Đề tài Đẩy mạnh hội nhập Quốc tế trong du lịch sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO

1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt nam đã khẳng định thực hiện nhất quán : “ Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” ( Tr. 19, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội 2001). Tại Việt Nam, du lịch là cầu nối giao lưu kinh tế có quan hệ chặt chẽ với chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế của Đảng và Nhà nước. Mở rộng du lịch quốc tế gắn liền với tăng lượng khách phục vụ, trong đó sự đi lại, tìm hiểu thị trường của khách thương nhân được chú trọng. Từ đó du lịch thúc đẩy đầu tư, buôn bán quốc tế Bản thân hoạt động kinh doanh du lịch phải phát triển theo hướng quốc tế hoá, vì khách du lịch thường được nhiều nước trong một chuyến đi du lịch dài ngày. Hình thức liên doanh, liên kết ở phạm vi quốc tế trong kinh doanh du lịch là phương thức kinh doanh đem lại lợi nhuận kinh tế cao. Hoạt động kinh doanh du lịch với lợi nhuận kinh tế cao, đến lượt nó lại kích thích đầu tư nước ngoài vào du lịch và tăng cường chính sách mở cửa. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đặc biệt là xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng về các ngành dịch vụ đã mở ra một cơ hội phát triển thuận lợi cho ngành du lịch đất nước. Do là một ngành khá nhạy cảm đối với những sự biến động của môi trường xung quanh, đặc biệt là môi trường vĩ mô nên bất cứ một động thái nào trong yếu tố vĩ mô đều ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng cũng như tốc độ phát triển của du lịch. Việc hội nhập quốc tế của du lịch Việt Nam, một mặt là do chính bản chất của ngành – lĩnh vực kinh tế Quốc tế đòi hỏi. Mặt khác, là do đường lối phát triển xã hội của Việt Nam quyết định. Bởi du lịch vốn là một ngành kinh tế dịch vụ đặc biệt, mang chuẩn mực quốc tế cao, tạo cảm giác thoải mái cho du khách nên nó phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố xung quanh - những yếu tố đem đến tâm lý thoải mái và dễ chịu như: chính trị ổn định, môi trường trong sạch, cơ sở vật chất hấp dẫn, chính sách nhập cảnh đơn giản, thuận lợi . Trong những năm qua, hội nhập Quốc tế của du lịch Việt Nam đã có nhiều thành công góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh ngành du lịch, góp phần tích cực trong quá trình đàm phán của Việt Nam vào WTO. Tuy nhiên khi Việt Nam đã là thành viên của WTO thì yêu cầu đặt ra đối với hội nhập Quốc tế lại càng quan trọng hơn. Một mặt, hội nhập Quốc tế tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc phát huy lợi thế so sánh và nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trên cả 3 cấp độ : Quốc gia, ngành và doanh nghiệp. Mặt khác, phải giữ nguyên tắc hội nhập của Đảng và Nhà nước Việt Nam là : Hội nhập nhưng phải giữ độc lập tự chủ, tự lực tự cường, bảo đảm an ninh quốc gia, ổn định chính trị -xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây, nhóm sinh viên ngành Quản trị du lịch K46 chúng em mạnh dạn chọn đề tài : “Đẩy mạnh hội nhập Quốc tế trong du lịch sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO” làm công trình nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2007. 2. Đối tượng nghiên cứu : Hội nhập quốc tế của ngành du lịch Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu quá trình hội nhập quốc tế của ngành du lịch Việt Nam. 3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài : Tìm ra các bài học kinh nghiệm của Du lịch Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế. 4. Phương pháp nghiên cứu : Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, thu thập các dữ liệu thứ cấp về các sự kiện hội nhập kinh tế Quốc tế của ngành du lich Việt Nam, phân tích các kết quả hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển của ngành du lịch. 5. Kết cấu đề tài nghiên cứu Không kể mở đầu, kết luận công trình khoa học này được kết cấu thành 3 chương : Chương 1. Cơ sở khoa học về hội nhập Quốc tế trong du lịch. Chương 2. Khái quát về thực trạng hội nhập quốc tế của ngành du lịch Việt Nam. Chương 3. Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quan hệ quốc tế trong du lịch sau khi Việt Nam gia nhập WTO.

doc59 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2175 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đẩy mạnh hội nhập Quốc tế trong du lịch sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đàn kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC); là sáng lập viên Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM). Cùng với các nước ASEAN ký Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, ASEAN Hàn Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Úc và Niu Zilân. Ký hiệp định thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA). Đây là những bước đi quan trọng, là sự "cọ xát" từng bước trong tiến trình hội nhập. Thực tiễn những năm qua chỉ rõ: khi mở cửa thị trường, lúc đầu chúng ta có gặp khó khăn. Mở cửa buôn bán biên giới với Trung Quốc, hàng hoá nước bạn tràn vào đẩy doanh nghiệp nước ta vào thế bị động, một số ngành sản xuất "lao đao", một số doanh nghiệp phải giải thể. Tuy nhiên với thời gian, các doanh nghiệp nước ta đã vươn lên, trụ vững và đã có bước phát triển mới. Nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ sản xuất, cải tiến kiểu dáng, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhờ đó mà tăng được sức cạnh tranh, phát triển được sản xuất, mở rộng được thị trường. Thực hiện các cam kết theo hiệp định mậu dịch tự do ASEAN, chúng ta đã loại bỏ hàng rào phi quan thuế, giảm thuế nhập khẩu. Đến năm 2006, có 10.283 dòng thuế chiếm 99,43% biểu thuế nhập khẩu ASEAN có thuế suất chỉ ở mức 0 - 5%, nhưng các ngành sản xuất của ta vẫn phát triển với tốc độ cao. Trong nhiều năm qua, sản xuất công nghiệp tăng trung bình 15 - 16%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình trên 20%/năm là nhân tố quan trọng bảo đảm tăng trưởng kinh tế khá cao và liên tục, tạo thêm nhiều công ăn việc làm. Điều đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lâu dài là tiến trình đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã từng bước xuất hiện lớp cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao, thông thạo ngoại ngữ, xuất hiện một đội ngũ những nhà doanh nghiệp mới, có kiến thức, năng động và tự tin, dám chấp nhận mạo hiểm, dám đối đầu với cạnh tranh. Đây là nguồn lực quý báu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trên cơ sở những thành tựu đạt được sau gần 10 năm đổi mới, năm 1995, nước ta chính thức làm đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Nhận thức rõ “toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia” (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII tại Đại hội toàn quốc của Đảng tháng 4 năm 2001) và thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị khoá VIII về hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã nỗ lực hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, kiên trì đàm phán trên cả 2 kênh song phương (mở cửa thị trường) và đa phương (thực hiện các hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới). Ngày 07 tháng 11 vừa qua, nước ta đã chính thức được kết nạp vào tổ chức này. Đảng ta chủ trương: "Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới". Sau khi gia nhập ASEAN, APEC, ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) và các hiệp định thương mại song phương và đa phương khác, Việt Nam đã là nước có vai trò tích cực trên diễn đàn ở khu vực và có những sáng kiến được các thành viên đánh giá cao. Đặc biệt, những hoạt động của lãnh đạo cấp cao gần đây như: Hội nghị cấp cao Không liên kết, Hội nghị cấp cao ASEM, Hội nghị Diễn đàn Nghị viện Châu Á-Thái Bình Dương, Đại Hội đồng Liên minh Nghị viện ASEAN, Hội nghị cấp cao Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp… và đặc biệt là nước ta vừa tổ chức thành công Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 14. Điều đó khẳng định vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo một dấu ấn Việt Nam, góp phần nâng cao hình ảnh sâu đậm về một Việt Nam năng động, cởi mở, mến khách và ổn định về chính trị. 2.3.2. Một số hoạt động tiêu biểu của Du lịch Việt Nam trong hội nhập Quốc tế Hiệp hội du lịch Châu Á -Thái Bình Dương(PATA) Với các cơ hội và thách thức mà ngành du lịch Việt Nam phải đối mặt khi vào WTO thì vai trò của hiệp hội du lịch Châu Á_Thái Bình Dương(PATA) nói chung và PATA Việt Nam nói riêng cần phải được hiểu rõ nét hơn nhằm phát huy được các lợi ích của hội viên khi tham gia vào PATA. Hiệp hội du lịch Châu Á_Thái Bình Dương(PATA) được thành lập từ 1951 tại Hawai.Lúc đầu, PATA chỉ có 4 chi hội tại Neư York và Luân Đon.Đến năm 2004, PATA pgát triển được 79 chi hội trên 40 quốc gia thuộc khu vực châu Á_Thái Bình Dương.Tuy nhiên tuân thủ các điều lệ để được công nhận là một chi hội không được đảm bảo, do đó, năm 2005 PATA đã quyết định ngưng hoạt động của một số chi hội và hiện tại còn 30 chi hội được tiếp tục công nhận và hoạt động dưới sự trợ giúp của PATA. PATA hỗ trợ chi hội các mặt như:cung cấp thông tin mở rộng thị trường, quảng bá, đào tạo, cấp logo riêng cho Ban Chấp Hành (BCH) chi hội với sắc thái chi hội để sử dụng trong các giấy tờ có tiêu đề PATA. Mặt khác, chi hội cần thực hiện các điều khoản tương ứng theo nghị quyết của PATA như : đảm bảo có tối thiểu 10 thành viên của hiệp hội là những thành viên hoạt động gắn bó với chi hội và sử dụng phù hợp logo của PATA thiết kế cho BCH chi hội dùng trong các quảng bá chung của chi hội.Nếu hội viên chi hội muốn sử dụng logo PATA thì cần đăng ký trở thành thành viên của hiệp hội. Năm 1994, được sự đồng ý của Chính Phủ và của Tổng cục du lịch, được PATA TW chấp thuận, chi hội PATA Việt Nam được công nhận là đại diện chính thức của PATA tại Việt Nam. Chi hội PATA Việt Nam là một tổ chức nghề nghiệp trong đó các thành viên đơn bị thuộc mọi thành phần kinh tế liên quan đến lĩnh vực du lịch, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, liên kết tự nguyện nhằm trao đổi thông tin, hợp tác và giúp nhau phát triển theo pháp luật nhà nước Việt Nam và phù hợp với điều lệ Hiệp hội PATA. Trải qua hơn 10 năm hoạt động, từ chỗ ban đầu chỉ có 19 hội viên, đến nay chi hội đã kết nạp được gần 200 thành viên, hầu hết là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực lữ hành, khách sạn, vận tải…trong cả nước. Chi hội đã tổ chức nhiều hoạt động như:hội thảo, cung cấp thông tin, đào tạo ngắn hạn, quảng bá du lịch Việt Nam thông qua các sự kiện của PATA tại nước ngoài, quảng bá cá sự kiện trong nước qua trang web của PATA quốc tế, giao lưu với chi hội Thái Lan… Khi trở thành thành viên chính thức của PATA, các thành viên sẽ được hưởng các lợi ích sau: - Được chi hội hỗ trợ trong hoạt động kinh doanh, mở rộng hợp tác kinh doanh trong và ngoài nứơc. - Được cung cấp thông tin theo định kỳ thông qua trang web của chi hội WWW.patavietnam.org - Được tham gia các chương trình hoạt động do chi hội tổ chức - Được tham gia góp ý kiến và quyết định kế hoạch hoạt động cho chi hội. Mặt khác, để tạo điều kiện cho chi hội thực hiện được các quyền lợi của mình, thành viên cần chấp hành nghiêm chỉnh điều lệ và các nghị quyết của Chi hội, tích cực tham gia các hoạt động cuả chi hội góp phần xây dựng chi hội lớn mạnh. Lợi ích PATA mang lại cho thành viên là những lợi ích chiến lược nhằm giúp cho thành viên tự bổ sung, trang bị cho mình những công cụ để xây dựng lợi thế cạnh tranh và đặc biệt là hội nhập vào thương trường trong nước cũng như quốc tế. Đó là sự hỗ trợ về thông tin và quảng bá… Trước sự hội nhập toàn diện của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới,PATA Việt Nam cần chủ động hơn trong việc kết nối giữa các doanh nghiệp trong nước, giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý nhằm tạo ra cơ hội kinh doanh cho các thành viên tự nắm bắt cũng như hỗ trợ các phương thức kỹ thuật để các thành viên am hiểu vượt qua được những thách thức trong cơ chế thị trường. DiÔn ®µn hîp t¸c kinh tÕ APEC Năm 1998 là một cột mốc trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Là thành viên của APEC có ý nghĩa chính trị và kinh tế quan trọng đối với Việt Nam. Về chính trị, là thành viên của APEC, Việt Nam có uy tín lớn hơn và tiếng nói có trọng lượng hơn trên trường quốc tế. Các hội nghị bộ trưởng thương mại và ngoại giao hàng năm, và đặc biệt là Hội nghị Cấp cao của các nền kinh tế (từ năm 1993) là cơ hội quý báu để thực hiện các cuộc gặp song phương cấp cao và để tham gia vào việc quyết định các vấn đề quan trọng trong khu vực. Về kinh tế, Việt Nam có thể tiếp cận tốt hơn với nhiều nguồn vốn hơn, với công nghệ hiện đại và kiến thức quản lý thông qua các hoạt động thương mại và đầu tư chặt chẽ hơn với các thành viên APEC khác, trong đó có cả những nền kinh tế lớn nhất thế giới (như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Ca-na-đa). Các sự kiện hàng năm của APEC như Hội nghị Thượng đỉnh CEO APEC, Hội chợ Cơ hội Đầu tư, Đối thoại giữa các nhà lãnh đạo với Hội đồng tư vấn doanh nhân APEC (ABAC) đang kết nối một cách có hiệu quả các doanh nghiệp Việt Nam với cộng đồng doanh nghiệp khu vực để làm ăn cùng có lợi. Vào thời điểm tháng 12 năm 2004, 65,6% tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam là từ các nền kinh tế thành viên APEC, đồng thời các nền kinh tế thành viên APEC chiếm 60% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam và 80% tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam. Với tiềm năng du lịch to lớn, có nhiều di sản văn hoá và di sản thiên nhiên Thế Giới, cảnh quan, địa hình, khí hậu đa dạng và hấp dẫn, văn hoá ẩm thực phong phú, sự cởi mở, thân thiện mến khách của người dân...tất cả những cái đó đã đem đến những lợi thế cho ngành kinh tế du lịch. Vì vậy, du lịch được coi là mội hướng ưu tiên hợp tác trong khối APEC nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cộng đồng, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, tăng cường giao lưu văn hoá giữ gìn hoà bình và ổn định ở khu vực. Chỉ tính riêng năm 2005, du lịch khối APEC đón hơn 237 triệu lượt khách quốc tế, chiếm gần 30% tổng lưọng khách du lịch Thế Giới, thu nhập từ du lịch đạt 231 tỷ USD, tương đương 34% thu nhập du lịch toàn cầu và trở thành một trong những trung tâm du lịch hàng đầu Thế Giới. Việc tổ chức hội nghị bộ trưởng du lịch APEC trong diễn đàn hợp tác kinh tế sẽ tạo điều kiện củng cố, tăng cường hợp tác song phương giữa Việt Nam với các nền kinh tế thành viên, tạo cơ sở khai thác tốt hơn nữa nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển du lịch. Là dịp để tăng cường quảng bá hình ảnh du lịch của Việt Nam, góp phần tuyên truyền, quảng bá đất nước, con người, tiềm năng du lịch quốc gia, tạo hình ảnh đậm nét về một nước Việt Nam năng động, cởi mở, một điểm đến an toàn ,hấp dẫn. Thông qua việc tổ chức hội nghị, du lịch Việt Nam có thêm kinh nghiệm quý báu về kỹ năng tổ chức, đàm phán, chủ trì Hội nghị, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa trong tăng cường hợp tác với các nền kinh tế APEC, tạo cơ sở để phát triển loại hình du lịch MICE trong thời gian tới. Là cơ hội để du lịch Việt Nam nâng cao chất lượng dịch vụ, đào tạo nguồn nhân lực du lịch đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, tăng cường sức mạnh cạnh tranh thu hút du khách trong hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt say khi Việt Nam gia nhập WTO. Việc gia nhập tổ chức Thương mại Thế Giới sẽ có tác động rất lớn đối với ngành du lịch nói chung, đối với các doanh nghiệp lữ hành nói riêng. Gia nhập WTO sẽ đem lai cơ hội lớn cho các doanh nghiệp lữ hành nhưng cũng mang theo những thách thức không nhỏ khi chúng ta tham gia một sân chơi chung. Việt Nam - ASEM 5 Việt Nam là một trong 10 nước thành viên đại diện cho châu Á, trong quá trình hoạt động, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực vào tiến trình hợp tác Á – Âu , giúp ASEM ngày càng hoàn thành tốt vai trò của mình, không chỉ với quá trình phát triển toàn diện của 2 châu lục Á – Âu mà còn với quá trình phát triển toàn diện của Thế Giới. Với sự đề xuất của chính phủ Việt Nam và sự nhất trí thông qua của các vị lãnh đạo các nước thành viên ASEM trong hội nghị cấp cao ASEM 4, ASEM 5 đã được tổ chức ở thủ đô Hà Nội - Việt Nam vào tháng 10 – 2004. Tham gia vào ASEM, Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn đặc thù của mình. Trong đó, những khó khăn nổi bật là: Việt Nam là một nước đang phát triển ở trình độ thấp. Nền kinh tế đang chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của tiến trình hôi nhập kinh tế Quốc tế, thực hiện chính sách mở cửa thị trường. Tuy nhiên bên cạnh đó, Việt Nam cũng có những thuận lợi lớn: đó là sự ổn định tốt về chính trị. Trong thời gian gần đây Việt Nam đã đạt được những tiến bộ quan trọng về kinh tế và chính trị. Đây là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam khi tham gia tiến trình hội nhập. Tuy nhiên, với vai trò là thành viên tích cực của ASEM, quan hệ của Việt Nam với ASEM không chỉ thể hiện trong việc tích cực triển khai các thoả thuận của 4 kỳ hội nghị về 3 lĩnh vực chủ chốt mà còn chủ động đưa ra nhiều sáng kiến góp phần làm phong phú và đa dạng thêm các hoạt động trong khuôn khổ của ASEM. Trong hơn 8 năm hoạt động tích cực Việt Nam đã đứng ra đăng cai, tổ chức cũng như đã phối hợp với quỹ ASEF tổ chức các hoạt động thuộc các chương trình giao lưu, trao đổi, trong đó phải kể đến một loạt các cuộc hội thảo, hội nghị và diễn đàn. Tháng 10-2004, hội nghị cấp cao ASEM5 họp tại Hà Nội. Chính phủ Việt Nam đã đề xuất chủ đề: “ tiến tới quan hệ đối tác Á-Âu sống động và thực chất hơn” với mong muốn đây sẽ là một dấu ấn quan trọng trong việc củng cố và phát triển hơn nữa quan hệ đối tác bình đẳng giữa hai châu lục trên cả chiều rộng và chiều sâu, đưa tiến trình hợp tác Á-Âu lên một tầm cao mới. Với chủ đề này, ASEM 5 đã tập trung vào những vấn đề hợp tác kinh tế giữa hai châu lục, thảo luận về những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của EU sau khi mở rộng đến các nước ASEAN. Hội nghị là một cơ hội mới để các thành viên đề cập và giải quyết một số vấn đề còn tồn tại. Theo đánh giá của giới nghiên cứu, ASEM sẽ khó mà có được sự định hình trong tương lai một khi hai phía không có nỗ lực chung vượt qua sự khác biệt về văn hoá, chính trị, xã hội để cùng tiến tới hợp tác có hiệu quả. Vì vậy bên cạnh những vấn đề về kinh tế, ASEM 5 sẽ là cơ hội để giải quyết những khác biệt giữa các thành viên ASEM. Ngay từ đầu, hợp tác kinh tế - tài chính được đánh giá là lĩnh vực hợp tác năng động nhất của ASEM, và dường như đây là lĩnh vực hợp tác được các thành viên trong khu vực Châu Á quan tâm hơn. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến đưa ra từ phía đối tác ASEM ở Châu Âu rằng, cần cân đối lại mối quan hệ hợp tác trong khuôn khổ ASEM để đảm bảo sự bình đẳng. Vấn đề đặt ra làm sao để ASEM là sức mạnh bổ sung chứ không trở thành gánh nặng cho mỗi bên trong quá trình phát triển. Bàn về việc tạo ra sức sống mới trong quan hệ Á-Âu vào thời điểm này có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Chương trình nghị sự của ASEM5 bao gồm phần thảo luận về mở rộng ASEM, kết nạp thành viên mới. Như vậy ASEM 5 gánh một trọng trách đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của Á-Âu hướng tới tương lai. Vai trò của ASEM ngày càng trở nên thiết yếu quan trọng và không thể thiếu không chỉ trong quá trình hợp tác mà cho cả sự phát triển toàn cầu. Với ASEM 5 có thể đánh giá cho một dấu mốc lịch sử cho một giai đoạn chuyển tiếp của ASEM, đưa ASEM lên một tầm cao mới. Việt Nam với vai trò là nước chủ nhà đăng cai tổ chức hội nghị, Việt Nam không chỉ trực tiếp cùng các nước điều phối viên khác điều phối quan hệ và các hoạt động chung của ASEM, mà còn phải chủ trì và tham gia nhiều hội nghị quan trọng của cấp bộ trưởng, thứ trưởng. ASEM 5 do phó thủ tướng Vũ khoan làm chủ tịch và bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy Niên làm phó chủ tịch. Dưới uỷ ban quốc gia là năm tiểu ban phụ trách các phần việc cụ thể chuẩn bị cho ASEM5. Các tiểu ban này bao gồm: Tiểu ban Nội dung Tiểu ban lễ tân Tiểu ban vật chất- hậu cần Tiểu ban an ninh – chính trị Tiểu ban tuyên truyền - văn hoá Các tiểu ban này có sự tham gia của 14 bộ, ngành có liên quan. Ngoài ra, Uỷ ban có một bộ phận thường trực giúp việc gọi là ban thư ký ASEM 5, đặt tại bộ ngoại giao. Để phổ biến sâu rộng những thông tin về công tác chuẩn bị cho ASEM 5, ngày 3/6/ 2004, vụ báo chí bộ ngoại giao Việt Nam đã phối hợp với chương trình nghiên cứu Châu Âu tại Việt Nam (ESVC) và viện FES tổ chức hội thảo báo chí ASEM. Hội thảo đã cung cấp cho báo chí cả trong và ngoài nước những thông tin cơ bản về diễn đàn ASEM, vai trò của ASEM trong quan hệ quốc tế, sự tham gia của Việt Nam vào tiến trình ASEM cũng như sự chuẩn bị tích cực của Việt Nam cho ASEM 5. Cũng thông qua hội thảo này báo giới đã giúp cho những người làm công tác chuẩn bị cho ASEM 5 hiểu được những kinh nghiệm trong việc tổ chức đưa tin ở các hội nghị ASEM trước để Việt Nam tham khảo nhằm hoàn thiện công tác chuẩn bị về mặt thông tin và đưa tin của báo chí tại ASEM 5. ASEM là cầu nối quan trọng để các nước Á- Âu cùng chia sẻ quan điểm, tìm biện pháp thúc đẩy hợp tác. Riêng đối với nước chủ nhà của hội nghị cấp cao ASEM, còn có thêm những lợi ích quan trọng bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp. Về lợi ích trực tiếp Việc tổ chức ASEM 5 sẽ tạo điều kiện cho hoạt động du lịch của Việt Nam có cơ hội phát triển bởi trong dịp này không chỉ có du khách đến từ khu vực ASEM mà còn thu hút nhiều khách quốc tế nói chung. Thêm vào đó, các hợp tác kinh tế cũng giúp Việt Nam nâng cao sức hấp dẫn của môi trường kinh doanh, nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Về lợi ích gián tiếp: Cải thiện vị thế của Việt Nam trên bản đồ thế giới là cơ hội để nhà tổ chức giới thiệu đây là một nơi khá thuận lợi và hấp dẫn với việc tổ chức các cuộc hội nghị, gặp gỡ của khu vực và thế giới, là địa chỉ lý tưởng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thông qua hoạt động thu hút khách du lịch đến từ ASEM, hội nghi cũng sẽ giúp người dân Việt Nam không chỉ hiểu rõ hơn về ASEM mà còn có được nhiều thông tin và hiểu biết hơn nữa về con người, các nền văn hoá, phong tục tập quán của các nước thuộc thành viên ASEM cũng như của các nước khác trên thế giới. Có thể nói đây là một cơ hội tốt cho Việt Nam với bạn bè ASEM và thế giới về một đất nước đang phát triển ổn định và đầy tiềm năng. Hội nghị cấp cao ASEM diễn ra trong bối cảnh ASEM đã hình thành và phát triển được hơn một thập kỷ. Hơn tám năm với hoạt động hợp tác toàn diện và mang tầm quốc tế không phải là dài, tuy nhiên ASEM 5 đã đạt được nhiều tiến bộ và thành công đáng kể, đóng góp tích cực vào quan hệ phát triển Á- Âu và toàn cầu. Nhưng có thể thấy hai châu lục Á- Âu và thế giới đang đứng trước nhiều sự kiện và bước tiến quan trọng đem lại nhiều cơ hội và thách thức cho tiến trình hợp tác ASEM, đòi hỏi các nước thành viên phải cùng nỗ lực hơn nữa vì một mục tiêu hoà bình, ổn định và phát triển bền vững. Hội nhập kinh tế quốc tế về du lịch trong ASEAN: Mục tiêu chung: phát triển ASEAN thành một điểm du lịch chung có khả năng cạnh tranh trên thế giới, trên cơ sở kết hợp thế mạnh của từng thành viên, phát triên du lịch bền vững, tạo điều kiện tự do hoá đi lại trong khu vực. Trong ASEAN có hai mảng hợp tác Thứ nhất là hợp tác chuyên ngành du lịch. Mục tiêu của hợp tác chuyên ngành du lịch được cụ thể hoá trong năm chiến lược: Phối hợp tiếp thị chung ASEAN - là một điểm du lịch thống nhất. Tạo điều kiện đi lại trong ASEAN - thúc đấy các luồng khách nội bộ ASEAN và khách từ nước thứ ba vào và đi lại trong ASEAN. Xúc tiến đầu tư du lịch ASEAN Phát triển nguồn nhân lực du lịch Phát triển du lịch bền vững về môi trường. Nội dung chương trình hành động Hà Nội về du lịch Phát động chiến dịch xúc tiến du lịch ASEAN- VAC Phát hành sách hướng dần đầu tư du lịch ASEAN Xuất bản bản đồ du lịch ASEAN Nghiên cứu hợp tác phát triển du lịch tàu biển Xây dựng website du lịch ASEAN Xây dựng ấn phẩm du lịch sinh thái ASEAN Hình thành mạng lưới đào tạo ASEAN Dự thảo hiệp định hợp tác du lịch ASEAN Các hoạt động của hợp tác chuyên nghành du lịch Diễn đàn du lịch ASEAN (ATF) diễn ra hàng năm 4 hội nghị bộ trưởng du lịch ASEAN 16 phiên họp cơ quan du lịch quốc gia ASEAN (NTOs) Các phiên họp của 7 nhóm công tác:(1) Nhóm xúc tiến quảng bá du lịch (2) Xúc tiến đầu tư (3) Thông tin du lịch (4) Nghiên cứu du lịch tài biển (5) Phát triển nguồn nhân lực (6) Hợp tác dịch vụ (7) Nhóm cấp cao về T-ASEAN Hiệp định hợp tác về du lịch ASEAN Theo quyết định hội nghị bộ trưởng du lịch ASEAN tại ATF 1/2002, nhóm cấp cao soạn thảo T- ASEAN được thành lập và dự thảo T-ASEAN Ngày 04/11/2002 , T-ASEAN đã được nguyên thuỷ các nước ký ở Hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại Campuchia. - Nội dung gồm các điều: Mục tiêu Tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch nội khối và quốc tế Thuận lợi cho dịch vụ vân chuyển Tiếp cận thị trường Chất lượng dịch vụ Phối hợp xúc tiến tiếp thị Phát triển nhân lực Tổ chức thực hiện Sửa đổi Giải quyết tranh chấp Điều khoản cuối cùng Hợp tác ASEAN +1; +3(ASEAN+ ( Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) Hội nghị bộ trưởng du lịch ASEAN+3 lần thứ nhất, tháng 1/2002 Họp cơ quan du lịch quốc gia ASEAN +3 lần 1, lần 2 tháng 1 và 7/2002 Nội dung hợp tác: tạo điều kiện thuận lợi đi lại, xúc tiến, tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp du lịch, phát triển nguồn nhân lực, xúc tiến đầu tư trong du lịch. Thứ hai là hợp tác dịch vụ, trong đó có du lịch: Mục tiêu: Thúc đẩu tự do hoá các luồng khách, đầu tư du lịch trong ASEAN. Từng bước để đạt tự do hoá hoàn toàn vào năm 2002. Phương thức đàm phán: Theo nguyên tắc của tổ chức thương mại thế giới. Khẳng định du lịch là một trong 7 lĩnh vực dịch vụ tham gia đàm phán mở cửa thị trường trong ASEAN ( bưu chính viễn thông, du lịch, thương mại, giao thông vận tải, hàng không, tài chính, xây dựng) Nội dung cam kết ASEAN qua hai vòng đàm phán: Dịch vụ khách sạn: Phía nước ngoài có thể liên doanh với đối tác Việt Nam, vốn đóng góp của phía nước ngoài trong liên doanh ít nhất phải đạt 30%. Khách sạn liên doanh ít nhất phải đạt tiêu chuẩn 3 sao theo quy định của tổng cục du lịch. Khu du lịch: phía nước ngoài có thể liên doanh với đối tác Việt Nam, vốn đóng góp của phía nước ngoài trong liên doanh ít nhất phải đạt 30%. Thực hiện mở cửa thị trường đối với 3 phân ngành Dịch vụ đặt phòng khách sạn Dịch vụ phục vụ ăn trong nhà hàng Dịch vụ phục vụ uống không có chương trình giải trí Phía nước ngoài có thể hợp tác thông qua các hình thức hợp đồng kinh doanh, liên doanh đối với Việt Nam Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ Được ký kết ngày 13/7/200, có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. Là hiệp định đầu tiên đàm phán theo lộ trìnhvà các cam kết trên cơ sở nguyên tắc của tổ chức thương mại thế giới (WTO/GATS) Du lịch đưa ra cam kết hai phân ngành, dịch vụ lưu trú, cung cấp thực phẩm đồ uống và dịch vụ lữ hành, điều hành tour du lịch. Hợp tác tiểu vùng Mê Kông mở rộng Tám dự án ưu tiên của tiểu vùng - Xúc tiến du lịch chung tiểu vùng - Diễn đàn du lịch tiểu vùng - Đào tạo giáo viên du lịch - Đào tạo quản lý về bảo tồn và du lịch - Quy hoạch sông Mê Kông /Lang Cang - Tạo điều kiện thuận lợi đi lại trong tiểu vùng - Du lịch làng quê - Dòng khách du lịch bắc - nam tiểu vùng MêKông. Triển khai thông qua 13 cuộc họp của nhóm công tác tiểu vùng MêKông, diễn đàn du lịch tiểu vùng. .Cung cấp thông tin về tình hình phát triển du lịch Việt Nam, cập nhật các chính sách phát triển,tạo điều kiện thuận lợi đi lại.. Đưa thông tin vào tài liệu xúc tiến chung. Hoàn thành quy hoạch phân đoạn, quy hoạch tổng thể du lịch MêKông thuộc Việt Nam. Đã dược ADB chọn tài chợ triển khai thí điểm dự án du lịch làng quê. Cùng AMTA, ADB, xây dựng dự án vay vốn ADB phát triển cơ sở hạ tầng du lịch tiểu vùng MêKông. Những cam kết cụ thể của du lịch Việt Nam khi gia nhập WTO Những cam kết được tóm tắt trong bảng dưới đây. Bảng cam kết của du lịch Việt Nam với WTO Phân ngành Hạn chế tiếp cận thị trường Hạn chế đối xử quốc gia Mức độ cam kết Dịch vụ xếp chỗ ở khách sạn(CPC 64110);Dịch vụ cung cấp thức ăn(CPC 642) và đồ uống(CPC 643) Không hạn chế cung cấp qua biên giới(1) Không hạn chế tiêu dùng ở nước ngoài(2) Không hạn chế hiện diện thương mại(3) Chưa cam kết của thể nhân trừ các cam kết chung(4) Không hạn chế cung cấp qua biên giới(1) Không hạn chế tiêu dùng ở nứơc ngoài(2) Không hạn chế hiện diên thương mại(3) Chưa cam kết hiện diện của thể nhân trừ các cam kết chung(4) Cam kết toàn bộ ba phương thức cung cấp dịch vụ,chưa cam kết phương thức cung cấp dịch vụ 4 Dịch vụ đại lý lữ hành và điều hành tour du lịch (CPC 7471) Không hạn chế cung cấp qua biên giới(1) Không hạn chế tiêu dùng ở nước ngoài(2) Không hạn chế hiện diện thương mại(3) Chưa cam kết hiên diện thể nhân,trừ các cam kết chung(4) Không hạn chế cung cấp quan biên giới(1) Không hạn chế tiêu dùng ở nước ngoài(2) Không hạn chế hiện diện thương mại(3) Trừ hướng dẫn viên du lịch trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải là công dân Việt Nam.Các doanh nghiệp cung cấp dịc vụ có vốn đầu tư nước ngoài chỉ đước phép cung cấp dịch vụ đưa khách hàng vào du lịch Việt Nam và lữ hành nội địa đối với khách du lịch vao Việt Nam như là một phần của dịch vụ đưa khách vào du lịch Việt Nam. Chưa cam kết hiện diện của thể nhân,trừ các cam kết chung(4). Cam kết toàn bộ cả 3 phương thức cung cấp dịch vụ về tiếp cận thị trường; Cam kết kèm theo những hạn chế ở phương thức 3 Về ứng xử quốc gia chưa cam kết hiện diện của thể nhân, trừ các cam kết chung(4) (Nguồn : Nguyễn Văn Mạnh , Để du lịch Việt Nam phát triển bền vững sau khi gia nhạp WTO, tạp chí kinh tế phát triển . Số 01/ 2007) Một số lưu ý khi thực hiện cam kết : Không cho phép doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (phù hợp với Điều 51 Luật du lịch) Không hạn chế vốn nứơc ngoài trong liên doanh (Luật du lịch Việt Nam-2005 chưa có). Chưa cam kết cho phép thành lập chi nhánh (điều 42 luật du lịch) Không hạn chế đối tác Việt Nam trong liên doanh(điều 51 luật du lịch) Đối xử quốc gia: Không cam kết cho phép doanh nghiệp có vốn nứớc ngoài được cung cấp dịch vụ outbound Cho đến nay đã có 26 hiệp định hợp tác du lịch song phương cấp Chính phủ được ký kết với các nước trong và ngoài khu vực, đồng thời thiết lập quan hệ với hơn 1.000 hãng du lịch của hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chúng ta còn tham gia tích cực và hiệu quả vào các diễn đàn hợp tác du lịch quốc tế và khu vực như Tổ chức Du lịch Thế giới, hợp tác du lịch ASEAN, Hiệp hội Du lịch châu Á - Thái Bình Dương, Chương trình phát triển Du lịch tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, hợp tác hành lang Ðông - Tây, hợp tác du lịch sông Mê Kông - sông Hằng, v.v. Đặc biệt, gần đây du lịch Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Du lịch APEC 2006 được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài trong lĩnh vực khách sạn du lịch: Kể từ khi thực hiện Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đến nay, đã có 6.465 dự án đầu tư trực tiếp hoạt động với tổng vốn đăng ký 54,7 tỷ USD; trong đó trên 3.000 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh. Cùng với thời gian, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thực sự trở thành bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, đã đóng góp phần quan trọng nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển, thúc đẩy nhiều ngành nghề khác phát triển, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Năm 2005, khu vực đầu tư nước ngoài tạo ra 14,5% GDP, chiếm 17,4% vốn đầu tư toàn xã hội, 54% kim nghạch xuất khẩu (kể cả dầu thô). Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần đáng kể trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Đến nay, trong đầu tư trực tiếpnước ngoài, công nghiệp chiếm 61,1%, dịch vụ chiếm 31,8%, nông-lâm ngư nghiệp chiếm 7,08%. Với chủ trương phát triển du lịch là ngành mũi nhọn của đất nước, thời gian qua, du lịch là lĩnh vực luôn được Chính phủ khuyến khích đầu tư, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực khách sạn, du lịch, khu vui chơi giải trí. Do đó, cùng với làn song đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực khách sạn, du lịch, khu vui chơi giải trí cũng tăng đáng kể. Tính đến hết tháng 10 năm 2006, trên địa bàn cả nước đã có 163 dự án đầu tư trực tiếp trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực khách sạn, du lịch, khu vui chơi giải trí, với tổng số đầu tư đăng ký đật 3,295 tỷ USD. Trong số các dự án trên đã có 116 dự án đi vào hoạt động ( chiếm 71% về số dự án ), với vốn đầu tư thực hiện đạt 2,139 tỷ USD (bằng 66% về vốn đầu tư). So với các ngành khác, đây là lĩnh vực có tỷ lệ các dự án đã thực hiện tương đối cao do thị trường trong lĩnh vực này của Việt Nam trong thời gian tới có tiềm năng phát triển. Nhìn chung, các dự án trong lĩnh vực khách sạn, du lịch, khu vui chơi giải trí tập trung chủ yếu ở các trung tam chính trị-văn hoá-xã hội-kinh tế và du lịch của cả nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Mặc dù đầu tư trong lĩnh vực khách sạn du lịch tại Việt Nam thời gian qua cũng có những bước phát triển đáng khích lệ, song bên cạnh đó vẫn còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu; tócc độ tăng trưởng trong khu vực dịch vụ còn thấp (dưới 40% so với mức trung bình 50% của các nước đang phát triển trong khu vực, 70 – 80% ở các quốc gia phát triển) và có xu hướng giảm do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan. Cụ thể như sau: Về môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách về phát triển dịch vụ còn thiếu, chưa đồng bộ và không có sự gắn kết giữa các ngành, các địa phương. Công tác quy hoạch ngành còn có bất cập : quy hoạch phát triển tổng thể ngành, quy hoạch chi tiết của các khu du lịch được tiến hành chậm, do đó trong một số trường hợp đã làm mất cơ hội đầu tư của các nhà đầu tư. Kết cấu hạ tầng du lịch vừa thiếu, vừa yếu, hệ thống cung ứng dịch vụ, vui chơi giải trí cho người nước ngoài còn hạn chế, chất lượng dịch vụ thấp, giá cả tuỳ tiện, không tương xứng với chất lượng cung cấp dịch vụ. Hầu hết các dịch vụ liên quan đến du lịch như vận tải hang không, hàng hải; cước phí viễn thông đều ở mức cao hơn các nước trong khu vực. Các nhận xét về thành công và hạn chế trong hội nhập Quốc tế của Du lịch Việt Nam trước khi Việt Nam gia nhập WTO Trong tiến trình hội nhập quốc tế của ngành du lịch đã có những thành công như sau : Thứ nhất, giai đoạn này hội nhập quốc tế trong du lịch của Việt Nam được phát triển trên diện rộng với nhiều hình thức cả đa phương và song phương, đặc biệt là hội nhập du lịch với các tổ chức quốc tế về du lịch trong đó có UNWTO. Hội nhập quốc tế đã góp phần không nhỏ vào vào sự tăng trưởng và phát triển nhanh của ngành du lịch. Nâng cao vị thế của ngành du lịch nói riêng và của Việt Nam nói chung trên trường Quốc tế . Thứ hai, ngành du lịch Việt nam đã tích cực tham gia vào các diễn đàn góp phần quan trọng tạo cơ hội cho bạn bè năm châu có thông tin và hiểu biết nhiều hơn du lịch Việt Nam. Thứ ba, thu hút được nguồn vốn lớn từ đầu tư trực tiếp nước ngoái vào ngành du lịch. Du lịch là một trong những lĩnh vực thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhiều nhất ở Việt Nam trong những năm qua Thứ tư, tạo điều kiện thuân lợi cho các Tổ chức Quốc tế hỗ trợ Việt nam trong lĩnh vực xây dựng luật du lịch, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực khách sạn và nghỉ dưỡng (RESORT). Tuy nhiên, bên cạnh những thành công nói trên, hội nhập quốc tế của du lịch Việt Nam đã bộc lộ nhng hạn chế sau đây : Thứ nhất, hội nhập quốc tế mới được quan tâm chú ý ở tầm vĩ mô, chưa tạo ra cơ hội năng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, các địa phương có giá trị tài nguyên du lịch lớn. Hay nói cách khác hội nhập quốc tế ở thời kỳ này mới chỉ dừng lại ở bề rộng mà chưa chú ý tới hội nhập chiều sâu. Thứ hai, các hình thức hội nhập, các hoạt động hội nhập chưa đi vào chiều sâu, đặc biệt là các hình thức liên doanh liên kết trong kinh doanh dịch vụ lữ hành và chương trình du lịch, trong quy hoạch và xúc tiến du lịch. Thứ ba, nâng cao năng lực Quản lý nhà nước và quản tri kinh doanh cho đội ngũ nguồn nhân lực chưa tương xứng với các nguồn lực mà các tổ chức Quốc tế đã tài trợ cho ngành du lịch. Tóm lại, chương 2 đã tập trung làm nổi bật sự phát triển của du lịch Việt Nam, cũng như sự tham gia hội nhập Quốc tế của ngành du lịch trước khi gia nhập WTO. Trên cơ sở này để tìm ra các thành công và hạn chế của ngành du lịch trong lĩnh vực hội nhập Quốc tế. Căn cứ vào kết quả này cùng với cơ sở lý luận ở chương 1 để đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh hội nhập Quốc tế của Du lịch Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Chương 3: ĐẾ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG DU LỊCH CỦA VIỆT NAM Mục tiêu ngành du lịch là phấn đấu để đến năm 2010, Việt Nam trở thành quốc gia phát triển về du lịch trong khu vực, với mức thu nhập từ du lịch phải đạt 4-5 tỉ USD. Để đạt điều đó phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm nhằm đẩy mạnh hội nhập Quốc tế của ngành du lịch. Theo chúng tôi, nếu trước khi gia nhập WTO hội nhập quốc tế của du lịch Việt Nam phát triển trên diện rộng với các tổ chức quốc tế, diễn đàn quốc tế, cấp quốc gia thì sau khi gia nhập WTO, hội nhập tế trong du lịch của Việt Nam phải chuyển sang hội nhập theo chiều sâu. Điều này có nghĩa là phải đẩy mạnh các hoạt động hội nhập quốc tế trong du lịch ở cấp địa phương và các doanh nghiệp du lịch. 3.1 Nâng cao nhận thức về vai trò của hội nhập Quốc tế đối với sự phát triển của du lịch Việt Nam  Du lịch Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới với tư cách là một thời cơ, một lợi thế lớn so với các ngành khác. Vì sản phẩm của nó không mất, lại giải quyết được nhiều lao động và xuất khẩu tại chỗ, chưa kể một nền văn hóa giàu bản sắc, có thiên nhiên tuyệt đẹp, có ẩm thực phong phú và đặc biệt con người cởi mở, thân thiện... những giá trị mà bất cứ khách du lịch nào cũng mong muốn và trân trọng. Như vậy cần nâng cấp và mở rộng các cảng hàng không , cảng biển cửa khẩu quốc tế. Các cấp và các doanh nghiệp phải chủ động đầu tư hơn nữa cho cơ sở hạ tầng du lịch với một tầm nhìn dài, cơ bản, trên cơ sở có quy hoạch. Với ngành du lịch, con người càng quyết định hơn vì bản thân con người cũng là một sản phẩm du lịch, họ là kênh đầu tiên để du khách tiếp cận và hiểu được giá trị của một nền văn hóa. Vì vậy ngoài việc tổ chức bồi dưỡng , giáo dục lồng gép trong các cơ sở đào tạo về du lịch, các doanh nghiệp cần mạnh dạn thuê các gia nước ngoài trong lính vực markrting du lịch quốc tế . 3.2 Tích cực tham gia hội nhập Quốc tế nhằm chuẩn hóa có sở hạ tầng du lịch theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp và phát triển bền vững. Cơ sở hạ tầng du lịch gồm các hệ thống giao thông, các địa danh du lịch trọng điểm,liên lạc viễn thông, các khách sạn.... Chỉ số cơ sở hạ tầng được đo bằng độ dài và chất lượng đường xá, dịch vụ vệ sinh, cấp nước và xe lửa. Cơ sở hạ tầng yếu kém là một nguyên nhân khiến khách du lịch quốc tế khó chịu nhất khi đi du lịch Việt Nam. Cùng với tình trạng tắc nghẽn giao thông, quy định tốc độ giao thông không hợp lý trên một số tuyến du lịch làm cho chỉ số cạnh tranh về cơ sở hạ tầng của Việt Nam thấp. Kinh nghiệm của Singapore đã chỉ ra, có 5 yếu tố tạo nên sự thành công của ngành du lịch, đó là: phương tiện giao thông (Accesibility); cơ sở tiện nghi (Amenities); điểm thắng cảnh (Attraction); các dịch vụ hỗ trợ (Ancillary services) và điều chỉnh của chính phủ (Adjustment). Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch sẽ đáp ứng được 3 trong số 5 điều kiện trên. Vì vậy, cần ưu tiên vốn vay trước hết cho phát triển cơ sở hạ tầng du lịch so với các ngành nghề khác – những ngành không được coi là ngành mũi nhọn, không thuộc nhóm ngành nghề có khả năng cạnh tranh. Khối lượng đầu tư cho du lịch phải hợp lý và dài hạn. Huy động mọi nguồn vốn của cả nước ngoài và tư nhân. Bên cạnh việc quy hoạch khai thác các nguồn du lịch sẵn có của thiên nhiên, các di tích lịch sử văn hóa dân tộc, cần kết hợp đầu tư phát triển các cơ sở du lịch hiện đại. Để thực hiện được giải pháp này đồi hỏi ngành du lịch Việt Nam phải chủ động tìm kiếm các đối tác nước ngoài, các tổ chức Quốc tế hỗ trợ về công nghệ, quy hoạch cơ sở hạ tầng và nguồn vốn. 3.3 Hội nhập khu vực để đa dạng hóa sản phẩm du lịch và mở rộng thị trường Ngoài các hình thức du lịch như tham quan, tìm hiểu thiên nhiên, văn hóa, lịch sử, nghỉ dưỡng sức.... cần phát triển thêm loại hình sản phẩm du lịch mua sắm (thông qua các chợ ẩm thực, chợ đêm, chợ cuối tuần....) và các sự kiện tháng khuyến mại giảm giá.... các loại hình dịch vụ chữa bệnh (như hệ thống các bệnh viện, chăm sóc sức khỏe, làm đẹp, các thẩm mỹ viện,....) có chất lượng tốt cần được quan tâm phát triển. Để có sản phẩm du lịch phù hợp với thị trường, cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường, xác định thị trường trọng điểm thích hợp với mỗi loại hình sản phẩm du lịch. Hình thành các trung tâm mua sắm hiện đại cho du khách trong nước và quốc tế tại các trung tâm du lịch lớn. Xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch, tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng. Đa dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ du lịch hướng tới làm phong phú và đảm bảo chất lượng của các sản phẩm và dịch vụ có thể kích thích được nhu cầu tiêu dung của khách du lịch. Ngoài ra, cần tập trung xây dựng các sản phẩm du lịch có chất lượng cao, quy mô lớn để có khả năng khai thác số lượng khách lớn, có khả năng chi trả cao, tăng thời hạn lưu trú và mức chi của du khách. Để thực hiện được giải pháp này bằng cách là liên kết trong nước và quan hệ song phương với từng nước trong khu vực ASEAN và Trung Quốc 3.4 Tăng cường Hội nhập Quốc tế trong xúc tiến du lịch Việt Nam Xúc tiến du lịch Việt Nam nhằm cung cấp thông tin về sản phẩm du lịch Việt Nam, thu hút và quyến rũ khách du lịch quốc tế đến với sản phẩm du lịch Việt Nam. Muốn vậy, phải tìm hiểu và nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường bên ngoài, các thị hiếu về sản phẩm và dịch vụ du lịch của thị trường các nước trong khu vực và thế giới thông qua các tổ chức lữ hành, du lịch thế giới và khu vực như : Liên đoàn hiệp hội các hãng lữ hành (UFTAA), Hiệp hội thế giói các đại lý lữ hành ( WATA ). Định hướng cho các Tổng công ty du lịch của Việt Nam liên kết với các hãng lữ hành lớn nổi tiếng trên thế giới như: Văn phòng lữ hành Quốc gia Nhật ( JTB ), tập đoàn du lịch Thomson . Inc, Tập đoàn du lịch Thomas Cook của Vương quốc Anh, Liên đoàn quóc tế du lịch Đức (TUI), tập đoàn American Express Company, Công ty du lịch Quốc tế Vân Nam, Quản Tây, Quảng Đông của Trung Quốc…. Từ đó, có cách quản lý và phục vụ riêng cho phù hợp với từng loại khách. Tăng cường sự hiện diện của du lịch Việt Nam tại các Hội chợ, Hội nghị và Hội thảo quốc tế. Tổ chức nhiều Hội thảo chuyên đề để giới thiệu du lịch Việt Nam. Khâu đột phá là thuê các công ty quảng bá chuyên nghiệp của nước ngoài thực hiện. Học tập kinh nghiệm của Hàn Quốc để xúc tiến du lịch. Ví dụ ngành du lịch Hàn Quốc đã liên kết với ngành điện ảnh - cách làm cực kỳ hiệu quả đã làm cho kinh doanh tăng vọt. Hút tiền của du khách bằng điện ảnh. Để đến nhanh chóng trái tim và khối óc của khách hàng, các nhà du lịch Hàn Quốc đã hết sức “khôn ngoan” tìm đường đi là nghệ thuật thứ bảy và họ đã thành công. Ngành du lịch Hàn Quốc đã tài trợ xây dựng hàng loạt các tác phẩm điện ảnh như: “Bản tình ca mùa đông”, “Chuyện tình Paris”, “Nàng Dae Cang Geum”... hàng loạt các bộ phim mang đậm hương sắc du lịch mang đậm hình ảnh một đất nước xinh đẹp, mộng mơ, lung linh như cổ tích và con người Hàn Quốc khả ái. Có thể lấy ví dụ, chỉ riêng với bộ phim “Bản tình ca mùa đông” đã làm dấy lên ước muốn du lịch Hàn Quốc của hơn 100.000 phụ nữ Nhật Bản. Năm 2005, số người Việt Nam sang du lịch Hàn Quốc là 55.000 người, một con số khổng lồ không phải là ít. Gần đây Hàn Quốc đã thành lập một phái đoàn xúc tiến du lịch đến Đông Nam Á - trong đó có Việt Nam là điểm dừng chân đầu tiên. Đây chính là bài học kinh nghiệm quý báu để nước ta xúc tiến quảng bá du lịch, học hỏi cái hay, chấp nhận sự khác biệt và tạo ra được thế mạnh cho mình, đưa hình ảnh của đất nước ra khu vực và thế giới. Thế kỷ XXI, đất nước bước vào hội nhập mạnh mẽ hơn, cơ hội và thách thức nhiều hơn, đặt Việt Nam vào những khó khăn thử thách hết sức gay go dưới tác động của nhiều vấn đề có tính toàn cầu được đặt ra nhiều nhiệm vụ đối với nước ta: nâng cao tầm trí tuệ của người Việt Nam, phát triển khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, giữ gìn bản sắc bởi “văn hóa là định mệnh”. Trong xu thế toàn cầu hóa, chúng ta tiến hành hội nhập - đây là một tất yếu để đưa hình ảnh của Việt Nam ra bạn bè năm châu nhưng giao lưu hội nhập văn hóa như thế nào? Quy luật phát triển của văn hóa cũng như kinh tế: Không có một nền văn hóa nào tự phát triển bằng cách khép kín nhưng giao lưu thế nào để phát triển đúng hướng, hòa nhập mà không hòa tan? Điều này thì Hàn Quốc “con rồng châu Á” đã làm được, quảng bá hình ảnh của mình, tiếp thu ảnh hưởng của các nước và giữ vững được bản sắc truyền thống tạo nên một Hàn Quốc đúng như khẩu hiệu “Dynamic Korea”. Ngày nay, giao lưu của Việt Nam - thế giới ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh vực. Chúng ta phải có bản lĩnh vững vàng, giữ được bản sắc đồng thời nghiên cứu và phổ biến những thành tựu mới về xây dựng và phát triển văn hóa, kinh tế, những cái hay cái đẹp trong lối sống khoa học tiến bộ của nước ngoài. Chúng ta chủ động tăng cường các cuộc trao đổi nghệ thuật, điện ảnh, triển lãm, thể thao, du lịch trên phạm vi thế giới không ngừng tận dụng mọi cơ hội để quảng bá hình ảnh Việt Nam ra mắt bạn bè khu vực và thế giới. 3.5 Hội nhập Quốc tế để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực và khả năng cạnh tranh ở cấp ngành và doanh nghiệp Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề có tính chiến lược của mọi quốc gia. Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch, góp phần nhanh chóng đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Nguồn nhân lực phải được phát triển một cách có hệ thống cả vế số lượng và chất lượng. Để đạt được như mục tiêu kế hoạch 5 năm (2006-2010) đề ra, cần phải có lực lượng lao động trực tiếp trong du lịch là hơn 333.000 người, nghĩa là trong 5 năm tới cần phải đào tạo mới cho khoảng 100.000 lao động du lịch. Hiện tại, chất lượng lao động cũng chưa đáp ứng được yêu cầu. Số có trình độ đại học trở lên chỉ chiếm hơn 3%. Số lao động biết ngoại ngữ không nhiều, chỉ chiếm khoảng gần 1/2. Tính chuyên nghiệp của lực lượng lao động trong ngành du lịch chưa cao. Vì vậy, ngoài việc đào tạo mới thì việc đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động hiện tại cũng cần được chú trọng. Đội ngũ cán bộ quản lý và giám sát du lịch phải được đào tạo chuyên sâu và có bài bản cả về trình độ chuyên môn, kỹ năng giao tiếp ngoại ngữ, tin học và có sự hiểu biết về pháp luật. Chỉ có thể phát triển du lịch nhanh và bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu và toàn diện nếu có đội ngũ lao động chất lượng cao, số lượng đủ, cơ cấu hợp lý gồm đông đảo những hướng dẫn viên du lịch lành nghề, những nhà khoa học công nghệ du lịch tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, tháo vát và có trách nhiệm cao. . Chương trình đầu tư cho việc đào tạo và đào tạo lại cả về quản lý và về kinh doanh du lịch, bổ sung các cơ sở đào tạo chuyên ngành về Du lịch. Nhanh chóng xây dựng được đội ngũ cán bộ du lịch có đủ trình độ, năng lực đáp ứng sự phát triển của Ngành và hội nhập với quốc tế. Nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ của đội ngũ cán bộ, công nhân viên ngành Du lịch để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. Bồi dưỡng nhân lực du lịch trong thời gian tới cần tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu sau: Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đào tạo phát triển nhân lực du lịch: Phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phát triển nguồn nhân lực du lịch; cơ chế chính sách và quy chế quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch; chế độ đãi ngộ nhân tài và quy định về lương, thưởng phù hợp. Nhanh chóng hình thành đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch. Tăng cường kiểm tra, thanh tra lien ngành và chuyên ngành với các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực du lịch trong toàn quốc. Tiêu chuẩn hoá nguồn nhân lực du lịch: Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đối với các chức danh và cấp bậc ngành nghề trong du lịch; áp dụng thí điểm, điều chỉnh và từng bước nhân rộng hệ thống tiêu chuẩn này trong toàn quốc. Thúc đẩy và mở rộng hoạt động của mô hình Hội đồng Cấp chứng chỉ Nghiệp vụ du lịch Việt Nam. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chương trình khung đào tạo du lịch bậc cao đẳng và đại học. Tham khảo, học tập kinh nghiệm quốc tế nhằm hướng tới mục tiêu thống nhất tiêu chuẩn lao động không rào cản mà tổ chức quốc tế đặt ra. Mở rộng quy mô và nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo du lịch: Tập trung đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, giáo viên và đào tạo viên cho các cơ sở đào tạo du lịch bằng nhiều hình thức, cả ở trong và ngoài nước; tăng cường đào tạo kỹ năng huấn luyện cho đội ngũ đào tạo viên và thẩm định viên. Chuẩn hoá và đổi mới chương trình đào tạo cần tiếp cận dần nhu cầu thực tế về năng lực làm việc trong cac lĩnh vực của ngành, đạt tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo tính lien thong giữa các bậc đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tăng cường nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ, phương pháp mới trong đào tạo phát triển nhân lực du lịch, khuyến khích các cơ sở đào tạo Quóc tế về du lịch tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch Việt Nam, đặc biệt là khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị để từng bước ứng dụng, khai thác hiệu quả của công nghệ thong tin để phát triển nguồn nhân lực du lịch. Khuyến khích, thúc đẩy việc sử dụng internet để thiết lập cơ chế thong tin qua mạng giữa các đẩu mối đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch. Mở rộng các hình thức đào tạo mới như đào tạo từ xa, đào tạo qua mạng. Nghiên cứu lập danh mục dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch để huy động hỗ trợ phát triển chính thức nước ngoài, đầu tư trực tiếp nước ngoài và các hình thức đầu tư khác phục vụ phát triển nguồn nhân lực du lịch. 3.6 Đẩy mạnh các hoạt động hội nhập Quốc tế để tăng cường hiểu biết về thông lệ quốc tế và luật du lịch của các Quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có khoảng cách gần với Việt Nam. Trong kinh doanh du lịch, điều quan trọng trước hết là phải biết tạo điều kiện thuận lợi nhất để thu hút được khách du lịch trong và ngoài nước, kéo dài thời gian lưu trú của khách du lịch. Việc hạn chế miễn giảm visa của Việt Nam trong thời gian qua đã làm giảm mất nhiều cơ hội cho phát triển du lịch. Chế độ phí visa thông thường, phí dịch vụ visa nhanh của Việt Nam ở nước ngoài cũng góp phần làm tăng giá các tour du lịch vào Việt Nam, làm giảm sức cạnh tranh của thị trường du lịch Việt Nam. Bên cạnh đó cần có quy định hợp lý đảm bảo an toàn cho khách nước ngoài nhưng không gây nên sự phân biệt khách nội địa và quốc tế. Tiếp tục rà soát loại bỏ những văn bản quản lý không phù hợp theo cam kết với WTO trong du lịch. Ban hành các văn bản quản lý mới phù hợp với thông lệ quốc tế và cam kết với WTO để hội nhập quốc tế trong du lịch được hanh thông. Tăng cường các hoạt động ngoại giao nhân dân thông qua các tổ chức hữu nghị, trao đổi biểu diễn nghẹ thuật, kinh nghiệm … 3.7 Cảnh giác ngăn ngừa các hạn chế của NGOs trong hội nhập Quốc tế thông qua du lịch Nâng cao cảnh giác kịp thời phát hiện các tổ chức phi chính phủ lợi dụng hội nhập trong du lịch để thực hiện các hoạt động không phải vì tôn chỉ mục đích của tổ chức đó mà vì mục tiêu chính trị của tổ chức hoặc quốc gia tài trợ kinh phí cho họ. Đặc biệt phải nâng cao nhận thức cho người lao động trong du lịch về các tổ chức phi chính phủ và hoạt động của các tổ chức này trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam hiện nay. Hoàn thiện các văn bản pháp quy để tạo hành lang pháp lý thuận lợi nhằm khuyến khích và định hướng các hoạt động của NGOs theo đúng nguyên tắc, phù hợp pháp luật KẾT LUẬN Hướng vào mục tiêu nghiên cứu của đề tài , nội dung công trình nghiên cứu khoa học này đã tập trung giả quyết được các vấn đề sau đây : Thứ nhất, hệ thống cơ sở lý luận về hội nhập quốc tế, các tổ chức quốc tế tiêu biểu trong du lịch, vai trò của hội nhập quốc tế đối với sự phát triển của du lịch Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO . Thứ hai, trình bày khái quát về sự phát triển của du lịch Việt Nam trước khi Việt Nam gia nhập WTO, đồng thời chỉ ra các cơ hội và thách thức của du lịch Việt Nam sau khi Việt nam gia nhập WTO . Thứ ba, trình bày khái quát về thực trạng hội nhập Quốc tế của du lịch Việt Nam. Phân tích ,đánh giá các đống góp của các hoạt động hội nhập quốc tế đối với sự phát triển của du lịch Việt nam và quá trình đàm phán để Việt nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Đồng thời cũng chỉ ra các hạn chế của hội nhập quốc tế trong du lịch Việt Nam trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Thứ tư, đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh các hoạt động hội nhập quốc tế làm cho du lịch Việt Nam phát huy được lợi thế so sánh và nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả ba cấp: quốc gia, ngành và doanh nghiệp Cuối cùng, hội nhập Quốc tế trong du lịch Việt Nam từ hội nhập theo diện rộng cần chuyển mạnh mẽ sang hội nhập theo chiều sâu… Chỉ có như vậy du lịch Việt Nam mới phát triển theo đúng bản chất của ngành, thực hiện đúng các cam kết về dịch vụ ngành du lịch với WTO và phù hợp với đường lối, chính sách và nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế của Nhà nước Việt Nam Mặc dù đã có nhiều cố gắng, say mê trong nghiên cứu khoa học, nhưng với nguồn lực có hạn, đặc biệt là tri thức và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học do vậy có những vấn đề nêu ra nhưng chưa thực sự được giải quyết thấu đáo. Nhóm sinh viên K46 tham gia nghiên cứu khoa học mong được sự giúp đỡ và chỉ dẫn nhiều của các thầy cô và các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch và quan hệ quốc tế . TÀI LIỆU THAM KHẢO Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX, NXB CTQG, Hà Nội 2004. Nguyễn Văn Mạnh và Phạm Hồng Chương, Giáo trình Quản trị kinh doanh lữ hành, NXB ĐHKTQD, Hà nội 2006. Nguyên Văn Mạnh, Để du lịch Việt nam phát triển bền vững sau khi gia nhập WTO, tạp chí kinh tế và phát triển, số 01 năm 2007 PGS.TS.Vũ Văn Hà, T.S Phạm Thanh Bình, Du lịch Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, 2007 T.S Nguyễn Văn Lưu, Hợp tác kinh tế quốc tế của du lịch Việt Nam, tài liệu hội thảo tăng cường khả năng phát triển của du lịch Việt Nam năm 2004. Tổng cục Du lịch Việt nam, tài liệu họi thảo : Du lịch Việt phát triển và hội nhập, khách sạn ME LIA, tháng 4-2007 T.S Nguyễn Văn Lưu, Phát triển nguồn nhân lực du lịch sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO Trang web

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc17155.DOC
Tài liệu liên quan