Việc cần phải có sự cho phép trước của Cơ quan cấp giấy phép đầu tư để bán toàn bộ hay một phần vốn góp của mình để hạn chế khả năng vay, và như vậy, cũng chính là tăng đầu tư, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp. Để tránh trở ngại của pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài thực hiện đầu việc đầu tư của mình thông qua một công ty trung gian do mình lập ra thường là tại một nước thường là tại một nước có chế độ đánh thuế thấp. Điều nay gây thất thu thuế đối với Nhà nước Việt Nam. Để khắc phục tình trạng này, có thể quyết định việc chuyển nhượng vốn giữa các đối tác nước ngoài sẽ không cần phải có giấy phép của cơ quan cấp giấy phép đầu tư, mà chỉ cầu khai báo với cơ quan này và nếu sau một số ngày mà không có ý kiến phản đối thì mặc nhiên được coi như việc chuyển nhượng được chấp nhận. Mặt khác, cần có luật về cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài càng sớm càng tốt. 1.3. Xem xét lại nguyến tắc nhất trí trong hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh Theo điều 14 của luật đầu tư quy định : Hội đồng quản trị cần phải có sự nhất trí của toàn thể thành viên hội đồng mới có thể thông qua những vấn đề liên quan đến ngân sách, vay nợ, thay đổi điều lệ, duyệt quyết toán tài chính hàng năm và quyết toán công trình và bổ nhiệm lãnh đạo. Trong gần 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho thấy quy định nhất chí đối với vấn đề then chốt này đã làm cho các nhà đầu tư rất lo ngại. Bởi vì quyền phủ quyết dành cho mỗi thành viên HĐQT có thể nhanh tróng làm cho công ty liên doanh lâm vào tình trạng khó khăn và có thể gây nên sự phá sản của công ty, thất nghiệp gia tăng, bộ máy sản xuất suy yếu. Trong gần 300 dự án bị rút giấy phép thì một tỷ lệ không nhỏ là do mâu thuẫn nội bộ HĐQT mà không giải quyết được. Nên chăng thay thế bằng nguyên tắc đa số tương đối (1/2) hoặc đa số tuyệt đối (2/3) trong việc thông qua những vấn đề then chốt của liên doanh. 1.4- Đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép đầu tư. Trong bộ hồ sơ dự án FDI theo quy định của nghị định 12/CP, và thông tư 1611 của Bộ kế hoạch đầu tư và đầu tư vẫn có nhiều chồng chéo này. Chẳng hạn, giữa Điều lệ và hợp đồng liên doanh có rất nhiều điều khoản giống hệt nhau. Để đơn giản hoá quy trình xin cấp giấy phép đầu tư, có thể tính đến việc xoá bỏ Hợp đồng liên doanh khỏi danh sách các tài liệu mà các bên tham gia liên doanh phải cung cấp và đưa vào điều lệ công ty liên doanh các thông tin và các tài liệu cần thiết nêu ở điều 12 của nghị định 12/CP. Đối với luận chứng kinh tế – kỹ thuật cầnchú ý nhiều hơn đến phần giải trình các lợi ích kinh tế – xã hội của dự cho khi khai triển đem lại toàn bộ nền kinh tế. Các chi tiêu tài chính (NPV, IRR…) đó là việc của các chủ đầu tư, các cơ quan thẩm định không nên coi đó là những điều kiện tiên quyết để cho phép đầu tư hay không. 1.5- Vấn đề chuyển đổi ngoài tệ Theo quy định hiện hành, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có thể đổi VNĐ ra ngoại tệ khi được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt nam (NNVN). Không phải bất kỳ trường hợp nào NHNN cũng cho phép chuyển đổi ngoại tệ mà chỉ những dự án sản xuất thay thế nhập khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng (Thông tư số 02/TT-NH7 ngày 28/6/1997). Trình trạng này đã gây ra khó khăn vì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần phải có khả năng đảm bảo việc cung ứng cho xí nghiệp từ nước ngoài và chuyển lợi nhuận về nước cho nhà đầu tư nước ngoài. Quan điểm của các nhà đầu tư nước ngoài là họ được phép bán sản phẩm, dịch vụ tại thị trường Việt Nam bằng ngoại tệ, hoặc cho phép chung tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mua ngoại tệ, nếu số ngoại tệ này dùng để nhập khẩu nguyên liên vật liệu hay để chuyển lợi nhuận về nước. 1.6. Vấn đề mở tài khoản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Theo thông tư số 02/TT-NH7 các doanh nghiệp có vốn FDI chỉ được mở một hay nhiều tài khoản tại cùng một ngân hàng mà thôi. Quy định như vậy đã tạo nên tình trạng độc quyền, cửa quyền của ngân hàng và không phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường. Cho nên, Nhà nước cho phép các doanh nghiệp có vốn FDI được mở tài khoản tại nhiều ngân hàng ở Việt Nam, để buộc các ngân hàng phải thực sự điều chỉnh theo quy luật cạnh tranh. Cụ thể hóa chiến lược thu hút FDI Chiến lược thu hút FDI là một bộ phận tổng thể nền kinh tế nói chung và chiến lược kinh tế đối ngoại nói riêng. Do đó, chiến lược thu hút FDI phải được thể hiện với những nội dung sau: 2.1 Nguồn vốn FDI phải được bố trí trên bàn cờ chiến lược chung của các nguồn vốn - Về mặt chiến lược, nguồn vốn trong nước là quyết định và là điều kiện để tiếp tục thu nguồn vốn nước ngoài, nhưng trong những năm trước mắt, nguồn vốn bên ngoài là đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển kinh tế đất nước. Trong nguồn vốn bên ngoài, vốn FDI có nhiều lợi thế hơn vốn vay vì đây là nguồn vốn tư nhân đầu tư vào Việt Nam trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, chủ đầu tư phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế đồng thời Chính phủ không phải trả nợ và ít chịu ảnh hưởng của các quan hệ chính trị. Ngoài ra về lâu dài, các công trình FDI sẽ được nước chủ nhà. - Bản chất của hợp tác đầu tư với nước ngoài là hành động tự nguyện dựa trên cơ sở thoả thuận giữa các bên về dự án đầu tư. Do đó việc bố trí nguồn vốn đầu FDI không phải bằng mệnh lệnh áp đặt hay can thiệp trực tiếp mà phải hướng dẫn thông qua luật pháp, chính sách và những ưu đãi khuyến khích về kinh tế đảm tính cạnh tranh so với môi trường đầu tư chung của các nước trong khu vực. Việc bố trí các nguồn vốn phải xuất phát từ tính chất của từng loại nguồn vốn. Nguồn vốn đầu tư của Chính phủ, nguồn vốn ODA có thể tập trung đầu tư cho các công trình cơ sở kinh tế- xã hội, các công trình trọng điểm quốc gia, hoặc những công trình khó thu hồi vốn nên không thu hút được vốn FDI. Trong khi đó, các nguồn vốn FDI cần hướng vào các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác nhau, ở đó khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cao. Đặc biệt nên hướng nguồn vốn FDI vào các công trình lớnm, quan trọng, những ngành có nhu cầu tiếp nhận công nghệ, kỹ thuật mới, tạo ra nguồn thu cho ngân sách cho Nhà nước để góp phần trả nợ cho ODA. - Muốn tăng cường thu hút vốn FDI phải tạo ra nguồn vốn đối ứng trong nước để cải thiện cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường nội địa, phát triển nguồn nhân lực…Như vậy nguồn vốn đầu của Chính phủ, nguồn vốn ODA là điều kiện để mở rộng nguồn vốn FDI. Mặt khác, ngay chính các công trình của FDI cũng cần có nguồn vốn đóng góp từ các thành phần kinh tế trong nước. Cho nên, Chính phủ đã chủ trương khuyến khích huy động mọi nguồn vốn các thành phần kinh tế nhăm tăng cường đầu tư phát triển 2.2. Hướng nguồn vốn FDI phục vụ thiết thực quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Hội nghị Đảng toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá 7 khẳng định: đất nước ta chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đầu tư phát triển, hơn lúc nào hết là điều kiện quan trọng hàng đầu để thực hiện bước phát triển mới đó. Muốn vậy định hướng chiến lược thu hút vốn FDI tập trung vào các lĩnh vực sau: + Xây dựng những công trình then chốt trong ngành công nghiệp như: dầu khí, điện, xi măng, sắt thép, hoá chất, … Nhằm cải thiện hạ tầng cơ sở của sản xuất, thực hiện một phần thay thế nhập khẩu, ổn đình sản xuất, giảm giá đầu vào… + ưu tiên các ngành mũi nhọn trong công nghệ và kỹ thuật như điện, vi điện tử, tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… + Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển hàng xuất khẩu trong các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm gắn với vùng nguyên liệu + Chú trọng đến các dự án thuộc các nghành công nghiệp dịch vụ có tỷ xuất sinh lợi cao như: du lịch , khách sạn, sửa chữa tàu biển, dịch vụ sân bay, cảng khẩu… + Quan tâm đến các dự án sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, tài nguyên săn có của Việt Nam. Việc thu hút FDI cần hướng vào một số vùng, địa phương, đặc biệt là các vùng địa bàn trọng điểm quốc gia có điều kiện thuận lợi về môi trường đầu tư để tạo cơ hội phát triển kinh tế có sức tác động lan toả và lôi kéo các vùng khác cùng đi lên. Cần có chính sách ưu tiên đặc biệt để thu hút vốn FDI vào vùng nông thôn miền núi có khó khăn về cơ sở hạ tầng để khai thác tiềm năng, thế mạnh của các vùng này ( Điều 3 Luật đầu tư) Một mặt cần phân loại doanh nghiệp ở các ngành để chọn lọc các doanh nghiệp có thể và cần thiết đưa vào hợp tác kinh doanh. Mặt khác, cần quy hoạch các vung để thu hút FDI và các nguồn vốn trong nước đầu tư phát triển, hạn chế dần đầu tư phân tán, gặp đâu làm đó, mạnh ai người đó làm. Các xí nghiệp trong khu công nghiệp tập trung có thể phát triển từ đơn lẻ đến quần thể, từ đơn ngành đến đa ngành; gắn linh hoạt giữa các xí nghiệp trong nước và xí nghiệp nước ngoài giữa xí nghiệp FDI trong nước và xí nghiệp chế suất nước ngoài, giữa sản xuất hàng hoá và kinh doanh tiền tệ… + Để tăng cường khả năng hoà nhập của Việt Nam vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và thế giới, tạo sự ổn định về kinh tế- xã hội làm cơ sở tăng trưởng, cần phải có chính sách thích hợp đối với các nước trong khu vực khi lựa chọn đối tác đầu tư với các nước trong khu vực. Tăng cường hợp tác đầu tư với các nước trong khu vực, đặc biết với các nước NICs và ASEAN vì ngoài lợi ích kinh tế còn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, dễ ngặp ngỡ nhau trên bình diện chính trị-xã hội. Đẩy mạnh việc thu hút vốn của các nước lớn, các trung tâm, phát triển từ đầu tư song phương sang đầu tư đa phương ở những nghành then chốt, tại các vùng xung yếu (trên biển, biên giới), tại các khu công nghiệp lớn…sẽ tạo nên lực kéo nhiều chiều đảm bảo an ninh đất nước, tạo nên những đối trọng cần thiết trong quan hệ tranh chấp với các quốc gia khác. Cần phải có chiến lượng công nghệ thích hợp để mà”đón đầu đi tắt”bắt kịp bước tiến của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, vừa tranh thủ được sự chuyển giao công nghệ tiên tiến vừa lợi dụng quá trình tái cầu trúc nền kinh tế của các nước công nghệ phát triển. Đối với các dự án lớn thuộc những nghành công nghệ mũi nhọn hoặc các công trình then chốt nhất thiết phải nhập cộng nghệ kỹ thuật cao của các nước Nhật, Mỹ, Tây Âu và một phần của các nước NICs Đông á là những nước có “công nghệ thượng nguồn”. Đối với các dự án vừa và nhỏ có thể sử dụng công nghệ dùng nhiều lao động với các thiết bị tiên tiến để phát triển sản xuất trong các nghành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, nông nghiệp. 3. Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư. Phối hợp tối ưu giữa đầu tư trong nước với FDI, giữa ODA và FDI Khả năng sinh lợi và hiệu quả kinh tế - xã hội của FDI phụ thuộc rất lớn vào chính sách kinh tế của nhà nước và đặc biệt là chính sách khuyến khích đầu tư. Bởi vì, một mặt chính sách phải có đầy đủ khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài tích cực chuyển vốn vào Việt Nam và mặt khác, phải định hướng được nguồn FDI theo mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, của đất nước. Cho nên, việc hoàn thiện và thực hiện đồng bộ các chính sách khuyến khích đầu tư cùng một lúc phải nhằm đạt được hai mục tiêu đó. 3.1. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư thông qua biện pháp thuế. Hiện nay vẫn còn một số quan điểm trái ngược nhau về tác động của thuế đối với FDI. Một quan điểm cho rằng thuế ít tác động đến FDi vì nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến Viết Nam họ thường quan tâm trước tiên đến mức độ” an toàn” vốn và sau đó mới nhìn đến thuế. Nhưng trong thời gian hiện nay vẫn đề an toàn vốn không cón là sự quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư khi quyết định bỏ vốn vào Việt Nam. Do đó, thuế có tác động lớn tới FDI. Thứ nhất, thuế ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Khi một nhà đầu tư dự định đầu tư vào một dự án nào đó, họ sẽ quan tâm đến trước tiên là lợi nhuận. - Thuế sẽ tác động đến lợi nhuận và do đó có ảnh hưởng đến quuyết định đầu tư. - Thuế đóng vai trò bảo vệ sản xuất trong nước (thuế quan nhập khẩu) sẽ kích thích đầu tư nước ngoài vào trong nền kinh tế nội địa. Thông thường khi một mặt hàng nào đó đánh thuế nhập khẩu cao(như ô tô du lịch, xe máy,điện tử…)thì các nhà đầu sẽ nghĩ ngay đến việc đầu tư sản xuất tại Việt Nam để tránh hàng rào thuế quan. - Thuế tạo ra thị trường đủ lớn cho các nhà đầu tư sản xuất vào một nghành nào đó. Trong kinh tế có khái niệm”hiệu quả các quy mô sản xuất” (econmics of scale), theo khái niệm này thì quy mô sản xuất phải đủ lớn tới một mức độ nhất định thì mới đạt được hiệu quả kính tế tối đa. Vì vậy, các chủ đầu tư chỉ đầu tư vào sản xuất ở một nước nào đó có dụng lượng trường đủ lớn. - Thông qua việc tác động đến giá cả hàng hoá và sức mua của người tiêu dùng, thuế sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu có hiệu lực, tức là ảnh hưởng tới dung lượng thị trường. Như vậy suy cho cùng, thuế sẽ ảnh hưởng tới quyết định đầu tư Thứ hai, thuế ảnh hưởng tới môi trường đầu tư. Thuế là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra môi trường đầu tư và điều này được thể hiện : - Là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, thuế có ảnh hưởng quyết định đến việc chi tiêu ngân sách. Ngân sách càng có nguồn thu lớn thì càng tạo ra được môi trường tốt để khuyến khích đầu tư. Thuế thu đủ cho chi tiêu của ngân sách(cân bằng thu- chi) góp phần hạn chế lạm phát điều đó sẽ tạo ra môi trường tái chính thuận lợi cho việc đầu tư. - Nguồn vốn ngày càng tăng tạo điều kiện vật chất cho nhà nước vào lĩnh vực sản xuất lợi nhuận thấp thời gian thu hồi vốn dài như: cơ sở hạ tầng, y tế giáo dục… và do đó tạo môi trường cần thiết để hấp dẫn FDI Thứ ba, thuế là biện pháp quan trọng trong chính sách ưu đãi đầu tư, hướng đầu tư vào các dự án thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Các ưu đãi về thuế là sự khuyến khích quan trọng về mặt tài chính để thu hút các nhà đầu tư vào một quốc gia hay một lĩnh vực kinh tế nhất định. Cho đến nay, Việt Nam đã áp dụng thuế ưu đãi và miễn giảm thuế lợi tức đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (10%, 15%, 20%, và 25% ) và thuế chuyển lợi nhuận về nước ( 5%, 7%, và 10%). Thực tế tình hình cho thấy số lượng các dự án FDI ngày càng tăng về số lượng cũng như chất lượng, cho nên việc hoàn thiện chính sách đầu tư bằng biện pháp thuế là cần thiết. Việc hoàn thành này phải nhằm đạt được các mục tiêu về kinh tế- xã hội của đất nước và phải coi thuế là nguồn thu ngân sách chủ yếu mà còn là đòn bẩy thu hút FDI vào những lĩnh vực, những vùng trọng điểm của đất nước. Việc cải tiến hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng: Dễ tính toán, đơn giản các mức thuế ; Đảm bảo lợi ích quốc gia ; Có tác dụng khuyến khích đầu tư ; Phù hợp với hệ thống quốc tế. 3.2. FDI trong quy hoạch đầu tư phối hợp tối ưu với các nguồn vốn khác Xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tê- xã hội đến năm 2000 và những năm đầu của thế kỷ 21, với trọng tâm thực hiện chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, nhu cầu vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế thời kỳ 1996- 2000 dự kiến khoảng 50 tỷ USD. Trong quy hoạch tổng thể đầu tư nói chung, nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế chiếm khoảng 50%, tức là có thể đạt mức khoảng 25 tỷ USD. Tuy nhiên, cần quan niệm rõ khái niệm vốn đầu tư nước ngoài vì nếu chỉ hiểu vốn đầu tư chỉ là vốn tài chính thì Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác thiếu vốn trâm trọng. Trong điều kiện mở của nền kinh tế, ngoài vốn tài chính còn nguồn vốn “phi” tài chính nhưng lại có vị trí rất quan trọng (tài nguyên thiên nhiên, con người, vị trí địa lý…). Nguồn vốn trong nước có vị trí và vai trò quan trọng, một mặt, để phát huy mọi khả năng tiềm tàng đang có khắp các địa bàn tạo ra sự phát triển chung. Mặt khác, theo kinh nhiệm thực tế để nguồn vốn bên ngoài phát huy hiệu quả thì cần nguồn vốn trong nước đối ứng chuẩn bị mặt bằng, làm các công trình kế cận…Đồng thời xung quanh khu vực có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam có thể được phát triển theo hướng liên kết hình thành mạng lưới kinh tế đa dạng, bổ sung cho nhau phát huy được lợi thế so sánh về nguồn nhân lực cung cấp nguyên liệu tại chỗ, mở mang thị trường nội địa Để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như chiến lược tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hoá không thể thiếu nguồn vốn lớn bên ngoài. Nguồn vốn bên ngoài chủ yếu hai nguồn vốn FDI và ODA sẽ có tác dụng tạo ra những sản phẩm mới và công nghệ cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và thế giới. Nguồn vốn bên ngoài trong bàn cờ cơ cấu vốn thời kỳ 1996- 2000 đạt khoảng 20% -25% tỷ USD để đáp ứng nhu cầu còn lại. Bao gồm: OAD khoảng 8-10 tỷ USD. FDI khoảng 10- 12 tỷ USD. Phát hành trái phiếu trên thị trường vốn quốc tế khoảng 2- 4 tỷ USD. Ngoài ra, tín dụng thương mại là một nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu và xét theo một nghĩa nào đó cũng là hỗ trợ cho đầu tư. Các nguồn vốn này phải có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau và theo một tỷ lệ vốn hợp lý, tối ưu. Nếu chúng ta không vay được vốn ODA đủ mức cần thiết để hiện đại hoá cơ sở hạ tầng –xã hội thì khó có thể thu hút và “hấp thụ” một các có hiệu quả nguồn vốn FDI. Ngược lại, nếu chỉ tập trung vào nguồn vốn OAD, mà không thu hút nguồn vốn FDI thì sẽ không đủ thu nhập để Chính phủ trả nợ ODA. Quan hệ giữa vốn nước ngoài và vốn trong nước cần có tỷ lệ thích hợp. Nguồn vốn ngân sách phải có đủ đến mức nhất định để có thể đảm bảo sử dụng ODA một các có hiệu quả. Đồng thời nguồn vốn trong dân (vốn tích luỹ từ các doanh nghiệp và vốn tích luỹ từ các hộ gia đình) phải được huy động và sử dụng có hiệu quả đến một mức nhất định đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vao Việt Nam. Hiện nay khó có thể đưa ra một tỷ lệ hợp lý, chính sách giữa các nguồn vốn nhưng một dấu hiệu cho thấy tỷ lệ hợp lý đó là nhịp độ tăng vốn FDI vào nước ta. Sự mất cân đối giữa các nguồn vốn là nguyên nhân quan trọng làm giảm dòng chảy FDI vào Việt Nam. Tuy nhiên, đến một giao đoạn nhất định nguồn vốn FDI và ODA sẽ giảm, nhường vị trí cho nguồn vốn trong nước. Biện pháp tích cực nhằm đảm bảo hợp lý giữa các nguốn vốn cho phát triển kinh tế hiện nay là: - Đa dạng hoá phương thức thu hút vốn nước ngoài từ các vốn nước ngoài từ các nguồn vốn khác nhau. - Tạo niềm tin cho nhà đầu tư (chính sách đổi mới của Việt nam tiếp tục và sẽ phát triển cao: hệ thống pháp luật sẽ tạo một hành lang pháp lý an toàn cho vốn đầu tư của họ và tạo một “sân chơi bằng phẳng” cho mọi nhà đầu tư; một hệ thống cơ sở hạ tầng về tài chính tạô thuận lợi cho họ sẵn sàng vốn đầu tư ). Giá cả của quyền vốn phải do các lực lượng cung – cầu vốn quyết định. Giá cả của quyền vốn chính là lãi xuất. Đã đến lúc phải tính đến việc thả nổi lãi suất theo tình cung – cầu vốn từng thời điểm. - Phát triển thị trường vốn đi vào đời sống xã hội. Chỉ có như vậy quá trình huy động vốn đầu tư không chỉ có lợi sự tăng trưởng cho nền kinh tế mà còn mang lại sự phát triển đời sống của người dân với ý nghĩa thật sự của thuật ngữ “phát triển”. - Hấp thụ và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. Mục tiêu chiến lược của nhà nước ta không phải là thu hút bao nhiêu dự án FDI, với tổng số vốn đầu tư là bao nhiêu, mà là làm thế nào để hấp thụ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đó. Các định chế tài chính Việt Nam (cấp trung gian) phải vươn lên đóng vai trò là người mở đường, thâm nhập và khảo sát cơ hội đầu tư và sẽ là người thiết lập các dự án đầu tư, người tư vấn đầu tư, người vận động, thu hút các nguồn vốn và sau cùng là người tài trợ, cấp vốn hoặc tham gia hùn vốn trở thành những cổ đông chủ chốt của các Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tham gia vào hoạt động hiện nay ở Việt Nam đã có 3 ngân hàng liên doanh, 11 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 55 văn phòng đại diện ngân hàng nhà nước của hơn 40 quốc gia. Rõ ràng, việc vốn đầu tư lần đầu đi vào hoạt động và hầu như tự chu chuyển, không chuyển dịch được là một của tất cả các nguồn vốn trong đó có nguồn vốn FDI ở nước ta. Nguyên nhân chủ yếu là một thị trường vốn phát triển đến mức cần thiết như hiện nay. Việc thành lập thị trường chứng khoán sẽ tác động tích cực trước hết làm cho FDI có thêm hình thức mới, có thêm “kênh” mới thu hút nguồn vốn này. Mặt khác thị trường chứng khoán sẽ có tác động làm chuyển dịch tích cực nguồn vốn đã đầu tư tích cực ở các Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc Doanh nghiệp liên doanh có điều kiện đổi mới cơ cấu vốn của mình, phân tán rủ ro và tranh thủ hình thành cơ cấu vốn theo mục tiêu tối ưu hoá hiệu quả đồng vốn của mình. 4. Tăng cường hoạt động xúc tiến vận động đầu tư kết hợp với lựa chọn thẩm tra đối tác nước ngoài. Khi mà hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ở giai đoạn đầu các chủ đầu tư nước ngoài còn đang tiếp cận, thăm dò và lựa chọn thì hoạt động xúc tiến đầu tư như chiếc cầu nối lôi cuốn các Công ty nước ngoài đến Việt nam, như “bà nối” giúp các chủ đầu tư nước ngoài và trong nước rút ngắn thời gian “tìm hiểu”, tạo điều kiện cho họ nhanh tróng đi đến làm ăn với nhau. Khi mà hoạt đầu tư đạt tới đỉnh cao và bão hoà thì khi đó vai trò của xúc tiến đầu tư sẽ giảm đi, bởi vì, khi đó môi trường đầu tư quá quen biết. Hoạt động xúc tiến đầu tư chuyển sang một trạng thái khác. Đỉnh cao của FDI và Việt nam sẽ đạt được vào những năm 2005 – 2010. Như vậy tốc độ thu hút FDI đến năm 2000 còn rất cao (khoảng 30% so với năm trước). Từ năm 2000 trở đi tốc độ sẽ giảm dần còn khoảng 15% và đến năm 2010 tốc độ ít thay đổi. Hệ thống xúc tiến manh mún, thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất và đã đến lúc phải tổ chức lại theo hướng: - Hoạt định một chiến lược xúc tiến đầu tư nhằm đáp ứng được của mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. - Củng cố xúc tiến đầu tư đủ mạnh về đội ngũ, mạnh về trình độ, năng lực theo hướng tập trung hoá cao chứ không phân tán manh mún như hiện nay. - Tăng cường và có kế hoạch đưa các Bộ, Viện, Trường và các cơ quan làm công tác đối ngoại tham gia vào hoạt động xúc tiến đầu tư, phối hợp các công trình nghiên cứu nhằm tạo thế chủ động trong giao tiếp và sử lý các quan hệ với bên ngoài. - Thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm. Đẩy mạnh các quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ đầu tư quốc tế để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật, vận động đầu tư. - Tổ chức mạnh mạng lưới xúc tiến đầu tư ở một số nước khu vực trọng yếu. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế như UNDP, UNIDO… và Việt kiều ở nước ngoài để giới thiệu môi trường đầu tư ở Việt Nam. - Sắp xếp lại các công ty, các trung tâm dịch vụ, tư vấn đầu tư, kiên quyết bãi bỏ và nghiêm khắc với các tổ chức yếu kém đang làm xấu môi trường đầu tư ở Việt Nam. Xem lại các công ty tư nhân, trách nhiệm hữu hạn làm chức năng tư vấn trong lĩnh vực đầu tư. Mặc dù hiện nay Bộ Kế hoạch và đầu tư đã cấp 38 giấp phép dịch vụ tư vấn đầu tư cho một số công ty tư nhân, nhưng cần thiết phải thu hồi giấp phép nến các công ty này hoạt động không có hiệu quả. - Hoạt động tư vấn đầu tư phải giúp các chủ đầu tư có cơ hội chọn đúng đối tác. Đặc biệt là công tác lựa trọn thẩm tra chính xác đối tác đầu tư nước ngoài. Đã đến lúc không phải bất cứ loại đối tác nào chúng ta cũng hoan nghiêng như nếu mấy năm đầu thực hiện đầu tư. Lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần chú ý tới các tiêu chuẩn sau: + Thiện chí làm ăn lâu dài ở Việt Nam ; kiên quyết phát hiện và loại trừ các đối tác có tư tưởng làm ăn trộm dật, mánh mung và thậm chí lừa đảo. Có những đối tác đến Việt nam không phải là bạn mà sử dụng các tiểu xảo trong giao tiếp, tranh thủ tình cảm trong giao tiếp, tình cảm của bạn hàng bằng những lời hoa mỹ, bằng quà kỷ niệm hoặc bằng những chuyến đi thăm nước ngoài để đạt được những ý đồ của họ. + Có năng lực cần thiết về tài chính đủ để thực hiện dự án đầu tư. + Có khả năng, kinh nhiệm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể. Sẵn sàng chuyển giao công nghệ cần thiết vào Việt nam + Cần sớm phát hiện và có biện pháp xử lý hữu hiệu với một số nước đối tác vào Việt Nam với mục tiêu phi kinh tế. Để làm được việc này cần có sự tham gia của cơ quan chức năng của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện chiến lược thu hút FDI chúng ta phải tự đặt mục tiêu “Hiệu quả kinh tế- xã hội” lên hàng đầu. Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam rất mong muốn được “là bạn với tất cả các nước” không phân biệt chế độ chính trị, xã hội. 5. Tăng cường quản lý các dự án FDI trong quá trình thẩm định và triển khai dự án. Nhà nước bằng chính sách, chế độ và những biệt pháp điều hành vĩ mô để quản lý xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ khâu cho phép đầu tư đến qúa trình hoạt động của xí nghiệp đó. 5.1. Định rõ mục tiêu của công tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - Dành được càng sớm càng tốt những cái ta đang thiếu và rất cần : vốn, công nghệ, kinh nhiệm quản lý có chọn lọc của bên ngoài, vị trí trong phân công lao động quốc tế. - Góp phần khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước như: lao động, tài nguyên, vị trí địa lý kinh tế…Thực hiện việc kết hợp tối ưu các lợi thế bên ngoài và bên trong. - Góp phần tăng tích luỹ và cải thiện đời sống của nhân dân, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. - Điều tiết lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bảo hộ sở hữu, bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của người chủ đầu tư. - Đảm bảo hoạt động FDI theo hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế- xã hội nước ta (cơ cấu ngành, lãnh thổ, thành phần kinh tế, kinh tế nước ngoài, kinh tế đối ngoại) 5.2. Làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. a) Trên cơ sở chiến lược, định hướng phát triển kinh tế- xã hội của toàn bộ nên kinh tế, xác định cơ cầu FDI theo ngành, theo lãnh thổ, theo thành phần kinh tế và theo thị trường (thay thế nhập khẩu hay hướng vào xuất khẩu). Đã đến lúc, không phải ngành nào cũng thu hút FDI nhà nước cũng áp dụng các biện pháp ưu đãi để khuyến khích đầu tư nước ngoài (như khách sạn). Chúng ta chỉ nên khuyết khích FDI vào các ngành đòi hỏi vốn lớn, kỹ thuật cao, quản lý phức tạp và sản phẩm dành cho xuất khẩu. Còn loại FDI chủ yếu cung cấp cho thi trường nội địa ( thay thế nhập khẩu, cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước) thì thống nhất giữa đầu tư nước ngoài với đầu tư trong nước. Nhà nước phải có quan điểm nhất quán trong việ khuyến khích cả khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài với FDI. b) Quản lý chặt chẽ việc nhập thiết bị , chuyển giao công nghệ, tránh để nhập thiết bị, công nghệ đã và sẽ nhanh lạc hậu. Vấn đề này hiện nay đang gây tranh luận trong các ngành hữu quan cũng như các nhà quản lý ở Việt Nam. Nhìn chung có hai ý kiến trái ngược nhau: Loại ý kiến thứ nhất (trường phái cứng rắn) cho rằng: “Các nhà đầu tư nước ngoài một khi đã có tiềm lực vốn, thì không có lý do gì lại cho phép họ góp vốn vào liên doanh bằng thiết bị cũ”. Còn loại ý kiến thứ hai quan niệm “Việc không cho phép các loại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập thiết bị đã qua sử dụng là không hợp lý, không phù hợp với điều kiện trước mắt của Việt Nam”. Một trong những đặc thù của đất nước ta hiện nay là, nếu sử dụng các dây truyền thiết bị hiện đại tự động hoá ở mức độ cao, sẽ đẩy người lao động vào cảnh thất nghiệp. Cho nên, ở đây đòi hỏi một sự lựa chọn, tức là phải biết hi sinh mục tiêu khác. Có ý nghĩa là “muốn tạo ra nhiều việc làm thì phải hy sinh mục tiêu công nghệ, ngược lại muốn có công nghệ cao thì phải hy sinh mục tiêu tạo ra nhiều việc làm”. Trước tình hình như vậy, Nhà nước cần có những quy định rất cụ thể những lĩnh vực nào nhất thiết phải nhập thiết bị công nghệ mới và lĩnh vực nào cho phép nhập thiết bị công nghệ đã qua sử dụng, nhưng phải quy định rõ năm sản xuất, chất lượng còn lại…để tránh nhập tràn lan hoặc thiết bị đã quá lạc hậu c) Quản lý về tỷ lệ góp vốn của các bên tham gia liên doanh và chủ đầu tư nước ngoài đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. + Đối với liên doanh, nói chung là tỷ lệ góp vốn phía Việt Nam càng cao càng tốt, nhất là các dự án quan trọng, tỷ suất lợi nhuận cao và thời gian thu hồi vốn nhanh. Hiện nay do hạn chế của ta về vốn nên tỷ lệ vốn góp của bên Việt Nam trong vốn pháp định khoảng 25- 30%. ở đây chúng ta cần chú ý một số vần đề liên quan: Thứ nhất, Nhà nước cần quy định tỷ lệ vốn góp của bên Việt Nam tối thiểu là 50% vốn Pháp định. Nếu các dự án quy mô quá lớn (như là dự án xây dựng khu phức tạp, da dạng, đa năng…có tổng số vốn 468.427.000 USD) có thể cho phép tỷ lệ vốn pháp định bằng 25% tổng số vốn đầu tư. Thư hai, khuyến khích các công ty Việt Nam cùng góp vốn chung để có được cổ phần lớn hơn trong các liên doanh. Thứ ba, nhà nước cần có chính sách cụ thể trong việc huy động vốn trong nước cho những lĩnh vực thu lợi nhuận nhanh và lôi kéo các ngân hàng của Việt Nam vào cuộc (thực sự góp vốn cùng đầu tư). Thư tư, cần có biện pháp tính toán, kiểm soát chặt chẽ về giá cả máy móc, thiết bị công nghệ phía nước ngoài góp để tránh trường hợp họ nâng giá một cách vô lối gây thiệt thòi không chỉ bên Việt Nam mà cho cả lợi ích Nhà nước Việt Nam. - Việc nâng giá thiết bị nhập khẩu thuộc phần góp vốn của Bên nước ngoài gây thiệt hạn trước hết cho Nhà nước Việt Nam, vì khi chi phí sản xuất đuợc nâng lên thì lợi nhuận của bên liên doanh giảm xuống và kéo theo sự giảm sút khoản thuế lợi tức phải nộp cho Nhà nước. Xét về lợi ích đối tác tham gia liên doanh, việc nâng giá gây thiệt hại cho Bên Việt Nam vì thông thường bên nước ngoài góp vốn bằng thiết bị hoặc được liên doanh uỷ quyền nhập khẩu máy móc thiết bị. Giá máy thiết bị bên nước ngoài khai vống lên kéo theo sự gia tăng giả tạo tỷ lệ góp vốn của Bên Việt Nam và đương nhiên lợi nhuận chia cũng giảm đi. + Đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là toàn bộ sở hữu của người (hoặc tổ chức) nước ngoài. Nhưng hoàn toàn chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước chịu ảnh hưởng của tình hình chính trị, kinh tế – xã hội của nước ta, đồng thời cũng có tác động trở lại nhất định đối với nước ta. Quản lý việc nhập khẩu máy móc – thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài không đòi hỏi phải chặt chẽ như đối với doanh nghiệp liên doanh. Nhưng cần có quy định các chỉ tiêu tối thiểu mà các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài phải thảo mãn (chất lượng thhiết bị, giá cả…). d) Quản lý lao động tiền lương đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay mới có khoảng 12 vạn lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo dự báo đến năm 2000 sẽ có hàng chục vạn người trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cho nên vấn đề quản lý lao động tiền lương đối với các doanh nghiệp FDI có ý nghĩa quan trọng. Theo quan điểm của các nhà kinh tế thì Việt Nam có 4 lợi điểm đối với tư bản nước ngoài. Một trong 4 điểm đó là “thị trường lao động nước ta tương đối hoà đồng. Việt Nam không có những tranh chấp lao động như ở nhiều quốc gia khác”. Nếu xét ở thời điểm hiện đại có thể đúng, như nếu đặt vấn đề này trong khoảng 10 năm nữa thì còn nhiều vấn đề phải xem xét lại. Thứ nhất, thị trường sức lao động của Việt Nam chưa hoàn chỉnh, chưa thực sự là lĩnh vực để tiến hành mua, bán như hàng hoá đặc biệt - đó là sức lao động. Người lao động Việt Nam vẫn chưa có thói quen bán sức lao động của mình theo đúng giá trị thực của nó. Hơn nữa nhiều không biết được giá trị thực của sức lao động của mình là gì?. Thứ hai, Các công cụ pháp luật chưa đủ để cho phép nhà nước điều tiết được thị trường sức lao động. Để quản lý có hiệu quả sức lao động tiền lương đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nhà nước cần có những biện pháp tình thế và biện pháp lâu dài. Biện pháp tình thế gồm: - Nghiên cứu và đưa ra những phương pháp hoạt động hữu hiệu của các tổ chức Đảng, công đoàn… cho phù hợp với điều kiện hoạt động và đặc thù hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Bồi dưỡng nâng cao năng lực và bố trí hợp lý các cán bộ Việt Nam tham gia HĐQT và các chức vụ chủ chốt trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Ban hành các quy định chức năng cung ứng lao động đối với các đơn vị cung ứng lao động và chủ những đơn vị nào có đủ điều kiện và được Bộ Lao động – thương binh và xã hội cấp chứng chỉ hành nghề mới được hoạt động cung ứng lao động cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Biện pháp dài hạn (chiến lược) gồm: - Nhà nước ban hành quy chế đảm bảo cho thị trường lao động Việt Nam tồn tại và phát triển một cách đầy đủ và đúng quy luật. Có như vậy mới đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghệp trên thị trường lao động và quyền lợi của người lao động; - Nhà nước cần quy định và bắt buộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chấp hành nghiêm chỉnh những chính sách chế độ và tuyển dụng lao động như chế độ làm việc, nghỉ ngơi, an toàn lao động, tiền công tiền thưởng, Bảo hiểm xã hội, bồi dưỡng nâng cao ta nghề và các quyền lợi chính đáng khác của người lao động. 5.3- Cải cách công tác thẩm định dự án FDI. Việc cải cách công tác thẩm định dự án FDI theo hướng các cơ quan Nhà nước khi thẩm định không thể và không nên can thiệp quá sâu vào những tính toán kinh doanh của các chủ đầu tư mà cần trở lại đúng chức năng của mình là đảm bảo lợi ích Nhà nước tron khuân khổ pháp luật. 5.4- Quản lý Nhà nước dự án FDI sau khi được cấp giấy phép đầu tư. Việc theo dõi các chủ đầu tư hoạt động có đúng quy định của giấy phép đầu tư hay không là vấn đề cấp bách vào phức tạp nhất hiện nay. Công tác quản lý Nhà nước dự án sau khi được cấp giấy phép đầu tư và trong toàn bộ quá trình triển khai có tác động trực tiếp tới hiệu quả kinh tế – xã hội của hoạt động hợp tác đầu tư. Đó là sự tham gia của dự án FDI vào việc tạo ra lực lượng sản xuất mới ngành mới và sản phẩm mới, áp dụng công nghệ tiên tiến và kiến thức quản lý kinh doanh hiện đại, mở rộng thị trường nội địa và thị trường thế giới, tạo thêm việc làm và đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách. Quản lý hàng chục tỷ USD với hàng ngàn doanh nghiệp trải rộng trên phạm vi cả nước với nhiều vụ việc thường xuyên phát sinh, đòi hỏi phải xây dựng một bộ máy Nhà nước thật sự vững mạnh, ổn định lâu dài vừa đủ sức quản lý FDI, vừa tạo niềm tin đối với các chủ đầu tư nước ngoài. Do đặc điểm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp không có bộ chủ quản, hoạt động theo pháp luật và tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp về vốn đầu tư, hiệu qủa “lời ăn, lỗ chịu” nên Nhà nước phải có biện pháp quản lý làm sao vừa không buông lỏng vừa không can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó sẽ tạo thêm sự vững tin cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào nước ta, nhất là đang trong quá trình hội nhập hiện nay. Kết luận Một lần nữa chúng ta khẳng định vai trò to lớn của FDI trong quá trình đổi mới và mở nền kinh tế nền kinh tế, đặc biệt là việc thu hút FDI để tạo việc làm cho người lao trong tiến trình toàn cầu hoá. Hiện nay, ở nước ta nguồn vốn FDI đang phát triển một cách mạnh mẽ điều đó sẽ là đòn bẩy để phát triển nền kinh tế cũng như vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có biện pháp để khắc phục những mặt yếu kém của FDI và đưa ra những giải pháp hữu hiệu phát huy hết vai trò của FDI. Vì vậy Nhà nước ta cũng cần phải có các giải pháp, các chính sách ưu đãi để thu hút được nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn FDI trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay. Cuối cùng, em xin cảm ơn Khoa Kinh tế Lao Động và Dân Số Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân HN và cô Thu đã tạo điều kiện, cung cấp số liệu, tài liệu, hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Do thời gian, kinh nhiệm có hạn và các yếu tố khách quan về tài liệu nên đề tài còn có những hạn chế, thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến và góp ý của các cô, các thầy và các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn. Tài liệu tham khảo 1 GS. TS. Mai Quốc Chánh: Giáo trình Kinh tế Lao động, Nhà xuất bản giáo dục, 1998 2 TS. Nguyễn Tiến Dũng: Nâng cao năng lực canh tranh trong quá trình hội nhập, LĐ &XH, Số 209/03 3 Đầu tư quốc tế trên toàn cầu giảm, Báo Nhân Dân, số 17515, ngày 10/7/2003 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Tạp chí kinh tế và phát triển số 1 năm 1999 Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 6 Giáo trình kinh tế Quốc tế. Nhà xuất bản thống kê trường ĐH- Kinh tế Quốc dân HN, 1998 7 Giáo trình Quản trị dự án đầu tư quốc tế. Nhà xuất bản thống kê trường ĐH - Kinh tế Quốc dân HN, 1994 8 Giáo trình chính sách kinh tế đối ngoại. Nhà xuất bản thống kê trường ĐH Kinh tế Quốc dân HN, 1998 Nguyễn Thị Hằng: Lao động và việc làm, LĐ& XH, số198/2002 10 Nguyễn Đức Mạnh, một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ chân á. Tạp chí Nghiên cứu đông nam á tháng 5/1999 11 Vũ Chí Lộc, Đầu tư nước ngoài, nhà xuất bản Giáo dục. Nguyễn Thái, Hà Nội Điểm Đến của các nhà đầu tư nước ngoài, Báo: Người đại biểu của Nhân Dân, Số 61(140) ngày 21/7/2003 Nguyễn Văn Thành: ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoàI đối với các nước đang phát triển, Tạp chí Kinh tế thế giới số 239 tháng 4/1998 14 Thuật ngữ Lao động- thương binh và Xã hội, tập I, Nhà xuất bản LĐ- XH, 1999 Mục lục Lời nói đầu…………………………………………………... 1 Nội dung……………………………………………………………... 3 Phần I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá………………... 3 I. Khái niệm đầu tư và đầu tư trực tiếp…………………………………… 3 1. Khái niệm đầu tư………………………………………………………. 3 2. Đầu tư trực tiếp………………………………………………………... 3 II. Tạo việc làm…………………………………………………………... 5 1. Khái niệm chung………………………………………………………. 5 2. Vai trò quan trọng của tạo việc làm ở nước ta hiện nay………………. 6 3. Nhân tố ảnh hưởng đến sức ép trong vấn đề việc làm và nhân tố góp phần điều chỉnh làm giảm sức ép việc làm……………………………………... 7 a) Nhân tố ảnh hưởng đến sức ép trong vấn đề giải quyết việc làm……… 7 b) Nhân tố góp phần điều chỉnh làm giảm sức ép việc làm……………… 7 III. FDI với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá……………………………………………………………….. 8 1. Toàn cầu hoá với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam hiện nay…………………………………………………………………………. 8 . Tính tất yếu của quá trình toàn cầu hoá……………………………... 8 1.2. Toàn cầu hoá với vấn đề tạo việc làm ở Việt Nam………………… 10 1.2.1. Những thuận lợi………………………………………………….. 10 1.2.2. Những thách thức………………………………………………… 13 2. FDI với vấn đề tạo việc làm cho lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay…………………………………………………... 16 2.1. Vai trò của FDI…………………………………………………….. 16 2.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài…………………………. 18 2.3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài………………………….. 20 2.3.1. Lý thuyết về lợi ích của đầu tư…………………………………… 20 2.3.2. Tác động của FDI với nước tiếp nhận vốn……………………….. 20 2.3.3. Tác động của FDI với nước xuất khẩu vốn………………………. 20 Phần II: Phân tích thực trạng về hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá………………………………………………………………….. 25 I. Chính sách đầu tư nước ngoài và chiến lược thu hút FDI của Việt Nam hiện nay………………………………………………………………………... 25 1. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ở Việt Nam…………………... 25 1.1. Các chính sách chung……………………………………………… 25 1.2. Các chính sách và giải pháp tài chính……………………………… 27 1.2.1. Về thuế giá trị gia tăng…………………………………………... 27 1.2.2. Về giá hàng hoá và dịch vụ……………………………………… 27 2. Chiến lược thu hút FDI của Việt Nam………………………………. .28 II. Thực trạng về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay…………………………………………………………………… 36 1. Về giấy phép đầu tư………………………………………………….. 36 1.1. Tình hình cấp giấy phép đầu tư……………………………………. .36 1.2. Tình hình thực hiện giấy phép đầu tư……………………………… .37 2. Quá trình thực hiện vốn đầu tư FDI trong vấn đề tạo việc làm……… .38 3. Thực trạng thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Hà Nội hiện nay………. .41 III. Xu hướng đầu tư quốc tế trên toàn cầu……………………………... 43 Phần III. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư trực tiếp (FDI) trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá 45 Cải thiện môi trường phát lý đầu tư…………………………………. 45 Cho phép thành lập liên doanh hoạt động trong nhiều lĩnh vưc…… 46 Mở rộng thêm điều kiện chuyển nhượng vốn cho các bên tham gia.. 46 Xem xét lại nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị…………… 47 Đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép đầu tư………………………… 47 Vấn đề chuyển đổi ngoại tệ………………………………………... 48 Vấn đề mở tài khoản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .. 48 Cụ thể hoá chiến lược thu hút FDI………………………………….. 48 Nguồn vốn FDI phải được bố trí trên bàn cờ chiến lược chung……. 48 Hướng nguồn vốn FDI phục vụ thiết thực quá trình chuyển dịch….. 50 Thực hiện đồng bộ chính sánh khuyến khích đầu tư ……………….. 54 Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư …………………... 52 FDI trong quy hoạc đầu phối hợp tối ưu với các nguồn vối khác….. 53 Tăng cường hoạt động xúc tiến vận động đầu tư……………………. 56 Tăng cường quản lý các dự án FDI………………………………….. 58 Định rõ mục tiêu công tác quản lý nhà nước………………………. 58 Làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp……... 59 5.3 Cải cách công tác thẩm định dự án FDI…………………………….. 63 5.4 Quản lý nhà nước dự án FDI sau khi được cung cấp giấy phép ……. 63 kết luận……………………………………………………………. 64 Tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35468.doc
Tài liệu liên quan