Đề tài Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại Công ty TNHH chè Phú Hà

- Phòng tổ chức lao động : Có chức năng xây dựng kế hoạch quản lý công tác tổ chức lao động tiền lương , định mức lao động, bảo hiểm xã hội , đào tạo , quản lý hợp đồng lao động , quản lý hồ sơ cán bộ công nhân viên , giải quyết các thủ tục tuyển dụng , thôi việc và các chế độ liên quan đến người lao động. Do vậy mà nhiệm vụ đề ra đối với phòng tổ chúc lao động là phải xây dựng kế hoạch và biên chế lao động phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty. Xác định , đánh giá tiền lương , theo dõi quản lý công tác bảo hiểm xã hội, quy chế trả lương . - Phòng tài chính kế toán : Có chức năng quản lý theo dõi việc biến động của vốn kinh doanh trong công ty lập kế hoạch tài chính và tổ chức thực hiện tốt kế hoạch đã được phê chuẩn . Định kỳ thông thường là hàng tháng , hàng quý hoặc hàng năm , có trách nhiệm lập và cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết cho ban giám đốc công ty và các cơ quan hữu quan trên cơ sở đó giúp cho việc kiểm tra một cách toàn diện và có hệ thống tình hình sản xuất kinh doanh của công ty . Thực hiện hạch toán kế toán quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty, đồng thời phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của công ty theo yêu cầu của ban giám đốc và theo điều lệ của tổng công ty .

doc70 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1003 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại Công ty TNHH chè Phú Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng gần 50% so với năm 2005. 2.2 Tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty TNHH chè Phú Hà trong những năm gần đây 2.2.1 Kết quả tiêu thụ theo sản lượng giai đoạn từ 2002-2006 Bảng 06: Sản lượng tiêu thụ các mặt hàng chè tại công ty giai đoạn 2002-2006 Tên sản phẩm Năm 2002 2003 2004 2005 2006 1. Chè đen 800 500 600 800 950 1.1 Loại OTD 400 250 300 400 450 1.2 Loại CTC 400 250 300 400 500 2. Chè xanh 80 100 130 150 250 Tổng 880 600 750 980 1.200 (Nguốn: Số liệu cung cấp từ phòng kinh doanh của Công ty TNHH Chè Phú Hà) Qua bảng tổng hợp ta thấy: Sản lượng tiêu thụ sản phẩm của mặt hàng chè đen (bao gồm cả 2 loại chè OTD và CTC) có sự biến động tương đối lớn trong 5 năm vừa qua. Cụ thể như sau: Năm 2002 sản lượng tiêu thụ của công ty đạt 800 tấn nhưng sang năm 2003 sản lượng tiêu thụ giảm đáng kể chỉ còn 500 tấn tương ứng giảm 37,5%. Bắt đầu sang năm 2004 sản lượng tiêu thụ bắt đầu có dấu hiệu phục hồi trở lại đạt mức 600 tấn. Năm 2005 sản lượng hồi phục đạt mức của năm 2002 là 800 tấn. Năm 2006 sản lượng tiêu thụ đạt mức cao nhất từ trước đến nay 950 tấn. Cụ thể sản lượng tiêu thụ 2 loại chè OTD và CTC như sau: + Chè OTD: Năm 2002 sản lượng tiêu thụ đạt 400 tấn chiếm 50% khối lượng tiêu thụ chè đen của công ty là chiếm 45,5% tổng sản lượng tiêu thụ toàn công ty. Năm 2003 công ty tiêu thụ được 250 tấn giảm so với năm 2002 là 150 tấn tương ứng giảm 37,5%, chiếm 50% khối lượng tiêu thụ chè đen nhưng chỉ còn chiếm 41,6% tổng khối lượng sản phẩm tiêu thụ được của công ty. Năm 2004 sản lượng tiêu thụ được đạt mức 300 tấn tăng so với năm 2003 là 50 tấn tương ứng tăng 20%, chiếm 50% sản lượng tiêu thụ theo mặt hàng chè đen và chiếm 40% tổng sản lượng tiêu thụ giảm 1,6% so với năm 2003. Năm 2005 sản lượng chè OTD tiêu thụ được 400 tấn hồi phục bằng với mức năm 2002, tăng so với năm 2004 là 33%, chiếm 40,8 tổng sản lượng chè tiêu thụ của công ty. Năm 2006 mặt hàng chè đen OTD tiêu thụ được 450 tấn đạt mức cao nhất từ trước đến nay tăng so với năm 2005 là 50 tấn tương ứng tăng 12,5%, chiếm 47,3% sản lượng tiêu thụ chè đen và chiếm 37,5% tổng sản lượng tiêu thụ chè của công ty. + Chè đen CTC: Năm 2002 sản lượng tiêu thụ cho mặt hàng chè đen CTC đạt mức 400 tấn chiếm 50% khối lượng chè đen tiêu thụ được của công ty và chiếm 45,5% tổng khối lượng chè tiêu thụ toàn công ty. Năm 2003 sản lượng tiêu thụ chè CTC lại giảm chỉ còn 250 tấn giảm 150 tấn so với năm 2002, tương ứng giảm 37,5%. Tuy nhiên cơ cấu sản phẩm tiêu thụ vẫn chiếm 50% sản lượng tiêu thụ chè đen các loại nhưng chỉ còn chiếm 41,6% tổng khối lượng sản phẩm tiêu thụ được của công ty. Năm 2004 sản lượng tiêu thụ chè đen có dấu hiệu phục hồi và đạt 300 tấn tăng so với năm 2003 là 50 tấn tương ứng tăng 20% chiếm 50% cơ cấu sản lượng tiêu thụ chè đen các loại nhưng chỉ còn chiếm 40% tổng sản lượng tiêu thụ được của công ty giảm 1,6% so với năm 2003. Năm 2005 công ty tiêu thụ được 400 tấn chè đen CTC bằng với mức tiêu thụ của năm 2002 tăng so với năm 2004 là 100 tấn tương ứng tăng 33% chiếm 40,8% tổng sản lượng chè tiêu thụ được của công ty trong năm 2005. Năm 2006 sản lượng tiêu thụ đạt mức cao nhất từ trước đến nay (500tấn) tăng so với năm 2005 là 100 tấn, hay tăng 50% chiếm 52,6% sản lượng tiêu thụ chè đen thực hiện trong năm 2005 và chiếm 41,7% tổng sản lượng tiêu thụ được của toàn công ty. - Mặt hàng chè xanh: Năm 2002 công ty tiêu thụ được 80 tấn chiếm 9,1 % tổng sản lượng tiêu thụ được của toàn công ty. Năm 2003 công ty tiêu thụ được 100 tấn chè xanh tăng so với năm 2002 là 20 tấn, tốc độ tăng trưởng đạt mức 25%/năm, cơ cấu sản lượng tiêu thụ đạt 16,6% trong tổng khối lượng sản phẩm tiêu thụ được của công ty, tăng so với năm 2002 là 6,5%. Năm 2004 Sản lượng chè xanh tiêu thụ của công ty đạt mức 130 tấn tăng so với năm 2003 là 30 tấn, tương ứng tăng 33,3% và chiếm khoảng 17,3% tổng sản lượng chè tiêu thụ được của toàn công ty, tăng gần 1% so với năm 2003. Năm 2005 công ty tiêu thụ được 150 tấn chè xanh, tăng so với năm 2004 là 20 tấn, tốc độ tăng trưởng đạt mức 15,3% và chiếm 15,3% trong cơ cấu tổng sản lượng tiêu thụ của công ty. Năm 2006 đối với mặt hàng chè xanh công ty tiêu thụ được 250 tấn đạt mức cao nhất từ trước tới nay tăng so với năm 2005 là 100 tấn, tốc độ tăng trưởng đạt mức rất cao là 66,6% 2.2.2 Kết quả doanh thu tiêu thụ trong giai đoạn 2002-2006 Bảng 07: Doanh thu tiêu thụ của công ty trong giai đoạn 2002-2006 Tên sản phẩm Doanh thu (tỷ đồng) 2002 2003 2004 2005 2006 1. Chè đen 10,1 6,55 9,36 10,4 12,73 1.1 Loại OTD 5,2 3,528 5,04 5,6 6,48 1.2 Loại CTC 4,8 3,024 4,32 4,8 6,25 2. Chè xanh 1,07 1,68 2,4 3 5,25 Tổng 11,17 8,23 11,76 13,4 17,98 Qua kết quả tổng hợp ta thấy, mức biến động về doanh thu của công ty là tương đối lớn. Nguyên nhân là do mức biến động về sản lượng lớn. Cụ thể như sau: năm 2002 tổng doanh thu đạt mức 11,17 tỷ đồng, sang năm 2003 chỉ đạt 8,23 tỷ đồng giảm so năm 2002 là 2,94 tỷ đồng, tương ứng giảm 23,6%. Sang đến năm 2004 doanh thu đã phục hồi đạt mức 11,76 tỷ, tăng so với năm 2003 là 3,53 tỷ tương ứng tăng 42,8%. Năm 2005 đạt mức 13,4 tỷ đồng doanh thu tăng so với năm 2004 là 1,64 tỷ đồng tương ứng tăng 13,94%. Năm 2006 doanh thu của công ty đạt mức 17,98 tỷ đồng tăng 4,58 tỷ đồng, tương ứng tăng 34,2% so với năm 2005. cụ thể doanh thu cho từng mặt hàng như sau: - Chè đen: Doanh thu năm 2002 đạt mức 16,1 tỷ đồng, năm 2003 giảm chỉ còn 6,55 tỷ tương ứng giảm 3,55 tỷ. Năm 2004 hồi phục đạt mức 9,36 tỷ tăng so với năm 2003 là 2,81 tỷ đồng tương ứng tăng 42,9%. Năm 2005 doanh thu đạt mức 10,4 tỷ tăng 1,01 tỷ đồng hay tăng 11%, sang năm 2006 doanh thu đạt mức 12,3 tỷ đồng tăng so năm 2005 là 2,33 tỷ đồng hay tăng 23,2%. Trong đó: + Chè đen OTD: năm 2002 đạt doanh thu 5,2 tỷ đồng sang năm 2003 chỉ đạt 3,528 tỷ đồng giảm so với năm 2002 là 1,675 tỷ đồng tương ứng giảm 32%. Năm 2004 doanh thu tiêu thụ chè đen OTD đạt mức 5,04 tỷ đồng gần bằng mức của năm 2002 tăng so với năm 2003 là 1,512 tỷ đồng, tương ứng tăng 42,8%. Năm 2005 doanh thu tiêu thụ đạt mức 5,6 tỷ đồng, tăng so với năm 2004 0,56 tỷ đồng hay tăng 11%, chiếm 41,8% tổng doanh thu. Năm 2006 doanh thu tiêu thụ chè OTD đạt 4,68 tỷ đồng tăng so với năm 2005 là 0,88 tỷ hay tăng 15,7% và chiếm 36% tổng doanh thu toàn công ty. + Chè đen CTC: Năm 2002 doanh thu tiêu thụ đạt 4,8 tỷ đồng chiếm 47,5% doanh thu tiêu thụ chè đen và chiếm 42,9% tổng doanh thu tiêu thụ của công ty. Năm 2003 doanh thu tiêu thụ chè CTC chỉ đạt 3,024 tỷ đồng giảm 1,776 tỷ đồng tương ứng giảm 37%, chiếm 36,74% tổng doanh thu và chiếm 46,16% doanh thu tiêu thụ chè đen. Năm 2004 doanh thu tiêu thụ chè CTC đã hồi phục đạt mức 4,32 tỷ đồng gần bằng năm 2002 tăng so với năm 2003 là 1,296 tỷ đồng hay tăng 42,8%, và chiếm 36,73% tổng doanh thu và chiếm 46,15%, doanh thu tiêu thụ chè đen. Năm 2005 công ty tiêu thụ đạt doanh thu 4,8 tỷ đồng, bằng với mức của năm 2002 tăng so với năm 2004 là 0,48 tỷ đồng tương ứng tăng 11%, chiếm 35,82% tổng doanh thu tiêu thụ toàn công ty chiếm 46,3% doanh thu tiêu thụ mặt hàng chè đen. Năm 2006 doanh thu tiêu thụ đạt mức kỷ lục từ trước tới nay là 6,25tỷ đồng tăng so với năm 2005 là 1,45 tỷ đồng tương ứng tăng 30,2% và chiếm 49,09%, doanh thu tiêu thụ chè đen chiếm 36,76% doanh thu tiêu thụ toàn công ty. - Chè xanh: Năm 2002 doanh thu tiêu thụ đạt mức 1,07 tỷ đồng chiếm 9,57% tổng doanh thu tiêu thụ của công ty. Năm 2003 doanh thu chè xanh đạt 1,68 tỷ đồng tăng so với năm 2002 là 0,61 tỷ đồng hay tăng 57%, và chiếm tới 20,41% doanh thu của công ty. Năm 2004 doanh thu tiêu thụ chè xanh của công ty đạt mức 2,4 tỷ đồng tăng so với năm 2003 là 6,72% tương ứng tăng 42,85% và chiếm 20,4% trong tổng doanh thu tiêu thụ của công ty. Năm 2005 doanh thu tiêu thụ chè xanh đạt mức 3 tỷ đồng, tăng so với năm 2004 là 0,6% hay tăng 25% và chiếm 22,38%, trong tổng doanh thu tiêu thụ của công ty, tăng so với năm 2004 là gần 2%. Năm 2006 doanh thu tiêu thụ chè xanh của công ty đạt mức kỷ lục từ trước tới nay, đạt 5,25 tỷ đồng tăng so với năm 2005 là 2,25 tỷ đồng hay tăng 75% chiếm 29,11% tổng doanh thu tiêu thụ của công ty. 2.2.3. So sánh tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ của công ty năm 2006 2.2.3.1. Tình hình thực hiện kế hoạch sản lượng năm 2006. Bảng 08: Tình hình thực hiện kế hoạch sản lượng năm 2006. Tên sản phẩm Sản lượng (tấn) So sánh KH 2006 TH 2006 +/- % 1. Chè đen 1.000 950 -50 -5 1.1 Loại OTD 500 450 -50 -10 1.2 Loại CTC 500 500 0 0 2. Chè xanh 200 250 +50 25 Tổng 1.200 1.200 0 0 (Nguồn: Số liệu cung cấp từ Phòng kinh doanh Công ty TNHH Chè Phú Hà). Qua bảng tổng hợp trên ta thấy tổng kế hoạch tiêu thụ sản lượng so với thực hiện là không có sự khác biệt nhưng kế hoạch bộ phận lại có sự biến động không nhỏ. Cụ thể như sau: + Chè đen: Năm 2006 sản lượng tiêu thụ đạt 550 tấn thấp hơn so với kế hoạch là 50 tấn, chỉ đạt 95% kế hoạch đề ra. Trong đó: + Chè đen OTD: Sản lượng tiêu thụ chỉ đạt mức 450 tấn bằng 90% kế hoạch đề ra giảm 50 tấn so với mục tiêu đặt ra cuối năm 2005. + Chè đen CTC: Năm 2006 sản lượng tiêu thụ thực tế của công ty đạt 500 tấn hoàn thành mức kế hoạch đề ra đây là một biểu hiện tích cực trong công tác lập kế hoạch cũng như thực hiện kế hoạch công ty cần phát huy trong những năm tới. - Mặt hàng chè xanh: Trong năm 2006 sản lượng chè xanh tiêu thụ của công ty đạt được là 250 tấn vượt mức so với kế hoạch đặt ra là 50 tấn so với tốc độ tăng trưởng là 25%. Đây là một biểu hiện tích cực công ty cần phát huy trong những năm tới nhưng bên cạnh đó công ty cũng cần phải xem xét việc lập kế hoạch cho sát với thực tế hơn nữa. 2.2.3.2 Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu tiêu thụ và giá bán sản phẩm tại công ty. Bảng 09: Tình hình thực hiện kế hoạch về doanh thu và giá bán năm 2006 Tên sản phẩm Giá 1000đ/kg) Doanh thu (tỷ đồng) So sánh doanh thu KH 2006 TH 2006 KH 2006 TH 2006 +/- % 1. Chè đen 13,5 13,4 13,5 12,73 -0,75 -5,5 1.1 Loại OTD 14,5 14,4 7,25 6,48 -0,75 -11 1.2 Loại CTC 12,5 12,5 6,25 6,25 0 0 2. Chè xanh 22 21 4,4 5,25 0,85 19,3 Tổng 17,9 18 0,1 0,55 Qua bảng đánh giá tình hình thực hiện giá bán kế hoạch và doanh thu theo kế hoạch cho chúng ta thấy việc thực hiện kế hoạch tiêu thụ của công ty còn nhiều bất ổn 2 trong 3 mặt hàng của công ty có sự chênh lệch khác lớn về khả năng thực hiện kế hoạch là chè đen OTD và chè xanh. Cụ thể như sau: * Về chỉ tiêu giá bán: Đối với mặt hàng chè đen giá bán thực hiện bình quân năm 2006 chỉ đạt 13,4 nghìn đồng/kg giảm 100đồng/kg so với kế hoạch tương ứng giảm 0,74%. Trong đó: + Mặt hàng chè đen OTD giá bán thực hiện chỉ đạt mức 14,4 nghìn đồng/kg giảm 100đ so với kế hoạch đề ra, tương ứng giảm 1,48% mức giá bán thực hiện chỉ bằng 99,52% so với kế hoạch. + Mặt hàng chè đen CTC trong năm 2006 giá bán thực hiện hoàn thành kế hoạch đặt ra là 12,5 nghìn đồng/kg. - Đối với mặt hàng chè xanh giá bán thực tế năm 2006 chỉ đạt 21.000đ/kg giảm 1.000đ/kg hay giảm 4,5% so với kế hoạch chỉ đạt 95,5% so với kế hoạch đặt ra. * Về chỉ tiêu doanh thu: - Đối với mặt hàng chè đen trong năm 2006 doanh thu thực hiện đạt 12,3 tỷ đồng không đạt mức kế hoạch đề ra, giảm 0,77 tỷ đồng so với kế hoạch chỉ bằng 94,5%. Trong đó: + Mặt hàng chè đen OTD trong năm 206 doanh thu thực hiện đạt 6,48 tỷ đồng bằng 89% kế hoạch đặt ra giảm 0,77 tỷ đồng. + Mặt hàng chè đen CTC doanh thu tiêu thụ năm 2006 đạt mức 6,25 tỷ đồng đây là một mặt hàng hoàn thành mức kế hoạch đề ra. - Đối với mặt hàng chè xanh trong năm 2006 doanh thu thực hiện đạt 5,25 tỷ đồng vượt mức kế hoạch đặt ra 0,85 tỷ tương ứng tăng 19,31% so với kế hoạch. 3. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tình hình tiêu thụ và chỉ tiêu doanh thu tiêu thụ sản phẩm của công ty. Qua kết quả thực hiện công tác tiêu thụ sản phẩm ta thấy kết quả tiêu thụ sản phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau. Nhưng mục đích cuối cùng của công việc tiêu thụ sản phẩm là đạt được doanh thu tiêu thụ cao, do đó có thể nói các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng gần như ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty. Ta có công thức xác định doanh thu như sau: DT = Trong đó: Si: là số lượng sản phẩm thứ i gi: là giá bán sản phẩm thứ i i: là loại sản phẩm Như vậy có thể thấy doanh thu tiêu thụ chịu ảnh hưởng trực tiếp của 3 nhân tố là: - Số lượng sản phẩm tiêu thụ - Kết cấu sản phẩm tiêu thụ - Giá bán mỗi loại sản phẩm Để phân tích các nhân tố ảnh hướng tới doanh thu tiêu thụ ta sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn để phân tích từng nhân tố ảnh hưởng đến sự tăng giảm của doanh thu tiêu thụ sản phẩm thực tế so với kế hoạch, từ đó sẽ làm rõ sự tác động của từng nhân tố đến doanh thu tiêu thụ. Ta gọi: DTk , DT1 lần lượt là doanh thu tiêu thụ sản phẩm kỳ kế hoạch và thực tế năm 2006 Sk, S1 là tổng số lượng sản phẩm tiêu thụ kế hoạch và thực tế năm 2006 Ski, S1i là số lượng sản phẩm tiêu thụ của từng mặt hàng kế hoạch và thực tế năm 2006. gki, g1i là giá bán mỗi loại sản phẩm kế hoạch và thực tế năm 2006. Sau đây ta sẽ đi phân tích mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đối với doanh thu tiêu thụ của công ty. 3.1 Phân tích mức độ ảnh hưởng của nhân tố số lượng sản phẩm tiêu thụ đến sự tăng giảm doanh thu tiêu thụ thực tế so với kế hoạch. Xét một cách độc lập số lượng sản phẩm tiêu thụ có ảnh hưởng tỷ lệ thuận với doanh thu , trong trường hợp các nhân tố khác không thay đổi số lượng sản phẩm tiêu thụ tăng sẽ làm tăng doanh thu tiêu thụ và ngược lại. Để thấy được mức độ ảnh hưởng của nhân tố số lượng và sự tác động của nó đến sự tăng giảm doanh thu tiêu thụ thực tế so với kế hoạch mà không bao gồm trong đó sự tác động của các nhân tố khác. Ta đi so sánh doanh thu tiêu thụ trong điều kiện số lượng sản phẩm tiêu thụ thực tế, kết cấu và giá bán sản phẩm của kỳ kế hoạch với doanh thu tiêu thụ trong điều kiện số lượng sản phẩm kỳ kế hoạch, kết cấu sản phẩm cũng ở kỳ kế hoạch. Công thức xác định kết cấu sản phẩm kế hoạch và thực tế là: SKl/Sk và S1i/S1 Mức độ ảnh hưởng của nhân tố số lượng được xác định như sau DT(S) = Từ số liệu kết quả tiêu thụ thực tế và kế hoạch ta lập được bảng tính như sau: Bảng 10: Các nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ sản phẩm Tên sản phẩm Các nhân tố ảnh hưởng SKi Ski/Sk S1i gki S1igki 1. Chè đen 1.000 0,833 833 950 0,79 13,5 12,825 13.499,6 1.1 Loại OTD 500 0,410 492 450 0,375 14,5 6,525 7,134 1.2 Loại CTC 500 0,41 492 500 0,375 12,5 6,250 6.360,6 2. Chè xanh 200 0,18 216 250 0,21 22 5,500 4,752 Tổng 1.200 1 1.200 1.200 1 - 18325 18,2466 Từ kết quả tính toán trên ta rút ra một số kinh nghiệm như sau: Trong năm 2006 công ty dự tính tiêu thụ 1.200 tấn chè các loại, trong đó chè đen là 1000 tấn bao gồm 500 tấn chè OTD và 500 tấn CTC cùng với 200 tấn chè xanh. Như vậy so với quy hoạch về doanh thu công ty đạt vượt mức kế hoạch đề ra. Số lượng tiêu thụ thực tế là 1200 tấn bằng với mức đề ra như giá trị lại vượt do kết cấu sản phẩm thay đổi so với kế hoạch. Đối với chè đen đạt 950 tấn không đạt kế hoạch đề ra giảm 5,5%. Trong đó chè OTD giảm 50 tấn so với kế hoạch chỉ bằng 89% kế hoạch đề ra. Chè CTC đạt mức kế hoạch tiêu thụ đề ra. Chè xanh vượt mức kế hoạch 50 tấn vượt so với kế hoạch là 25% với mức biến động tiêu thụ thực tế so với kế hoạch doanh thu tiêu thụ tăng 0,3466 tỷ đồng hay tăng 1,93%. Có được kết quả trên là do một số nguyên nhân cơ bản sau: * Nguyên nhân chủ quan: - Doanh nghiệp đã chủ động đem sản phẩm của mình tham gia nhiều triển lãm hội trợ hàng tiêu dùng. Do vậy sản phẩm tiêu thụ của công ty đã đến được với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau đây là một nguyên nhân rất quan trọng dẫn đến tăng doanh thu tiêu thụ nói chung. Bên cạnh đó thị trường tiêu thụ chè xanh của công ty có sự tăng tương ứng, mặt hàng chè xanh lại có giá bán cao. Vì vậy doanh thu tiêu thụ tăng là điều tất yếu. Trong thời gian gần đây công ty đã đưa vào hoạt động một dây truyền sản xuất mới với công nghệ hiện đại, chất lượng sản phẩm luôn được đảm bảo vì vậy khách hàng đã tìm đến với công ty ngày một nhiều hơn. Đối với mặt hàng chè đen OTD do mức giá kế hoạch cao hơn so với giá trị trường. Vì vậy công ty phải điều chỉnh giảm giá bán, tuy vậy mức sản lượng vẫn không thể đạt được như kế hoạch đề ra. Đối với mặt hàng chè xanh do nhu cầu tăng đột biến nên công ty đã đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ đây cũng là một nguyên nhân làm cho sản lượng chè OTD tiêu thụ sụt giảm. mặt khác giá bán chè xanh giảm 1000đ/kg vì vậy đã làm tăng sức mua tương đối cao. * Nguyên nhân khách quan: Do thị trường xuất khẩu chè đã khôi phục và phát triển sau chiến tranh Irắc vì vậy không chỉ công ty mà các doanh nghiệp khác cũng đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường như Trung Đông, Nga, Đông Âu Mặt khác do mức sống của dân cư tăng lên , mặt hàng chè đen dần được sử dụng phổ biến tại Việt Nam cũng là nguyên nhân dẫn đến nhu cầu về chè đen tăng. 3.2 Phân tích mức độ ảnh hưởng của nhân tố kết cấu sản phẩm tiêu thụ đến sự tăng giảm doanh thu tiêu thụ sản phẩm thực tế so với kế hoạch Kết cấu sản phẩm là một nhân tố có ảnh hưởng lớn đến doanh thu tiêu thụm, nếu tăng tỷ trọng những sản phẩm có giá bán cao, giảm tỷ trọng những sản phẩm có giá bán thấp sẽ có tác động không nhỏ đến việc tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm và ngược lại. Để thấy được sự ảnh hưởng của nhân tố kết cấu sản phẩm tiêu thụ đến doanh thu tiêu thụ thực tế so với kế hoạch ta phải cố định nhân tố số lượng ở kyf thực tế, nhân tố giá bán ở kỳ kế hoạch. Khi đó ta so sánh doanh thu tiêu thụ trong điều kiện kỳ thực tế, kết cấu thực tế và giá bán kỳ kế hoạch với doanh thu tiêu thụ trong điều kiện số lượng kỳ thực tế, kết cấu kỳ kế hoạch và giá bán kỳ kế hoạch. Mức độ ảnh hưởng của nhân tố kết cấu sản phẩm tiêu thụ đến doanh thu tiêu thụ được xác định như sau: ∆DT(K) = DT(K) = 18,325-18,2466=0,0784 Theo kết quả tiêu thụ thực tế so với kế hoạch được tính như sau: Từ kết quả trên ta có nhận xét như sau: Như vậy việc thay đổi kết cấu sản phẩm làm cho doanh thu tăng 0,0784 tỷ đồng tương ứng tăng 0,42%. Để thấy rõ hơn sự thay đổi kết cấu sản phẩm ta lập bảng như sau: Bảng 11: Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty TNHH Chè PHú Hà Sản phẩm Giá bán Tỷ trọng sản phẩm gki g1i gs (%) Ski/sk Ski/sk S2 1. Chè đen 13,5 13,5 99,25 0,883 0,79 94,83 1.1 Loại OTD 14,5 14,5 99,31 0,41 0,375 91,46 1.2 Loại CTC 12,5 12,5 100 0,41 0,375 91,46 2. Chè xanh 22 21 95,45 0,18 0,21 116 Tổng (Nguồn: Số liệu cung cấp từ phòng kinh doanh của Công ty TNHH Chè PHú Hà) - Chè đen: Tỷ trọng sản phẩm giảm 5,17% chỉ bằng 94,83% so với kế hoạch với giá bán thực tế giảm 100đ/kg trong đó: + Chè đen OTD: Giá bán thực tế giảm 100đ/kg cơ cấu sản phẩm thực tế giảm chỉ bằng 91,46% so với kế hoạch. + Chè đen CTC, tỷ trọng sản phẩm trong kết cấu sản phẩm tiêu thụ của công ty giảm chỉ bằng 91,46% kế hoạch đặt ra. - Chè xanh: Tỷ trọng tăng 16% so với kế hoạch nhưng giá bán lại giảm Nguyên nhân của quá trình này là do: * Nguyên nhân khách quan: Một thay đổi kết cấu sản phẩm tiêu thụ không chỉ do doanh thu mà phần lớn do biến động nhu cầu thị trường làm cho doanh nghiệp phải thay đổi kế hoạch sản xuất cũng như tiêu thụ cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Do vậy để đánh giá việc thay đổi kết cấu này có thích hợp hay không thì ta cần xem xét đến nhu cầu của thị trường, tình hình thực hiện các đơn hàng, hợp đồng kinh tế của doanh nghiệp. Nếu việc thay đổi tỷ trọng mặt hàng tiêu thụ là do yêu cầu của các đơn hàng, các hợp đồng kinh tế công ty đã ký kết với khách hàng hay việc thau đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ là nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thay đổi của khách hàng thì đó vẫn là sự thành công của doanh nghiệp. Cụ thể năm 2006 do có nhu cầu thị trường của công ty có sự biến động lớn vì vậy công ty đã đẩy mạnh sản xuất mặt hàng này, đồng thời giảm sản lượng sản xuất chè đen OTD so với kế hoạch. * Nguyên nhân chủ quan: Trong năm 2006 doanh thu đưa ra kế hoạch tiêu thụ mặt hàng chè đen OTD cao so với nhu cầu thực tế do đó khi tiêu thụ thực tế phải giảm bớt tỷ trọng sản phẩm này. Mặt khác do giá bán của mặt hàng chè xanh giảm 1000đ/kg. Vì vậy nhu cầu của thị trường cũng tăng cao hơn so với dự báo. Tuy nhiên công ty cũng cần xem xét lại việc lập kế hoạch cho sát với thực tế hơn nữa. Nhìn chung năm 2006 mặc dù có sự thay đổi kết cấu sản phẩm tiêu thụ, tuy nhiên mức tổng doanh thu vẫn được đảm bảo và kết cấu sản phẩm theo chiều hướng tăng tỷ trọng mặt hàng có giá trị cao là mặt hàng chè xanh. Bên cạnh thành tích đã đạt được công ty cần xem xét lại hoạt động lập kế hoạch cũng như việc thực hiện kế hoạch cho sát với tình hình thực tế hơn nữa. 3.3 Phân tích mức độ ảnh hưởng của nhân tố giá bán đến tình hình tăng giảm doanh thu tiêu thụ thực tế so với kế hoạch. Để thấy được sự tác động của nhân tố này đến sự tăng giảm doanh thu tiêu thụ sản phẩm thực tế so với kế hoạch ta phải cố định nhân tố số lượng và nhân tố kết cấu, sản phẩm tiêu thụ ở kỳ thực tế với doanh thu tiêu thụ ở kỳ thực tế với doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong điều kiện số lượng sản phẩm tiêu thụ và kết cấu sản phẩm tiêu thụ ở kỳ thực tế và giá bán ở kỳ kế hoạch. Mức độ ảnh hưởng của nhân tố giá bán bình quân đến sự tăng giảm doanh thu tiêu thụ được xác định như sau: DT(g) = DT1- DT(g) = 18-18,325= -0,325 Từ kết quả trên ta thấy: Trong năm 2006 việc thay đổi giá bán sản phẩm của các mặt hàng làm cho doanh thu tiêu thụ giảm 0,325 tỷ đồng tương ứng giảm 1,77% nguyên nhân là do các mặt hàng đều giảm giá bán như chè đen OTD giảm 100đ/kg, chè xanh giảm 1000đ/kg so với kế hoạch. Cụ thể đối với từng loại chè như sau: + Chè đen OTD giá giảm 100đ/kg chỉ còn 13,4 nghìn đồng tương ứng giảm 7,4%. + Chè đen CTC giá bán theo đúng kế hoạch là 12,5nghìn đồng/kg. + Chè xanh: Giá bán giảm 1000đ/kg chỉ còn 21 nghìn đồng/kg tương ứng giảm 4,5% nguyên nhân của tình trạng này là do: * Nguyên nhân chủ quan: Trong năm 2006 nhận thấy việc mở rộng thị trường là cần thiết nên công ty quyết định giảm nhẹ giá bán một số mặt hàng. Vì vậy kéo theo sự sụt giảm doanh thu. So với lập kế hoạch có nhiều bất cập chưa sát với tình hình thực tế nên giá bán trong kế hoạch cao hơn so với giá bán thực tế của các doanh nghiệp cùng loại trên thị trường điều này buộc công ty phải điều chỉnh lại giá bán thực tế thấp hơn so với kế hoạch. * Nguyên nhân khách quan Do nhu cầu thị trường sản phẩm chè có xu hướng tăng nhưng năng lực sản phẩm của ngành chè là khá lớn. Vì vậy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là khá quyết liệt. Một công cụ cạnh tranh quan trọng là giá bán đã được các doanh nghiệp sử dụng tới không nằm ngoài quy luật đó công ty cũng phải điều chỉnh mức giá bán cho phù hợp nhằm tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Tóm lại: Từ việc phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhân tố trên đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp ta có thể tổng hợp mức độ ảnh hưởng của 3 nhân tố: Số lượng sản phẩ, kết cấu sản phẩm và giá trị đến doanh thu tiêu thụ như sau: DDT = DDT (g) + DDT (k) + DDT (g) = DT1 – DTK = 0,3466 + 0,0784 – 0,325 = 0,1 (tỷ đồng) ± %DT = %DT (s) + % DT (K) + % (DT (g) = 1,93 + 0,42 – 1,77 = 0,57% Như vậy tổng hợp 3 nhân tố đã phân tích ở trên làm cho doanh thu tiêu thụ tăng 0,1 tỷ đồng hay tăng 0,57%. Đạt được kết quả như vậy chứng tỏ công ty đã có nhiều cố gắng trong công tác tổ chức sản xuất cũng như tiêu thụ, góp phần vào việc khẳng định được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của công ty. 4. Nhận xét chung về việc tiêu thụ sản phẩm của công ty TNHH chè Phú Hà 4.1 Về phương thức tiêu thụ Hiện nay tại công ty đang thực hiện đồng thời 2 phương thức tiêu thụ khác nhau, phương thức tiêu thụ trực tiếp và gián tiếp công ty có chính sách bán sản phẩm tự do cho mọi đối tượng với số lượng không hạn chế. Phương thức tiêu thụ trực tiếp của công ty thông qua hệ thống bán dẻ sản phẩm rộng khắp của công ty trong tỉnh cũng như một số tỉnh lân cận. Bên cạnh phương thức tiêu thụ trực tiếp công ty còn tiêu thụ theo phương thức gián tiếp là thông qua các đại lý lớn của mình hay gửi xuất khẩu thông qua một công ty khác. Nhìn chung phương thức bán hàng của công ty là khá linh hoạt thích ứng được với sự biến động của thị trường nên trong thời gian gần đây đã có nhiều bạn hàng hơn tìm đến với công ty. Tuy nhiên bên cạnh đó do năng lực về vốn trình độ cán bộ quản lý còn nhiều yếu kém nên công ty chưa thể hiện cho mình một hệ thống phân phối hoàn chỉnh đủ lớn để có thể đưa sản phẩm của công ty đến với mọi người tiêu dùng. 4.2 Về kết quả hoạt động tiêu thụ trong những năm qua Trong những năm vừa qua thị trường chè thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng đến nơi xuất khẩu của ngành chè Việt Nam nói chung, công ty TNHH chè Phú Hà nói riêng nên sản lượng tiêu thụ có sự biến động không nhỏ. Mặc dù vậy với sự cố gắng của tập thể cán bộ công nhân của công ty vẫn chủ động hoàn thành kế hoạch đặt ra, sản lượng tiêu thụ các mặt hàng liên tục tăng trong nhiều năm (từ năm 2003). Riêng chỉ năm 2003 do cuộc chiến của Mỹ phát động chống I rắc nên một số thị trường xuất khẩu của công ty không để xuất khẩu được dẫn đến sự sụt giảm về sản lượng tiêu thụ. Bên cạnh thành tích tiêu thụ đã đạt được công ty cần còn phải khắc phục một số hạn chế như công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm vẫn chưa sát với thực tế thị trường. 5. Những thành tích đạt được và tồn tại cần khắc phục trong công tác tiêu thụ sản phẩm tại công ty TNHH chè Phú Hà. 5.1 Những thành tích đạt được Qua việc nghiên cứu và phân tích thực trạng tiêu thụ sản phẩm tại công ty TNHH chè Phú Hà cho thấy công ty đã có nhiều cố gắng trong công tác đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tăng doanh thu. Thứ nhất. Năm 2006 đánh dấu bước phát triển vượt bậc về công tác tiêu thụ khối lượng tiêu thụ và giá trị tiêu thụ đều đạt mức kỷ lục từ trước tới nay. Công ty vẫn giữ mức độ tăng trưởng cao trên 10%/năm. Có được kết quả này là do nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân nhà máy Thứ hai: Công ty đã tiếp tục mở rộng mạng lưới tiêu thụ sang các tỉnh lân cận và tăng cường hợp tác với công ty đối tác (Công ty Thế hệ mới) đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang các thị trường như Trung Đông, Nganên sản lượng tiêu thụ có sự tăng trưởng cao). Thứ ba: Trong năm 2006 với sự hoạt động của phòng kinh doanh đã nhanh chóng nắm bắt được nhu cầu và sự biến động của thị trường. Từ đó công ty đã đề ra nhiều chính sách tiêu thụ hợp lý như giảm giá bán, tăng cường tiêu thụ mặt hàng chè xanh đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Thứ tư: Công ty luôn nắm bắt kịp thời diễn biến giá cả thị trường đề ra chính sách bán hàng hợp lý từ đó khuyến khích được các bạn hàng, người tiêu dùng quan tâm đến sản phẩm của công ty. 5.2 Những tồn tại cần khắc phục trong thời gian tới của công ty trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Trong năm 2006 qua tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cho thấy rằng công ty đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả hết sức khả quan, mặc dù vậy vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục trong thời gian tới. Thứ nhất: Công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm chưa sát với thực tế tiêu thụ sản phẩm như đối với chè đen OTD và chè xanh mức biến động so với kế hoạch là tương đối lớn, giá bán sản phẩm theo kế hoạch còn cao so với thực tế, đó là nguyên nhân công ty phải điều chỉnh giảm giá bán để đẩy mạnh khối lượng tiêu thụ. Thứ hai: Việc tiêu thụ sản phẩm mới chủ yếu chủ yếu tập trung vào thị trường xuất khẩu (thông qua đối tác của công ty) và trong nội địa tỉnh Phú Thọ và một số tỉnh lân cận. Thị phần của công ty quá nhỏ bé so với các doanh nghiệp cùng ngành nên khi thị trường có sự biến động lớn, công ty khó có có khả năng giữ vững được mức tăng trưởng của mình. Do nguyên liệu không ổn định dẫn đến chất lượng chè của công ty cũng không ổn định vì vậy trong công tác tiêu thụ còn gặp nhiều khó khăn trong việc định vị thương hiệu của công ty trong tâm trí khách hàng./. Phần III: Giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ tại công ty TNHH chè Phú Hà. 3.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng: Sản phẩm nó là kết quả của một quá trình sản xuất, của doanh nghiệp, nó bao gồm hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng, nó thể hiện thể sự kết tinh của lao động cũng như tính năng sử dụng hình thành nên sản phẩm trong mỗi doanh nghiệp. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định đến sự thành bại đối với sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nói chung, và của hoạt động tiêu thụ nói riêng. Tuy nhiên trong thực tiễn chúng ta thấy rằng nhiều doanh nghiệp vẫn chưa hiểu rõ được ý nghĩa này, cho nên mới có hiện tượng làm giả sản phẩm mà không cần biết chất lượng của nó ra sao, cốt là làm sao thu lợi nhuận về cho mình là lớn nhất. Chính vì sự mơ hồ này nó không chỉ gây thiệt hại đến bản thân doanh nghiệp trong tương lai mà nó còn tác động xấu đến người tiêu dùng, gây mất niềm tin đối với người tiêu dùng về sản phẩm, điều này đã làm ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ của một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong đó có công ty TNHH chè Phú Hà. Qua quá trình thực tập tại công ty em đã nhận thấy rằng Ban lãnh đạo công ty đã không nhận thức được đầy đủ về vai trò của việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đối với hoạt động tiêu thụ, từ thực trạng này để giúp công ty đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tiêu thụ, em đã mạnh dạn đề xuất với ban lãnh đạo công ty phải nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty và để làm được điều này thì cần thực hiện một số công việc như sau: + Giáo dục cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty hiểu rõ hơn nữa về sản phẩm, hiểu rõ hơn nữa về vai trò của sản phẩm đối với sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó làm thay đổi nhận thức của mọi người về sản phẩm theo kiểu truyền thống sang kinh tế thị trường cạnh tranh. Công ty có thể áp dụng một số hình thức sau đây để nâng cao nhận thức của cán bộ công nhân viên trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như là năng lực, trình độ tay nghề của công nhân viên: - Mở lớp dào tạo nghiệp vụ ngắn hạn. - Huấn luyện kỹ thuật, rút kinh nghiệm trực tiếp trên máy móc thiết bị. - Tổ chức các buổi hội thảo rút kinh nghiệm, báo cáo kinh nghiệm trong phạm vi từng phân xưởng cũng như toàn bộ công ty. - Tổ chức các hội thi tay nghề để công nhân tự phấn đấu học hỏi, nâng cao tay nghề, tích luỹ kinh nghiệm sản xuất. Ngoài ra để thực hiện nâng cao nhận thức cho anh chị em thật hiểu quả. Ban lãnh đạo công ty cần phải quan tâm hơn nữa đến cán bộ công nhân viên của mình, cần phải tìm hiểu sâu sát về mong muốn của họ, từ đó tìm cách đáp ứng để họ toàn tâm, toàn ý đối với công ty. Qua đó luôn luôn không ngừng phấn đấu để nâng cao tay nghề có sáng tạo trong việc đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm cho doanh nghiệp; Nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi anh chị em công nhân đối với công ty, làm cho họ hiểu rằng sự thành bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của họ trong tương lai, việc gắn kết chặt chẽ lợi ích của công ty với lợi ích của công nhân cũng là cách thức rất tối ưu trong vấn đề nâng cao nhận thức, cũng như tinh thần trách nhiệm của mỗi công nhân đối với hoạt động sản xuất kinh doanh cuả công ty noi chung và của hoạt động nâng cao chất lượng sản phẩm nói riêng. + Đổi mới máy móc trang thiết bị tại công ty: Hầu hết máy móc thiết bị của công ty hiện nay là rất cũ kỹ, lạc hậu, thời gian sử dụng đã lâu nó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. Bởi vậy để thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm thì nhất thiết cần phải đổi mới máy móc, trang thiết bị. Bên cạnh đó lãnh đạo công ty cần phải có chiến lược trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ để có thể tiếp nhận được những máy móc, trang thiết bị hiện đại. Thực tế chúng ta thấy rằng ở một số doanh nghiệp của Việt Nam mặc dù đã nhận thức được vai trò của việc đổi mới công nghệ đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng chưa thực sự hiểu rõ về khái niệm đổi mới công nghệ họ chỉ nghĩ đổi mới công nghệ là mua sắm máy móc mới điều này mới chỉ là điều kiện cần trong đổi mới công nghệ mà điều kiện đủ là phải cần có một đội ngũ cán bộ có đủ khả năng tiếp thu được những máy móc mua sắm mới đó. Có như vậy việc đổi mới công nghệ mới mang lại hiệu quả cao cho hoạt động sản xuất của công ty nói chung và hoạt động tiêu thụ nói riêng. + Ngoài hai việc nói trên để nâng cao chất lượng sản phẩm công ty cần phải đảm bảo việc sử dụng các loại nguyên vật liệu đúng quy cách, phẩm chất và đúng định mức kinh tế kỹ thuật. Do đặc thù của việc sản xuất chè, chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của nguyên liệu làm ra nó. Vì vậy để đảm bảo nâng cao chất lượng của sản phẩm thì nhất thiết phải quan tâm đến vấn đề nguyên liệu. Để làm được điều này doanh nghiệp phải thực hiện tốt những công việc sau: - Trước khi đưa nguyên liệu vào sản xuất nó cần phải kiểm tra thật khắt khe, đối với nguyên vật liệu kém phẩm chất cần phải loại bỏ không được đưa vào quy trình sản xuất để tránh ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm chè của Công ty. Vì sản phẩm của công ty được làm từ nguyên liệu chè búp tươi nguyên liệu này được thu mua trực tiếp từ dân. Cho nên đã xảy ra một số trường hợp do người dân không hiểu rõ quy trình thu hoạch chà búp tươi điều này đã làm cho nguyên liệu thu hoạch không được đảm bảo về chất lượng dẫn đến sản phẩm làm ra cóchất lượng không cao.Vì vậy để khắc phục được hiện trạng này bên cạnh không được đưa những nguyên liệu không đủ phẩm cấp vào sản xuất, mà doanh nghiệp cần có sự phối hợp với các địa phương nơi trồng các nguyên liệu chè búp tươi để hỗ trợ bà con nông dân về giống và kĩ thuật thu hoạch để từ đó nguyên liệu cho sản xuất được đảm bảo về chất lượng góp phần vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty . - Ngoài ra để đảm bảo về chất lượng nguyên liệu phục vụ cho sản xuất của doanh nghiệp ,doanh nghiệp cần có một số hình thức xử lý đối với một số trường hợp như: gian lận, thiếu trách nhiệm việc tuân theo đúng quy trình sản xuất ,định mức kỹ thuật . - Như vậy để đảy nhanh hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp thì cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp, mà để nâng cao chất lượng sản phẩm thì cần thiết phải thực hiện tốt những vấn đề nói trên ,có như vậy thì việc sử dụng một trong các chiến lược “4P” trong doanh nghiệp mới thực sự đạt được thành công như ý muốn. 3.2. Phấn đấu tiết kiệm chi phí sản xuất,hạ giá thành tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường Chi phí sản xuất của công ty được cấu thành bởi ba bộ phận là :chi phí nguyên vật liệu,chi phí nhân công và chi phí sản xuất chung. Chi phí sản xuất là một bộ phận cấu thành nên giá thành sản phẩm, nó có ý nghĩa quyết định đến giá bán sản phẩm và năng lực cạnh tranh trên thị trường của công ty. Thực tế ngày nay cho thấy rằng thị trường cạnh tranh về giá đã nhường chỗ cho các dịch vụ gia tăng giá trị khác, tuy nhiên giá cả vẫn là một nhân tố quyết định khá lớn đến việc mua hàng của khách hàng, đặc biệt tại thị trường Việt Nam. Để có được giá bán cạnh tranh trên thị trường công ty cần phải giảm giá thành sản xuất để từ đó có thể giảm giá bán nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Trong thời gian thực tập tại công ty TNHH chè Phú Hà, em nhận thấy việc sử dụng nguyên vật liệu, các yếu tố sản xuất còn nhiều chỗ gây lãng phí dẫn đến giá thành sản phẩm của công ty còn cao, làm cho giá bán còn khá cao chưa thực sự có thể cạnh tranh về giá trên thị trường. Vì vậy thời gian tới công ty cần phải tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm mạnh hơn nữa. Để làm được điều đó công ty có thể vận dụng một số biện pháp như sau: + Quản lý bảo dưỡng máy móc, thiết bị, kết hợp với đầu tư mua sắm mới, thay thế máy móc thiết bị đã cũ. Thực tế cho thấy để tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm có nhiều biện pháp, một trong số đó là làm tốt công tác duy tu bảo dưỡng máy móc thiết bị. Làm tốt công tác này sẽ làm gia tăng năng xuất của máy móc thiết bị, giảm được chi phí sửa chữa, tiết kiệm thời gian sửa chữa, tránh được tình trạng sản xuất bị đình trệ, ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất và giao hàng. Với thực tế máy móc thiết bị của công ty hiện nay (năm 2006 công ty đã đưa vào hoạt động một dây truyền sản xuất hiện đại). Nên việc bảo dưỡng máy móc thiết bị là rất quan trọng bởi hầu hết máy móc thiết bị của công ty đều đã cũ cần bảo dưỡng, nâng cấp thường xuyên, một số bộ phận máy móc mới cũng cần được duy tu, bảo dưỡng. Để làm tốt công tác này công ty cần lập kế hoạch cụ thể duy tu, bảo dưỡng đối với từng loại máy móc thiết bị theo định kỳ và do đội ngũ công nhân kỹ thuật có đủ năng lực chuyên môn tiến hành, có như vậy mới tránh được những hỏng hóc bất ngờ, gây ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, quy trình sản xuất ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm của công ty. + Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất Trong cơ cấu giá thành của công ty chi phí về nguyên vật liệu chiếm đến 80%, giá thành sản phẩm vì vậy việc quản lý tốt chi phí nguyên vật liệu từ khâu mua đến khâu sản xuất sẽ có ảnh hưởng tích cực đến việc tiết kiệm chi phí làm giảm giá thành. Phần lớn nguyên vật liệu của công ty được mua tại hai huyện Yên Lập và Thanh Sơn của Tỉnh Phú Thọ và một phần công ty mua tại một số nơi của tỉnh Yên Bái. Tuy nhiên để tiết kiệm hơn nữa chi phí nguyên vật liệu, phát huy tối đa ưu thế này công ty cần làm tốt những việc sau: - Khi lựa chọn được nguồn nguyên liệu tối ưu, công ty cần xem xét giá mua, cước phí vận chuyển, bốc dỡ ..công ty phải dự đoán được những biến động về cung cầu nguyên vật liệu để từ đó đề ra những biện pháp thu mua có hiệu quả. - Thông qua quá trình thanh toán với các đối tác công ty cần kiểm tra lại giá mua nguyên liệu, các chi phí vận chuyển, bốc dỡ tình hình thực hiện hợp đồng của người bán, vận chuyển, bốc dỡ. - Thường xuyên phân tích tình hình mua sắm, dự trữ nguyên vật liệu (đối với nguyên liệu chè búp khô) chi phí nguyên vật liệu dùng cho sản xuất để tìm ra các nguyên nhân làm tăng hay giảm chi phí này để từ đó có biện pháp khen thưởng đối với những sáng kiến tiết kiệm hiệu quả, có biện pháp, chế tài xử phạt những hành vi làm lãng phí, hư hỏng, mất mát nguyên vật liệu. - Việc giảm bớt chi phí nguyên liệu phải đảm bảo chất lượng sản phẩm sản sản xuất ra, bởi vậy công ty phải chú trọng đến việc sử dụng nguyên vật liệu đúng tiêu chuẩn, quy cách, không chạy theo lợi nhuận mà bớt xén vật liệu mà ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. - Tăng cường công tác quản lý, hạch toán chi phí nguyên vật liệu kịp thời phát hiện những sai sót để có thể đưa ra những biện pháp khắc phục kịp thời. - Thông qua việc theo dõi tình hình sản xuất, xuất nhập nguyên vật liệu, công ty cần thực hiện việc kiểm tra từ khâu mua sắm, kiểm kê nguyên vật liệu, bảo quản, dự trữ, xuất kho nguyên vật liệu cho sản xuất, ngăn ngừa tình trạng sử dụng nguyên vật liệu kém phẩm chất, hư hỏng đồng thời đảm bảo đầy đủ nguyên vật liệu, không thừa cũng không thiếu có thể dẫn đến gián đoạn sản xuất hay ứ đọng vốn ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. + Tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp, tổ chức quản lý phân công lao động, khoa học hiệu quả. Chi phí quản lý doanh nghiệp cũng là loại chi phí có ảnh hưởng lớn đến tiêu thụ sản phẩm do đó nếu có thể tiết kiệm được loại chi phí này, sẽ làm giảm giá thành tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở đó công ty có thể hạ thấp giá bán, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Để làm được điều đó công ty cần thực hiện: Tổ chức phân công lại lao động có hiệu quả và hợp lý, cần tinh giảm bộ máy quản lý, giảm tỷ lệ lao động gián tiếp, để tập trung vào khâu sản xuất và khâu tiêu thụ. Đặc biệt trong thời gian tới công ty cần xắp xếp lại bộ máy quản lý cũng như bộ phận công nhân sản xuất, nhân viên trong lĩnh vực tiêu thụ sao cho khoa học, hợp lý và hiệu quả. + Sử dụng có hiệu quả quỹ lương, thưởng trong sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở phân công lao động hợp lý, đúng năng lực, tay nghề công nhân, công ty nên tiến hành trả lương theo chất lượng công việc ngoài ra công ty có thể thực hiện trả lương theo sản phẩm luỹ tiến, để kích thích người lao động hăng hái làm việc, thúc đẩy tăng năng xuất lao động. Khi sử dụng hình thức tiền thưởng, phải phát huy được tính đòn bẩy của nó đối với người lao động để từ đó người công nhân hăng hái, tích cực lao động, không ngừng nâng cao năng xuất lao động. Công ty cần tránh việc thưởng tràn lan, bình quân theo đầu người gây lãng phí và không kích thích được người lao động tích cực làm việc. Công ty có thể sử dụng các hình thức tiền thưởng như: Thưởng tăng năng xuất, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu. Bên cạnh đó công ty cũng cần có những hình thức xử lý, xử phạt nghiêm minh với những hành vi gây lãng phí .. để hạ giá thành sản phẩm từ đó có thể hạ thấp giá bán, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. 3.3 Xây dựng uy tín của công ty Uy tín của công ty la một tài sản vô hình ,phải mất rất nhiều công sức và phải trải qua nhiều thử thách công ty mới taọ dựng được nên nó. Uy tín của công ty được coi là một phần cấu thành nên thương hiệu của công ty , mà chúng ta biết rằng ngày nay “thương hiệu” được coi là một công cụ cạnh tranh hiệu quả trong bối cảnh việt nam bước ra biển lớn “WTO”.không nằm ngoài quy luật đó công ty TNHH chè Phú Hà cũng cần xây dựng cho mình một chiến lược tốt trong kinh doanh và một trong những cách tốt nhất để làm được điều này là công ty cần xây dựng cho mình uy tín trong tâm trí khách hàng.và để có được uy tín với khách hàng công ty cần thực hiện một số công việc sau: -Xây dựng cho mình bản sắc văn hoá riêng trong hoạt động sản xuất kinh doanh.Muốn vậy công ty cần đào tạo một đội ngũ cán bộ công nhân viên có tinh thần, trách nhiện cao trong công việc ,có tác phong làmg việc chuyên nghiệp để từ đó tạo nên bản sắc riêng trong môi trường hoạt động kinh doanh của công ty . -Việc hoạt động kinh doanh của công ty không chỉ đơn thuần chỉ vì mục tiêu lợi nhuận của riêng mình, công ty cần có những chính sách phúc lợi vì cộng đồng.Việc điều hoà lợi ích riêng của công ty với lợi ích chung của cộng đồng cũng là cách để công ty xây dựng uy tín cho mình, bên cạnh đó công ty cũng cần phải có những chính sách hướng đến người lao động để họ hiểu rằng chỉ ở công ty họ mới có được những điều kiện phát triển cho mình tốt nhất trong tương lai,từ đó sẽ nâng cao được tinh thần tự giác trong lao động của anh em công nhân đây chính là cách thức hiệu quả nhất trong việc nâng cao năng suất lao động tại công ty. -Ngoài hai công việc nói trên để xây dựng uy tín cho mình công ty cần phải có những biện pháp thật hiệu quả để xây dựng riêng cho mình một thương hiệu trong tâm chí khách hàng bằng cách : +Hoàn thiện phương pháp quảng bá thương hiệu bằng quan hệ cộng đồng:Hiện nay tại công ty chưa có phương pháp phát triển thương hiệu bằng quan hệ cộng đồng, đối với công ty việc xây dựng thương hiệu đang ở giai đoạn đầu vì thế để cho khách hàng ngày càng biết đến thương hiệu của công ty thì công ty nên tổ chức những sự kiện cũng như tham gia các hoạt động vì cộng đồng để từ đó làm cho thương hiệu của công ty đến gần hơn nữa với thị trường. Để quảng bá thương hiệu bằng quan hệ cộng đồng công ty cần thực hiện các công việc sau: Tiết lộ thông tin :Khi đưa sản phẩm ra thị trường trước hết công ty cần tiết lộ thông tin cho báo giới và các phương tiện thông tin đại chúng khác.Thông thường có thể thông qua mạng internet,sau đó là các laọi tạp chí người tiêu dùng Các công cụ này nó sẽ làm cho sản phẩm doanh nghiệp dễ tiếp xúc được hơn với khách hàng đồng thời nó cũng gây được sự chú ý với khách hàng về sản phẩm khi đó việc quảng bá thương hiệu của công ty mới thật sự hiệu quả Xây dựng từng bước: Việc xây dựng chương trình quan hệ cộng đồng sẽ được thực hiện lần lượt sau khi công ty đã đưa ra các thông tin cần thiết về sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng.Công ty cần phân bố đủ thời gian cho một chương trình quan hệ công chúng nhằm tạo gia tốc phát triển đối với thương hiệu.Công tác xây dựng từng bước cần phải thực hiện từ từ không được vội vàng vì thực tế chúng ta thấy rằng chỉ với một mẩu tin chỗ này một lời bạn bè kể chỗ kia về sản phẩm chăng mấy chốc khách hàng sẽ nhớ đến sản phẩm của công ty, nhờ đó mà thương hiệu của công ty cũng được khách hàng nhớ tới.Việc xây dựng từng bước một cách từ từ sẽ làm tăng thời gian tiếp nhận thông tin của khách hàng nhờ đó mà nhãn hiệu sẽ được tiếp nhận trong ô nhớ một cách tự nhiên . Ngoài ra khi giới thiệu một sản phẩm của mình hay một thương hiệu đến với khách hàng công ty thường nhận thấy rằng có rất nhiều thuộc tính mà doanh nghiệp muốn thêm vào thượng hiệu.Một câu hỏi đặt ra là công ty nên tập trung vào thuộc tính nào,thường thì câu hỏi này bị né tránh và kết quả là thương hiệu mới giới thiệu đến khách hàng có hàng tá thuộc tính hỗn độn điều đó làm cho thương hiệu được giới thiệu không có đặc trưng của thuộc tính nào điều này làm cho khách hàng hấp thụ thương hiệu .Vì vậy trước khi giới thiệu thương hiệu của mình ra công chúng công ty cần phải xác định thuộc tính nào là đặc trưng cho thương hiệu của mình để từ đó giúp khách hàng tiếp nhận thương hiệu một cách dễ dàng,dễ hiểu . -Bên cạnh việc đưa sản phẩm và quảng bá thương hiệu của mình đến khách hàng công ty cần phải có những chiến lược công ty cần phải có chiến lựoc quảng cáo tiết kiệm hiệu quả về sản phẩm nói riêng và thương hiệu của công ty nói chung. Công tác hỗ trợ tiêu thụ quảng cáo ngày càng trợ nên quen thuộc với người dân trong cuộc sống ngày nay. Ở bất cứ nơi đâu, chúng ta cũng có thể thấy các Aphích, panô, chương trình quảng cáo cho tất cả các mặt hàng trên thị trường. Các nhà sản xuất kinh doanh coi đó là biện pháp hữu hiệu để hỗ trợ công tác tiêu thụ sản phẩm, điều cần thiết quan trọng là phải lựa chọn xây dựng quảng cáo, cách thức quảng cáo sao cho thật đặc biệt đồng thời gây ấn tượng, hiệu quả, chi phí phải hợp lý. Mục tiêu của quảng cáo là khuyếch trương sản phẩm, nâng cao uy tín, đẩy mạnh tiêu thụ, tăng doanh thu, cuối cùng là tạo ra lợi nhuận. Để làm được điều này công ty cần: + Có phương thức quảng cáo phù hợp với từng loại sản phẩm, phù hợp với chi phí quảng cáo của công ty. + Đưa ra các chương trình quảng cáo phải thực sự lôi cuốn, ấn tượng như: Panô, áphích có hình ảnh độc đáo, gây sự chú ý của khách hàng, lời văn phải để lại lòng tin cho khách hàng, hình ảnh, ngôn ngữ phải phù hợp với tập quán, quan niệm xã hội và đặc biệt quảng cáo phải mang tính trung thực. + Trong quảng cáo, công ty nên coi trọng thị trường truyền thống là thị trường có sức tiêu thụ lớn, nhưng bên cạnh đó cũng cần đưa ra các chương trình quảng cáo cho các thị trường tiềm năng. + Xác định lại hiệu quả của quảng cáo đối với việc tiêu thụ sản phẩm để rút kinh nghiệm. Ngoài ra, công ty nên thực hiện các hình thức xúc tiến như: gửi giấy chào hàng, bán hàng, trong đó có đầy đủ các thông tin về sản phẩm của công ty, tích cực tham gia các hội trợ triển lãm trong nước và quốc tế để gặp gỡ và tiếp xúc với khách hàng nhằm giao dịch bán hàng, đồng thời qua đó khai thác triệt để lợi thế của quảng cáo để giới thiệu sản phẩm của công ty. Thông qua hội trợ, công ty cũng có thể tìm được các bạn hàng lớn và ký kết được các hợp đồng. Trên đây mới chỉ là một số biện pháp mà qua quá trình thực tập tại công ty kết hợp với những kiến thức đã được học ở trường em xin mạnh dạn đưa ra, tuy nhiên để có được kết quả tốt hơn trong công tác tiêu thụ nói riêng và sản xuất kinh doanh nói chung, công ty nên tiến hành phân tích những số liệu trên cở sở sổ sách kế toán định kỳ để đánh giá được tình hình tiêu thụ sản phẩm, rút kinh nghiệm và đề ra những biện pháp thực sự hữu hiệu đẩy mạnh công tác tiêu thụ tại công ty. KẾT LUẬN Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình tái sản xuất có vai trò quyết định đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, tiêu thụ sản phẩm không chỉ là khoa học mà còn là nghệ thuật, kỹ thuật mang tính tổng hợp. Bởi vậy để sản xuất ra sản phẩm đã khó nhưng tiêu thụ sản phẩm còn khó hơn, đòi hỏi các doanh nghiệp phải suy nghĩ, trăn trở để hoạch định chiến lược khả thi nhằm tiêu thụ sản phẩm được nhiều nhất, đạt doanh thu cao nhất và cuối cùng là thu được lợi nhuận cho doanh nghiệp. Cũng như nhiều doanh nghiệp khác công ty TNHH chè Phú Hà luôn đặt mục tiêu phải không ngừng đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Trong thời gian qua cùng với đường lối lãnh đạo sáng suốt của ban giám đốc, kết hợp với sự nỗ lực không ngừng của toàn bộ cán bộ công nhân viên, công ty đạt được những thành tích khả quan và đáng khích lệ. Qua thời gian thực tập tại công ty TNHH chè Phú Hà cùng với việc tìm hiểu thực tế, phân tích đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty trong năm vừa qua, em đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến và biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tăng doanh thu của công ty. Tuy nhiên với kiến thức và điều kiện nghiên cứu còn hạn chế nên chuyên đề còn có chỗ khiếm khuyết, em mong được sự góp ý của các cán bộ phòng kinh doanh cũng như của giáo viên hướng dẫn. Hy vọng trong những năm tới công ty TNHH chè Phú Hà sẽ đạt được nhiều thành công hơn nữa, trở thành một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất chè trên thị trường Việt Nam. Qua đây em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Lê Văn Tâm đã nhiệt tình hướng dẫn giúp đỡ em trong quá trình làm chuyên đề tốt nghiệp. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến cán bộ công nhân viên công ty TNHH chè Phú Hà đặc biệt là bà Hoàng Thị Mai giám đốc công ty đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại công ty. MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS. Lê Văn Tâm (chủ biên) - Giáo trình Quản trị chiến lược. NXB Thống kê - 2000. PGS.TS. Lê Văn Tâm và TS. Ngô Kim Thanh (chủ biên) - Giáo trình Quản trị doanh nghiệp. NXB Lao động - xã hội, 2004. PGS.TS. Phạm Thị Gái (chủ biên) - Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh. NXB Thống kê, 2004. PGS.TS. Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên) - Giáo trình Quản trị thương mại của doanh nghiệp công nghiệp. NXB Thống kê, 2004. NHẬN XÉT CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5434.doc
Tài liệu liên quan