15 năm đổi mới (1986 – 2000) đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn giá trị, nhất là những bài học chủ yếu sau đây:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới đúng đắn, phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được, giữ vững độc lập dân tộc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, đổi mới phải dựa vào dân, vì lợi ích của dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Có những điều chỉnh, bổ sung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp, biện pháp; tìm và lựa chọn những giải pháp mới, linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục trì trệ, làm chuyển biến tình hình.
28 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 950 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
goài nước, và đầu tư, vận hành một cách có hiệu quả.
Điều đáng chú ý là ta phải đạt được tăng trưởng kinh tế trong khi phải bảo vệ môi trường và sinh thái vì môi trường ở Việt Nam đang trong tình trạng bị tổn hại đáng kể.
Về mặt quan điểm, cần cụ thể hoá quan điểm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò của các doanh nghiệp quốc doanh.
Chính sách đối với hợp tác quốc tế cần cụ thể hoá cho từng đối tượng, trên từng lĩnh vực theo tình hình diễn biến rất năng động hiện nay.
- Những quan điểm về tăng trưởng cần được cụ thể hoá cho từng giai đoạn khác nhau:
+ Quan hệ giữa tập trung vào những ngành và vùng trọng điểm, yêu cầu đồng thời phát triển các vùng trong cả nước, nhất là vùng miền núi và dân tộc ít người trong giai đoạn trước mắt nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao và thu tiền vốn nhanh.
+ Quan hệ giữa phát triển công nghệ tiên tiến và các công nghệ trung gian đòi hỏi có những tiếp cận mới về lý luận.
+ Quan hệ giữa vốn bên trong và vốn bên ngoài, các yếu tố trong nước và yếu tố ngoài nước.
- Vấn đề nâng cao kỹ năng, trình độ đào tạo và huấn luyện người lao động, nâng cao kỷ luật người lao động kèm chính sách tạo động lực phát huy cao độ trí sáng tạo, sự cần cù của người lao động nói chung và của tầng lớp ưu tú trong xã hội nói riêng.
Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, thực hiện những chức năng, nhiệm vụ phù hợp với nền kinh tế thị trường, diệt trừ tham nhũng buôn lậu, khắc phục tệ quan liêu trì trệ, bộ máy quá cồng kềnh, kém hiệu năng. Xây dựng cơ chế dân chủ tuyển lựa đội ngũ ưu tú quản lý nhà nước.
Chúng ta tin rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc
Việt Nam sẽ tìm được lời giải đúng đắn cho vấn đề đó.
IV/ Giai đoạn phát triển mới đẩy mạnh
công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Những thành tựu của 10 năm đổi mới, đặc biệt là kết quả thực hiện vượt mức những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991-1995 đã đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng và tạo được những tiền đề cho phép chuyển sang giai đoạn mới của sự phát triển đất nước.
Chặng đường phía trước còn phải vượt qua thách thức và khó khăn gay gắt:
- Nền kinh tế còn nhiều mặt yếu kém: Đất nước chưa ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở vật chất, kỹ thuật thấp kém, trình độ công nghệ lạc hậu.
- Nền kinh tê tăng trưởng khá nhưng chưa bảo đảm. Kinh tế thị trường đang ở trình độ sơ khai, chưa phát triển đồng bộ, thiếu kỷ cương.
- Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề gay gắt, nhiều tệ nạn xã hội, số người không có và thiếu việc làm còn đông.
- Tình trạng quan liêu tham nhũng cùng sự lỏng lẻo về kỷ luật trong bộ máy nhà nước là trở lực lớn đối với công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo đường lối đổi mới là con đường tất yếu để đưa đất nước vượt qua khó khăn và thách thức.
Muốn thoát khỏi nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế và công nghệ kéo theo nhiều nguy cơ khác, đất nước ta phải phát huy được khả năng và cơ hội mới để phát triển với nhịp độ cao hơn, bền vững và có hiệu quả hơn. Điều đó chỉ thực hiện thông qua quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đó chính là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm cải biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
1) Vị trí mục tiêu và định hướng công nghiệp hoá không thay đổi
Đường lối công nghiệp hoá trước đây và hiện nay về cơ bản là nhất quán trong việc xác định vị trí, mục tiêu và định hướng.
Chúng ta luôn khẳng định vị trí trung tâm của công nghiệp hoá trong suốt một thời kỳ lịch sử, nhằm tạo ra một nền tảng kinh tế cho CNXH phát triển trên cơ sở đích thực của nó.
Mục tiêu của công nghiệp hoá là cải biến nước ta từ tình trạng nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp có lực lượng sản xuất phát triển với năng suất lao động cao, theo kịp trình độ tương đối hiện đại, có quan hệ sản xuất phù hợp, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh quốc gia.
Đường lối công nghiệp hoá trước đây cũng như hiện nay đều kiên trì định hướng xây dựng CNXH.
2) Nhưng khác về phương hướng chiến lược
Công nghiệp hoá theo kiểu cũ hướng vào mục tiêu chính là nâng cao khả năng tự đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và đời sống trong nước theo xu hướng kinh tế đóng, khép kín, tự cấp tự túc.
Công nghiệp hoá theo đường lối đổi mới hướng vào xây dựng hệ thống kinh tế mở trên cơ sở giao lưu thông suốt trên thị trường trong nước và hội nhập với kinh tế thế giới.
Hướng mạnh về xuất khẩu là chiến lược đưa tới thành công của những nước công nghiệp mới. Hướng mạnh về xuất khẩu, về thực chất là đặt sản phẩm trong nước (kể cả hàng hoá và dịch vụ) trong quan hệ so sánh với sản phẩm của nước ngoài, buộc sản phẩm trong nước phải có sức cạnh tranh không chỉ trên thị trường quốc tế mà cả trên thị trường trong nước. Hướng về xuất khẩu không có nghĩa là coi nhẹ thị trường nội địa. Hướng về xuất khẩu không loại trừ việc thay thế nhập khẩu: lựa chọn những mặt hàng sản xuất trong nước có hiệu quả, có sức cạnh tranh với hàng nước ngoài.
Chiến lược kinh tế đóng hay mở thể hiện trực tiếp ở chính sách bảo hộ sản xuất nội địa một mặt áp dụng chính sách bảo hộ có chọn lọc, có mức độ giảm dần nhằm giảm nhẹ sức ép cạnh tranh của hàng ngoại trong thời gian cần thiết, mặt khác thúc đẩy sản xuất trong nước không ngừng vươn lên, nâng cao sức cạnh tranh cả trên thị ngoài nước và trong nước.
Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước là vấn đề sống còn và là cách bảo hộ tích cực và có hiệu quả nhất.
3) Khác về yêu cầu công nghệ
Trong nội dung công nghiệp hoá được đại hội lần thứ III của Đảng năm 1960 đề ra, “vấn đề quan trọng có tính chất quyết định là thực hiện việc thiết bị kỹ thuật và cải tạo kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện cơ giới hoá các ngành sản xuất, xây dựng và vận tải”. Đại hội lần IV của Đảng năm 1976 tiếp tục khẳng định cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt: “Trong cách mạng khoa học kỹ thuật, cần nắm vững khâu trung tâm là cơ khí hoá, kết hợp tốt cơ khí, nửa cơ khí với thủ công”.
Chúng ta là nước đi sau, không nhất phải tuần tự theo các bước mà các nước công nghiệp đã trải qua. Con đường của chúng ta là kết hợp đồng thời nhiều trình độ công nghệ, vừa có quá trình đi từ thủ công nghệ hiện đại và có những mũi nhọn đi tắt đón đầu theo điều kiện cho phép. Công nghệ hiện đại ngoài phần thiết bị kỹ thuật còn có những giải pháp ứng dụng khoa học không gắn với cơ giới như một số giải pháp của công nghệ sinh học.
Trước đây chỉ nói tới công nghệ trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng, vận tải; ngày naycần phải chú ý cả công nghệ quản lý ở tầm vĩ mô và vi mô, coi đây là một nhân tố rất quan trọng, nhiều khi có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả các đơn vị sản xuất, kinh doanh và toàn bộ nền kinh tế.
Đối với nước ta chính sách công nghệ như thế nào là thích hợp và có hiệu quả nhất? Lời giải cho giai đoạn trước mắt là phải kết hợp nhiều trình độ công nghệ khác nhau, chú trọng loại công nghệ tạo nhiều việc làm, tốn ít vốn. Trong nền kinh tế hình thành cơ cấu công nghệ nhiều tầng, vừa có công nghệ thủ công với tay nghề tinh xảo, vừa từng bước mở rộng việc sử dụng máy móc thay sức lao động cơ bắp, vừa đi vào công nghệ tiến tiến hiện đại trong những lĩnh vực có điều kiện, nhất là trong những ngành nghề mới. Sự đan xen nhiều trình độ công nghệ cũng mang tính phổ biến.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta thì làm thế nào để có được công nghệ tiên tiến, hiện đại, tạo được nhiều việc làm lại tốn ít vốn? Điều quan trọng là cần tăng nhanh năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, phát huy trí sáng tạo của nhân dân trên cơ sở nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, vừa phát triển trong nước và phát huy tiềm năng trí tuệ của người Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, một hướng quan trọng để tranh thủ công nghệ hiện đại là thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài dưới nhiều hình thức, đặc biệt là hình thức liên doanh vì các doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư là nơi chuyển giao kỹ thuật mới và bí quyết công nghệ. Việc vay vốn nước ngoài để tự đầu tư đổi mới công nghệ cũng là một biện pháp tiếp nhận công nghệ mới song phải cân nhắc kỹ việc lựa chọn công nghệ, tính toán chặt chẽ hiệu quả và khả năng hoàn vốn, xác định rõ trách nhiệm trả nợ.
4) Khác về nguồn lực đầu tư phát triển:
Công nghiệp hoá trước đây hầu như hoàn toàn dựa vào nguồn vốn bên ngoài và do nhà nước đầu tư
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo yêu cầu của giai đoạn mới cần có nguồn vốn nhiều gấp bội trước. Chúng ta cần tận dụng mọi khả năng và cơ hội tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài, coi đó là một nguồn quan trọng, nhất là trong giai đoạn đầu phát triển, song phải khẳng định nguồn vốn trong nước là quyết định và đang còn nhiều tiềm năng chưa được phát huy.
- Vốn bên ngoài: trước đây hầu hết là từ Liên Xô cũ và đều thông qua hiệp định Chính phủ, tập trung toàn bộ vào ngân sách. Nay việc thu hút nguồn vốn nước ngoài vừa đa phương hoá, vừa đa dạng hoá.
- Nguồn tài trợ chính thức qua kênh chính phủ (ODA) có phần song phương (với từng nước), phần đa phương (với các tổ chức tài chính quốc tế). Đây là nguồn vốn rất quan trọng đối với việc xây dựng kết cấu hạ tầng của nước ta, nhưng thời gian tranh thủ không thể kéo dài vì chủ yếu là vốn dành cho nước nghèo kém phát triển. Những năm trước mắt là thời gian thuận lợi nhất để khai thác nguồn vốn này.
Nguồn vốn lớn hơn từ bên ngoài được thu hút qua hình thức đầu tư trực tiếp của các công ty nước ngoài (FDI), dưới các dạng hợp tác kinh doanh nước ngoài đầu tư 100% vốn và phổ biến nhất là hình thức liên doanh. Nguồn vốn này với sự chuyển dịch hai chiều (từ nước ngoài vào nước ta, chủ yếu từ nước ta ra nước ngoài) có ý nghĩa quan trọng lâu dài, phù hợp với xu thế tự do, đầu tư gắn với tự do hoá thương mại.
Từ khi có luật đầu tư nước ngoài (cuối năm 1987) đến hết năm 1995, số dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép đạt xấp xỉ 19 tỷ USD vốn đăng ký. Dự tính trong 5 năm 1996-2000, đưa vào thực hiện khoảng 13-15 tỷ USD vốn FDI, chiếm khoảng 31% tổng số vốn đầu tư trong nền kinh tế. Chúng ta phải tích cực cải thiện môi trường đầu tư, trước hết là hoàn chỉnh luật pháp, đơn giản hoá thủ tục và bảo đảm thực hiện nghiêm minh, thống nhất, khắc phục tệ cửa quyền, sách liêu làm nản lòng các nhà đầu tư.
Ngoài hình thức đầu tư trực tiếp đã xuất hiện một số trường hợp công ty tài chính nước ngoài đầu tư vào các doanh nghiệp dưới hình thức góp cổ phần, cùng chịu rủi ro nhưng không tham gia quản lý.
Muốn tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả vốn bên ngoài cần có nguồn lực đối ứng trong nước. Thông thường khoảng một nửa vốn bên ngoài là thiết bị, công nghệ và vật tư nhập khẩu, phần còn lại là tiền công, tiền đền bù giải phóng mặt bằng, tiền xây dựng. Vậy cần phải giải phóng và phát huy các nguồn lực trong nước, đặc biệt là nguồn lực của các doanh nghiệp và nhân dân. Việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần đã làm tăng tích luỹ đầu tư phát triển trong nước.
Trong thời gian tới, khả năng tăng đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước từ nguồn tích luỹ bên trong khó có thể vượt qua nhịp độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ huy động thuế. Nên hướng chủ yếu và đang còn nhiều tiềm năng lớn để tăng nhanh nguồn vốn tích luỹ đầu tư trong nước là ở sự phát triển của các doanh nghiệp và kinh tế hộ gia đình.
Một là: Phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trên cơ sở nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội, mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác trên cơ sở tự nguyện theo luật hợp tác xã. Đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp và áp dụng các chính sách đủ mạnh để tạo tâm lý yên tâm, mạnh dạn đầu tư xã hội, hướng mạnh vào đầu tư phát triển sản xuất, không dồn vào thương nghiệp, dịch vụ, kinh doanh bất động sản như thời gian vừa qua. Xúc tiến thống nhất từng bước chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đồng thời cần tạo môi trường hợp tác cạnh tranh bình đẳng giữa các đơn vị thuộc các thành phần kinh tế.
Hai là: Mở rộng nhiều hình thức thu hút vốn, phát triển thị trường vốn trung hạn và dài hạn, đa dạng hoá và mở rộng các hình thức bảo hiểm, tích cực xúc tiến cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy việc thành lập các công ty cổ phần mới, phát hành trái phiếu, tạo điều kiện thiết lập đúng lúc thị trường chứng khoán.
Ba là: Tiến hành xã hội hoá rộng rãi nhiều loại hình dịch vụ công cộng lâu nay dựa toàn bộ hoặc phần lớn vào nhà nước. Trong nội dung xã hội hoá, có những vụ trước đây chỉ có nhà nước làm, nay mở ra cho dân làm, hoặc dân và nhà nước cùng làm, và đối với các dịch vụ do nhà nước làm thì dân có phần đóng góp đúng mức.
Bốn là: Huy động sức dân để xây dựng kết cấu hạ tầng ngay tại từng địa phương (như đường xá, hệ thống đIện nước, cơ sở giáo dục, y tế, sân vận động) và xây dựng các công trình lớn của quốc gia, trước hết là công trình giao thông thuỷ lợi.
Khác về cơ chế quản lý Nhà nước:
Ngày nay, công nghiệp hoá được tiến hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước:
- Đảm bảo đầy đủ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, quyền tự chủ của các chủ thể kinh doanh, kể cả các doanh nghiệp nhà nước.
- Hình thành đầy đủ các yếu tố của thị trường tạo cơ sở cho các quan hệ kinh tế diễn ra theo quy luật của thị trường.
- Tạo môi trường cạnh tranh hợp pháp bình đẳng, hạn chế độc quyền kinh doanh.
Đối với kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước là không thể thiếu trong các chức năng sau:
- Tạo môi trường và hành lang ổn định, an toàn cho hoạt động kinh tế (môi trường hoà bình, chính trị xã hội, môi trường pháp chế, môi trường kinh tế vĩ mô).
- Tạo điều kiện hướng dẫn và giúp đỡ mọi nỗ lực phát triển.
- Sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước, quản lý tốt vốn và tài sản công.
Chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò quản lý của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế nói riêng rất nặng nề và phức tạp. Nhận thức đúng chức năng đích thực của nhà nước để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, cải cách nền hành chính nhà nước nhằm thành lập trật tự kỷ cương trong kinh tế mà không hạn chế tính chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp và các địa vị kinh tế trong môi trường cạnh tranh, hợp tác của kinh tế thị trường.
* Mục tiêu đến năm 2000 & các chương trình kinh tế - xã hội
Nguồn lực con người - yếu tố quyết định việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh.
1/ Nguồn lực con người
Coi nguồn lực con người (nguồn nhân lực hoặc vốn người) là yếu tố cơ bản để công nghiệp hoá, hiện đại hoá-đó là một trong các quan đIểm cơ bản để phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời kỳ mới.
Phát triển dân số và lực lượng lao động:
Lao động nhà nước chiếm khoảng 2/3 tổng số lao động toàn quốc, lao động trong nhà nước (công nghiệp, giáo dục, y tế, hành chính) chiếm khoảng 1/3 tổng số lao động toàn quốc.
Tỷ trọng các ngành kinh tế trong tổng sản phẩm các ngành trong nước: nông nghiệp là 28,7%; các ngành khác là 71,3%.
Một nhận xét chung là, cơ cấu lao động chuyển dịch rất chậm. Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp trong tổng số lao động toàn quốc từ 1990-1991 chưa có gì phát triển đáng kể.
Một hướng chuyển dịch ngày càng nhiều nẻt là lao động chuyển từ khu vực quốc doanh sang khu vực không quốc doanh; nhiều người có trình độ chuyển từ các cơ quan khoa học sang các cơ sở kinh doanh dịch vụ; “chất xám” đang hướng nhiều vào các cơ sở kinh tế của mọi người, liên doanh và có cả hướng ra nước ngoài. Đây là một vấn đề đáng để các nhà hoạch định chính sách và quản lý quan tâm và giải quyết kịp thời.
Việc chuyển dịch cơ cấu lao động dần sang công nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng là một chỉ số công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Vấn đề việc làm
Hiện nay vấn đề việc làm vẫn là một gay cấn lớn. Dự định trong 5 năm 1996-2000, mỗi năm tăng thêm khoảng 1 triệu chỗ làm mới. Đây là một nội dung mới trong chương trình phát triển nguồn nhân lực, vừa phục vụ phát triển sản xuất, vừa tạo cơ hội để giải quyết vấn đề công bằng xã hội và có ý nghĩa đáng kể đối với sự phát triển người, phát triển và ổn định xã hội, giảm các tệ nạn xã hội.
Trình độ và cơ cấu đào tạo của đội ngũ lao động
Hiện nay mới có 12% tổng số người lao động đã qua đào tạo với cơ cấu trình độ học vấn như sau: trên đại học là 0,3%; đại học và cao đẳng là 20,1%; trung học chuyên nghiệp là 35,8%; công nhân kỹ thuật là 43,8%.
Đây là một vấn đề lớn trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, một nhiệm vụ lớn đặt ra với các cơ sỏ đào tạo trong cả nước.
Số lượng công nhân gần bằng số lượng cán bộ kỹ thuật là một tỷ lệ rất bất hợp lý. Vấn đề lớn đặt ra là phải sớm tính toán cơ cấu trình độ đào tạo của đội ngũ cán bộ kỹ thuật.
Một thành tựu lớn của nền giáo dục nhân dân là trong 50 năm qua đã đào tạo được khoảng 800.000 cán bộ các ngành khoa học kỹ thuật có trình độ đại học. Cũng phải xem xét lại cơ cấu ngành trong cơ cấu đào tạo làm sao đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Để phát triển kinh tế cần phải có một cơ cấu đội ngũ lao động kỹ thuật tương đối hợp lý. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) của liên hợp quốc, cơ cấu này ít nhất bao gồm 6 loại: (1) các nhà phát minh và đổi mới công nghiệp, (2) các nhà quản lý, (3) các nhà kỹ thuật và công nghệ, (4) công nhân lành nghề, (5) công nhân không lành nghề, (6) lao đông giản đơn.
2/ Thị trường lao động
Việc chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường kéo theo sự hình thành ngày càng nét thị trường lao động.
Khi xem xét các hoạt động của con người, phải đặt nó vào hoạt dộng của quy luật giá trị - giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, giá trị thặng dư - gắn liền với hệ thống giá trị chuẩn mực, thang giá trị, thước đo giá trị và định hướng giá trị xã hội của thời đổi mới, tức là theo phương pháp tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách.
Mọi nơi, mọi ngời lao động cần có thông tin về nguồn lực con người, cần tổ chức, phân bổ lao động. Cả nước và từng địa phương phải tính toán quan hệ cung cầu lao động, phải có kế hoạch về nguồn lực con người.
Việc đào tạo mới, đào tạo lại và sử dụng nguồn lực con người nói riêng, thị trường lao động nói chung, luôn luôn phải tính đến cấu trúc của lao động, tính chất và nội dung của lao động, điện nghề, chuyển đổi nghề.
Tuyển chọn và sử dụng lao động là một khâu cốt yếu của thị trường lao động. Thị trường lao động phải theo quan đIểm phát triển người bền vững, va tổng quát hơn là phát triển xã hội bền vững và quan tâm đến năng suất và hiệu quả lao động, nang cao tay nghề, phát triển kĩ năng nghề nghiệp, bảo vệ và xây dựng môi trường sống cho toàn cầu, có môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường văn hóa, môi trường giáo dục
3/ Phát triển nguồn nhân lực.
3.1 Nội dung phát triển nguồn nhân lực thường tập trung vào việc chuyển dịch cơ cấu, phân công lao động, giải quyết việc làm, phân bổ nguồn nhân lực, đào tạo lại, đào tạo mới, chính sách công nghệ, quản lý vĩ mô.
Hiện nay đang có nhu cầu lớn về đào tạo lại công nhân và cán bộ kỹ thuật. Phải có chương trình đào tạo lại lực lượng lao động ở tất cả các ngành và phải mau chóng tổ chức lại để sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ kỹ thuật, các viện nghiên cứu khoa học, các trường đại học, cao đẳng theo hướng “kết hợp đào tạo với nghiên cứu”.
Trình độ dân trí có ảnh hưởng đáng kể đến trình độ nghề nghiệp và năng suất lao động. Muốn có được nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của thời kỳ phát triển mới của đất nước, yêu cầu cấp bách đặt ra là phải có định hướng chiến lược phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và giải quyết các nhiệm vụ cấp bách đang đặt ra là chấn chỉnh, sắp xếp, củng cố, phát triển và nâng cao.
3.2 Tổ chức quản lý vĩ mô nguồn nhân lực là một vấn đề cấp bách hiện nay. Cần mau chóng có một cơ quan nghiên cứu con người và nguồn lực con người.
Chính sách lao động, chính sách tiền lương, khen thưởng làm cơ sở cho việc thực hiện nguyên tắc lợi ích là một động lực quan trọng bậc nhất trong quá trình động viên lực lượng lao động đi vào công cuộc phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị
Đi đôi với việc đổi mới vấn đề kinh tế, Đảng và nhà nước ta cũng quan tâm sâu sắc đổi mới trong lĩnh vực chính trị.
1/ Hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta:
cấu trúc - chức năng và đặc điểm của nó.
- Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, hệ thống chính trị có chức năng cơ bản của mình là thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng XHCN, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, từng bước hình thành và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, mà nội hàm cơ bản của nó: toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đặc điểm hệ thống chính trị ở nước ta:
+ Hệ thống chính trị lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng.
+ Nhất nguyên về chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo chính trị duy nhất của Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay được tổ chức và vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
+ Hệ thống chính trị của thời ký quá độ ở nước ta, bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi của nó.
2/ Những thành tựu trong đổi mới hệ thống chính trị và tác động của chúng đối với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong lĩnh vực đổi mới hệ thống chính trị, Đảng ta đã từng bước bổ sung và cụ thể hoá thành các chủ trương đổi mới trên từng lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Đường lối đổi mới ngày càng được hoàn thiện, con đường đi lên CNXH ngày càng rõ hơn. Đảng đã khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của mình.
Những thành tựu tác động trong đổi mới hệ thống chính trị và của chúng đối với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân
Trong lĩnh vực đổi mới hệ thống chính trị, thành tựu nổi bật là: trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được đại hội VII thông qua, Đảng ta đã từng bước bổ sung và cụ thể hoá thành các chủ chương đổi mới trên những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực lập pháp: chúng ta đã ban hành hiến pháp năm 1992 -hiến pháp thể chế hoá đường lối đổi mới của Đảng. Chúng ta cũng đã tiến hành cải cách một bước nền hành chính quốc gia, tiếp tục xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội đã từng bước đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động. Khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức được củng cố vững mạnh, làm cho nó thực sự là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân.
Bên cạnh những thành quả đó, còn có những yếu kém của hệ thống chính trị:
Tuy giữ vững được bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của mình, nhưng đảng ta vẫn chưa được chuẩn bị đầy đủ cho bước chuyển căn bản trên những lĩnh vực kinh tế và mở rộng đối ngoại.
Tuy trong hoạt động lập pháp và lập quy ngày càng được dân chủ hoá và khoa học hoa hơn; việc điều hành của chính phủ ngày càng có hiệu quả cao, nhưng, nhìn chung, bộ máy nhà nước còn có nhiều bất cập trước yêu cầu của giai đoạn mới.
Phương thức tổ chức, phong cách hoạt động của nhiều tổ chức trong Mặt trrạn Tổ quốc Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tình trạng quan liêu, cán bộ của nhiều đoàn thể chính trị xã hội vẫn trong tình trạng “viên chức hoá”.
Nạn tham nhũng trong hệ thống chính trị còn rất nặng nề.
Những yếu kém trên đây của hệ thống chính trị đã có tác động tiêu cực tới quá trình phát triển kinh tế-xã hội, tới việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân; có ảnh hưởng tiêu cực tới việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Mặt khác, trên lĩnh vực kinh tế, những yếu kém của hệ thống chính trị đã dẫn tới tình trạng chậm tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế phát triển.
Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm khắc phục những yếu kém trên đây đã trở thành đòi hỏi bức thiết để góp phần tích cực nhất vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công băng văn minh” theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị,
phát huy quyền lực của nhân dân.
Việc đổi mới hệ thống chính trị phải hướng vào mục tiêu chủ yếu là “thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân”
Trên lĩnh vực chính trị, để đảm bảo quyền lực của nhân dân, đòi hỏi phải giữ vững sự lãnh đạo duy nhất của Đảng ta. Sự lãnh đạo của Đảng cần được thực hiện bằng những phương pháp vốn có của một đảng Mác-Lênin. Muốn giữ vững được vai trò lãnh đạo chính trị, khâu then chốt là Đảng phải tăng cường bản chất giai cấp công nhân của mình, củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Quyền làm chủ củ nhân dân trên lĩnh vực chính trị còn đòi hỏi Nhà nước của chúng ta phải được xây dựng theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vita Nam – nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước và mở rộng quyền lực của nhân dân trong giai đoạn hiện nay cũng đòi hỏi phải xem cải cách một bước nền hành chính quốc gia là một nhiệm vụ trọng điểm.
Để đảm bảo quyền lực của nhân dân trên lĩnh vực kinh tế, một mặt cần giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, mặt khác cần tăng cường sự quản lý của Nhà nưởc trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điểm bao trùm trong hệ thống quyền lực của nhân dân trên lĩnh vực xã hội là đảm bảo công bằng xã hội. Thích ứng với nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay, chúng ta phải “thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đI đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động”.
Để đảm bảo quyền lực của nhân dân trên lĩnh vực tư tưởng - tinh thần, trong giới hạn của chế độ nhất nguyên về chính trị, cần mở rộng sự đa dạng hoá ý kiến phù hợp với pháp luật.
Để phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong việc bảo đảm quyền lực của nhân dân ở giai đoạn hiện nay, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội khác của nhân dân cũng cần được đổi mới theo. Mặt khác cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, làm cho nó thực sự là nền tảng của Mặt trận.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới hệ thống chính trị với đổi mới hệ thống kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay
ở nước ta, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm “xây dựng nước ta thành một nuớc công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Luận điểm về vai trò ưu tiên của chính trị so với kinh tế khi vận dụng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần được hiểu như sau:
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải góp phần duy trì và củng cố quyền lực chính trị của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nói cách khác, phải bảo đảm tính định hướng của chính trị trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong điều kiện nước ta, giữ vững quan điểm chi phối của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nướclà vấn đề có ý nghĩa quyết định để giữ vững tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Vị trí hàng đầu của chính trị trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoácòn ở chỗ: quan điểm chính trị khoa học mang lại khả năng can thiệp một cách tự giác vào quá trình đó.
- Phải bảo đảm quan điểm chính trị khi giải quyết các vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chỉ như vậy mới có thể làm cho sự hiện đại hoá đạt mục tiêu giải phóng con người, phát triển tự do và toàn diện của con người-lý tưởng cao nhất của chủ nghĩa xã hội.
Tác động của chính trị đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn ở chỗ, nó có vai trò to lớn trong sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu của thành phần kinh tế. Một quan điểm chính trị đúng đắn sẽ góp phần hình thành một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý và các kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với đIều kiện lịch sử đương thời. Điều đó sẽ góp phần to lớn vào sự tăng trưởng kinh tế, giải phóng sức sản xuất, lành mạnh hoá các quan hệ xã hội-kinh tế.
Thực tiễn những năm đổi mới vừa qua cho thấy, nhờ quan điểm chính trị đúng đắn và sự lãnh đạo chính trị sáng suốt của Đảng, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tự nhiên sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa-nhân tố được xem là phương thức để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.
Những biến đổi tích cực trên đây đã làm cho nền kinh tế nước ta có được bước khởi sắc rất đáng phấn khởi. Chẳng hạn, kể từ năm 1989 đến nay, nền kinh tế liên tục đạt tốc độ tăng trưởng trên 5%. Trong kế hoạch 5 năm 1991-1995, mức độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân là 8,2%/năm; cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi tích cực: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1990 lên 29,1% năm 1995; dịch vụ từ 38,6% lên 41,9% trong cùng thời kỳ. Lạm phát từ 67,1% năm 1991 giảm xuống còn 12,7% năm 1995. Ngày nay chúng ta đã mở rộng quan hệ kinh tế với trên 100 nước trên thế giới. Tính đến hết 9-1996, chúng ta đã cấp 1800 giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký tới 23 tỷ USD.
Để phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc Nhà nước tạo ra hệ chuẩn pháp luật, hình thành một hành lang pháp lý cho tư duy kinh doanh được phát triển sáng tạo là một nhiệm vụ có vị trí quan trọng hàng đầu. Việc Nhà nước đảm bảo hệ thống pháp luật cho kinh doanh thực chất cũng là bảo đảm vai trò định hướng chính trị của Đảng đối với sự phát triển kinh tế.
Vấn đề hội nhập
1) Quá trình hội nhập quốc tế trong những năm gần đây:
Do nhu cầu phát triển nền kinh tế hiện tại và trong tương lai cũng như xu thế phát triển chung của thế giới đã đến lúc chúng ta cần phải đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới như nghị quyết VIII của Đảng đã chỉ ra. Tuy vậy để có thể mở rộng quy mô cũng như nâng cao năng lực hội nhập, vấn đề quan trọng đặt ra cần có sự đánh giá, tổng kết lại tiến trình hội nhập của chúng ta trong thời gian qua.
Không phải chỉ có ở thập kỷ 90 vừa qua chúng ta mới tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế, trên thực tế chưa bao giờ tách khỏi nền kinh tế thế giới chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục hội nhập.
Trước khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, việc tham gia vào tiến trình kinh tế thế giới của chúng ta chịu sự chi phối của chủ nghĩa thực dân do đó quá trình hội nhập trở nên bị động.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời do điều kiện chiến tranh nên việc phát triển kinh tế và tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế rất hạn chế. Trên thực tế từ năm 1945 đến khi chúng ta thực hiện đổi mới thì quan hệ Việt Nam với khu vực (Đông Nam á) có thể nói là bị ngưng trệ. Chúng ta chỉ tiến hành quan hệ và hợp tác với các quốc gia xã hội chủ nghĩa mà đáng chú ý là việc tham gia vào hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) phần nhiều cũng không phải xuất phát từ yêu cầu tất yếu của phân công về mặt hợp tác đối với kinh tế Việt Nam. Như vậy có thể nói thập kỷ 90 là thập kỷ hội nhập khởi đầu theo đúng nghĩa của hội nhập quốc tế.
Tiếp tục theo tinh thần đổi mới của Đại hội VI, VII và VIII, cùng các nghị quyết của hội nghị trung ương trong các kỳ Đại hội đều có chú ý tới vấn đề hội nhập quốc tế. Nếu Đại hội VI nhấn mạnh phảI “gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết mối quan hệ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa” thì tại hội nghị trung ương lần thứ 3 khoá VII đã có bước tiến trong việc xác định cụ thể nội dung của hội nhập quốc tế trong đó khẳng định phải mở rộng quan hệ với các tổ chức kinh tế quốc tế. Tư tưởng này được khẳng định lại hội nghị trung ương 7 khoá VII là “từng bước tham gia các hội, các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới và khu vực”. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục phát triển và khẳng định sự cần thiết cũng như làm rõ thêm về nội dung và tiến trình hội nhập. Nghị quyết nhấn mạnh “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu; điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác; chủ động tham gia các diễn đàn, các tổ chức kinh tế thế giới với bước đi thích hợp”.
Như vậy có thể nói chủ trương hội nhập của Đảng ta là nhất quán trong tiến trình đổi mới. Đây chính là cơ sở rất quan trọng để triển khai, thúc đẩy hội nhập trên thực tế.
Trải qua hơn một thập kỷ ta đã từng bước hội nhập và đã có những kết quả bước đầu quan trọng trên các lĩnh vực như: thương mại, đầu tư, ngoại giao... tạo ra môi trường cùng hợp tác phát triển kinh tế với các đối tác trên thế giới.
Về ngoại thương: chúng ta mở quan hệ kinh tế với 150 nước và lãnh thổ trên thế giới. Từ năm 1990 đến 1999, tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng 4,5 lần, tổng giá trị nhập khẩu tăng hơn 4 lần hay trong cơ cấu hàng hoá cũng có chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng hoá mặt hàng, tăng dần những hàng hoá qua chế biến.
Trong lĩnh vực thu hút vốn nước ngoài ta cũng đạt được những thành quả đáng khích lệ. Tính đến 9-1999 ta đã thu hút 35,9 tỷ USD FDI của hơn 70 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Cùng với vốn FDI chúng ta còn tiếp nhận một lượng không nhỏ nguồn vốn qua kênh ODA. Tính ra mức vốn nước ngoàI hiện nay chiếm 30% tổng vốn đầu tư xã hội. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP đều tăng lên. Nguồn thu ngân sách từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 370 triệu USD vào năm 1999.
Ngoài mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài, gia tăng xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã mạnh dạn tham gia đầu tư ra nước ngoài kể cả những nước phát triển như Nhật Bản. Tính cho đến nay các doanh nghiệp Việt Nam đã có 27 dự án với tổng số khoảng 8 triệu USD tập trung chủ yếu trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, thương mại, dịch vụ, xây dựng... đồng thời trong những năm 90 đã ký các hợp đồng đưa 7 vạn lao động ra nước ngoài lao động và riêng trong khu vực có FDI đã thu hút 285,7 nghìn lao động (8/1999), từng bước tạo ra cho ta một đội ngũ lao động, công nhân có trình độ phù hợp với việc phát triển nền công nghiệp hiện đại ngày nay.
Thực ra để đạt được những kết quả trên thì trong những năm qua Việt Nam đã có nhiều đổi mới cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là luật Đầu tư, mặc dù còn có điều cần điều chỉnh song đều được thừa nhận là luật cởi mở, có sức thu hút đối với FDI.
Chúng ta cũng đã có nhiều đổi mới trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, điều chỉnh mức thế theo hướng ngày càng tự do hơn.
Kết quả của hội nhập kinh tế thế giới, thương mại thế giới được thể hiện rõ với việc chúng ta đã trở thành thành viên của AFTA, APEC có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức chuyên môn của UN, IMF, WB cũng như ADB. Đặc biệt chúng ta đã ký hiệp định thương mại Việt-Mỹ và đang xúc tiến vào WTO. Những kết quả trên tạo cho Viêt Nam cơ hội phát triển kinh tế mạnh mẽ, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế và theo cùng các nưởc trong khu vực và thế giới.
Một số thuận lợi và khó khăn đặt ra đối với việc “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”:
* Những thuận lợi cơ bản:
- Thứ nhất: Đảng cũng như nhà nước đã có những chủ chương và chính sách nhất quán cho việc chủ động tham gia vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến nhịp độ hội nhập. Nay với quan đIểm và nguyên tắc rõ ràng, chúng ta chủ động đẩy nhanh quá trình hội nhập.
- Thứ hai: tham gia toàn cầu hoá chính là nhằm tranh thủ những điều kiện quốc tế để khai thác các tiềm năng kinh tế nước nhà, phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân. Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu qủa. Với nguồn thiên nhiên phong phú không chỉ tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức hút đối với các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên chúng ta có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu thị trường thế giới. Với thực trạng tài nguyên thiên nhiên nước ta, ngoài một số khoáng sản có trữ lượng lớn ( như khoáng sản boxit khoảng 5 tấn đứng thứ 3 thế giới, quặng đất hiếm cũng có trữ lượng lớn đứng thứ 2 thế giới) thì các loại khoáng sản ở Việt Nam tuy trữ lượng không lớn nhưng đa dạng và phong phú. Trong thời gian qua việc khai thác chế biến còn hạn chế. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc khai thác sử dụng các nguồn lực đó thông qua hợp tác quốc tế là rất cần thiết. Và với các nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên hiện có, chúng ta cần tập trung đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chuyển sang xuất khẩu những mặt hàng chế biến. Thực tế cho thấy, mặc dù những năm qua cơ cấu hàng xuất khẩu của ta cũng đã cải thiện, song về cơ bản vẫn là xuất khẩu tài nguyên trong đó có dầu, than đá. Trong điều kiện giá cánh kéo chúng ta càng xuất khẩu càng thua thiệt.
- Thứ ba: Việt Nam hiện nay tuy là quốc gia đang phát triển, là một trong những nước nghèo nhất của thế giới song nước ta được đánh giá cao về chỉ số nguồn nhân lực. Với thị trường gần 80 triệu dân, trong đó tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao có trình độ văn hoá, cần cù lao động và đặc biệt giá lao động rẻ. Đó là lợi thế so sánh trong qúa trình tham gia hội nhập, đó cũng là nhân tố thu hút các doanh nghiệp, công ty nước ngoài đầu tư vào nước ta. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông giao lưu với thế giới. Ta có thể hội nhập để xuất khẩu lao động qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Như vậy với lợi thế nguồn lao động cho phép lựa chọn dạng phù hợp tham gia vào hội nhập và chính qua hội nhậplà điều kiện nâng cao chất lượng nguồn lao động ở Việt Nam.
Thứ tư: chúng ta đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện đất nước hoà bình, chính trị-xã hội ổn định. Đây là cơ hội rất quan trọng để tập trung phát triển kinh tế mở rộng quan hệ đối ngoại. Chính trị-xã hội ổn định theo một khuynh hướng nhất quán chính là bộ lọc quan trọng trong quá trình hội nhập, hơn nữa nó đảm bảo vai trò định hướng trong hội nhập quốc tế.
* Những khó khăn, thách thức chủ yếu đặt ra cho việc đẩy nhanh quá trình hội nhập:
Thứ nhất: Năng lực cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế là nguy cơ lớn khi đẩy nhanh nhịp độ hội nhập. Để hội nhập có hiệu quả vấn đề là làm sao phải nâng cao được sức cạnh tranh thì các xí nghiệp mới có thể đứng vững trước sự xâm nhập của hàng hoá.
Thứ hai: Nền kinh tế thị trường thế giới hiện nay đã phát triển trong khi đó chúng ta mới chuyển sang kinh tế thị trường. Vì vậy các yếu tố của thị trường chỉ mới hình thành ở bước đầu, chưa phát triển. Hơn nữa, nền kinh tế thị trường hiện nay đang nằm dưới sự chi phối của các công ty xuyên quốc gia. Hội nhập chúng ta phải tham gia vào các định chế kinh tế khu vựcvà toàn cầu. Các luật chơi chúng ta chưa thông thạo, thậm chí kiến thức “kinh tế thị trường” còn bất cập. Đó là chưa kể chúng ta hội nhập để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu vấp phải sự chống đối, thù địch chứ không phải cạnh tranh kinh tế đơn thuần. Vì vậy muốn hội nhập cần đặt ra yêu cầu cao đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, bên cạnh kiến thức, năng lực kinh doanh phải hiểu biết về kinh tế quốc tế, nhất là thị trường quốc tế, tổ chức và hoạt động của các thể chế kinh tế quốc tế.
Thứ ba: Muốn hội nhập tốt một trong những điều kiện quan trọng là có bộ máy điều hành có hiệu quả. Tình trạng tham nhũng trong xã hội hiện nay đang trở thành quốc nạn thực sự, đang là vấn đề nan giải, nguy cơ lớn không những đối với việc thúc đẩy hội nhập nói riêng mà còn đối với việc phát triển kinh tế nói chung. Nếu không cải cách bộ máy điều hành càng hội nhập ta càng thua thiệt. Riêng trong lĩnh vực nhập khẩu công nghệ theo Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường qua kiểm tra thử ở 42 cơ sở công nghệ cho thấy số công nghệ nhập về có tới 60-70% tân trang lại. Một vấn đề cũng cần quan tâm là sự phối kết giữa các bộ phận ban ngành địa phương và các doanh nghiệp chưa thực sự, chặt chẽ, nhịp nhàng và đồng bộ.
Thứ tư: Cùng với cải cách bộ máy hành chính chúng ta cần phải có hệ thống luật lệ, chính sách thống nhất phù hợp với thông lệ quốc tế mà vẫn đảm bảo được chủ quyền quốc gia. Đay cũng là cái khó của ta trong việc tham gia toàn cầu hoá. Có thể nói rằng, cho đến nay tuy chúng ta đã có rất nhiieù cố gắng trong công tác soạn thảo, xây dựng, ban hành pháp luật nhưng hệ thống luật lệ, chính sách của Việt Nam chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập so vối quy chuẩn quốc tế. Sự hạn chế trong hệ thống luật lệ như trên rõ ràng khó khăn cho việc đẩy nhanh quá trình hội nhập. Hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ các quy chế chung mà trên thực tế nhiều quy định của ta không phù hợp thậm chí tráI ngược cho nên các hoạt động trong thực tiễn thường bị ách tắc, làm chậm tiến độ theo hợp đồng.
Thứ năm: Để đẩy nhanh hội nhập vấn đề đặt ra là phải có chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời muốn đẩy nhanh là phải có sự đồng tâm nhất trí của toàn dân. Tuy vậy, trên thực tế chúng ta chưa có chiến lược do sự “do dự”về thực hiện các chính sách, biện pháp. Trong quá trình hội nhập vừa qua không phải mọi người đều đã thấu hiểu nhận thức được yêu cầu phải mở cửa hội nhập. Những hiện tượng kéo theo hội nhập quốc tế đã nảy sinh ý kiến cho rằng toàn cầu sẽ “ngoại hoá” đất nước.
Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước vì hoà bình, hợp tác và phát triển
Từ chỗ bị bao vây, cô lập, nước ta đã vươn ra khắp năm châu, mở rộng quan hệ quốc tế trên phạm vi rộng lớn chưa từng thấy. Từ chỗ thị trường bỗng bị thu hẹp, đối tác không còn bao nhiêu, nguồn tài trợ quốc tế biến mất, nay nước ta đã tạo dựng được mối quan hệ kinh tế quốc tế sâu rộng. Thị trường không những được khôi phục mà còn lan toả ra nhiều nước. Từ chỗ bị nhiều nước dèm pha suốt hơn 10 năm trời, vị trí quốc tế của nước ta không những được phục hồi mà còn được nâng cao đáng kể.
Có thể mạnh dạn khẳng định rằng, môi trường quốc tế của nước ta hiện nay thuận lợi hơn nhiều so với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thành tựu về đối ngoại đóng góp thiết thực cho công cuộc đổi mới, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng và khởi sắc về kinh tế, củng cố thế đứng của Việt Nam trong một thế giới có nhiều xáo động. Đảng ta đã phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh , huy động sức mạnh cả nước, đấu tranh trên cả ba mặt quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Chính nhờ ở sức mạnh tổng hợp mà ta đã chuyển từ yếu thành mạnh, từ khó khăn thành thắng lợi. Và vừa qua, chúng ta đã kết hợp việc phát huy nội lực qua công cuộc đổi mới với những xu thế tích cực ở khu vực và trên thế giới để tạo nên “thế” và “lực” mới, đem lại thắng lợi trên cả mặt trận đối nội lẫn đối ngoại.
Trong bối cảnh bước vào thời kỳ mới-thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đại hội lần thứ VIII của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”. Đại hội cũng tiếp tục khẳng định thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá.
V/ Một vài kinh nghiệm
Có thể rút ra từ công cuộc đổi mới ở Việt Nam một vài kinh nghiệm về phương pháp luận và cách tiến hành.
Kinh nghiệm đầu tiên để đi đến thành công là công cuộc đổi mới phải sớm đưa nền kinh tế vượt qua khỏi trạng thái mất ổn định hay khủng hoảng, đưa nền kinh tế vào thế ổn định và tăng trưởng. Trên cơ sở đó, có thể cải thiện đời sống của đông đảo nhân dân, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ quần chúng đối với cuộc đổi mới.
Khi đã xác định rõ mục tiêu và các biện pháp, việc chỉ đạo kiên quyết và nhất quán của chính phủ là yếu tố cực kỳ quan trọng.
Đổi mới ở Việt Nam là sự kết hợp giữa sáng kiến của quần chúng với tổng kết kế hoạch để hình thành nên chính sách kinh tế đúng đắn. Việt Nam đã luôn có kết quả tốt trong đổi mới khi tìm ra được những giải pháp phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, thậm chí phù hợp với từng vùng khác nhau của đất nước.
Đổi mới ở Việt Nam đã có kết quả vì đã kết hợp được sức mạnh của đất nước với các khả năng, điều kiện quốc tế thích hợp. Ngày nay, không nước nào có thể đổi mới thành công nếu tách rời đất nước mình ra khỏi trào lưu phát triển nhân loại.
15 năm đổi mới (1986 – 2000) đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn giá trị, nhất là những bài học chủ yếu sau đây:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới đúng đắn, phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được, giữ vững độc lập dân tộc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, đổi mới phải dựa vào dân, vì lợi ích của dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Có những điều chỉnh, bổ sung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp, biện pháp; tìm và lựa chọn những giải pháp mới, linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục trì trệ, làm chuyển biến tình hình.
Nhân dân tích cực thực hiện đổi mới trên mọi lĩnh vực, tạo ra nhiều điển hình tiên tiến, kinh nghiệm hay và nhân tố mới, từ đó Đảng có cơ sở để tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận, đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Công cuộc đổi mới diễn ra vào lúc cách mạng khoa học – công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão, toàn cầu hoá kinh tế ảnh hưởng đến cuộc sống các dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra sôi nổi. Tiến hành đổi mới, nhân dân ta ra sức tranh thủ tối đa cơ hội tốt do những xu thế nói trên tạo ra.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới. Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, hoàn thiện đường lối đổi mới; thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong toàn Đảng; lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh.
định hướng cơ chế chính sách và các giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 - 2005
Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh
Trong giai đoạn 2001-2005 hoàn thành về cơ bản việc sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước
Nhà nước thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tập thể. Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư nhân cũng được khuyến khích phát triển mạnh. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển và là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam
Hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường
Phát triển thị trường vốn và tiền tệ với các hình thức đa dạng hoá.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật và chính sách nhằm mở rộng thị trường lao động tạo cơ hội bình đẳng khuyến khích người lao động học tập, đào tạo và tự kiếm việc làm.
Phát triển thị trường bất động sản, từng bước mở rộng thị trường cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư.
Tăng cường hiệu lực của các công cụ, chính sách quản lý vĩ mô, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Đổi mới mạnh mẽ công tác kế hoạch hóa
Chính sách đầu tư nhà nước được điều chỉnh theo hướng tăng đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Tăng cường hiệu lực và đổi mới cơ chế quản lý ngân sách nhà nước.
Tăng cường quản lý nợ.
Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ.
Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, mở rộng kinh tế đối ngoại.
Chính sách phát triển nguồn nhân lực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.
Tiếp tục đổi mới chính sách xã hội, chính sách bảo vệ môi trường.
Có các chính sách thích hợp tạo công bằng về cơ hội và bình đẳng trước pháp luật.
Hình thành khung pháp luật, chính sách về bảo vệ và cải thiện môi trường.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh.
Phân cấp mạnh và toàn diện giữa các cấp trong hệ thống hành chính nhà nước trên cơ sở gắn trách nhiệm với quyền hạn, nghĩa vụ với quyền lợi.
Có chương trình, kế hoạch đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên cán bộ công chức nhà nước.
Hỗ trợ và khuyến khích các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0319.doc