Khởi sự doanh nghiệp là bước khởi đầu để đưa doanh nghiệp đến thành công. Trong điều kiện kinh doanh ngày nay, khởi sự kinh doanh có nhiều ý nghĩa. Sự thành công hay thất bại trong kinh doanh về sau phụ thuộc phần nhiều vào sự khởi đầu đó. Nhiều doanh nghiệp vì lý do này hay lý do khác được thành lập khi chưa hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và nó như thể những đứa con “đẻ non” ốm yếu rồi dần mất đi trong môi trường cạnh tranh ác liệt. Để có thể thành công, để doanh nghiệp phát triển dài lâu, người chủ của nó cần có đủ những điều kiện cần thiết. Họ cần có kỹ năng quản lý, sự hiểu biết về ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh, có nguồn vốn lớn, cần thông tin tốt, cần tư vấn và nhiều vấn đề khác nữa. Nhiều người đã nỗ lực để phá bỏ những rào cản ngay từ đầu nhưng họ cảm thấy thật khó, thậm chí có những điều bản thân họ không thể thực hiện được như một quy định pháp luật thuận lợi cho việc khởi sự, một môi trường cạnh tranh bình đẳng, một mối quan hệ giao thương với nước ngoài trên cơ sở hiểu biết và làm ăn lâu dài. Những thứ mà bản thân người khởi sự không thể có được buộc họ phải tìm đến với những người, những tổ chức sẵn sàng và có đủ năng lực cũng như uy tín có thể trợ giúp cho họ.
94 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 795 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g kiến thức quản lý tiến tiến của nước ngoài. Trên cơ sở đó Phòng đã có sự điều chỉnh hợp lý để cho những kiến thức, kỹ thuật đó phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Thứ tư, Phòng đã bước đầu hình thành được hệ thống tài liệu, đội ngũ cán bộ đào tạo trung và cao cấp để phục vụ cho hoạt động đào tạo khởi sự. Hệ thống tài liệu và đội ngũ cán bộ giảng dạy là hạt nhân của hoạt động đào tạo. Việc nâng cao chất lượng của lực lượng hạt nhân này cũng có nghĩa là nâng cao được chất lượng đào tạo. Trong những năm gần đây, hệ thống tại liệu và cán bộ giảng dạy đã được hình thành phù hợp với địa phương cụ thể, phù hợp với từng đối tượng cụ thể đó là một sự khởi đầu tương đối tốt đẹp.
Thứ năm, các hoạt động xúc tiến thương mại được chú trọng và có những kết quả tốt. Hoạt động xúc tiến thương mại của VCCI đã hướng được vào hoạt động xúc tiến chung không còn vụn vặt, không còn tiến hành xúc tiến riêng lẻ. Mặc dù vậy, hoạt động xúc tiến thương mại của Phòng vẫn đáp ứng được nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp. Hoạt động xúc tiến thương mại của Phòng trong thời gian qua đã có những thay đổi tích cực các về nội dung và hình thức. Phòng mở rộng nhiều hình thức xúc tiến mới như xây dựng hình ảnh quốc gia, xúc tiến thương mại qua mạng internet toàn cầu... Phạm vi xúc tiến đã mở rộng ra nhiều thị trường lớn, tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Việc cung cấp thông tin kinh doanh, thông tin thị trường cũng đã đạt được những tiến bộ. Những thông tin mà Phòng cung cấp đã ngày càng đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Nhiều hoạt động kỹ thuật nghiệp vụ trợ giúp khác như hội chợ triển lãm, tư vấn... cũng đã được chú trọng và đạt được những thành tựu lớn.
2. Những vấn đề cần giải quyết.
Bên cạnh những kết quả, ưu điểm đã đạt được vẫn còn những vấn đề cần giải quyết nhằm tăng cường, hoàn thiện những hoạt động trợ giúp khởi sự của Phòng đó là:
Thứ nhất, trong những năm tới nhu cầu khởi sự doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng cao, trong khi đó năng lực phòng còn chưa thực sự mạnh đủ để đáp ứng cho nhu cầu cần trợ giúp ngày càng tăng cao đó. Những hoạt động trợ giúp khởi sự của VCCI chủ yếu là những trợ giúp cộng đồng, không thu phí do đó vấn đề kinh phí cho hoạt động trợ giúp sẽ có những khó khăn lớn.
Thứ hai, khi hệ thống trợ giúp khởi sự của Phòng phải mở rộng để đáp ứng nhu cầu trợ giúp của cộng đồng sẽ dẫn đến vấn đề khó khăn trong công tác quản lý. Hiện nay hệ thống mạng lưới trợ giúp đã có ở trên 40 tỉnh thành và tương lai sẽ phải mở rộng hệ thống trợ giúp rộng khắp trên toàn quốc vì thế công tác quản lý cũng sẽ trở lên phức tạp hơn. Không chỉ có vậy việc mở rộng hệ thống còn có thể ảnh hưởng tới chất lượng của hoạt động trợ giúp. Khi công tác quản lý không được thực hiện tốt thì những trợ giúp khởi sự ở địa phương rất dễ rơi vào tình trạng làm theo hình thức.
Thứ ba, là vấn đề chất lượng của hoạt những hoạt động trợ giúp khởi sự. Mặc dù được đánh giá là một tổ chức có uy tín nhưng trên thực tế những hoạt động trợ giúp khởi sự của Phòng khi so sánh với những PTM khác trên thế giới thì thực sự vẫn có một khoảng cách.
Vấn đề chất lượng đào tạo khởi sự là vấn đề cần phải được quan tâm hàng đầu. Tài liệu đào tạo, đội ngũ cán bộ đào tạo, cơ sở vật chất còn nhiều yếu kém. Hơn thế nữa, hoạt động đào tạo khởi sự của Phòng được thực hiện thông qua mạng lưới “chân rết” ở các địa phương do đó vấn đề kiểm soát chất lượng đào tạo là rất khó khăn. Chất lượng của những công tác khác cũng đặt ra nhiều vấn đề, như tham mưu pháp luật chính sách cũng ngày càng phức tạp do số lượng và tính chất của các văn bản cần tham mưu cũng ngày càng phức tạp. Thị trường quốc tế ngày càng mở rộng dẫn đến những hoạt động nghiên cứu thị trường, thu thập, xử lý thông tin, cung cấp thông tin thị trường, thông tin kinh doanh ngày càng đa dạng và phức tạp. Nhu cầu về tư vấn khởi sự cũng sẽ ngày càng phức tạp hơn... đòi hỏi Phòng cần có nhiều nỗ lực hơn nữa trong thời gian tới.
Chương III.
Phương hướng và các giải pháp đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp của VCCI.
I. Phương hướng cho hoạt động trợ giúp khởi sự của VCCI.
1. Đẩy mạnh tham mưu, tư vấn, với chính phủ để tạo lập môi trường thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp, đồng thời tạo sự bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp.
Để hoạt động khởi sự doanh nghiệp có thể phát triển mạnh mẽ, tạo ra được một đội ngũ doanh nhân đủ mạnh phục vụ cho mục tiêu của đất nước thì công việc đầu tiên phải làm là tạo lập một môi trường tốt. Một môi trường kinh doanh tốt có nghĩa là phải có cơ chế, chính sách thông thoáng, hệ thống pháp luật nghiêm minh công bằng để bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp.
Trong thời gian vừa qua, đảng và nhà nước đã có những chiến lược, cơ chế, chính sách đúng đắn cho các doanh nghiệp nói chung và cho khởi sự doanh nghiệp nói riêng. Tuy vậy, vẫn tồn tại nhiều những vấn đề bất cập như sự thiếu công bằng ngay từ trong tư tưởng đến hành động thực tiễn đối với đội ngũ doanh nghiệp ngoài quốc doanh đặc biệt là đội ngũ doanh nghiệp tư nhân. Tư tưởng coi trọng các doanh nghiệp lớn từ đó có sự thiếu công bằng trong việc soạn thảo và thực thi các văn bản pháp luật. Các chính sách khuyến khích phát triển cho các doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp, các chương trình phát triển kinh tế tư nhân đang được triển khai chậm chạp và mang tính hình thức... và còn nhiều sự bất cập khác gây cản trở cho hoạt động khởi sự doanh nghiệp ở Việt Nam.
Với vai trò là một tổ chức đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, thực hiện đối thoại chuyển tải những vướng mắc, những kiến nghị của doanh nghiệp tới chính phủ... VCCI cần đẩy mạnh hoạt động tham mưu tư vấn cho chính phủ, đối thoại để chuyển những tâm tư nguyện vọng của doanh nghiệp tới đảng và chính phủ. Trong thời gian tới VCCI cần hướng mạnh vào việc tham mưu để tạo ra điều kiện thuận lợi cho khởi sự như: Hoàn thiện hơn nữa luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành và đặc biệt trong đó cần chú ý tới sự thuận lợi trong việc khởi sự như quy định về đăng ký kinh doanh, điều kiện tín dụng cho các doanh nghiệp mới và nhỏ, các cơ chế chính sách về mặt bằng đất đai, công nghệ giúp cho các doanh nghiệp ra đời và phát triển tốt.
2. Đẩy mạnh hỗ trợ kiến thức và kinh nghiệm khởi sự và phát triển doanh nghiệp cho toàn thể cộng đồng trên lãnh thổ Việt Nam bằng các hoạt động đào tạo khởi sự.
Như đã phân tích, mặc dù có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng nhưng khởi sự doanh nghiệp còn rất yếu để đáp ứng nhu cầu và so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Mà một trong nhiều nguyên nhân đó sự thiếu kiến thức và kinh nghiệm trong khởi sự và điều hành doanh nghiệp.
2.1. Thực hiện đào tạo rộng khắp cho nhiều đối tượng:
Đây là định hướng cần đẩy mạnh thực hiện. Mặc dù đã tổ chức tương đối tốt những hoạt động đào tạo khởi sự nhưng thực tế còn lâu mới đáp ứng được nhu cầu. VCCI cần định hướng đào tạo cho rộng rãi các đối tượng, đào tạo cho nhiều vùng địa lý trên cả nước.
ã Đội ngũ sinh viên tốt nghiệp hàng năm ở Việt Nam rất cao, những sinh viên này rất khao khát và có đủ tư chất để có thể trở thành những ông chủ thành đạt tuy nhiên việc đào tạo ở hệ thống giáo dục chính thống – các trường đại học, cao đẳng... còn nặng về lý thuyết, mang tính chính thống chưa thích nghi với điều kiện riêng cho từng loại hình doanh nghiệp và từng khu vực địa lý. Vì vậy đối tượng đào tạo cần tiến hành mạnh và nhanh đó là đào tạo cho đội ngũ sinh viên với kiến thức thực tiễn đề bù đắp những thiếu sót trong hệ thống giáo dục chính thống.
ã Hoạt động đào tạo khởi sự được tiến hành trên một số khu vực đã cho thấy nhiều kết quả khả quan. VCCI cần hướng tới tuyên truyền, đào tạo khởi sự trên nhiều vùng của đất nước. Đặc biệt là cần đẩy mạnh đào tạo khởi sự và quản lý kinh doanh ở những vùng nông thôn, miền núi.
ã Một đối tượng khác của hoạt động đào tạo khởi sự là phụ nữ. Càng ngày phụ nữ càng cho thấy vai trò, vị trí của họ trong hệ thống doanh nhân, nhưng thực tế thì họ vẫn còn nhiều yếu kém đặc biệt là ở kiến thức kinh doanh. Phòng Thương Mại đã nhận thức được tầm quan trọng đối với nữ doanh nhân và đã thiết lập hội đồng doanh nhân nữ để thực hiện việc phát triển nữ doanh nghiệp. Trong thời gian tới cần thực hiện mạnh mẽ hơn nữa việc đào tạo khởi sự cho đội ngũ nữ doanh nhân tương lai này.
2.2. Nâng cao chất lượng đào tạo khởi sự, quản trị doanh nghiệp.
Đào tạo rộng khắp về khởi sự chỉ là một mặt trong định hướng hướng nâng cao số lượng, chất lượng doanh nhân. Phòng cần đảm bảo cho công tác đào tạo có chất lượng cao. Chất lượng cao biểu hiện ở số lượng các dự án khởi sự ra đời do ảnh hưởng của đào tạo, biểu hiện ở sự lớn mạnh, trưởng thành và phát triển của doanh doanh nghiệp sau khởi sự.
3. Định hướng cho hoạt động tư vấn khởi sự và kinh doanh.
Hoạt động tư vấn cần tập trung ở cấp độ chung cho toàn bộ cộng đồng. Để đạt hiệu quả cao trong hoạt động tư vấn khởi sự VCCI không thể thực hiện việc tư vấn cá nhân mà phải thực hiện tư vấn chung tức là thực hiện tư vấn thông qua những phương tiện thông tin đại chúng như Báo diễn đàn doanh nghiệp, trang Web VCCI.COM.VN... Còn những yêu cầu thực hiện tư vấn cá nhân cần phải có một tổ chức tư vấn riêng. Có thể thực hiện việc thành lập trung tâm tư vấn khởi sự thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ tư vấn khởi sự có thu phí.
Tăng cường hỗ trợ và tư vấn cho các doanh nghiệp đổi mới quản lý, ứng dụng các phương pháp quản lý hiện đại để nâng cao khả năng kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm quản lý tốt trong cộng đồng doanh nghiệp.
Triển khai đồng bộ chương trình phát triển văn hoá kinh doanh, hình thành các qui ước, chuẩn mực đạo đức kinh doanh, tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật, các hợp đồng mẫu, phát triển thương hiệu, hình ảnh hàng hoá Việt Nam v.v... làm nền tảng để nâng cao uy tín và bản sắc dân tộc trong kinh doanh. Đồng thời, tuyên truyền, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm xã hội, tổ chức sản xuất kinh doanh đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Việc này không chỉ có ý nghĩa nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước mà còn là giải pháp để các doanh nghiệp vượt qua các hàng rào kỹ thuật để thâm nhập thị trường thế giới, giữ vững và phát triển thị phần trên thị trường nội địa.
4. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại trợ giúp khởi sự như tăng cường hoạt động chắp mối cho các doanh nghiệp, tổ chức triển lãm trong và ngoài nước để khuếch trương doanh nghiệp Việt Nam qua đó nâng cao khả năng thành công, phát triển cho doanh nghiệp mới.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư đáp ứng yêu cầu của cộng đồng doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập là nhiệm vụ cấp bách của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội doanh nghiệp và các cơ quan Chính phủ. Mục tiêu của hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư không chỉ tập trung vào việc hỗ trợ khả năng thâm nhập thị trường quốc tế, mà còn coi trọng việc phát triển thị trường trong nước.
Kinh doanh hiện đại không chờ đến khi doanh nghiệp được hình thành mới tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại mà cần thực hiện xúc tiến ngay từ khi tiến hành khởi sự. Để hỗ trợ cho đội ngũ doanh nghiệp mới VCCI không thể thực hiện xúc tiến cụ thể mà phải hướng vào xúc tiến chung tức là xây dựng hình ảnh, uy tín, thay đổi cái nhìn về doanh nghiệp mới, nhỏ. VCCI cần tiến hành xúc tiến xây dựng hình ảnh chung cho toàn bộ doanh nghiệp Việt Nam. Tiếp tục đẩy mạnh chắp mối kinh doanh bằng cách tổ chức các cuộc tiếp xúc cho các bên giới thiệu về mình để đi đến ký kết hợp đồng.
5. Tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp tiếp xúc, có được nguồn tài chính cần thiết cho khởi sự và được sự hỗ trợ trực tiếp về kiến thức quản lý tài chính của các tổ chức tài chính này.
Trong thời gian vừa qua Phòng cũng đã có nhiều nỗ lực trong lĩnh vực hỗ trợ tài chính cho khởi sự. Phòng cũng đã thiết lập được quan hệ bước đầu với những tổ chức tài chính, ngân hàng. Tuy nhiên đó mới chỉ là bước khởi đầu, những quan hệ này chỉ mới đạt ở mức thử nghiệm để đưa ra những chính sách trong lĩnh vực tài chính, lấy ý kiến của các tổ chức tài chính về giáo trình đào tạo khởi sự, về thống nhất quy chế cho vay, cơ chế tín dụng ưu đãi cho khởi sự.
6. Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cung cấp thông tin cho người khởi sự và doanh nghiệp - nâng cao chất lượng và số lượng thông tin.
Một thực tế là thông thì nhiều nhưng lại không đáp ứng được nhu cầu thông tin của người khởi sự, của doanh nghiệp, vì vậy trong thời gian tới công tác cung cấp thông tốt, đầy đủ, đa dạng cho doanh nghiệp, cho người khởi sự là hướng cần thực hiện tốt trong việc hoàn thiện hơn nữa công tác trợ giúp khởi sự và phát triển doanh nghiệp.
Phòng cần hướng vào việc đưa thông tin thị trường, thông tin về pháp luật, thông tin tư vấn về các vùng sâu, vùng xa, nông thôn, miền núi, nhằm nâng cao hiệu quả khởi sự và phát triển doanh nghiệp.
Mặc dù Luật Doanh Nghiệp – luật áp dụng cho khu vực tư nhân - đã đi vào thực thi, nhưng trong quá trình thực thi có nhiều điểm bất cập trong đó nổi bật là việc đưa nó vào thực thi tại các khu vực còn yếu kém. Nhiều người khởi sự đã không nắm bắt được những quy định của luật trong việc thành lập doanh nghiệp. Vậy cần tăng cường việc cung cấp thông tin pháp luật cho rộng rãi cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân.
II. Những giải pháp đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp của VCCI.
Trên cơ sở định hướng hoạt động khởi sự kinh doanh như trên, VCCI cần thực hiện những hoạt động cụ thể như sau để đẩy mạnh những hoạt động trợ giúp khởi sự của mình:
1. Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của VCCI.
Hệ thống tổ chức quản lý các hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp là trung tâm của mọi hoạt động trợ giúp. Để có thể thực hiện ngày càng tốt hơn những hoạt động trợ giúp khởi sự Phòng cần phải hoàn chỉnh hệ thống tổ chức quản lý của mình.
Các hoạt động trợ giúp của VCCI được thực hiện thông qua một hệ thống các đối tác, các cơ quan trực thuộc trong đó Văn phòng là đầu não. Như trên đã phân tích, hệ thống đối tác của VCCI là rất lớn trải khắp trên 40 tỉnh thành phố vì thế mà việc quản lý gặp không ít khó khăn. Để khắc phục những khó khăn đó thì Phòng cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Thực hiện việc ký kết văn bản hợp tác với nội dung sao cho đạt được sự tự chủ tối đa cho các đối tác, các thành viên của hệ thống trên cơ sở lợi ích và trách nhiệm của các bên được đảm bảo. Nhưng bên cạnh đó phải bảo đảm sự chỉ đạo của VCCI để đảm bảo chất lượng hoạt động hỗ trợ.
Thứ hai: Các tổ tổ chức đối tác cần phải đảm bảo được những yêu cầu cơ bản như cơ sở vật chất, điều kiện nhân sự. Việc tận dụng cơ sở vật chất, nhân sự của các đối tác là một giải pháp cho vấn đề nguồn lực hạn chế của Phòng. Các đối tác phải đáp ứng được yêu cầu đó mới có thể trở thành đối tác của Phòng.
Thứ ba: Cần tiến hành đánh giá, kiểm tra thường xuyên về hoạt động tổ chức, thực hiện hoạt động trợ giúp.
Thứ tư, Các hoạt động trợ giúp của VCCI là tương đối độc lập. Các hoạt động trợ giúp lại được thực hiện bởi những bộ phận chuyên môn mang tính chuyên môn hoá cao. Nhưng cũng chính sự chuyên môn hoá đó lại dẫn đến những bất cập, đó là sự chồng chéo trong quản lý và thực hiện hoạt động, thông tin phản hồi chậm thậm chí thiếu chính xác. Đã từng có hiện tượng cùng một vấn đề lại có những số liệu báo cáo khác nhau. Để khắc phục những bất cập này, Phòng cần thực hiện việc quản lý theo quá trình, tức là các phòng ban cùng thực hiện việc quản lý, thực hiện một quá trình thay vì việc quản lý theo chức năng như hiện nay.
Thứ năm, Hoạt động trợ giúp của VCCI có sự liên kết với các tổ chức đối tác trong và ngoài nước. Trong thời gian vừa qua mặc dù đã được khắc phục nhưng vẫn còn tồn tại hiện tượng không rõ trách nhiệm của các bên. Trong thời gian tới Phòng cùng các tổ chức đối tác, nhất là đối tác nước ngoài, các tổ chức tài trợ thực hiện việc phân công rõ trách nhiệm của từng bên.
Thứ sáu, Một vấn đề quan trọng nữa là sự đổi mới hệ thống quản lý. Hoạt động khởi sự doanh nghiệp ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước luôn có những biến động nhanh chóng vì thế các hoạt động hỗ trợ cũng phải có sự thích ứng kịp thời. Ví dụ như, nếu trước đây vấn đề quan trọng bậc nhất đối với người khởi sự là vốn khởi sự, theo đó những hoạt động hỗ trợ cũng phải hướng nhiều vào việc tạo điều kiện về vốn cho nghiệp chủ. Nhưng ngày nay đang có khuynh hướng khác, điều quan trọng với người khởi sự lại là Kỹ năng quản lý, Kiến thức thị trường vì thế hoạt động hỗ trợ của VCCI đã hướng trọng tâm vào việc đào tạo, xúc tiến thương mại. Cùng với sự thích ứng về mặt hoạt động hỗ trợ thì cũng cần có sự đổi mới liên tục về mặt tổ chức quản lý hoạt động hỗ trợ.
2. Xây dựng và thực hiện chiến lược hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp.
Như đã phân tích, hoạt động khởi sự ở Việt Nam hiện nay còn mang tính tự phát, chủ yếu diễn ra ở những thành phố lớn. Hoạt động tự phát này cần phải được chấm rứt và cần phải được thực hiện một cách có chiến lược. Theo đó những hoạt động hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp của VCCI cũng phải có chiến lược dài hạn. Từ trước tới nay, hoạt động trợ giúp của Phòng mới chỉ dừng lại ở mức có kế hoạch và vì thế Phòng cần phải xây dựng và áp dụng chiến lược cho mình, nhằm đảm bảo hiệu quả cao. Chiến lược hỗ trợ của Phòng cần đáp ứng được những yêu cầu sau:
Thứ nhất, cần phải căn cứ vào chiến lược phát triển đội ngũ doanh nghiệp trong chiến lược phát triển kinh tế chung của toàn nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, chiến lược hỗ trợ khởi sự phải gắn với chiến lược hoạt động chung của Phòng nhưng vẫn đảm bảo tính linh hoạt, độc lập tương đối.
Thứ ba, phải thường xuyên cập nhật, đổi mới chiến lược hỗ trợ nhằm ứng phó với biến động của môi trường.
Thứ tư, mục tiêu cơ bản của chiến lược phải là phát triển đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam chứ không phải là lợi nhuận hay một mục tiêu nào khác. Điều này sẽ dẫn đến một số vấn đề tiếp theo.
Thứ năm, phải có kế hoạch tài chính để phục vụ việc đạt được mục tiêu cơ bản của chiến lược. Khi mục tiêu chiến lược là phát triển đội ngũ doanh nhân thì vấn đề kinh phí cho các hoạt động trợ giúp sẽ là rất cần thiết. Cần phải có chiến lược thích hợp, tránh tình trạng phụ thuộc quá lớn vào các tổ chức tài trợ do đó bị hạn chế bởi các bên đối tác và kém linh hoạt trong hành động.
3. Giải pháp để đẩy mạnh hoạt động tham mưu, tư vấn chiến lược, chính sách, pháp luật kinh doanh nói chung và khởi sự nói riêng.
3.1. Tăng cường công tác nghiên cứu thực tiễn, đẩy mạnh tham gia xây dựng pháp luật chính sách.
Đẩy mạnh và tổ chức tốt công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn khởi sự, hoạt động doanh nghiệp, nâng cao chất lượng hoạt động tham mưu cho Đảng và Nhà nước về phương hướng, chính sách phát triển kinh tế và doanh nghiệp. Tham gia có hiệu quả hơn vào các uỷ ban và các hoạt động của Đảng và Nhà nước nhằm góp phần xây dựng chiến lược phát triển, hoạch định và triển khai các chương trình phát triển kinh tế-xã hội ở trong nước và hợp tác kinh tế quốc tế.
Tổ chức tốt việc tập hợp ý kiến doanh nghiệp để chủ động tham gia đóng góp vào quá trình đàm phán và tổ chức thực hiện các thoả thuận về kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và các nước, tăng cường quan hệ hợp tác và đối thoại giữa Chính quyền và doanh nghiệp ở mọi cấp độ trong nền kinh tế quốc dân, tiếp tục mở rộng chương trình Diễn đàn Doanh nghiệp, xây dựng Diễn đàn Kinh tế Việt Nam thường niên để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể trực tiếp hoặc thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam và các hiệp hội doanh nghiệp tham gia tích cực hơn vào quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, cải thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam và hội nhập.
Tăng cường công tác vận động, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong doanh nghiệp, vận động các doanh nghiệp nêu cao tinh thần dân tộc, thực hiện đúng chính sách và pháp luật, tôn trọng và bảo đảm quyền lợi của người lao động, quan tâm xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp, tích cực tham gia xoá đói giảm nghèo v.v... Một mặt, có những hình thức thích hợp để biểu dương, tôn vinh, nâng cao vị thế xã hội của doanh nghiệp, doanh nhân, mặt khác tăng cường hợp tác với các tổ chức hữu quan để triển khai có hiệu quả việc bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp ở trong và ngoài nước.
3.2. Hình thành mạng trực tuyến giữa VCCI và cộng đồng doanh nghiệp.
Thực hiện được những giải pháp lớn ở trên đây, VCCI cần nỗ lực nhiều mặt, cần sự thống nhất đồng lòng của toàn thể cán bộ công nhân viên Phòng. Đặc biệt trước thực tiễn yếu kém của Phòng trong tham gia xây dựng chính sách pháp luật... thì cần triển khai kênh thông tin trực tuyến như phân tích dưới đây.
3.2.1. Sự cần thiết của kênh thông tin trực tuyến.
Việc đưa vào hoạt động kênh thông tin trực tuyến là hết sức cần thiết và có nhiều ý nghĩa trong việc hoàn thiện hơn nữa hoạt động hỗ trợ tạo môi trường, cơ chế chính sách thuận lợi cho khởi sự kinh doanh. Sự cần thiết này xuất phát từ thực tiễn ban hành pháp luật của nhà nước ta, từ thực tiễn những yếu kém của VCCI trong hoạt động này:
Các văn bản pháp qui, cơ chế chính sách (sau đây gọi chung là Văn Bản) là để áp dụng cho doanh nghiệp nên nó cần có sự tham gia đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp để đảm bảo tính thực tiễn. Tuy vậy việc tham khảo ý kiến của người khởi sự và doanh nghiệp khởi sự, của cộng đồng doanh nghiệp còn nhiều tồn tại:
Việc soạn thảo nhiều khi chỉ là vòng khép kín giữa các cơ quan nhà nước với nhau, chưa thu hút ý kiến của đông đảo doanh nghiệp.
Việc lấy ý kiến nhiều khi chỉ mang tính hình thức.
Trình tự, thủ tục tham gia vào xây dựng Văn Bản chưa được quy định, điều kiện về vật chất kỹ thuật chưa đáp ứng được.
Những ý kiến đóng góp không phải lúc nào cũng được cân nhắc xem xét và phản hồi công khai, đầy đủ.
Do chưa tham khảo của cộng đồng nên nhiều Văn Bản không phù hợp với thực tiễn, mang tính chủ quan, áp đặt. Sự thay đổi liên tục bất ngờ của nhiều Văn Bản đã gây ra cú xốc cho cộng đồng doanh nghiệp.
Về phía VCCI, mặc dù có những thành công nhất định, nhưng vẫn chưa có vai trò chủ động, thường xuyên trong việc thu thập ý kiến nhằm đóng góp xây dựng Văn Bản:
Các hội thảo, diễn đàn lấy ý kiến do VCCI tổ chức trong thời gian qua có những thành công. Tuy nhiên, hầu như là các diễn đàn, hội thảo mới chỉ thu hút được số ít doanh nghiệp tham gia. Hơn nữa lại chủ yếu là các doanh nghiệp ở thành thị lớn vì vậy mà không có những ý kiến các khu vực tỉnh lẻ. Người tham dự chưa có thời gian cần thiết để nghiên cứu và đưa ý kiến.
Nhiều văn bản được lấy thông qua đường công văn, mặc dù VCCI đã có những phúc đáp, nhưng ý kiến phúc đáp đó phần lớn là những ý kiến của cán bộ công nhân viên của Phòng chứ chưa phải là ý kiến tổng hợp rộng rãi của toàn thể cộng đồng doanh nghiệp. Các công văn phúc đáp của doanh nghiệp được chuyển tới để tổng kết ý kiến chậm chạp gây nhiều khó khăn. với yêu cầu về số lượng văn bản lấy ý kiến ngày càng nhiều và ngày càng phức tạp thì việc thu thập ý kiến qua công văn có nhiều rủi ro và bất cập.
3.2.2. Hoạt động của kênh trực tuyến.
Trong mạng trực tuyến này VCCI là trung tâm, kết lối giữa cơ quan soạn thảo và cộng đồng doanh nghiệp. Hình 17 dưới đây là mô hình cụ thể:
Bắt đầu với nguồn thông tin từ cơ quan soạn thảo. VCCI sẽ nhận nguồn thông tin từ cơ quan soạn thảo, đó là dự thảo các văn bản pháp qui, cơ chế, chính sách, chiến lược phát triển...
Ban quản trị mạng sẽ đưa dự thảo văn bản cần lấy ý kiến lên mạng (là các Web site), kèm theo các văn bản hiện hành của dự thảo đó (nếu có). đồng thời đưa cả bảng trưng cầu, trong đó nêu những điều khoản cần lấy ý kiến. Tuỳ theo từng lĩnh vực, loại hình doanh nghiệp sẽ lấy ý kiến của họ ở những vấn đề khác nhau phù hợp với khả năng của họ.
Các doanh nghiệp trên cơ sở tiếp nhận dự thảo trên mạng, bàn bạc, nghiên cứu để đề đạt ý kiến của mình thông qua mạng bằng E-mail gửi đến ban quản trị mạng.
Ban quản trị mạng sẽ chọn lọc, tổng kết ý kiến, đề đạt của cộng đồng doanh nghiệp thành một mục sau đó được đưa lên mạng để cho các doanh nghiệp khác cùng biết và cùng thảo luận. Với những vấn đề lớn thì VCCI sẽ thực hiện hội thảo, diễn đàn qua kênh trực tuyến. Từ những ý kiến được soạn thảo, tập hợp thành ý kiến chính thức đề đạt tới ban soạn thảo.
Đóng góp ý kiến
Bình luận, trao đổi.
Bình luận, trao đổi.
Gửi dự thảo văn bản.
Tổng hợp ý kiến đóng góp
Cơ quan soạn thảo.
Cộng đồng doanh nghiệp, người khởi sự.
Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam.
Kênh thông tin trực tuyến.
Các chuyên gia.
Hình 17: Mô hình kênh thông tin trực tuyến
3.2.3. Những lợi ích của mạng thông tin trực tuyến này:
Nếu thực hiện tốt kênh trực tuyến này sẽ đem lại những lợi ích cơ bản sau:
Minh bạch hoá thông tin về chính sách, pháp luật: Kênh trực tuyến sẽ đăng tải công khai các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là nguồn thông tin về chính sách pháp luật của nhà nước dành cho doanh nghiệp, góp phần tích cực vào quá trình minh bạch hoá và dự đoán trước những thay đổi trong các văn bản này, giúp tránh tình trạng thay đổi đột ngột trong chính sách và pháp luật.
Mở rộng được diện doanh nghiệp được đóng góp ý kiến: Qua kênh thông tin trực tuyến sẽ góp phần tăng số lượng các doanh nghiệp được tham gia đóng góp ý kiến, không còn bị giới hạn về địa lý và quy mô, thành phần doanh nghiệp.
Cách thức đóng góp có hiệu quả: Việc đăng tải dự thảo văn bản giúp cho doanh nghiệp có điều kiện nghiên cứu, so sánh văn bản cũ với văn bản mới. Qua đó có thể đưa ra ý kiến chính xác, có tính thực thi cao.
ý kiến đóng góp được đăng tải công khai: Chính sự công khai trong đóng góp ý kiến nên có thể nâng cao chất lượng tiếp thu ý kiến doanh nghiệp của ban soạn thảo.
Vấn đề chi phí thì lại không lớn: Ưu thế chung của công nghệ thông tin giúp cho chi phí thu thập ý kiến không lớn trong khi có thể đem lại hiệu quả cao, thậm chí là so với hình thức lấy ý kiến bằng công văn vẫn có thể rẻ hơn nhiều.
4. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động đào tạo khởi sự doanh nghiệp.
Phương hướng của công tác đào tạo khởi sự doanh nghiệp là tạo ra một đội ngũ doanh nhân đông đảo, có chất lượng cao trên khắp cả nước thì VCCI cần thực hiện những biện pháp, nhiệm vụ cụ thể như sau:
4.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của khởi sự doanh doanh nghiệp và kiến thức để khởi sự thành công.
Không phải ở tất cả mọi địa bàn, mọi đối tượng đều nhận thức được vai trò của khởi sự, và những gì cần có để khởi nghiệp thành công. Tại các khu vực có nhiều hạn chế về thông tin, phương tiện và điều kiện cơ sở vật chất khác để phục vụ cho khởi sự thành công, vấn đề nhận thức cũng đặt ra nhiều thách thức. Việc tuyên truyền nhận thức phải phối kết hợp với các lực lượng, các tổ chức địa phương, chính quyền cơ sở.
4.2. Mở rộng hơn nữa quan hệ với các đối tác cả theo chiều xuôi và chiều ngược.
Quan hệ đối tác theo chiều xuôi là quan hệ giữa Phòng với các tổ chức, lực lượng trực tiếp, hay thông qua đối tác khác thực hiện hoạt động đào tạo. Hiện nay VCCI mới thực hiện những hoạt động đào tạo khởi sự, trợ giúp khởi sự và kinh doanh trên 40 tỉnh thành/ tổng số 64 tỉnh thành thực sự chưa phải là mức đạt yêu cầu, hơn nữa quan hệ hợp tác chưa chặt chẽ. VCCI cần phải thực hiện những hoạt động cần thiết để thiết lập quan hệ chặt chẽ giữa Phòng và chính quyền, tổ chức đối tác. Ví dụ: thực hiện liên kết đào tạo với các trường đại học, cao đẳng, trường chuyên nghiệp khác; Hợp tác với hội phụ nữ, thanh niên địa phương để tổ chức đào tạo doanh nhân. Việc thực hiện liên kết đào tạo với lực lượng bộ đội biên phòng cũng là một giải pháp hay cần nhân rộng.
Quan hệ chiều ngược là quan hệ giữa VCCI với các tổ chức tài trợ không chỉ cho đào tạo mà tài trợ cho toàn bộ chương trình khởi sự và phát triển kinh doanh, các cơ quan hữu quan trực thuộc chính phủ, trực tiếp chỉ đạo thực hiện. Để hoạt động trợ giúp nói chung và đào tạo khởi sự nói riêng được duy trì thì cần thu hút nhiều nguồn lực tài chính, chuyên gia,... Sự liên kết chặt chẽ với các tổ chức là cần thiết để có được nguồn lực cần thiết. Trong thời gian vừa qua VCCI đã nhận được sự hỗ trợ lớn của ILO, SIDA về vốn và kỹ thuật với 1,2 triệu UDS trong giai đoạn 1997-2001 và 0,99 triệu cho giai đoạn 2003-2005 để phục công tác đào tạo và trợ giúp khởi sự, phát triển kinh doanh là kết quả của những nỗ lực lớn của VCCI trong việc thiết lập quan hệ chặt chẽ với các đối tác.
4.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cao cấp, giảng viên giảng dạy, chất lượng giáo trình giảng dạy và trang thiết bị giảng dạy và phương pháp đào tạo.
Tổng số 30 giảng viên cao cấp (15 nữ, 15 nam); 550 (36,5% nữ, 63,5 nam) giảng viên giảng dạy, là một kết quả tốt. Tuy nhiên để thực hiện đào tạo khởi sự rộng khắp trên cả nước, cho nhiều đối tượng thì số lượng giảng viên chuyên biệt cộng với những giảng viên của trường đào tạo cán bộ quản lý như hiện nay là chưa đáp ứng được. Cần tiến hành đào tạo cho đội ngũ cán bộ cao cấp của Phòng sao cho đảm bảo được cả về trình độ lý luận và thực tiễn. Ví như: tăng cường đào tạo ở nước ngoài để tiếp thu kinh nghiệm và kiến thức của những nước tiên tiến. Việc tuyển chọn cán bộ để đào tạo giảng viên cao cấp cũng như giảng viên cần tiến hành nghiêm túc và kỹ càng. Hơn thế nữa, cán bộ giảng dạy trực tiếp – cán bộ đào tạo cấp 2 trở lên – cần phải có kiến thức văn hoá, khả năng thuyết phục phù hợp với đặc tính văn hoá vùng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở địa phương.
Việc đào tạo khởi sự được tiến hành ở nhiều khu vực, với sự hợp tác của nhiều tổ chức. Về trình độ, năng lực cơ sở vật chất của họ là khác nhau, vì vậy VCCI sẽ gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất đào tạo. Thông thường, việc đào tạo khởi sự ở địa phương được thực hiện ở địa phương nên cơ sở vật chất thường là tận dụng những gì sẵn có. Điều đó dẫn đến chất lượng đào tạo không thể cao được. VCCI có một trường đào tạo cán bộ tuy hoạt động hiệu quả nhưng chủ yếu để thực hiện đào tạo theo dịch vụ nhằm đảm bảo vật chất cho hoạt động của Phòng nên sự tham gia của nó vào công tác đào tạo khởi sự trên thực tế là còn rất hạn chế. Để có chất lượng đào tạo hơn thì cần phải có hệ thống cơ sở vật chất, như trường lớp, hệ thống thông tin, hệ thống giảng bài, hệ thống thực hành theo mô hình là yêu cầu cấp thiết.
Hệ thống tài liệu đào tạo, như giáo trình, các sách chuyên ngành do VCCI phát hành cần phải được điều chỉnh, cải tiến, nâng cao chất lượng cho phù hợp với đối tượng, với vùng địa lý. Giáo trình khởi sự kinh doanh được đánh giá là cao, trên thực tế còn sơ sài, quá giản đơn không khái quát được thực tế kinh doanh ngày càng phức tạp. Các giáo trình, sách chuyên cho từng lĩnh vực khác thì chủ yếu là được biên dịch từ tài liệu nước ngoài, còn khó hiểu, khó áp dụng ở Việt Nam. VCCI cần thực hiện điều chỉnh một cách phù hợp hơn. Việc biên soạn tài liệu cần có sự trợ giúp của những giáo sư, tiến sĩ, các chuyên gia trong nước để đảm bảo chất lượng, khai thác được tiềm năng trí tuệ trong nước. Giáo trình cần biên soạn cho từng đối tượng riêng. Ví như: giáo trình dành cho sinh viên cần có tính thực hành cao vì đội ngũ sinh viên đã được đào tạo về cơ bản. Giáo trình cho khu vực nông thôn thì cần giản đơn, ngôn ngữ dễ hiểu....
4.4. Tiến hành tổ chức công tác nghiên cứu, tư vấn áp dụng các giải pháp đổi mới quản lý doanh nghiệp.
Hoạt động quản lý doanh nghiệp liên tục thay đổi đòi hỏi mỗi nhà quản lý phải không ngừng cập nhật những kiến thức mới về quản lý. Trong những năm qua, VCCI cũng đã tổ chức nhiều hoạt động đưa các công cụ quản lý mới vào Việt Nam thông qua các chương trình hợp tác mời các chuyên gia trong nước và quốc tế đến giảng bài và tư vấn cho doanh nghiệp Việt nam. Tuy nhiên, VCCI cũng cần có một đội ngũ chuyên gia giỏi, nắm vững thực tiễn doanh nghiệp để cung cấp các dịch vụ như tư vấn và đào tạo về các giải pháp quản lý.
5. Giải pháp cho hoạt động xúc tiến thương mại.
Thứ nhất, triển khai đồng bộ, nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp của các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, bao gồm đào tạo, cung cấp thông tin về thị trường và lộ trình hội nhập, chắp mối bạn hàng, tổ chức nghiên cứu, khảo sát thị trường, hội chợ triển lãm, cấp giấy chứng nhận xuất xứ và hướng dẫn doanh nghiệp tận dụng hệ thống ưu đãi thuế quan chung – GSP để đẩy mạnh xuất khẩu, đại diện bảo hộ sở hữu công nghiệp cho doanh nghiệp .v.v....
Thứ hai, kiến nghị với Nhà nước, phối hợp với các hiệp hội thúc đẩy phát triển thị trường dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, phát triển các tổ chức cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp. Phòng chú trọng thực hiện các hoạt động xúc tiến lớn ở tầm quốc gia, hỗ trợ phát triển thương hiệu và quảng bá hình ảnh hàng hoá, dịch vụ Việt Nam; kiến nghị với Nhà nước để Phòng triển khai dịch vụ cấp sổ tạm nhập (ATA-Carnet) nhằm thúc đẩy công tác xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp.
Thứ ba, tăng cường hợp tác với các tổ chức xúc tiến thương mại đầu tư ngoài nước, chủ động tham gia vào các hoạt động của các tổ chức, diễn đàn kinh tế quốc tế của giới doanh nghiệp, của các Phòng Thương mại và các hiệp hội doanh nghiệp ở các nước, nêu cao tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và phản ứng kịp thời với những diễn biến của tình hình trong và ngoài nước, có những hình thức thích hợp đấu tranh và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, bảo vệ lợi ích thương mại của các doanh nghiệp đối với các vụ tranh chấp thương mại, các vụ kiện bán phá giá, vi phạm bản quyền v.v..., kiện toàn và đẩy mạnh hoạt động giải quyết tranh chấp thông qua hoà giải, thương lượng và trọng tài, nâng cao chất lượng tư vấn pháp luật quốc tế cho doanh nghiệp.
Thứ tư, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, ngày càng nhiều các nhu cầu mới của doanh nghiệp xuất hiện. Do vậy, bên cạnh việc chuyển giao các dịch vụ truyền thống (như tổ chức hội chợ triển lãm, quảng cáo, tư vấn sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ) cho các công ty trực thuộc, VCCI cũng cần nắm bắt nhanh các nhu cầu mới của doanh nghiệp để hình thành các loại hình dịch vụ xúc tiến mới. Đây là việc làm khó, đòi hỏi sự sáng tạo cao nhưng rất cần được quan tâm.
Thứ năm, một hoạt động xúc tiến quan trọng khác ở tầm quốc gia cũng cần được quan tâm là việc phát triển, bảo vệ thương hiệu Việt Nam và hình ảnh hàng hoá, dịch vụ Việt Nam. Để có một thương hiệu và hình ảnh tốt đối với hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đòi hỏi phải có một thời gian tương đối dài kiểm nghiệm trên thị trường, nhưng nếu không bắt tay ngay từ bây giờ thì rất khó có thể có được trong tương lai. Vì vậy, phương hướng của VCCI là đẩy mạnh tuyên truyền về tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu và hình ảnh hàng hoá của Việt Nam và hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp trên cả ba phương diện quan trọng nhất của quá trình này là nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, xây dựng phong cách kinh doanh trọng chữ tín, biết chấp nhận rủi ro và nâng cao khả năng hợp tác giữa các doanh nghiệp. Mặt khác, VCCI cũng cần vận động, thuyết phục các công ty lớn của Việt Nam đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng hình ảnh hàng hoá và dịch vụ Việt Nam.
Thứ sáu, vận động các nước công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường cũng là một trong những hoạt động XTTMĐT quan trọng ở tầm quốc gia mà các cơ quan Chính phủ, VCCI và các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp cần tích cực tiến hành trong thời gian tới. Việc làm này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập một môi trường kinh doanh quốc tế thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Thực tế hiện nay, công tác XTTMĐT ở Việt Nam đang được rất nhiều cơ quan thực hiện như Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, Tổng cục Du lịch, VCCI và các hiệp hội .v.v... Tuy nhiên một sự hợp tác, kết nối để vận động, đàm phán về vấn đề này vẫn chưa được đặt ra một cách bài bản, chuyên nghiệp. Vai trò của VCCI chủ yếu là khuyến nghị với Chính phủ quan tâm vận động cộng đồng doanh nghiệp các nước ủng hộ thúc đẩy quá trình công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường.
Thứ bẩy, đánh giá xu hướng thị trường cho thấy doanh nghiệp có rất nhiều nhu cầu về dịch vụ xúc tiến mới. Tuy nhiên, khác với doanh nghiệp kinh doanh, không phải với bất cứ nhu cầu nào của doanh nghiệp VCCI cũng tổ chức trực tiếp đáp ứng. Căn cứ vào yêu cầu của nền kinh tế và của cộng đồng doanh nghiệp, VCCI cần chọn lựa các dịch vụ xúc tiến đem lại lợi ích chung cho các doanh nghiệp và ở qui mô đủ lớn để thực hiện. Ví dụ, VCCI có thể lựa chọn triển khai các chương trình marketing chung cho các ngành nghề và cho nhóm doanh nghiệp, tiến hành dịch vụ chắp mối kinh doanh thông qua việc tham gia tích cực vào quá trình hợp tác của mạng lưới các PTM thế giới.
6. Giải pháp để đẩy mạnh cung cấp thông tin kinh doanh.
Như trong phần “Phương hướng” đã đề cập, thì Phòng cần phải đẩy mạnh hoạt động cung cấp thông tin cho khởi sự và kinh doanh. Trong thời gian tới VCCI cần tiến hành những giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng một cơ sở dữ liệu đầy đủ và cập nhật về doanh nghiệp trước hết là các doanh nghiệp hội viên. Ngoài cơ sở dữ liệu về thông tin thương mại, thị trường như đã đề cập ở phần trên, cơ sở dữ liệu doanh nghiệp phải có đủ những thông tin cần thiết để phân tích hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Cơ sở dữ liệu này sẽ cho phép phân tích tác động của các hoạt động hỗ trợ của VCCI đối với sự tăng trưởng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đây cũng chính là cơ sở để duy trì mối quan hệ với “khách hàng" của VCCI. Chẳng hạn, có thể thấy được tần suất của một doanh nghiệp tham dự các hoạt động của VCCI hoặc phân tích chỉ số tài chính... Từ đó giúp VCCI có thể đánh giá, điều chỉnh và triển khai các hoạt động một cách tối ưu.
Thứ hai, thúc đẩy hoạt động hỗ trợ trực tuyến qua trang web của VCCI hướng dẫn, trợ giúp doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử. Như đã trình bày ở phần trên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, Internet và thương mại điện tử làm thay đổi cách thức hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tiếp cận với các dịch vụ trực tuyến ngày càng nhiều hơn, do đó, nhu cầu về truy cập và sử dụng thông tin trực tuyến sẽ tăng rất cao. Hiện VCCI đã duy trì trang web tại địa chỉ www.vcci.com.vn nhưng dung lượng thông tin còn rất khiêm tốn. Cần thiết lập một cơ chế để thông tin phong phú và liên tục được cập nhật. Qua hoạt động của trang web, của Trung tâm Thông tin Kinh tế, Trung tâm xúc tiến phát triển phần mềm doanh nghiệp, từng bước hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới Thương mại điện tử toàn cầu, phối hợp với các hiệp hội doanh nghiệp hình thành các sàn giao dịch điện tử cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Bên cạnh việc tạo cơ sở vật chất cho hoạt động thương mại điện tử, VCCI cũng cần tích cực thúc đẩy việc hình thành môi trường thể chế cho hoạt động thương mại điện tử.
Thứ ba, VCCI cũng cần áp dụng các giải pháp cần thiết nhằm để tăng số lượng doanh nghiệp tham gia truy cập và sử dụng trang web của VCCI. Một trong những hình thức hiệu quả là tạo một góc dành riêng cho hội viên. Muốn truy cập vào góc này phải có tên truy nhập (username) và mật khẩu (password). Hội viên có quyền truy cập vào góc này và khai thác được nhiều thông tin hơn, chẳng hạn những tài liệu đào tạo, các thông tin thị trường, pháp luật và doanh nghiệp cập nhật nhất từng bước cung ứng dịch vụ văn phòng ảo cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây cũng là một hình thức thu hút các doanh nghiệp gia nhập VCCI.
Thứ tư, thông tin phải được đẩy mạnh phong phú và có chất lượng. Thông tin mà VCCI cần phải thật cụ thể chính xác, cố gắng chi tiết cho từng ngành nghề. Cụ thể:
Thông tin về hàng hoá. Thông thường các nhà kinh doanh nhập khẩu của các nước khi muốn tìm kiếm bạn hàng, điều họ muốn biết trước hết là họ có thể mua những hàng hoá gì ở những thị trường nào. Vì vậy các tổ chức thành công đều xây dựng một cơ sở dữ liệu mạnh về các sản phẩm và dịch vụ xuất khẩu của nước mình. Nội dung thông tin về sản phẩm và dịch vụ bao gồm các loại sản phẩm và dịch vụ hiện đang có tại thị trường với đầy đủ các thông tin cơ bản về qui cách, phẩm chất, giá cả, điều kiện bán hàng. Đồng thời các sản phẩm và dịch vụ đều được gắn với một hoặc một số nhà cung cấp.
Một cơ sở thông tin như vậy cho phép tổ chức XTTMĐT nhanh chóng trả lời các thư hỏi, yêu cầu về việc tìm kiếm người bán của khách hàng các nước. Đây thường là cách tạo ra khả năng hấp dẫn cao về cung cách làm ăn ngay từ đầu cho đối tác nước ngoài.
Thông tin về thị trường. Trái với các nhà nhập khẩu, những nhà sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam lại cần các thông tin về thị trường các nước để đánh giá qui mô và dung lượng thị trường trước khi hình thành chiến lược thâm nhập thị trường. Thường thì thông tin về thị trường được phân "tầng" theo tính chất. ở mức thấp, đó là các thông tin căn bản về thương mại của một nước như dung lượng thị trường (dân số và thu nhập đầu người, kim ngạch buôn bán, các đối tác thương mại chính), tính chất thị trường (như lịch sử hình thành, tôn giáo, các ngày lễ hội, cơ sở hạ tầng, thế mạnh và các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, khái quát về hệ thống pháp luật...) và các điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến khuynh hướng tiêu dùng (như khí hậu, thời tiết...). ở tầng sâu hơn, là phân tích một dòng hàng cụ thể (chẳng hạn đối với mặt hàng giày dép thì bao gồm kim ngạch nhập khẩu mặt hàng giày dép, các loại giày dép và thị phần của từng nước xuất khẩu, mô hình tổ chức các kênh phân phối...).
Vì vậy, để tổ chức thông tin thị trường rất cần hình thành một hệ thống chỉ tiêu thống nhất. Trên cơ sở đó mới tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu giúp doanh nghiệp có thể so sánh lựa chọn nước bạn hàng thích hợp.
Có thể thấy hiện nay ở nước ta về mặt kỹ thuật xử lý số liệu không còn nhiều vấn đề khó khăn mà khó khăn chủ yếu là việc xây dựng một qui trình tập hợp và cập nhật thông tin. Vì vậy, một mặt, VCCI cần nhanh chóng nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông tin, phát triển các phần mềm tiện ích để kết hợp các qui trình xây dựng thông tin của cơ quan. Mặt khác, VCCI sẽ phải tăng cường hợp tác với Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại và các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài ở Việt Nam và các hiệp hội doanh nghiệp để phối hợp cơ sở dữ liệu phục vụ doanh nghiệp tiến tới phát triển một cơ sở dữ liệu thống nhất về thông tin thị trường.
Thông tin về doanh nghiệp, thông tin doanh nghiệp là cơ sở để tìm hiểu đối tác kinh doanh, đảm bảo sự tin tưởng trong quan hệ hợp tác, buôn bán. Cơ sở thông tin doanh nghiệp cho phép tránh những đối tác “ma" vì nó chứa đựng đầy đủ những thông tin “nhân thân" cập nhật của doanh nghiệp.
7. Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp tài chính cho khởi sự doanh nghiệp.
Trợ giúp tài chính là một hoạt động có thể nói là còn nhiều yếu kém nhất của Phòng. Điều này xuất phát từ vai trò vị trí của Văn Phòng là một đơn vị độc lập, do đó phải tự túc về kinh phí hoạt động. Những hoạt động trợ giúp của Phòng chủ yếu là trợ giúp cộng đồng không mang tính kinh doanh vì thế tài chính cho trợ giúp cần phải có hướng đi mới phù hợp. Để có trợ giúp tài chính cho khởi sự doanh nghiệp thời gian tới cần phải tiến hành các hoạt động:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh phát triển các hoạt động trợ giúp khởi sự như là một luận cứ để kêu gọi sự hợp tác trợ giúp tài chính cho khởi sự.
Thứ hai, tăng cường mối liên kết, củng cố và phát triển mối quan hệ với các tổ chức tín dụng nhằm hình thành nguồn quỹ lớn hơn có thể đảm bảo việc bảo lãnh tín dụng cho người khởi sự.
Thứ ba, tăng cường tuyên truyền giáo dục về vai trò và vị trí của việc tự khởi sự nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong cộng đồng vào việc hình thành doanh nghiệp. Đây là một hướng đi cần phải đẩy mạnh vì hiện nay nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân chúng là rất lớn Phòng cần có sự khuyến khích người dân liên kết cùng tiến hành khởi nghiệp.
Thứ tư, cùng với các tổ chức tài chính, các cơ quan nhà nước tích cực xây dựng quy chế cho vay ưu đãi đối với người khởi sự đặc biệt là người khởi sự tại các khu vực khó khăn.
8. Hoàn thiện hệ thống đánh giá kết quả trợ giúp khởi sự doanh nghiệp của VCCI.
Bất kể là một công ty, một hiệp hội hay một tổ chức nào khác, để thực hiện tốt các hoạt động của mình cũng cần phải có hệ thống thông tin nội bộ thật hoàn thiện để có thể phản hồi một cách chính xác về tình hình hoạt động của mình. VCCI cũng không phải là một ngoại lệ. Về hệ thống thông tin nội bộ của VCCI, có thể nói là được đánh giá vào diện hoàn thiện bậc nhất ở Việt Nam. Nhưng dù có hiện đại đến mấy cũng có những điểm yếu. Với VCCI thì một hệ thống đánh giá hiệu quả hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp chính là một chính là vấn đề cần hoàn thiện.
Mặc dù hệ thống đánh giá hiệu quả cũng la một nhân tố của hệ thống tổ chức quản lý nhưng chính vai trò quan trọng của nó mà trong đề tài này xin được đề cập riêng trong mục này (xem thêm phần giải pháp 1).
Hiện nay VCCI, đang hoàn thiện và sử dụng phần mềm đánh giá hiệu quả hoạt động trợ giúp mang tên là MIS. Nó là một phần mềm quản trị thông tin đã được sử dụng tích cực. MIS cung cấp các thông tin về các tổ chức đối tác, cán bộ đào tạo, các lớp đào tạo giảng viên, doanh nghiêp, cũng như các hoạt động khác trên thực địa như giới thiệu chương trình, giới thiệu tài liệu mới, họp mạng... Sử dụng hệ thống quản trị thông tin này, người truy cập có thể rút ra báo cáo nhanh theo các tiêu chí thực hiện khác nhau từ đó giúp ích cho các bên tham gia trong việc hoạch định chiến lược của chương trình trong tương lai. Nhưng cũng dễ dàng nhận ra được rằng hệ thống này được xây dựng chủ yếu (gần như là hoàn toàn) đáp áp dụng riêng cho hoạt động đào tạo khởi sự, trong khi đó lại chưa có một hệ thống các chỉ tiêu phân tích đánh giá các hoạt động khác. Với mục tiêu thực hiện tốt hơn những hoạt động trợ giúp thì Phòng cần phải có một hệ thống đánh giá chung cho các hoạt động và hoạt động trợ giúp khởi sự nói riêng.
Kết luận
Khởi sự doanh nghiệp là bước khởi đầu để đưa doanh nghiệp đến thành công. Trong điều kiện kinh doanh ngày nay, khởi sự kinh doanh có nhiều ý nghĩa. Sự thành công hay thất bại trong kinh doanh về sau phụ thuộc phần nhiều vào sự khởi đầu đó. Nhiều doanh nghiệp vì lý do này hay lý do khác được thành lập khi chưa hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và nó như thể những đứa con “đẻ non” ốm yếu rồi dần mất đi trong môi trường cạnh tranh ác liệt. Để có thể thành công, để doanh nghiệp phát triển dài lâu, người chủ của nó cần có đủ những điều kiện cần thiết. Họ cần có kỹ năng quản lý, sự hiểu biết về ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh, có nguồn vốn lớn, cần thông tin tốt, cần tư vấn và nhiều vấn đề khác nữa. Nhiều người đã nỗ lực để phá bỏ những rào cản ngay từ đầu nhưng họ cảm thấy thật khó, thậm chí có những điều bản thân họ không thể thực hiện được như một quy định pháp luật thuận lợi cho việc khởi sự, một môi trường cạnh tranh bình đẳng, một mối quan hệ giao thương với nước ngoài trên cơ sở hiểu biết và làm ăn lâu dài... Những thứ mà bản thân người khởi sự không thể có được buộc họ phải tìm đến với những người, những tổ chức sẵn sàng và có đủ năng lực cũng như uy tín có thể trợ giúp cho họ.
Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam ra đời và trưởng thành như ngày nay đã từng trải qua nhưng thời kỳ khó khăn nhất. Những khó khăn thách thức đã vượt qua cũng đã chứng tỏ cho sức mạnh, uy tín của một tổ chức phi chính phủ và cũng chính những uy tín đó đã đưa VCCI đến với những nhiệm vụ mới cao cả hơn, khó khăn hơn. Bên cạnh việc đóng vai trò là tổ chức kết lối giới doanh nghiệp với Chính phủ, nay Phòng còn có chức năng nữa là thực hiện trợ giúp cho cộng đồng doanh nghiệp.
Trợ giúp khởi sự doanh nghiệp là một nội dung hoạt động cũng chưa phải là lâu nhưng với cố gắng của tập thể cán bộ Phòng, những kết quả đạt được cũng là một thành tựu mới được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao. Các hoạt động trợ giúp khởi sự doanh nghiệp chung cho cộng đồng là mảng quan trọng trong các hoạt động trợ giúp của Phòng. Nhiều năm liên tục kết quả hoạt động luôn đạt mức tăng trưởng cao, chất lượng hoạt động không ngừng được nâng cao. Phòng đã tích cực tham mưu, tư vấn cho Đảng và Nhà nước trong ban hành cơ chế chính sách, pháp luật nhằm tạo dựng môi trường ổn định, bình đẳng, thuận lợi cho người khởi sự. Những hoạt động xúc tiến thương mại vĩ mô được thực hiện tương đối tốt góp phần xây dựng và phát triển hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, những cuộc tiếp xúc, tìm hiểu thị trường của các đối tác nước ngoài mở ra nhiều cơ hội kinh doanh mới cho người khởi sự nói riêng và những doanh nghiệp đang hoạt động nói chung. Công tác đào tạo khởi sự trên cơ sở liên kết, tiếp thu công nghệ đào tạo tiên tiến nước ngoài đã bước đầu đã tạo dựng được một đội ngũ cán bộ giảng dạy, đào tạo được nhiều khoá với sự tham gia đông đảo của cộng đồng. Kết quả đào tạo khởi sự đó là nền tảng cho việc hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân mới, tiên tiến đáp ứng được sự nghiệp phát triển và hội nhập của đất nước. Và rất nhiều hoạt động trợ giúp khác đều nhắm vào mục tiêu tạo dựng một môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung và khởi sự doanh nghiệp nói riêng. Mảng thứ hai trong số các hoạt động trợ giúp khởi sự đó là những hoạt động mang tính chất dịch vụ nghiệp vụ nhằm đáp ứng từng nhu cầu cụ thể của từng người khởi sự, của từng doanh nghiệp. Đó là hoạt động tư vấn khởi sự, tư vấn đăng ký kinh doanh, cung cấp thông tin thị trường, những dịch vụ xúc tiến thương mại như hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, các hoạt động trợ giúp về mặt tài chính cho người khởi sự.
Bên cạnh những thành tự đã đạt được Phòng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức trong thời gian tới. Vấn đề quản lý hoạt động trợ giúp, vấn đề kinh phí hoạt động, vấn đề chất lượng của hoạt động trợ giúp còn nhiều hạn chế... đó là những vấn đề cần phải giải quyết trong thời gian tới nhằm ngày càng hoàn thiện các hoạt động trợ giúp khởi sự góp phần xây dựng đội ngũ doanh nhân mạnh, mang đậm chất văn hoá Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
Tài liệu khởi sự của Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam.
Marketing for the self-employed – Martin Edic - Prima Publishing, 1997.
Báo cáo tổng kết các năm của VCCI, 2000 – 2003.
Báo cáo thành tích đề nghị tặng thưởng huân chương lao động hạng nhất.
Báo cáo của các phòng ban chuyên môn trực thuộc VCCI các năm 2000 -2003.
Đổi mới hoạt động tổ chức quản lý của VCCI – Vũ Tiến Lộc, 2002.
Khởi sự kinh doanh - ĐH. KTQD, 1999.
Giải pháp cho hoạt động xúc tiến thương mại – Cục Xúc tiến thương mại Bộ Thương Mại, 2003.
Mục Lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0103.doc