Trong đó, giành cho công tác tuyển dụng và đào tạo lại ban đầu chỉ chiếm 20%, còn lại là giành cho công tác nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ sẵn có, chủ yếu giành cho hoạt động cử cán bộ đi học hỏi kinh nghiệm ở nước ngoài. Sau khi kết thúc quá trình học tập, những cán bộ được cử đi đào tạo sẽ tham gia vào các buổi đánh giá quá trình đào tạo tại nước ngoài, truyền đạt lại kinh nghiệm đã học hỏi được cho những người đồng nghiệp trong công ty. Ngoài ra, công ty luôn tạo điều kiện cho nhân viên đi học hỏi thêm các kiến thức phục vụ cho quá trình làm việc như tham gia vào các lớp học thêm ngoại ngữ, vi tính. để nâng cao trình độ và chất lượng công việc.
Ngoài việc trả theo lương cơ bản được quy định theo các văn bản của Nhà nước, để kịp thời động viên và giữ chân được nguồn cán bộ trẻ tài năng của công ty, hàng tháng, công ty có chính sách thưởng theo doanh thu, điều này đã khuyến khích nhân viên trong công ty hăng hái làm việc.
57 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư với việc phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch của công ty Hanoi Toserco giai đoạn 2000-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vốn, phía nước ngoài góp 70%. Trong 10 tháng tiếp theo, tỷ lệ này là 50:50. Trong thời gian còn lại của liên doanh, phía công ty đóng góp 60% số vốn, còn phía nước ngoài chỉ góp 40%. Nguồn vốn của dự án được quản lý theo quy chế quản lý vốn ngân sách Nhà nước. Sau khi dự án chấm dứt hoạt động cơ sở vật chất xây dựng của quá trình liên doanh sẽ thuộc về Nhà nước Việt Nam.
4.3. Những thành tựu đã đạt được trong quá trình đầu tư của Hanoi Toserco:
Nguồn vốn của công ty được đầu tư đúng hướng, tạo nên hiệu quả cao, tạo được động lực thúc đẩy quá trình mở rộng phạm vi địa bàn hoạt động, mang lại cho công ty một chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Về doanh thu của công ty trong giai đoạn 2000-2005 như sau:
Tốc độ tăng trưởng bình quân của công ty đạt trên 15% một năm, đây là một tốc độ phát triển nhanh chóng so với các công ty Nhà nước khác trong cùng thời kỳ, hàng năm công ty trích nộp ngân sách lên tới trên 8 tỷ đồng, tốc độ tăng hàng năm là 12%, lợi nhuận bình quân tăng 16%, đời sống của cán bộ công nhân viên được cải thiện đáng kể. Hàng năm, công ty nộp ngân sách lên tới 2,6 tỷ đồng, đây là một con số đáng kể so với các công ty khác hoạt động trong ngành
Trong đó, doanh thu của các loại hình dịch vụ như sau:
Nhìn vào đồ thị trên ta có thể thấy doanh thu chủ yếu hàng năm của công ty chủ yếu dựa vào việc tổ chức các tour du lịch cho người Việt Nam ra nước ngoài, đây là một nguồn doanh thu lớn cho công ty, song, đối với sự phát triển du lịch của một quốc gia lại là một dấu hiệu không tốt.
Do được chú ý đầu tư, cơ sở vật chất của công ty đã được cải thiện đáng kể. Chỉ trong riêng giai đoạn 2000-2005, công ty đã đầu tư mua mới 35 máy vi tính cùng với nhiều trang thiết bị văn phòng hiện đại phục vụ cho hoạt động kinh doanh và quản lý hành chính. Cũng trong thời gian này, công ty đã góp vốn xây dựng văn phòng làm việc mới với những trang thiết bị hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển của công ty. Năm 2000, cơ sở vật chất của toàn công ty chỉ phục vụ cho việc đón tiếp 55 nghìn lượt khách mỗi năm, thì đến năm 2005, công ty có thể tiếp đón được 150 nghìn lượt khách. Giai đoạn trước, công ty thực hiện tiếp xúc, đón tiếp khách du lịch chủ yếu thông qua hình thức bằng thư tay hoặc tiếp xúc trực tiếp, đến năm 2005, hình thức tiếp xúc trực tiếp với khách hàng đã giảm hẳn, hình thức trao đổi qua thư điện tử tăng lên. Đây là một hình thức tiên tiến, giảm đáng kể thời gian liên lạc giữa công ty với khách hàng, vừa tạo được tính chuyên nghiệp trong hoạt động, lại vừa nâng cao năng suất lao động của nhân viên. Trong tương lai, hình thức này sẽ trở nên phổ biến hơn và trở thành hình thức tiếp xúc chủ yếu ban đầu với khách hàng. Trước kia, một nhân viên của phòng du lịch của công ty chỉ thực hiện việc tổ chức và điều hành từ 3-4 tour du lịch cùng một lúc thì hiện nay, nhân viên này có thể điều hành từ 7-8 tour, nâng cao đáng kể năng suất lao động. Theo một cuộc khảo sát trong toàn công ty, nhờ việc xây dựng Website trên mạng Internet, doanh thu của công ty tăng 11,8% so với tốc độ tăng trung bình hàng năm của giai đoạn trước, 82% khách nước ngoài liên hệ với công ty thông qua mạng Internet, tỷ lệ khách đặt tour qua mạng lên đến 56%. Do vậy, chi phí của công ty trong việc liên hệ tiếp xúc với khách hàng cũng giảm đáng kể. Trong toàn công ty hiện nay, nếu chỉ tính cho các lao động văn phòng, cứ 2 người thì có một máy tính, tỷ lệ này tương đối cao so với các công ty khác hoạt động trong ngành, tạo cho công ty một hình ảnh hiện đại và tiên tiến hơn trong quá trình phục vụ.
Cũng nhờ việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư vào trang thiết bị máy móc văn phòng nên hiệu quả làm việc của các lao động gián tiếp trong công ty được nâng lên đáng kể, số lao động gián tiếp giảm đi tương đối so với số lao động trực tiếp, cứ 3 lao động trực tiếp mới có một lao động gián tiếp. Bộ máy quản lý hành chính của công ty gọn nhẹ, giảm các chi phí quản lý, góp phần giảm giá thành dịch vụ cung cấp.
Về thị trường, giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn thị trường của công ty được mở rộng. Do được đầu tư vào việc xây dựng các chi nhánh ở miền Trung và miền Nam nên phạm vi hoạt động của công ty được mở rộng đáng kể. Thời kỳ đầu, phạm vi hoạt động của công ty chỉ chú ý vào thị trường Hà Nội, các thị trường khác, công ty không tạo được nhiều uy tín thì đến nay, các chi nhánh của công ty tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Huế, Hội An trong 5 năm trở lại đây có tốc độ phát triển vượt bậc tạo được uy tín đối với khách du lịch tại địa phương và có xu hướng ngày càng mở rộng. Hiện nay, công ty được đánh giá là một trong số ít các công ty du lịch có mạng lưới hoạt động rộng khắp trong cả nước và có liên hệ trực tiếp với các công ty hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ du lịch của nước ngoài.
Về uy tín, thương hiệu trên thị trường, trên thị trường hiện nay, các công ty du lịch làm ăn theo mùa (khi bắt đầu mùa du lịch thì hoạt động câu khách mạnh mẽ, nhưng lại biến mất ngay khi mùa du lịch đã kết thúc) xuất hiện ngày càng nhiều làm giảm đáng kể uy tín của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành trong nước, tạo ra một ấn tượng xấu về chất lượng hoạt động du lịch của Việt Nam đối với khách quốc tế. Trong hoàn cảnh đó, uy tín của công ty vẫn được xây dựng và khẳng định trên thị trường, mà kết quả là liên tiếp trong nhiều năm, công ty được bình chọn là một trong mười thương hiệu mạnh trong ngành du lịch do báo Sài Gòn Tiếp thị tổ chức, công ty cũng được Thời báo Kinh tế chọn là một trong những nhà điều hành tour xuất sắc tại Việt Nam.
Về nguồn nhân lực trong công ty, từ chỗ chỉ có 204 nhân viên chính thức vào năm 2000, hiện nay, toàn công ty đã có gần 300 nhân viên trong biên chế. Trình độ của đội ngũ nhân viên không ngừng được nâng cao. Do được chú ý đầu tư nên chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện đáng kể. 100% nhân viên trong công ty đều sử dụng thành thạo vi tính văn phòng, đặc biệt, đội ngũ nhân viên làm việc tại các phòng du lịch, đội ngũ hướng dẫn viên đều thành thạo ít nhất một ngoại ngữ. Đội ngũ nhân viên của công ty được đánh giá là có chuyên môn đồng đều, hơn nữa, do có chế độ khen thưởng của công ty, công ty khuyến khích sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhân viên trong quá trình làm việc bằng cách giành những phần thưởng xứng đáng cho nhân viên làm việc có hiệu quả như chế độ khen thưởng hàng tháng, hàng quý, những người có kết quả làm việc tốt nhất sẽ được cử đi học tập tại các công ty nước ngoài do vậy đã khuyến khích được nhân viên hăng say làm việc, tạo được một không khí làm việc khẩn trương, hiệu quả. Bên cạnh đó, công ty cũng đã phát huy được khả năng sáng tạo của nhân viên trong quá trình làm việc bằng chế độ khen thưởng hợp lý, điển hình là sáng tạo của các nhân viên phòng du lịch trong việc tổ chức du lịch MICE (du lịch sự kiện) đã tạo được ấn tượng tốt đối với khách hàng.
Các dự án liên doanh liên kết với các công ty nước ngoài đã có những dự án mang lại hiệu quả cao như dự án khách sạn Hà Nội, mang lại nguồn lợi không nhỏ cho công ty, đó là hai dự án khách sạn Hà Nội (4 sao) và dự án khách sạn Horison (5 sao). Sau khi hoàn thành và đưa vào sử dụng, hai khách sạn trên đã trở thành một trong số ít những khách sạn cao cấp tại Hà Nội. Hai khách sạn trên đã cung cấp thêm gần 1000 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế cho du lịch Hà Nội, tỷ lệ sử dụng phòng trung bình hàng năm luôn đạt mức từ 85%-90%, thậm chí, khi vào mùa du lịch, công suất sử dụng phòng đạt mức 100%. Việc đưa vào khai thác hai khách sạn này không chỉ mang lại nguồn lợi cho công ty trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn, đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của công ty mà còn giúp cho môi trường du lịch của Hà Nội được cải thiện, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của trung tâm du lịch và các đại lý tại địa bàn thủ đô. Cùng với những dự án đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh khách sạn, dự án Mainfield Toserco cũng đã cung cấp thêm 20 xe phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch, tăng cường năng lực vận chuyển khách của công ty.
4.4. Những hạn chế còn tồn tại:
Tuy đã đạt được nhiều thành công, song quá trình đầu tư của công ty còn tồn tại nhiều hạn chế cần được khắc phục.
Trong cơ cấu vốn huy động của công ty, nguồn vốn vay chiếm một tỷ lệ rất cao, tới 65% tổng nguồn vốn đầu tư. Hiện nay, khi Nhà nước vẫn chưa thực sự đưa vào những biện pháp khuyến khích đầu tư cho ngành du lịch thì đây trở thành một nguy cơ lớn, chứa đựng nhiều rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là khi doanh nghiệp đã chuyển thành công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên, không còn có sự trợ giúp cho hoạt động đầu tư từ phía Nhà nước. Sở dĩ có tình trạng trên là do nguồn vốn nội tại của công ty không thể theo kịp với nhu cầu phát triển chung, đặc biệt là đối với những dự án liên doanh có số vốn đầu tư rất lớn.
Công ty đã vấp phải những trở ngại lớn trong quá trình quản lý vốn đầu tư khiến cho các dự án không theo kịp tiến độ định trước, mà nguyên nhân chủ yếu là quá trình lập kế hoạch đầu tư không được tiến hành đều đặn và kịp thời điều chỉnh theo thực tế hàng năm, nên tính khả thi của kế hoạch đầu tư không cao.
Trong lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, trong những năm qua, công ty giành khá nhiều vốn cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho việc quản lý và điều hành, tuy nhiên, dự án thường bị chậm hơn so với tiến độ. Nguyên nhân của vấn đề này là do quá trình giải quyết thủ tục hành chính chậm, vấn đề giải ngân của công ty gặp phải khó khăn trong quá trình vay vốn, nhà thầu thi công tiến hành không đúng tiến độ. Đây là những hạn chế còn tồn tại phổ biến trong quá trình thi công xây dựng tại các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Công ty chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực khách sạn nhà hàng, trong những năm gần đây, công ty đã thực hiện liên doanh với các công ty nước ngoài trong việc xây dựng các khách sạn có tiếng tại Hà Nội, song, các lĩnh vực khác của loại hình dịch vụ du lịch lại chưa được đầu tư nhiều. Theo một cuộc điều tra tại triển lãm quốc tế về du lịch tại Hồng Kông, khách sạn và khu nghỉ dưỡng chỉ chiếm 21,1% sự quan tâm của khách du lịch, còn phương tiện giao thông chiếm 14,8%, điểm du lịch và các công viên chủ đề chiếm 13%. Công ty đã thực hiện nhiều dự án liên doanh trong lĩnh vực khách sạn nhưng chỉ có một dự án liên doanh trong lĩnh vực phương tiện vận chuyển khách và không có dự án xây dựng các điểm vui chơi, khu công viên, khu giải trí. Hơn nữa, công ty vẫn chủ yếu đầu tư phát triển tại thị trường Hà Nội, các dự án đầu tư của công ty đa phần chỉ tập trung trên địa bàn Hà Nội mà không có nhiều các dự án mở rộng ra các tỉnh. Đối với hoạt động du lịch thì hạn chế này sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình cung cấp các dịch vụ du lịch của công ty. Sở dĩ còn tồn tại hạn chế này là do công ty vẫn chỉ tập trung vào phát triển khu vực thị trường du lịch tại Hà Nội, vốn là thị trường truyền thống của công ty, hơn nữa khi đầu tư ra địa bàn khác, công ty gặp phải những thủ tục hành chính rườm rà và sự cạnh tranh gay gắt từ phía các đối thủ cạnh tranh vốn đã chiếm được những thị phần không nhỏ tại các địa bàn này. Trong tương lai, nếu chỉ co cụm đầu tư trong một địa bàn, công ty sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc cải thiện chất lượng dịch vụ, mở rộng địa bàn hoạt động và nâng cao sức cạnh tranh với các đối thủ trực tiếp trên thị trường.
Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng thương hiệu, mặc dù đã giành những nguồn quỹ tương đối lớn trong việc quảng bá thương hiệu, song nguồn vốn này vẫn chưa xứng tầm với sự phát triển mở rộng của công ty như hiện nay. Công ty vẫn coi nhẹ việc đầu tư vào lĩnh vực này nên so với các đối thủ cạnh tranh như Sài Gòn Tourist, thương hiệu của công ty phát triển tương đối kém hơn, ảnh hưởng đến việc mở rộng thị trường. Hạn chế này do nhiều nguyên nhân: thứ nhất, cũng giống như các công ty Việt Nam khác, Hà Nội Toserco ít coi trọng việc đầu tư phát triển thương hiệu mà công ty chú trọng nhiều vào việc cải thiện chất lượng dịch vụ, mở rộng phạm vi hoạt động. Thứ hai, do các biện pháp xử lý các hành vi vi phạm về thương hiệu ở Việt Nam chưa đủ mạnh, thương hiệu của công ty liên tiếp bị các công ty du lịch mới hình thành ăn cắp, làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của công ty trên thị trường, cho dù trong nhiều năm qua, công ty đã không ít lần lên tiếng đòi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý triệt để vấn nạn này, song, số vụ xử phạt vẫn rất hạn chế, số công ty du lịch tư nhân hoạt động dưới tên công ty vẫn còn tồn tại phổ biến và hoạt động ngang nhiên, điều này đã làm nản lòng các nhà quản lý của công ty.
Giai đoạn 2000-2005, việc cải thiện về chất lượng dịch vụ lại không đi kèm với việc việc mở rộng về quy mô. Chất lượng dịch vụ của công ty đã tăng lên rất nhiều so với những năm trước kia, song loại hình dịch vụ của công ty không có được nét đột phá, không tương xứng với tốc độ phát triển như hiện nay của công ty. Đây là điểm yếu chung của các công ty du lịch Việt Nam làm giảm uy tín của các công ty này trên thị trường quốc tế, giảm sức cạnh tranh đối với những nhà điều hành hoạt động lữ hành của nước ngoài. Nguyên nhân là do công ty đã coi nhẹ hoạt động Marketing nên không đầu tư nhiều vào hoạt động này, biểu hiện cụ thể là trong công ty không có phòng Marketing mà nhân viên các phòng du lịch kiêm nhiệm luôn hoạt động này, điều này đã làm cho hoạt động kinh doanh của công ty không theo kịp với yêu cầu của thị trường, không nắm bắt được hết yêu cầu của khách hàng. Một nguyên nhân khác cũng dẫn đến hạn chế này đó là do hiện nay, các công ty du lịch của Việt Nam thường không chú trọng vào việc phát triển sản phẩm riêng của mình mà thường có xu hướng bắt chước sản phẩm của nhau, khi một công ty chào sản phẩm mới thu hút được nhiều khách hàng thì ngay lập tức, các công ty khác cũng có những sản phẩm tương tự, do vậy, sản phẩm của các công ty thường giống nhau, không có được nét đột phá đáng kể.
Đội ngũ nhân viên đã được công ty đầu tư khá nhiều, song, trong những năm gần đây, một số nhân viên có trình độ chuyên môn cao đã tách khỏi công ty, gây ra sự thiếu hụt về đội ngũ nhân viên được đào tạo đúng chuyên ngành. Nguyên nhân chính là mặc dù đã có nhiều chế độ đãi ngộ đối với nhân viên, nhưng so với các công ty nước ngoài về lương, điều kiện làm việc và chế độ thưởng thì công ty vẫn không thể theo kịp, thêm vào đó, nền kinh tế thị trường phát triển không ngừng đã tạo ra những cơ hội kinh doanh lớn khi đã có được kiến thức và những kinh nghiệm thực tế thì những nhân viên này lại muốn thử sức với hoạt động kinh doanh riêng của mình, chính vì vậy, công ty khó có thể giữ chân họ làm việc tại công ty. Bên cạnh đó, công ty vẫn chưa đưa vào áp dụng hệ thống quản lý chất lượng nên không có những chuẩn mực nhất định đánh giá quá trình hoạt động trong toàn công ty, khiến cho công tác quản lý đội ngũ nhân viên gặp nhiều khó khăn, khó kiểm soát được chất lượng của hoạt động đầu tư vào nguồn nhân lực.
Mặc dù đã được đầu tư các trang thiết bị hiện đại, nhưng việc sử dụng các trang thiết bị này vẫn còn hạn chế, không khai thác được hết công dụng của thiết bị hiện đại không tận dụng khai thác được những ưu thế do công nghệ thông tin mang lại, không tạo được tác phong chuyên nghiệp trong việc tổ chức và điều hành các chương trình du lịch. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh của công ty, đặc biệt là trong quá trình cạnh tranh tổ chức hình thức du lịch sự kiện, là hình thức du lịch đòi hỏi trình độ tổ chức và tính chuyên nghiệp cao.
Trong hoạt động liên doanh liên kết đầu tư, bên cạnh những dự án đạt được thành công lớn, vẫn còn tồn tại dự án không mang lại hiệu quả trong quá trình liên doanh như dự án Mainfield-Toserco hoạt động trong lĩnh vực vận chuyển khách du lịch, dự án liên doanh với khách sạn Hilton Opera đã không thực hiện được mà nguyên nhân chủ yếu là do quá trình giải quyết các thủ tục hành chính còn chậm chạp, công ty không chủ động giải quyết các vấn đề này một cách triệt để, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy nản lòng, bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Hơn nữa, trong quá trình liên doanh, công ty chỉ đóng góp phần vốn nhỏ hơn, mà chủ yếu được đóng góp dưới dạng bất động sản mà thực tế hiện nay việc giải tỏa mặt bằng phục vụ cho quá trình xây dựng thường xuyên chậm hơn so với tiến độ của dự án, lại do có sự không thống nhất về giá trị quyền sử dụng đất nên quá trình thỏa thuận ký kết các hợp đồng liên doanh bị kéo dài, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện dự án đầu tư, kéo theo đó là ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của công ty và những công ty liên doanh. Dự án liên doanh duy nhất của công ty trong lĩnh vực phương tiện vận chuyển đã không mang lại hiệu quả mà nguyên nhân chủ yếu là thời gian chuẩn bị đầu tư kéo dài đã làm lỡ cơ hội đầu tư, đồng thời làm cho vốn đầu tư bỏ ra tăng lên, trong khi quy mô của liên doanh chỉ bao gồm 20 xe khách, nên việc thu hồi được vốn là hết sức khó khăn. Hậu quả là dự án sau 2 năm tiến hành hoạt động đã tiến hành thanh lý và không mang lại lợi nhuận đáng kể cho công ty.
Chương II
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC NHỮNG KHÓ KHĂN,
HẠN CHẾ, NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TẠI
HANOI TOSERCO ĐẾN NĂM 2010.
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN TỚI:
1. Phương hướng phát triển của công ty trong giai đoạn 2006-2010:
1.1. Mục tiêu hoạt động của Hanoi Toserco trong giai đoạn 2006-2010:
Trong giai đoạn tiếp theo của quá trình đầu tư phát triển, công ty đã đề ra những mục tiêu cơ bản sau:
Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn để đáp ứng được nhu cầu đầu tư của công ty, đảm bảo cho quá trình mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh cả về chất lượng và số lượng, trong những năm tới tốc độ tăng trưởng hàng năm về doanh thu đạt mức 15%/năm, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch của thủ đô nói riêng và của cả nước nói chung.
Không ngừng đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ, cho ra đời những loại hình dịch vụ mới phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của khách du lịch trong nước và quốc tế, mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh cho công ty.
1.2. Phương hướng hoạt động của công ty:
Hiện nay, mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng tăng cao, các công ty hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực du lịch ra đời ngày càng nhiều, những mặt trái của nền kinh tế thị trường như hiện tượng ăn cắp nhãn hiệu, quyền sở hữu trí tuệ... đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của các công ty du lịch. Trước tình hình này, công ty đã đưa ra những phương hướng cho hoạt động kinh doanh trong những năm tới, đó là:
Chủ động bám sát kế hoạch đầu tư của Nhà nước, xu hướng phát triển du lịch trong nước và quốc tế để đạt được những hiệu quả cao nhất trong quá trình đầu tư.
Giữ vững và mở rộng thị trường trên phạm vi cả nước, ổn định hoạt động kinh doanh, thực hiện việc hợp tác chặt chẽ với các công ty hoạt động trong cùng ngành trong nước và quốc tế để mở rộng phạm vi và khả năng hoạt động của công ty nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch của người dân trong nước và khách du lịch quốc tế.
Đa dạng hóa dịch vụ cung cấp, đẩy mạnh công tác nghiên cứu và phát triển trong quá trình hoạt động để đưa ra những loại hình dịch vụ mới, nâng cao sức cạnh tranh của công ty trên thị trường.
Thực hiện các biện pháp giảm các chi phí hành chính, giảm giá thành dịch vụ, tăng năng suất lao động trong toàn công ty.
Nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp, đặc biệt là chất lượng dịch vụ tổ chức và điều hành các tour du lịch, tạo cho công ty một hình ảnh nhà điều hành tour chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo.
Không ngừng nâng cao các điều kiện về cơ sở vật chất để có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của những nhóm khách hàng có yêu cầu cao như khách du lịch sự kiện (MICE), trở thành một trong số ít những công ty có khả năng cung cấp tốt dịch vụ du lịch này.
Nâng cao trình độ của đội ngũ nhân viên trong công ty, tạo cho khách hàng một ấn tượng tốt về một đội ngũ nhân viên làm việc một cách chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo.
Đa dạng hóa hoạt động kinh doanh như mở rộng đầu tư sang các lĩnh vực khác như tư vấn và tổ chức du học, hợp tác kinh doanh các loại hình dịch vụ giải trí khác... nhằm tránh những rủi ro có thể xuất hiện trên thị trường trong những năm tới.
1.3. Kế hoạch đầu tư của công ty trong thời gian tới:
Để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển không ngừng, đồng thời tăng sức cạnh tranh của công ty trên thị trường, trong thời gian tới, công ty đã xây dựng kế hoạch đầu tư trong giai đoạn tới.
Trong giai đoạn 2006-2010, công ty vẫn tiếp tục duy trì hoạt động liên doanh liên kết với các tập đoàn khách sạn lớn trên thế giới trong lĩnh vực đầu tư xây dựng và kinh doanh khách sạn tại Hà Nội. Đây là một trong những trọng tâm của quá trình đầu tư trong giai đoạn tới. Hà Nội luôn được công ty coi là “sân nhà” của mình trong quá trình phát triển hoạt động kinh doanh. Đây là một thị trường có tiềm năng lớn về phát triển du lịch, là trung tâm du lịch lớn nhất cả nước, số khách quốc tế đến Hà Nội chiếm 34% lượng khách quốc tế của cả nước, năm 2005, Hà Nội đã được tạp chí du lịch lữ hành hàng đầu thế giới của Mỹ là Travel Leisure chọn là một trong năm thành phố du lịch tốt nhất châu Á. Năm 2005, Hà Nội đã đón 5 triệu khách, trong đó có 1 triệu khách du lịch quốc tế, tổng doanh thu tăng 20%, công suất sử dụng phòng của các khách sạn lớn luôn đạt mức trung bình từ 85%-90%. Với tốc độ tăng như hiện nay, đến năm 2010, Hà Nội sẽ đón 5,4 triệu lượt khách nội địa và 1,6 triệu lượt khách quốc tế, tức là ngành du lịch của thủ đô cần 22637 phòng khách sạn đạt tiêu chuẩn, tức là thiếu 10137 phòng so với hiện nay, bình quân thiếu 2000 phòng/năm. Như vậy, đầu tư cho lĩnh vực kinh doanh khách sạn vẫn là một ngành nghề kinh doanh hấp dẫn hiện nay, mục tiêu trước mắt của công ty là hoàn thiện việc xây dựng và đưa vào khai thác khách sạn SAS tại công viên Lênin. Việc tiếp tục đầu tư phát triển vào lĩnh vực này vừa giúp cho công ty đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, lại vừa giúp đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh của công ty, góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy sự phát triển ngành du lịch của Thủ đô.
Bên cạnh việc phát triển loại hình kinh doanh khách sạn, công ty sẽ tiếp tục đầu tư trong lĩnh vực phương tiện vận chuyển khách, cụ thể, công ty sẽ giành nguồn quỹ gần 20 tỷ đồng cho việc mua mới và cải tạo các phương tiện vận chuyển khách du lịch trong giai đoạn 2006-2008 với mục đích tăng cường năng lực hoạt động vận chuyển khách, chủ động đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Đầu tư cho nguồn nhân lực vẫn luôn là sự quan tâm hàng đầu của công ty. Trong giai đoạn tới, công ty dự tính sẽ tuyển và đào tạo thêm trên 50 nhân viên mới phục vụ cho quá trình phát triển mở rộng về quy mô. Đồng thời tổ chức tạo điều kiện để các nhân viên trong công ty tự nâng cao thêm trình độ của mình, tổ chức cử những cán bộ và nhân viên trong công ty đi học hỏi kinh nghiệm tại các công ty du lịch có uy tín trên thế giới để không ngừng hoàn thiện trình độ của đội ngũ nhân viên. Nguồn quỹ giành cho hoạt động này trong thời gian tới sẽ đạt trung bình trên 500 triệu đồng/năm.
Thời gian tới vẫn là một giai đoạn phát triển không ngừng của công nghệ thông tin, một công cụ đắc lực giúp cho việc mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh của công ty, chính vì vậy, kế hoạch đầu tư đổi mới trang thiết bị kỹ thuật đã được xây dựng nhằm phục vụ đắc lực cho quá trình quản lý và hoạt động của công ty, góp phần giảm đáng kể chi phí hành chính, giảm giá thành sản phẩm, đồng thời, tạo cho công ty một hình ảnh nhà điều hành chuyên nghiệp, hiện đại.
Trong những năm tới, Việt Nam sẽ ra nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO, khi đó, các công ty, các tập đoàn du lịch nước ngoài sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc đầu tư và phát triển kinh doanh tại Việt Nam, công ty sẽ gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ. Chính vì vậy, việc đầu tư vào quảng bá thương hiệu sẽ là một việc làm cần thiết. Công ty có dự tính sẽ tăng gấp đôi nguồn quỹ giành cho việc phát triển thương hiệu của mình, tạo được một chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và tạo được ấn tượng tốt với khách hàng quốc tế.
Để tạo ra sự khác biệt đối với các đối thủ cạnh tranh, tiếp tục tăng cường đầu tư vào việc nghiên cứu phát triển nhằm đa dạng hoá sản phẩm du lịch, tạo được những sản phẩm độc đáo, mới lạ, tạo được điểm nhấn trên thị trường là một trong những kế hoạch đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, công ty tiếp tục đầu tư vào việc hoàn thiện dịch vụ du lịch MICE là một loại hình dịch vụ mang lại lợi nhuận cao. Phấn đấu đến năm 2010, công ty vẫn duy trì vị trí là công ty du lịch hàng đầu tại Hà Nội và sẽ trở thành một trong ba công ty du lịch hàng đầu tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, công ty cũng đang lập kế hoạch để đầu tư vào lĩnh vực vui chơi giải trí của Thủ đô thông qua việc liên kết với các công ty trong và ngoài nước, vừa nhằm mục đích đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, vừa có thể góp phần cải thiện môi trường du lịch của Thủ đô.
Ngoài ra, công ty vẫn tiếp tục hoạt động đầu tư để mở rộng các loại hình dịch vụ mới như dịch vụ tư vấn và tổ chức du học. Đây không phải là loại hình dịch vụ xa lạ đối với thị trường Hà Nội, song, đây vẫn là một loại hình kinh doanh hấp dẫn đối với công ty. Dựa vào mạng lưới hoạt động kinh doanh rộng khắp, có quan hệ bạn hàng với nhiều công ty du lịch trên thế giới, việc phát triển loại hình kinh doanh này sẽ thuận lợi và mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho công ty trong thời kỳ sắp tới.
2. Những cơ hội và thách thức đối với hoạt động đầu tư của công ty trong giai đoạn sắp tới:
2.1. Cơ hội:
Việt Nam đang ở ngưỡng cửa của tiến trình gia nhập tổ chức Thương Mại Thế giới WTO, công ty cũng sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đầu tư phát triển mở rộng hoạt động kinh doanh do môi trường du lịch Việt Nam sẽ được cải thiện khi các công ty nước ngoài đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển du lịch tại các địa phương, thêm vào đó, việc liên doanh liên kết của công ty với các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch sẽ dễ dàng hơn.
Đồng thời, khi gia Việt Nam gia nhập vào WTO, các ngân hàng, tập đoàn tài chính nước ngoài sẽ đầu tư nhiều vào Việt Nam, thị trường tài chính phát triển cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế, trong đó có Hà Nội Toserco sẽ có cơ hội lớn trong việc phát triển thị trường du lịch ra nước ngoài, việc thanh toán cho các chuyến du lịch của khách nước ngoài sẽ đơn giản hơn rất nhiều, việc đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh sẽ có nhiều thuận lợi lớn.
Nhà nước vừa cho ban hành luật du lịch và luật doanh nghiệp, là một công ty Nhà nước, Hà Nội Toserco sẽ có được một cơ sở luật vững vàng trong quá trình hoạt động và bảo vệ được tài sản vô hình của mình là thương hiệu và uy tín trên thị trường. Trong một tương lai gần, khi Việt Nam gia nhập WTO, hệ thống pháp luật được hoàn thiện sẽ tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp, đây sẽ là một thời cơ tốt để công ty có thể phát huy hết năng lực hoạt động của mình. Hiện nay, Nhà nước đang có những hành động cụ thể để thực hiện mục tiêu biến ngành du lịch trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, những chính sách ưu đãi cho đầu tư phát triển du lịch đang dần đưa vào áp dụng trong thực tế, tạo tiền đề thuận lợi cho hoạt động đầu tư của các công ty du lịch nói chung và cho Hanoi Toserco nói riêng.
Thị trường của ngành du lịch không ngừng mở rộng do thu nhập của người dân đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu đi du lịch đã trở nên phổ biến. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển hoạt động đầu tư mở rộng kinh doanh của công ty.
2.2.Thách thức:
Gia nhập WTO không chỉ mang lại cơ hội lớn cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của công ty mà còn là một thách thức lớn. Khi hội nhập với nền kinh tế quốc tế, công ty sẽ phải đối mặt với việc gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ những công ty du lịch có uy tín trên thế giới, những tập đoàn hùng mạnh hoạt động trong lĩnh vực này, đây là một vấn đề khó khăn đối với việc mở rộng phát triển của công ty. Việc đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh của công ty sẽ bao hàm nhiều rủi ro do sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường.
Những vấn đề về việc giải quyết các thủ tục hành chính trong quá trình đầu tư vẫn là một vấn đề khó khăn đối với công ty trong giai đoạn tới. Do thời gian này bị kéo dài đã làm chậm quá trình thực hiện đầu tư, bỏ lỡ thời cơ, đồng thời cũng làm tăng thêm chi phí của dự án đầu tư, đây là một thách thức đối với hoạt động đầu tư của công ty.
Yêu cầu mở rộng phát triển cả về số lượng và chất lượng ngày càng cao, trong khi nguồn nhân lực lại không đáp ứng được yêu cầu. Hiện nay, nguồn nhân lực được đào tạo cơ bản của Việt Nam trong lĩnh vực này vừa thiếu vừa yếu, không đáp ứng được nhu cầu, buộc công ty phải chi những khoản đầu tư không nhỏ cho việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ nhân viên để phục vụ cho hoạt động của mình.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẦM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY HANOI TOSERCO GIAI ĐOẠN 2006-2010:
1. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp:
Để quá trình đầu tư đạt được kết quả và hiệu quả cao hơn, tận dụng được những cơ hội và đối mặt với những thách thức trong thời gian tới, tôi xin kiến nghị một số giải pháp từ phía doanh nghiệp như sau:
Xây dựng chiến lược và kế hoạch đầu tư phù hợp phục vụ cho mục tiêu phát triển chung của công ty và được tiến hành đều đặn hàng năm.
Có thể nói một doanh nghiệp không có các định hướng hoạt động cũng như kế hoạch phát triển trong ngắn hạn và dài hạn là một doanh nghiệp chết. Bởi định hướng hoạt động và kế hoạch phát triển là kim chỉ nam soi đường, thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động theo đúng quỹ đạo. Với Hanoi Toserco, quá trình đầu tư diễn ra lâu dài và liên tục trong nhiều năm với quy mô phát triển về cả bề rộng lẫn chiều sâu, công tác kế hoạch hóa hoạt động đầu tư đóng vai trò ngày càng quan trọng, quyết định tới sự thành công hay thất bại của hoạt động này.
Lập kế hoạch được coi là vấn đề trọng tâm trong giai đoạn đầu của quá trình đầu tư trong doanh nghiệp. Một khi kế hoạch được lập một cách khoa học, khả thi, tính thực tế cao thì đó chính là thành công bước đầu của quá trình đầu tư. Nội dung kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp bao gồm: kế hoạch về vốn và huy động vốn, kế hoạch thực hiện tiến trình đầu tư, kế hoạch thu chi và kế hoạch trả nợ. Tuy nhiên, hiện nay, trong công ty, công tác này vẫn chưa được đặt vào đúng tầm của nó, các kế hoạch có tính khả thi không cao, không theo kịp với sự biến động của thị trường, đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới những kết quả không mong muốn khi kết thúc quá trình đầu tư.
Một kế hoạch đầu tư có tính khả thi cao là một kế hoạch được xuất phát từ nhu cầu thực tế của thị trường và của bản thân doanh nghiệp, phù hợp với khả năng và nguồn lực hiện tại của doanh nghiệp, được dựa trên cơ sở quy hoạch phát triển tổng thể của toàn ngành và của địa phương, mà cụ thể đối với công ty chính là quy hoạch phát triển của ngành du lịch Hà Nội. Kế hoạch phải được xem xét một cách nghiêm túc, có phương pháp khoa học, mục tiêu rõ ràng, cụ thể và phải đảm bảo được tính đồng bộ và thống nhất của tổng thể. Trong nền kinh tế hiện nay, thị trường luôn có những thay đổi, biến động không ngừng, môi trường kinh doanh của doanh nghiệp luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố thuận lợi và rủi ro, kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp cũng vì thế mà cần phải coi trọng công tác dự báo và tiếp xúc được những nguồn thông tin chính xác và nhanh nhạy trên thị trường để có những biện pháp thích ứng kịp thời. Trong kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp cần phải xác định được mục tiêu cụ thể rõ ràng đối với từng dự án, từng giai đoạn, từng bước đi các kế hoạch về huy động vốn, thực hiện đầu tư, kế hoạch thu chi và trả nợ cần phải được xây dựng theo đúng quá trình tiến hành đầu tư. Khi thực hiện tốt công tác lập kế hoạch, thành công trong đầu tư của doanh nghiệp trở nên chắc chắn hơn, hiệu quả hơn.
Tiến hành giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện kế hoạch đầu tư cũng như kết quả hoạt động đầu tư.
Quá trình giám sát thực hiện kế hoạch đầu tư là một hoạt động không thể thiếu nhằm đảm bảo cho việc đầu tư được tiến hành đúng hướng và đạt được những kết quả tốt nhất. Thực tế cho thấy công tác giám sát hoạt động đầu tư trong công ty hiện nay không được tiến hành thường xuyên, một phần do không đủ cán bộ tham gia, một phần do không đủ những thông tin cần thiết. Giải pháp cho vấn đề này là công ty cần phải tăng cường đội ngũ nhân viên thực hiện quá trình này, tiến hành thường xuyên và có những bản báo cáo, đánh giá việc thực hiện kế hoạch định kỳ, kịp thời thu thập thông tin để có những nhận định đúng đắn đối với hoạt động đầu tư, và đưa ra những giải pháp kịp thời. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có chức năng trong việc giám sát hoạt động đầu tư đặc biệt là các hoạt động đầu tư vào lĩnh vực khách sạn du lịch, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Điều chỉnh cân đối các phương thức huy động nguồn vốn đầu tư.
Thực trạng huy động vốn cho thấy, nguồn vốn công ty dựa quá nhiều vào vay nợ (nợ chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn) hay nói cách khác công ty sử dụng các phương thức huy động nợ không cân đối với các phương thức huy động vốn chủ. Vấn đề này dễ dẫn đến việc công ty phải “chịu gánh nặng nợ” nần lớn, làm cho khả năng thanh toán của công ty chưa cao và ảnh hưởng đến sự lành mạnh tài chính của công ty. Vì vậy, công ty nên sử dụng nhiều hơn nữa các phương thức huy động vốn chủ như tăng cường hơn nữa nguồn vốn từ lợi nhuận để lại,... Trong quá trình đầu tư, tăng cường kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện để tránh hiện tượng kéo dài thời gian đầu tư, khiến cho kết quả đầu tư chậm phát huy tác dụng, gây ra hiện tượng tồn đọng vốn, làm tăng chi phí của dự án đầu tư.
Đa dạng hóa hoạt động đầu tư.
Thị trường du lịch hiện nay đang có những biến động không ngừng mang lại nhiều cơ hội kinh doanh, song cũng tiềm ẩn nhiều thách thức. Việc tập trung quá nhiều hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực sẽ gây ra những rủi ro lớn cho hoạt động của công ty. Hiện nay, công ty đang tập trung chủ yếu hoạt động kinh doanh của mình vào lĩnh vực tổ chức tour du lịch và hoạt động kinh doanh khách sạn, văn phòng. Thị trường du lịch trong nước hiện nay đang đối mặt với rất nhiều nguy cơ: đó là sự hoành hành của dịch cúm gà liên tục trong nhiều năm gần đây, sự quay trở lại dịch SARS, nguy cơ về một thảm hoạ sóng thần đã từng xảy ra trong khu vực Đông Nam Á... hay sự cạnh tranh gay gắt từ ngành du lịch của Trung Quốc, và các nước trong khu vực, sự cạnh tranh ngay từ trong nội bộ ngành du lịch trong nước cũng ngày càng tăng,... dẫn tới những rủi ro trong kinh doanh ngày càng gia tăng. Trước thực tế này, công ty cần phải tiến hành đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của mình, chuyển một phần nguồn vốn sang các loại hình kinh doanh khác như kinh doanh khu vui chơi giải trí, tăng cường đầu tư vào lĩnh vực vận chuyển khách du lịch, đầu tư phát triển hoạt động tư vấn và tổ chức du học,... không chỉ nhằm mục đích giảm rủi ro mà còn có thể chủ động đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của khách du lịch.
Chủ động tìm kiếm đối tác thực hiện hoạt động liên doanh liên kết.
Thực tế hiện nay, công ty mới chỉ có năm dự án liên doanh, lại đa phần thuộc lĩnh vực kinh doanh khách sạn, không đáp ứng được nhu cầu đầu tư cũng như nhu cầu về đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của công ty. Việt Nam đang trong giai đoạn mở cửa thị trường du lịch, trong thời gian tới sẽ có rất nhiều các tập đoàn lớn của thế giới tiến hành tìm hiểu và đầu tư vào thị trường Việt Nam, lựa chọn các đối tác liên doanh. Để hoạt động liên doanh được diễn ra theo đúng kế hoạch và mục tiêu của công ty thì việc chủ động tìm đối tác liên doanh là rất cần thiết.
Chú trọng đầu tư vào hoạt động Marketing, nâng cao hình ảnh của công ty trên thị trường.
Hoạt động Marketing được coi là trung tâm của một doanh nghiệp hiện đại, việc thiếu vắng phòng chức năng thực hiện hoạt động này trong công ty sẽ gây cản trở lớn đối với việc phát huy hiệu quả của hoạt động đầu tư. Marketing không chỉ có nhiệm vụ quảng bá hình ảnh công ty rộng rãi trên thị trường mà còn là một bộ phận quan trọng giúp cho việc định hướng hoạt động đầu tư của công ty. Hoạt động đầu tư cần phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của thị trường mới có thể mang lại được hiệu quả tối ưu.
Chủ động phối hợp với các cơ quan Nhà nước trong việc giải quyết các vụ vi phạm về thương hiệu, bản quyền.
Các vụ vi phạm về thương hiệu của công ty đã làm cho Hanoi Toserco mất đi những một số lượng khách hàng không nhỏ, và làm giảm uy tín của công ty đối với khách hàng, điều này đồng nghĩa với việc làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty, giảm hiệu quả của hoạt động đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào phát triển thương hiệu. Việc giải quyết triệt để vấn đề này không chỉ trông chờ vào các cơ quan Nhà nước, ngay bản thân công ty cũng cần phải tích cực tham gia vào quá trình này. Công ty cần phải tiến hành phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bằng các biện pháp như tích cực thu thập thông tin để kịp thời thông báo với các cơ quan Nhà nước, thu thập các ý kiến phản hồi từ phía khách hàng về các trường hợp vi phạm bản quyền làm ảnh hưởng đến uy tín của công ty.
Chủ động kêu gọi hợp tác với các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.
Nếu dịch vụ du lịch chỉ dựa trên sự nỗ lực của bản thân một công ty thì sẽ không thể đạt được những kết quả như mong muốn, chất lượng sản phẩm dịch vụ cũng khó có thể được nâng cao, phạm vi hoạt động cũng khó mở rộng. Đứng trước thực tế này, công ty cần phải chủ động kêu gọi sự hợp tác với các doanh nghiệp cùng ngành để vừa có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển chung, lại vừa có thể nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đa dạng hóa sản phầm dịch vụ. Một biện pháp khác cũng cần phải được tiến hành đó là thường xuyên tham gia và tổ chức các cuộc hội thảo về vấn đề phát triển du lịch, vừa có cơ hội học hỏi kinh nghiệm của các công ty hoạt động trong cùng ngành, lại vừa có cơ hội tiến hành các hoạt động hợp tác kinh doanh.
Hoàn thiện cơ cấu quản lý hành chính, nhanh chóng áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế.
Áp dụng một hệ thống quản lý chất lượng quốc tế là một việc làm cần thiết đối với mọi doanh nghiệp hiện nay. Một hệ thống quản lý đạt tiêu chuẩn quốc tế sẽ góp phần tích cực vào việc tăng năng suất lao động trong toàn công ty, công ty sẽ có được một cơ chế kiểm soát hiện đại, kiểm tra được chất lượng của hoạt động đầu tư trong công ty, tăng cường hệ thống thông tin quản lý. Hơn thế nữa, khi áp dụng hệ thống này, công ty sẽ có thể nâng cao hình ảnh của mình đối với khách hàng, tạo cho khách hàng một ấn tượng về một nhà điều hành du lịch chuyên nghiệp và hiện đại, tạo được lòng tin đối với khách hàng.
Phối hợp với các cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp khác trong việc tiến hành quảng bá du lịch Việt Nam.
Hiện nay, du lịch Việt Nam bị đánh giá là phát triển rời rạc, không có sự thống nhất trong toàn ngành, các công ty du lịch thường chỉ chú trọng vào việc mở rộng hoạt động kinh doanh của mình mà không quan tâm đến môi trường du lịch của toàn ngành, không tạo ra được một tổng thể phát triển chung. Đây là điểm yếu của toàn ngành du lịch Việt Nam, vừa không tạo được sức mạnh tổng thể trong việc quảng bá hình ảnh du lịch trong nước, lại vừa tạo một ấn tượng không tốt đối với khách du lịch quốc tế. Điển hình là trong cuộc triển lãm du lịch Berlin (Đức) trong năm 2005 vừa qua, khách du lịch đã đánh giá không tốt về du lịch Việt Nam bởi trong khi các gian trưng bày của ngành du lịch các nước là một thể thống nhất, khách tham quan có thể dễ dàng tìm được một hình ảnh du lịch tổng thể thì riêng ở gian trưng bày của Việt Nam, các công ty lại tiến hành quảng bá cho riêng hình ảnh của mình của mình, làm cho khách tham quan không hình dung được nét du lịch đặc trưng của đất nước. Với mục tiêu phục vụ cho sự phát triển chung của toàn ngành, công ty nên chủ động hợp tác hơn nữa với các cơ quan chức năng và các công ty trong cùng ngành để cải thiện môi trường du lịch Việt Nam. Một khi môi trường du lịch được cải thiện, hình ảnh du lịch của Việt Nam được quảng bá rộng rãi thì cơ hội kinh doanh của công ty cũng sẽ được mở rộng.
2. Kiến nghị với cơ quan Nhà nước cấp trên:
Để kết quả đầu tư của Hanoi Toserco nói riêng và các công ty du lịch Việt Nam nói chung đạt được hiệu quả cao, các cơ quan chức năng cũng cần phải có những hành động tích cực trong giai đoạn hiện nay:
Có những định hướng rõ ràng và cụ thể cho sự phát triển toàn ngành trong thời gian tới làm cơ sở cho kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp.
Kế hoạch đầu tư của các doanh nghiệp lấy cơ sở từ các chiến lược, quy hoạch tổng thể của toàn ngành do Nhà nước ban hành, chính vì vậy, việc sớm xây dựng và công khai những chiến lược phát triển, kế hoạch đầu tư của Nhà nước sẽ giúp định hướng cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp du lịch, để doanh nghiệp sớm có những kế hoạch đầu tư tận dụng được tối đa yếu tố thời cơ để phát triển.
Sớm ban hành hệ thống văn bản pháp luật một cách đồng bộ và thống nhất làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay, các văn bản pháp luật nói chung và văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động du lịch nói riêng vẫn chưa được ban hành và phổ biến một cách rộng rãi, đầy đủ, doanh nghiệp có uy tín trên thị trường vẫn chưa có được một hành lang pháp lý để bảo vệ cho hoạt động kinh doanh của mình trước sự phát triển ồ ạt của các công ty tư nhân tự phát, vì thế việc mở rộng hoạt động kinh doanh và tiến hành các hoạt động đầu tư còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Để đưa ngành du lịch Việt Nam tiến kịp với các nước trong khu vực thì việc cho ban hành và thực thi các chính sách, pháp luật là rất cấp thiết.
Thực hiện những biện pháp giám sát việc thi hành các văn bản pháp luật đã ban hành, có những biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm.
Đi đôi với việc ban hành hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động chung của toàn ngành du lịch, Nhà nước cũng cần phải đưa ra những biện pháp cứng rắn để đảm bảo việc thực thi một cách nghiêm túc, tạo được niềm tin cho doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ yên tâm thực hiện các hoạt động đầu tư. Hiện nay, cho dù đã có nhiều điều luật nghiêm cấm việc sử dụng thương hiệu của các công ty có uy tín trên thị trường một cách bất hợp pháp, nhưng tình trạng này vẫn diễn ra phổ biến trong một thời gian dài, không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp mà cón ảnh hưởng đến hình ảnh du lịch Việt Nam, hiệu quả của hoạt động đầu tư của doanh nghiệp vào quảng bá thương hiệu giảm đáng kể, gây mất lòng tin của doanh nghiệp.
Cải cách việc tiến hành các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục này.
Trong ngành du lịch, thời cơ là một yếu tố rất quan trọng tạo nên sự thành công cho hoạt động đầu tư. Thế nhưng, hiện nay, việc thực hiện đầu tư của doanh nghiệp thường bị kéo dài do những thủ tục hành chính rườm rà, không những bỏ lỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp mà còn khiến cho nguồn vốn của doanh nghiệp bị tồn đọng làm tăng chi phí của hoạt động đầu tư. Hanoi Toserco đã có một hoạt động liên doanh với khách sạn Hilton Opera, song, việc tiến hành hoạt động đầu tư của liên doanh này bị kéo dài do không hoàn thiện được những thủ tục hành chính, khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài nản lòng và giảm quy mô đầu tư. Một việc làm cấp thiết hiện nay đó là cần phải cải cách những thủ tục hành chính để hoạt động đầu tư của doanh nghiệp có thể diễn ra theo đúng tiến độ, tận dụng được cơ hội kinh doanh và mang lại hiệu quả cao.
Thi hành các chính sách ưu đãi đối với hoạt động đầu tư trong lĩnh vực du lịch để du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn cho sự phát triển của đất nước.
Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “xây dựng du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”, nhưng các cơ quan Nhà nước lại không ban hành một chính sách ưu đãi cụ thể nào, không tạo được một môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp du lịch, làm cho tốc độ đầu tư trong ngành không đạt được như mong muốn, chi phí đầu tư cao đã hạn chế nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp du lịch. Để mục tiêu trở thành hiện thực, các cơ quan Nhà nước cần nhanh chóng đưa ra những ưu đãi hợp lý tạo đà cho sự phát triển của toàn ngành nói chung và của công ty du lịch nói riêng.
Đẩy nhanh quá trình cải tạo cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường du lịch trong cả nước.
Như đã phân tích ở trên, hoạt động du lịch không chỉ dựa vào những điều kiện sẵn có về tự nhiên, lịch sử mà còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải. Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh du lịch nói chung và hoạt động của các công ty du lịch nói riêng. Bên cạnh đó, những vấn đề còn tồn tại lâu nay của du lịch Việt Nam cũng cần phải được giải quyết một cách triệt để để tạo một hình ảnh đẹp cho ngành du lịch như nạn ăn xin đeo bám khách du lịch, bảo đảm an ninh cho khách trong quá trình tham quan, tìm hiểu….
Phối hợp với các doanh nghiệp trong việc tiến hành quảng bá thương hiệu du lịch Việt Nam.
Nhà nước cần giữ vai trò đầu tầu trong quá trình quảng bá du lịch ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên, để tạo được hiệu quả cao nhất, Nhà nước cần tập trung phối hợp hành động để tạo ra một hiệu quả thống nhất trong việc phát triển chung của toàn ngành du lịch. Hiện nay, Nhà nước vẫn đơn độc trong quá trình tiếp thị du lịch Việt Nam, vừa tạo ra gánh nặng cho ngân sách Nhà nước lại vừa không phát huy được nguồn lực của toàn ngành du lịch, hơn nữa lại không mang lại được hiệu quả cao. Trong quá trình này, Nhà nước cần kêu gọi sự trợ giúp trong toàn ngành, có như vậy mới có thể tạo được sự thống nhất và mang lại hiệu quả tối ưu.
Trên đây là những giải pháp đưa ra khi nghiên cứu hoạt động đầu tư tại công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên du lịch dịch vụ Hà Nội, cũng như những kiến nghị với cơ quan quản lý trực tiếp và các cơ quan quản lý nhà nước nhằm mang lại được hiệu quả cao nhất cho hoạt động đầu tư của công ty.
KẾT LUẬN
Chuyên đề thực tập với đề tài “Đầu tư với việc phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch của công ty Hanoi Toserco giai đoạn 2000-2005” đã nêu lên những vấn đề chung nhất về đầu tư trong một doanh nghiệp cụ thểhoạt động trong lĩnh vực du lịch, đồng thời nêu lên những thành công cũng như những hạn chế còn tồn tại trong quá trình đầu tư. Dựa trên những hạn chế đó, chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp cũng như những kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước để từ đó hiệu quả của hoạt động đầu tư của doanh nghiệp được nâng cao, góp phần tích cực hơn nữa vào quá trình phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi từ khi bắt đầu thực tập đến khi lựa chọn và thực hiện đề tài. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ nhiệt tình của cô Nguyễn Phương Mai-Phó giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên du lịch dịch vụ Hà Nội, và các anh chị trong trung tâm du lịch trong suốt thời gian thực tập, giúp đỡ tôi hoàn thiện đề tài.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế Đầu tư-PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai-NXB Giáo dục 1995
2. Giáo trình Kinh tế Đầu tư-TS Từ Quang Phương-NXB Thống kê 2005.
3. Niên giám thống kê 2005.
4. Niên giám thống kê Hà Nội 2005.
5. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh du lịch Công ty Hà Nội Toserco 2005.
6. Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hà Nội 2002-2010.
7. Kế hoạch phát triển du lịch 2006-2010 của Công ty Hanoi Toserco.
8. Trang Web công ty du lịch Hà Nội Toserco:
9. Trang Web du lịch Việt Nam:
10. Trang Web báo điện tử
11. Trang Web Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
12. Trang Web Bộ Tài chính
13. Báo điện tử Việt Nam net:
14. Báo Kinh tế và Đô thị số ra ngày 21/3/2006
15. Báo Lao động số 34 ngày 04/02/2006
16. Trang Web Báo Giáo dục và Thời đại:
17. Trang Web Thông tin Du lịch Việt Nam:
18. Trang Web Tổng công ty du lịch Sài Gòn:
19. Trang Web Tổng cục Du lịch Việt Nam: http:// www.vietnamtourism.gov.vn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương I: Đầu tư và hoạt động kinh doanh du lịch đối với sự nghiệp
phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2000-2010 2
A. Đầu tư và hoạt động kinh doanh du lịch 2
I. Đầu tư với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia 2
1. Đầu tư là gì? 2
2. Vai trò của đầu tư đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc gia 2
II. Kinh doanh du lịch với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước 4
1. Du lịch-Ngành mang lại nguồn thu ngân sách lớn 4
2.Du lịch-Ngành kinh tế trợ giúp đắc lực cho quá trình giải quyết
việc làm 5
3. Du lịch-Ngành kinh tế góp phần thúc đẩy các ngành sản xuất và
dịch vụ trong nước phát triển 6
III. Đầu tư với sự phát triển ngành du lịch 7
1. Vai trò của đầu tư với sự phát triển ngành du lịch 7
2. Đặc điểm hoạt động đầu tư trong lĩnh vực du lịch 8
B. Thực trạng đầu tư vào hoạt động kinh doanh du lịch dịch vụ Việt Nam
giai đoạn 2000-2005 12
I. Tình hình phát triển ngành du lịch Việt Nam 12
1. Tiềm năng du lịch Việt Nam 12
2. Tình hình phát triển ngành du lịch của nước ta 12
II. Thực trạng hoạt động đầu tư của công ty Hanoi Toserco 16
1. Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch 16
2. Các nhân tố tác động đến đầu tư của doanh nghiệp du lịch 18
2.1.Các nhân tố khách quan 18
2.2. Các nhân tố chủ quan 20
3. Trọng tâm hoạt động của Hanoi Toserco trong những năm gần đây 21
4. Thực trạng hoạt động đầu tư của Hanoi Toserco trong giai đoạn
2000-2005 23
4.1. Vốn và nguồn vốn đầu tư 23
4.2. Nội dung hoạt động đầu tư của Hanoi Toserco giai đoạn
2000-2005 25
4.3. Những thành tựu đã đạt được trong quá trình đầu tư của
Hanoi Toserco 30
4.4. Những hạn chế còn tồn tại 34
Chương II: Một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn,hạn
chế, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Hanoi Toserco
đến năm 2010 39
I. Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới 39
1.Phương hướng phát triển của công ty trong giai đoạn 2006-2010 39
1.1.Mục tiêu hoạt động của Hanoi Toserco trong giai đoạn
2006-2010 39
1.2.Phương hướng hoạt động của công ty 39
1.3. Kế hoạch đầu tư của công ty thời gian tới 40
2. Những cơ hội và thách thức đối với hoạt động đầu tư của công ty
trong giai đoạn sắp tới 43
2.1.Cơ hội 43
2.2. Thách thức 44
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại công ty
Hanoi Toserco giai đoạn 2006-2010 45
1. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp 45
2. Kiến nghị với cơ quan Nhà nước cấp trên 50
KẾT LUẬN 54
Danh mục tài liệu tham khảo 55
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0085.doc