Vấn đề cổ phần hoá đã được đề cập từ đầu những năm 90 và ngày 1/7/1993 DNNN đầu tiên đã hoàn thành cổ phần hoá đến nay đã cổ phần hoá được hơn 400 DNNN.Những thành tựu đạt được đã chứng tỏ rằng chủ trương cổ phần hoá là một chủ trương lớn và đang ngày càng hoàn thiên hơn. Các DNNN từ khi sang công ty cổ phần đều hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thực hiện tốt cả mục tiêu xã hội và mục tiêu doanh nghiệp. Thu nhập người lao động tăng nộp ngân sách tăng lên, vốn tăng nhanh, một bầu không khí làm việc hăng say có trách nhiệm được thiết lập.Thúc đẩy các loại hình doanh nghiệp khác cùng phát triển. Kết quả cổ phần hoá thì ai cũng thấy , xong trên thực tế cho đến nay còn nhiều DNNN hoạt động kinh doanh yếu kém mà tốc độ cổ phần hoá diễn ra rất chậm. Phải chăng nguyên nhân xuất phát từ thủ tục và các chế độ cổ phần hoá.Mặc dù các văn bản hướng dẫn về việc cổ phần hoá vẫn đang được tiếp tục xem xét sửa đổi, bổ xung nhằm hoàn thiện hơn.
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đẩy mạnh việc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rên sổ sách kế toán là chủ yếu, mà chưa tính hết các yếu tố lợi thế thương mại, uy tín, chất lượng sản phẩm, thị phần... Đây là vấn đề khó và quan trọng, nhưng lại không được xem xét hoặc có tính đến lại qua loa sơ sài. Tiền thu được do bán cổ phiếu chưa được sử dụng đúng hoặc không hợp lý do không có quy định cụ thể, dẫn đến một điều nghịch lý là cổ phần hoá DNNN là một hình thức huy động vốn nhanh, với số lượng lớn và có khả năng hơn các loại hình kinh doanh khác thì các công ty cổ phần lại thiếu vốn để sản xuất kinh doanh.
Hình thức cổ phần hoá trong giai đoạn thí điểm quá đơn điệu. Trong giai đoạn này cổ phần hoá được thực hiện thông qua một hình thức đó là bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp. Việc hạnb chế trong hình thức cổ phần hoá đã dẫn đến khó khăn trong việc DNNN cổ phần hoá. Các DNNN bị bó hẹp trong một hành lang pháp lý vì trên thực tế các DNNN do tính chất và hình thức kinh doanh đa dạng hơn nữa quy mô của từng doanh nghiệp trong từng ngành là khác nhau do đó, bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp đối với những DNNN có quy mô nhỏ, hình thức sản xuất kinh doanh là không thể chia nhỏ, là không thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp muốn cổ phần hoá. Điều đó giải thích tại sao tốc độ cổ phần hoá lại diễn ra chậm chạp.
Quy trình cổ phần hoá rườm rà, phức tạp, nhiều thủ tục gây phiền hà, tốn kém. Nhiều doanh nghiệp mặc dù quy mô nhỏ quá trình chuẩn bị cổ phần hoá kéo dài gần 3 năm đã gây ra tâm lí chán nản, mệt mỏi do bấp bênh, để doanh nghiệp kéo dài trong tình trạng” quá độ” sang cổ phần hoá, mà phương pháp hạch toán tài chính kinh doanh trong DNNN và công ty cổ phần là khác nhau.Các doanh nghiệp khi chưa cổ phần hoá khi nhìn vào các doanh nghệp thực hiện cổ phần hoá đã ngại ngần và chưa muốn cổ phần hoá bởi họ không muốn và không nhất thiết phải cổ phần hoá với một thủ tục rườm rà, nhiều khâu, nhiều bước.
Các chính sách ưu đãi đối với người lao động và doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá chưa hấp dẫn. Các quy định đã làm người lao động không tìm thấy chỗ đứng của mình trong công ty mới vì không có tiền vốn để mua cổ phần. Không có chính sách ưu đãi cho những người lao động đã làm việc nhiều năm cho nhà nước, chưa có chính sách ưu đãi thực sự đối với công ty cổ phần trong việc thuế thu nhập, thuế đất đai và các nghĩa vụ đối với nhà nước khác trong một vài năm cổ phần hoá. Mặc dù có một số ưu tiên trong các văn bản ban hành song trên thực tế công ty cổ phần chưa thể gọi là được ưu đãi hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
Tóm lại, trong giai đoạn thí điểm cổ phần hoá mặc dù thu được một số kết quả nhất định: hiệu quả kinh doanh của các công ty cổ phần tăng, đời sống của người lao động được ổn định và cải thiện... song còn rất nhiều vướng mắc, trở ngại trong quá trình thực hiện cổ phần hoá cũng như trong quá trình kinh doanh của công ty cổ phần. Trong thời gian tới Đảng và Nhà nước ta cần tổng kết để rút ra bài học cũng như kinh nghiệm để có những chính sách hoàn thiện hơn góp phần thúc đẩy tốc độ cổ phần hoá nhanh và vững chắc trong giai đoạn tới.
1.2.Giai đoạn 2 từ 5/1996 - 6/1998.
Trên cơ sở tổng kết quá trình cổ phần hoá ở giai đoạn thí điểm và tiếp tục thực hiện chủ trương cuả Đảng, Đảng ta kiên trì theo đuổi sự nghiệp cổ phần hoá- con đường đúng đắn để phát triển kinh tế, đa dạng hoá hình thức kinh doanh tạo động lực thúc đẩy các loại hình kinh tế khác cùng phát triên. Chính phủ đã ban hành gần 30 văn bản để hướng dẫn thực hiện và triển khai tích cực hơn tiến trình cổ phần hoá.
Nghị định 28-CP của chính phủ ngày 7/5/96 về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.
Quyết định số 548- TTG của thủ tướng chính phủ ngày 13/8/96 về việc thành lập các ban chỉ đạo cổ phần hoá theo nghị định 28-CP.
Quyết định số 01-CPH của Bộ trưởng, trưởng ban chỉ đạo cổ phần hoá trung ương ngày 4/9/96 về việc ban hành quy trình chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Quyết định số 25-CP của chính phủ ngày 26/3 97 sửa đổi một số điều của nghị định số 28-CP của chính phủ ngày 7/5/96 về việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.
Chỉ thị số 658-TTG của thủ tướng chính phủ ngày 20/8/97 về việc thúc đẩy triển khai cổ phần hoá DNNN.
Sau 4 năm thí điểm cổ phần hoá Nhà nước ta đã rút được một số kinh nghiệm để bổ xung và sửa đổi chế độ cổ phần hoá, ngày 7/5/96 chính phủ đã ra nghị định 28-CP thay thế quyết định số 202-CP với quy định cụ thể và mở rộng hành lang pháp lí cho các DNNN chuyển sang các công ty cổ phần.
Tính từ năm 1993 với doanh nghệp đại lý liên hiệp vận chuyển ( Thành Phố Hồ Chí Minh ) cổ phần hoá ngày 1/7/93 đến cuối năm1997 cổ phần hoá được 18 DNNN với tổng số vốn là 121.348 triệu đồng. Trong số 18 DNNN nói trên có một DNNN bán toàn bộ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp mà không giữ lại cổ phần nào; số còn lại Nhà nước nắm giữ ít nhất là 18% cao nhất là 51% cổ phần của công ty ( bình quân của 18 doanh nghiệp là 34,2%) còn lại do cán bộ công nhân viên trong công ty và các thành phần kinh tế khác ngoài xã hội nắm giữ. Trong số 18 DNNN đã chuyển thành công ty cổ phần có 11 doanh nghiệp hoạt động từ một năm trở nên, trong đó có hai doanh nghiệp trước khi chọn làm thí điểm cổ phần hoá có những điều kiện thuận lơị, hoạt động có lãi cao là công ty cổ phần Cơ điện lạnh, công ty cổ phần Đại lí liên hiệp vận chuyển. Nhiều doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá kinh doanh kém hiệu quả, lợi nhuận thấp vốn giảm dần, như xí nghiệp VIFOCO, xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Long An, xí nghiệp sửa chữa và đóng mới tàu thuyền Bình Định...
Trong giai đoạn này tốc độ cổ phần hoá được thực hiện nhanh và vững chắc so với giai đoạn thí điểm. Đạt được điều này là do cổ phần hoá không những đảm bảo các mục tiêu kinh tế là huy động vốn nhanh, phát triển sản xuất, kinh doanh... mà còn bảo đảm các mục tiêu xã hội như phát huy vai trò làm chủ của người lao động, tạo việc làm mới, tăng thu nhập... Hơn nữa do chúng ta đã kịp thời sửa đổi chế độ chính sách để tạo những bước chuyển biến tích cực tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá.
1.2.1.Những thành tựu đạt được
Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần thì sản xuất kinh doanh phát triển, có tiến bộ về mọi mặt, Nhà nước và doanh nghiệp người lao động đều có lợi. Cụ thể như sau Nghiên cứu kinh tế số 241, tháng 6/1998
:-
-Đối với các doanh nghiệp:
Vốn tăng bình quân 45%/năm
Doanh thu tăng bình quân 56,9%/năm
Lợi nhuận tăng bình quân 70,2%/năm
Nộp ngân sách tăng bình quân 98%/năm
Thu nhập của người lao động tăng bình quân 20%/năm
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 19,1%/năm
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn 74,6%/năm
_ Đối với nhà nước:
Từ khi chuyển sang công ty cổ phần với phương thức quản lý tiến bộ trách nhiệm người lao động nâng cao, hiệu quả làm việc ngày một tốt hơn dẫn đến doanh thu của các doanh nghiệp ngày càng tăng, lợi nhuận tăng lên tiền thuế của các công ty cổ phần nộp nhiều hơn khi còn là DNNN. Ngoài ra nhà nứơc còn thu được 37724 triệu đồng từ các nguồn sau:
Tiền thu về bán cổ phần 30.207 triệu đồng
Phần lợi tức của nhà nước từ các công ty cổ phần 6.995 triệu đồng
Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của CBCNV 522 triệu đồng
( chưa kể số tiền CBCNV trong các công ty cổ phần mua chịu cổ phiếu là 14.749 triệu đồng sau 5 năm phải trả Nhà nước)
_Đối với người lao động và xã hội :
Các DNNN từ khi chuyển sang công ty cổ phần đã thay đổi cả về lượng và chất theo chiều hướng tích cực. Các công ty cổ phần này không những ổn định đủ việc làm cho người lao động trong doanh nghiệp mà còn tạo thêm nhiều việc làm thu hút một khối lượng lớn lao động trong xã hội và trả với mức lương cao góp phần giải quyết một vấn đề lớn của xã hội. Thu nhập của người lao động cao hơn từ 1,5 đến 2 lần so với khi còn ở DNNN đó là chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần khoảng 22- 24%/năm. Ngoài số lao động cũ đã làm việc trong công ty từ nhiều năm trước, các công ty cổ phần này đã thu hút hơn 1000 người lao động ngoài xã hội vào làm việc.Do hoạt động của các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá có hiệu quả nên lợi tức của các cổ đông thường cao hơn lãi suất gửi tiền tiết kiệm, đông thời tốc độ tích luỹ vốn của doanh nghiệp cũng khá nhanh , giá trị cổ phiếu thường tăng từ 1,5-2 lần( sau 1-2 năm hoạt động). Chẳng hạn như :Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển, sau 4 năm hoạt động giá trị cổ phiếu đã tăng 7lần; công ty cơ điện lạnh cũng trong thời kỳ đó giá trị cổ phiếu tăng hơn 6 lần. Công ty cổ phần cơ điện lạnh trước khi cổ phần hoá có 334 CBCNV sau khi sang công ty cổ phần hàng năm số lượng lao động mới tuyển vào đều tăng.Năm 94 tuyển 81 người làm việc, năm 95 thu hút 79 người vào làm việc và năm 96 thu hút thêm 153 người. Như vậy sau 3 năm cổ phần hoá công ty đã tạo ra 313 chỗ làm việc mới đưa tổng số người lao động trong công ty từ 334 người(1993) lên 647 người(1996). Tiền lương của người lao động không những được đảm bảo mà tăng đánh kể so với còn là DNNN. Trước cổ phần hoá tiền lương bình quân của người lao động là 647 ngàn đồng/tháng, dến năm 96 lương bình quân là 1,3 triệu đồng/tháng.Đại lý liên hiệp vận chuyển trước khi cổ phần hoá thu nhập của người lao động là 800 ngàn/ tháng (1993) lên 1,4 triệu đồng /tháng (1994) và đến năm 1996 thu nhập của người lao động trung bình lên tới 2,5 triệu đồng /tháng.
Trong giai đoạn này đã mở rộng và đa dạng hoá hơn hình thức cổ phần hoá, nếu như ở giai đoạn thí điểm chỉ có một hình thức cổ phần hoá là bán một phần giá trị hiện có cuả doanh nghiệp nên ít nhiều đã hạn chế tốc độ cổ phần hoá.Nay, Nghị định 28-CP đã cho phép cổ phần hoá theo 3 hình thức đó là:
-Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp.
-Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp.
-Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá.
Với hình thức cổ phần hoá đa dạng nhiều doanh nghiệp có thể thực hiện cổ phần hoá hoặc với hình thức này hoặc với hình thức khác dựa vào những đặc điểm riêng của mình. Do vậy chọn hình thức nào để cổ phần hoá cho thích hợp là quyền và trách nhiệm của chính doanh nghiệp.
Chính sách ưu đãi của nhà nước đối với doanh nghiệp và người lao động hấp dẫn hơn:
Đối với doanh nghiệp, điều 10 Nghị định 28 CP đã làm rõ rằng khi cổ phần hoá DNNN được hưởng 6 ưu đãi:
+Được sử dụng số dư quỹ khen thưởng và phúc lợi chia cho CNV để mua cổ phiếu.
+Được giảm thuế lợi tức 50% trong 2 năm liên tiếp ( không phải xét hỏi như theo QĐ 202-CT ).
+ Được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại quốc doanh như trước.
+Được tiếp tục xuất khẩu hàng hoá như trước.
+Được miễn lệ phí trước bạ khi chuyển quyền sở hữu tài sản từ DNNNsang công ty cổ phần.
+Được hạch toán các chi phí hợp lý và cần thiết khi cổ phần hoá và giá trị doanh nghiệp.
Đối với người lao động:
Khắc phục những bất lợi về quyền lợi của người lao động trong quyết định 202 CT.Nghị định 28 CP đã lược bỏ những chi tiết không phù hợp, đưa thêm một ưu đãi mới và có mức khống chế chặt chẽ hơn. Cụ thể:
+ Nhà nước cấp cho công nhân viên một số cổ phiếu tuỳ theo thâm nlên và chất lượng công tác của từng người. Người lao động được hưởng 100% cổ tức, được quyền thừa kế cho con làm việc tại công ty cổ phần nhưng không được chuyển nhượng vì những cổ phiếu này thuộc sở hữu của Nhà nước như vậy, đây không phải là mua, nhưng cũng không phaỉ là” cho không” mà cho” quyền sử dụng”.
+Mức khống chế: Trị giá cổ phiếu mà mỗi người được cấp không quá 6 tháng lương và tổng số cổ phiếu cấp cho công nhân viên không quá 10% giá trị doanh nghiệp ( tức 10% số lượng cổ phiếu phát hành lần đầu).
+Công nhân viên được mua chịu trả chậm trong 5 năm với lãi suất 4%/năm, tổng mức mua chịu không quá 15% giá trị doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có vốn tự tích luỹ tư 10% giá trị doanh nghiệp trở nên, thì mức mua chịu được tăng 5% nữa, tức tối đa là 20% giá trị doanh nghiệp.
Cổ phần hoá thay đổi phương thức quản lý, điều hành. Từ việc giám đốc DNNN do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầuhội đồng quản trị, ban kiểm soát và ban giám đốc, do đó trách nhiệm của hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành cao hơn, hoạt động của doanh nghiệp có tính đến hiệu quả cụ thể hơn.
Quyền lợi của người lao động trong công ty, đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của công ty. Họ có trách nhiệm trong công việc và gắn bó với nhau, việc trả công minh bạch rõ ràng, vấn đề làm chủ tập thể của các cổ đông được phát huy cao độ. Người lao động một mặt rất phấn khởi với thu nhập ngày một tăng, tinh thần làm việc hăng say, mặt khác cũng yêu cầu hội đồng quản trị, giám đốc điều hành phải lãnh đạo công ty hoạt động có hiệu quả để có lợi nhuận cao hơn.
Tài sản của các DNNN được đánh giá lại chính xác hơn. Lâu nay tài sản của các DNNN bị đánh giá thấp, khấu hao trích nộp rất thấp, không đủ bù đắp vốn để tái đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất.Qua ciệc cổ phần hoá 18 doanh nghiệp vừa qua, tổng giá trị đánh giá lại đã tăng 48,8% so với tổng giá trị hạch toán.
Chúng ta đã thống nhất hơn trong tư tưởng, qua thực hiện thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp đã rút ra được những kinh nghiệm quý báu, những bài học thành công, thất bại giúp cho việc chr đạo thực hiện cổ phần hoá trong giai đoạn
1.2.2. Những hạn chế trong giai đoạn này
Trước hết phải nói rằng trong giai đoạn này, cổ phần hoá các DNNN vẫn còn rừng lại ở mức độ thử nghiệm, mặt dù Nhà nước có khuyến khích động viên các DNNN cổ phần hoá thông qua một số ưu đãi về các đièu kiện tài chính nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá. Trong khi đó các cấp, các ngành ở trung ương và địa phương chưa quán triệt đầy đủ các quan điểm về cổ phần hoá. Một số lãnh đạo chính quyền lo ngại cổ phần hoá xong sẽ không còn CNXH nữa.
Nhìn chung các doanh nghiệp chưa có phương án phát triển sản xuất thật hiệu quả. Chưa tìm ra được các hướng đầu tư mới. Điển hình là đại lý liên hiệp vận chuyển, thừa vốn không biết dùng vào đâu, phải cho tổng công ty hàng hải vay.Điều này thể hiện rõ trong số dự án của các doanh nghiệp này xin đăng ký tăng thêm vốn. Khi thực hiện cổ phần hoá hơn 121 tỷ giá trị vốn, thì vốn huy động thêm chỉ khoảng 10 tỷ, một tỷ lệ quá thấp.
Nhà nước chưa có văn bản đủ tầm cỡ về mặt pháp lý. Một số nội dung trong văn bản chỉ đạo chư rõ ràng thiếu cụ thể, nhiều vấn đề chưa được khẳng định dứt khoát.Nhà nước chưa có biện pháp mạnh mẽ thực hiện đúng quyền chủ sở hữu của mình, Chính phủ chưa kiên quyết, chưa coi cổ phần hoá là nghĩa vụ bắt buộc, mà lại chờ sự tự nguyện của các doanh nghiệp, các địa phương, các bộ chủ quản. Chủ trương cổ phần hoá dàn đều, không tập chung vào các vùng trọng điểm.
Cách tính giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá cũng còn gặp không ít khó khăn và đã kéo dài lịch trình cổ phần hoá, thậm trí làm cho cổ phần hoá không thực hiện được. Vấn đề đánh giá lợi thế và bất lợi thế thực hiện chưa tốt và chưa có căn cứ khoa học ( mới chỉ có 3 doanh nghiệp đánh giá được lợi thế ). Nên chăng chúng ta áp dụng phương pháp do chuyên gia IFC đề xuất trong hội thảo đối với tiến trình cổ phần hoá.
Công tác kiểm toán đã gây cản trở trong công việc thực hiện cổ phần hoá. Kiểm toán chưa thực sự thực hiện được chức năng của mình. Chi phí kiểm toán rất cao, nhưng chỉ kiểm toán được hạch toán của doanh nghiệp, chưa xác định được giá trị doanh nghiệp, hơn nữa chi phí kiểm toán lại tính vào giá trị doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp miền Nam chưa có đủ giấy tờ pháp lý về quyền sở hữu nhà xưởng, đất đai cũng đã gây ách tắc cho quá trình cổ phần hoá.
Chúng ta chưa có thị trường chứng khoán nói chính xác hơn là thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn hình thành. Có ý kiến cho rằng đây không phải là nguyên nhân làm cho quá trình cổ phần hoá chậm, bởi vì họ cho rằng các cổ đông Việt Nam hiện tại không muốn bàn cổ phiếu của mình. Theo một số ý kiến thì điều này chỉ đúng phần nào đối với một số doanh nghiệp ở miền Bắc. Trên thực tế nếu thị trường chứng khoán hoạt động thì việc mua bán cổ phiếu trái phiếu, việc thu hồi vốn đầu tư khi cần thiết sẽ được thực hiện dễ dàng hơn và người đầu tư sẵn sàng hơn khi mua cổ phiếu. Thời gian qua việc mua bán cổ phiếu tại các công ty cổ phần chủ yếu là quan hệ thân tín, quen biết. Do đó khi việc mua bán cổ phiếu triển khai trên diện rộng sẽ gặp không ít khó khăn vì thiếu thông tin về tình trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ,thủ tục phương thức mua bán cổ phiếu .
Vấn đề bán cổ phiếu cho người nước ngoài chưa được đề cập với mục tiêu cổ phân hoá và thu hút mọi người vốn rộng rãi trong và ngoai nước. Điều này đã han chế các công ty cổ phần thu hút một khối lượng lớn vốn nước ngoài. Hiện tại chúng ta mới thu hút được một lượng vốn lớn trong nước và như vâỵ mục tiêu cổ phần hoá chưa được thưc hiện triệt để. Mặt khác khi các công ty cổ phần thực hiện bàn cổ phiếu, đại bộ phận dân chúng chưa dám mạo hiểm đầu tư mua cổ phiếu do sự hạn chế về vốn và chưa có thói quen đầu tư vào công ty cổ phần. Trong khi nước ngoài họ có sẵn vốn lại được trang bị kiến thức về đầu tư cổ phiếu thì lại chưa được mua. Đều này đã ảnh hưởng chung đến quá trình cổ phần hoá trong giai đoạn này.
Nói chung ở giai đoạn này trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm ở giai đoạn trước, chính sách cổ phần hoá đã có nhiều chuyển biến tích cực, Chính phủ đã ban hành một số văn bản nhằm khắc phục, sửa đổi mhững sai lầm, đồng thời có chích sách ưu đãi để khuyến khích các DNNN thực hiện cổ phần hoá mang tinh thần tự nguyện. Tuy nhiên trong giai đoạn này cũng còn không ít những vướng mắc tiếp tục hoàn thiện để thúc đẩy cổ phần hoá diễn ra nhanh hơn .
1.3.Giai đoạn triển khai hàng loạt từ 6/1998 đến nay.
Kể từ khi nghị định 28CP ngày 7/5/1996 ra đời đã làm thay đổi tốc độ cổ phần hoá, tạo một bước chuyển biến tích cực. Xong cùng với cơ chế vận động của kinh tế thị trường, sau hơn 2 năm thực hiện, Nghị định 28CP đã không còn phát huy được nhiều tác dụng, một số hạn chế của nó đã cản trở lại cho việc thực hiện cổ phần hoá các DNNN. Nghị định 44-CP của Chính phủ ngày 29/6/1998 về chuyển DNNN thành công ty cổ phần được ban hành đã giải quyết yêu cầu bức thiết về một văn bản mới phù hợp với tiến trình cổ phần hoá trong giai đoạn mới.
Cùng với Nghị định số 44-CP của Chính phủ quyết định số 128-QĐ-UBCK của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước ngày 1/8/1998 ban hành quy chế về tổ chức và hoạt động của trung tâm Giao dịch Chứng khoán.
Công văn số 3395-VPCP-ĐMDN của Văn phòng Chính phủ ngày 29/8/1998 hướng dẫn quy định và phương án mẫu cổ phần hoá . Nghị định 44CP ra đời đã thúc đẩy tốc độ cổ phần hoá diễn ra nhanh hơn. Tính đến ngày 31/12/1999 cả nước đã cổ phần hoá được 370 doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên quá trình cổ phần hoá diễn ra chậm và nhỏ hẹp. Đến hết năm 1999, số DNNN cổ phần hoá mới chỉ chiếm 6,2% về số lượng và khoảng 1% về vốn trong tổng số DNNN. Số lượng DNNN thực hiện cổ phần hoá tăng nên, nhưng so với kế hoạch đề ra có xu hướng giảm xuống. Cụ thể năm 1998, kế hoạch cổ phần hoá 150 doanh nghiệp nhưng thực hiện được 111 doanh nghiệp, đạt được 74% kế hoạch; năm 1999, kế hoạch cổ phần hoá 400 doanh nghiệp, thực hiện được 250 doanh nghiệp, chỉ đạt 62,5% kế hoạch. Năm 2000 phải hoàn thành cổ phần hoá hơn 600 doanh nghiệp, nhưng 4 tháng đầu năm mới có hơn 40 doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hoá.
Theo báo cáo của Ban đổi mới quản trị doanh nghiệp Trung ương về kết quả hoạt động năm 1999 của 20 doanh nghiệp đã cổ phần hoá trên một năm thì:doanh thu bình quân tăng 1,3 lần; lợi nhuận tăng bình quân hơn 2 lần; vốn tăng hơn 2,5 lần; nộp ngân sách tăng bình quân 2 lần so với trước khi cổ phần hoá; cổ tức bình quân đạt 1-2%/tháng; việc làm và thu nhập cùng có xu hướng tăng.
1.3.1.Những thành tựu đạt được
Chủ trương chính sách và kế hoạch cổ phần hoá của Chính phủ tương đối đồng bộ và rõ ràng.Đối tương thực hiện cổ phần hoá đã được xác định cụ thể. Đã xác định rõ hai loại hình doanh nghiệp mà nhà nước cần giữ lại 100% vốn,loại doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối,cổ phần đặc biệt và loại doanh nghiệp Nhà nước không cần giữ cổ phần hoặc chỉ là những cổ đông bình thường đầu tư để hưởng lợi tức.Từ đó tạo điều kiện cho Chính phủ đặt và giao kế hoạch cổ phân hoá cho từng Bộ, Ngành, địa phương, tổng công ty. Bên cạnh đó các chính sách được ban hành xác định tương đối rõ trình tự thủ tục và phương pháp cổ phần hoá,giảm bớt các thủ tục hành chính. Các chính sách ngày càng tiến tới tạo sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế,các loại hình doanh nghiệp.
Đối tượng mua cổ phiếu và mức mua số lượng cô phiếu lần đầu tiên được mở rộng.Giai đoạn này,Nghị định 44 CP cho phép người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và người Việt Nam định cư ở nước ngoài,các tổ chức nước ngoài được quyền mua cổ phiếu tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.Mức khống chế mua lần đầu được mở rộng hơn cho các đối tượng, mức khống chế mua cổ phần tối đa theo quy định cũ là 5% đối với cá nhân và 10% so với pháp nhân giờ chỉ còn áp dụng với doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối,cổ phần đặc biệt. Còn đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì mức mua lần đầu được mở rộng gấp đôi tương ứng với 10% đối với cá nhân và 20% đối với pháp nhân, tổng số giá trị cổ phần bàn cho các đối tượng này không quá 30% vốn điều lệ của mỗi công ty. Đặc biệt đối với công ty cổ phần mà Nhà nước không nắm giữ cổ phần nào thì không khống chế mức mua cổ phần.
Các doanh nghiệp đã hoàn thành mục tiêu: vừa tăng đóng góp thêm lãi cho ngân sách Nhà nước, vừa tăng thu nhập của người lao dộng, vừa tăng doanh thu và lợi nhuận, vừa tăng thu hút vốn. Theo thống kê, đến hết tháng 10/1999 tổng số 50 doanh nghiệp được cổ phần hoá trên một năm thì Thời báo ngân hàng, tháng 9/1999
:
+Doanh thu tăng gấp 2 lần so với trước khi cổ phần hoá như công ty cổ phần Bông Bạch tuyết, thức ăn gia súc, có công ty doanh thu tăng gấp đôi như công ty cổ phần cơ điện lạnh tăng từ 46 tỷ lên 94 tỷ đồng.
+Nộp ngân sách tăng bình quân từ 2 đến 2,5 lần.
+Thu nhập của người lao động tăng bình quân 50%, có những công ty cổ phần tăng rất lớn như công ty cổ phần Ong Mật từ 0,5 triệu lên 1,2 triệu/ một người/ một tháng, công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển tù 1,4 triệu/ người/ tháng.
+Lao động sử dụng tăng thêm 30%, không có doanh nghiệp nào phải đưa người lao động ra ngoài doanh nghiệp trừ những người muốn chấm dứt hợp đồng lao động
+Lợi nhuận tăng từ 2-3 lần ở tất cả các doanh nghiệp đã cổ phần hoá trong thời gian trên một năm hoạt động.
+Tốc độ tăng vốn bao gồm cả phần vốn tự tích luỹ từ lợi nhuận và phát hành thêm cổ phiếu là 2 lần, có đến công ty tăng đến 5 lần như công ty cổ phần chế biến xuất khẩu Long An.
+Mức cổ tức tính trên vốn đạt bình quân từ 1-2%/ tháng( cao hơn lãi suất ký thác tiết kiệm ngân hàng).
Tăng thêm hình thức tiến hành cổ phần hoá. Ngoài ba hình thức được quy định trong Nghị định 38-CP đén nay đã quy định thêm một hình thức mới để DNNN tiến hành cổ phần hoá đó là: bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. Việc đa dạng hoá hình thức tiến hành cổ phần hoá là một bước chuyển mới có tác dụng thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá trên cơ sở tự do lựa chọn hình thức cổ phần hoá cho phù hợp với tính chất và đậc điểm riêng có của mỗi doanh nghiệp.
Vấn đề định giá tài sản doanh nghiệp rất quan trọng quyết định đến tiến trình cổ phần hoá nhanh hay chậm đã được tháo gỡ.
Giá trị thực tế của doanh nghiệp và các yếu tố xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp được đánh giá tại thời điểm cổ phần hoá, xuất phát từ các yếu tố phát sinh tại thời điểm đó như sổ sách kế toán của doanh nghiệp, giá thị trường, lợi thế kinh doanh, trên nguyên tắc” người mua ,người bán cổ phần đều chấp nhận được”.Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả.
Chính sách ưu đãi đối với người lao động được mở rộng hơn, có tính đến người lao động nghèo. Người lao động không còn băn khoăn về việc làm vì doanh nghiệp cổ phần hoá phải có trách nhiệm sắp xếp sử dụng số lao động.Trong đó họ được hưởng những ưu đãi:Nhà nước bán cổ phần với giá ưu đãi đặc biệt, mỗi năm làm việc cho Nhà nước được mua tối đa 10 cổ phần với mức giảm giá 30%. Tổng giá trị ưu đãi không quá 20% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Chủ sở hữu có thể chuyển nhượng, thừa kế và các quyền khác của cổ đông .Người lao động nghèo được trả dần trong 10 năm không phải chịu lãi suất và hoàn trả trong 3 năm đầu để hưởng cổ tức.
Bên cạnh những thành tựu mà tất cả chúng ta thừa nhận còn có một số những cản trở nhỏ và khi nghị định đi vào thực tế mới phát sinh.
1.3.2 Những hạn chế cơ bản
Mức khống chế mua cổ phần theo giá ưu đãi của cán bộ quản lí. Theo quy định hiện tại cán bộ quản lí doanh nghiệp được mua cổ phần ưu đãi không quá mức bình quân cuả những người lao động trong doanh nghiệp. Quy định này chưa khuyến khích, không tạo được niềm tin các cổ đông khác mua cổ phần. Mặt khác quy định cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp chỉ được mua cổ phần ưu đãi không vượt quá mức cổ phần ưu đãi bình quân của người lao động trong doanh nghiệp đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa những lãnh đạo có năm làm việc cho Nhà nước cao hơn mức bình quân bị thiệt thòi. Khống chế mức mua cổ phần còn quá cứng nhắc chặt chẽ khiến một số doanh nghiệp chưa huy động vốn đủ nhưng do bị khống chế nên nhiều cá nhân, pháp nhân có tiền mà không được mua thêm.
Việc lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hóa đa số là hoạt động kinh doanh khó khăn, kém hiệu quả tình hình tài chính không lành mạnh, chư có biện pháp củng cố nhưng đã đưa vào kế hoạch cổ phần hoá, dẫn đến không hấp dẫn đối với người mua cổ phiếu.Tâm lý của của cán bộ doanh nghiệp cổ phần hoá lo sợ ảnh hưởng đến vị trí công tác, quyền lợi của một bộ phận cán quản lý trực tiếp tại doanh nghiệp Nhà nước và các cơ quan quản lý Nhà nứoc trung gian. Tiến độ cổ phần hoá nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào bản thân doanh nghiệp. Hiện nay hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nên doanh nghiệp lo ngại khi đã cổ phần hoá sẽ khó bán cổ phần. Một số doanh nghiệp lại muốn chậm cổ phần hoá để tích luỹ thêm quỹ khen thưởng và phúc lợi chia cho công nhân viên.
Việc ban hành quy định bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài còn gây nhiều tranh cãi. Khống chế mức mua cổ phần còn quá chặt chẽ và cứng nhắc khiến một số doanh nghiệp không huy động được vốn đủ nhưng do bị khống chế nên nhiều cá nhân, pháp nhân muốn đầu tư mà không được. Một vấn đề nữa là giá bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài chưa thực sự thống nhất trong cacs văn bản đã gây nên tình trạng công ty cổ phần không biết bán cổ phần cho các đầu tư nước ngoài theo giá nào.
Vấn đề nguồn vốn tự tích luỹ của doanh nghiệp cũng còn nhiều điều chưa thoả đáng. Nguyên tắc chung là người lao động được hưởng lao động từ tiền lương còn lợi nhuận sau thuế là sở hữu của nhà đầu tư. Tuy nhiên trong thực tế nhiều doanh nghiệp không được Nhà nước đầu tư vốn đầy đủ nên phải chịu rủi ro trong việc vay thêm vốn để đầu tư mới công nghệ và mở rộng sản xuất vì vậy họ phải đẩy nhanh khấu hao giả trích quỹ phúc lợi, giảm tiền thưởng để sớm trả xong nợ vay, nhiều nơi còn huy động vốn góp của công nhân trong doanh nghiệp theo lãi suất thấp hơn lãi suất thực của doanh nghiệp. Nhưng đến khi xác định tài sản của doanh nghiệp để cổ phần hoá thì số tài sản đầu tư mới này lại thường được đánh giá cao hơn so với sổ sách kế toán. Thực tế này đã dẫn đến nhiều cán bộ công nhân viên trong nhiều doanh nghiệp chưa thực sự hài lòng và không nhiệt tình ủng hộ cổ phần hoá.
Một số quy định ưu đãi với DNNN cổ phần hoá ít đi vào thực tế do chưa đảm bảo tính đồng bộ giữa các văn bản pháp lý. Chưa có chính sách công khai hoá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá để tạo lòng tin cho các doanh nghiệp đang chuẩn bị cổ phần hoá và các doanh nghiệp khác trong diện cổ phần hoá.
Nói chung đến giai đoạn này chúng ta đã có chính sách cổ phần hoá tương đối hoàn chỉnh đã tạo nhiều chuyển biến tích cực thúc đẩy các DNNN thực hiện cổ phần hoá, tốc độ cổ phần hoá diễn ra tương đối nhanh quy trình và hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần đã thực sự vững chắc và hiệu quả.Tuy nhiên trong quá trình triển khai, thực tế cổ phần hoá vẫn còn nảy sinh nhiều vướng mắc hạn chế tiến trình cổ phần hoá. Cùng với sự thay đổi của cơ chế thị trường, thay đổi môi trường kinh doanh do đó trong thời gian tới chúng ta phải có kế hoạch để tiếp tục hoàn thiện những vấn đề chưa phù hợp với thực tế và có các chính sách quy định mới để cổ phần hoá thực sự là một hình thức kinh doanh có hiệu quả nhất trong tương lai.
2. Những nhận xét chung về quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Việt Nam
Tính đến ngày 31/12/1999 cả nước ta đã cổ phần hoá được 370 DNNN trong đó suốt thời kỳ thí điểm (tháng 6 năm 1992 đến tháng 5 năm 1996) có 18 doanh nghiệp đăng ký làm thủ tục nhưng thực tế chỉ cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp. Sang thời kỳ triển khai việc chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần theo nghị định 28 CP (từ tháng 5 năm 1996 đến tháng 6 năm 1998) tròn 2 năm nhưng cũng chỉ cổ phần hoá được 14 doanh nghiệp. Sau khi ban hành nghị định 44/ 1998/ NĐ-CP, do cơ chế cổ phần hoá đã được thông thoáng hơn, cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ và cơ bản về chủ trương cổ phần hoá nên tốc độ cổ phần hoá tăng lên rõ rệt. Nếu như 7 năm trước đó chỉ cổ phần hoá được 20 doanh nghiệp thì đến năm 1998 cổ phần hoá được 100 doanh nghiệp gấp 5 lần. Riêng năm 99 cổ phần hoá được 250 doanh nghiệp, gấp 2,5 lần so với năm 98. Trong số DNNN đã được cổ phần hoá có 69 doanh nghiệp thuộc các bộ ngành TW, 28 doanh nghiệp thuộc các tổng công ty 91 và 273 doanh nghiệp thuộc địa phương trực tiếp quản lý. Tuy số lượng DNNN chuyển sang công ty cổ phần chưa nhiều, thời gian hoạt động còn ít sang cổ phần hoá đã khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế.
2.1. Những kết quả đạt được
Từ khi chuyển sang công ty cổ phần doanh nghiệp đã thay đổi cả về cơ cấu quản lí và chất lượng lao động. Cơ chế quản lí được đổi mới, người lao động quan tâm đến sản xuất kinh doanh. Mục tiêu kinh tế xã hội được thực hiện. Chuyển sang công ty cổ phần, doanh nghiệp từ chỗ chịu sự quản lí của Nhà nước trực tiếp, doanh nghiệp chuyển sang sự giám sát của cơ chế thị trường. Chế độ bình bầu lựa chọn giám đốc, hội đồng quản trị và các chức danh khác để họ có trách nhiệm cao hơn, quyền lợi và trách nhiệm gắn bó chặt chẽ, việc trả công lao động được minh bạch rõ ràng, quyền lợi của cổ đông được phát huy cao độ. Mục tiêu của công ty là lợi nhuận song không vì thế mà trách nhiệm xã hội bị bỏ quên.Công tác quản lí phải năng động, ban giám đốc điều hành nhanh nhậy trong quyết định kinh doanh. Cấu trúc bộ máy quản lí phải gọn nhẹ hiệu quả.
Sản xuất kinh doanh phát triển, thu nhập của cán bộ công nhân viên ngày một tăng. Doanh nghiệp từ khi chuyển sang công ty cổ phần đã hoàn thành mục tiêu: Vừa tăng đóng góp thêm lãi cho ngân sách Nhà nước, vừa tăng thu nhập của người lao động vừa tăng doanh thu và lợi nhuận, vừa tăng thu hút vốn. Sở dĩ đạt được kết quả phấn khởi trên, là vì DNNN sau khi được cổ phần hoá đã kết hợp được cả các ưu điểm của các doanh nghiệp tư nhân: Mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận để có lãi cho nhiều chia cho các cổ đông tư nhân nên, DNNN đã hết sức cố gắng cắt giảm các chi phí không cần thiết, tăng đầu tư, tăng gia sản xuất, tăng ứng dụng khoa học kỹ thuật. Nhưng do vẫn còn là DNNN nên doanh nghiệp tiếp tục đựơc hưởng các chính sách ưu đãi dành riêng cho DNNN, DNNN cũng thi hành các mục tiêu công ích được Đảng và Nhà nước giao, doanh nghiệp cũng không phải vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận mà lao vào kinh doanh văn hoá đồi truỵ, hay phạm pháp khác như một số doanh nghiệp thuần tư nhân. Tóm lại, DNNN sau khi cổ phần hoá đã kết hợp được tính ưu việt của DNNN lẫn tính ưu việt của doanh nghiệp tư nhân mà không có cái xấu của cả hai.
Từ khi chuyển sang công ty cổ phần các doanh nghiệp đã tăng nguồn thu cho ngân sách 1 cách đáng kể. Do sản xuất phát triển lợi nhuận tăng lên tiền thuế của các công ty cổ phần nộp cho Nhà nước cao hơn rất nhiều khi còn là DNNN. Nộp ngân sách bình quân của các công ty cổ phần tăng 260% điển hình là công ty cơ điện lạnh trước khi cổ phần hoá nộp ngân sách 2905 triệu đồng thì đến hết năm 98 nộp ngân sách 35400 triệu đồng tăng 12,06 lần. Nguồn thu của Nhà nước từ cổ tức ở các công ty cổ phần ngày một tăng. Phần lợi tức của Nhà nước tính đến cuối năm 97 Nhà nước thu về gần 7 tỷ đồng. Những nguồn thu trên mang một ý nghĩa quan trọng để Nhà nước đầu tư vào các công trình xã hội, đầu tư chiều sâu cho các doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
Tuy số vốn huy động từ mọi đối tượng vào công ty cổ phần chưa nhiều đặc biệt là từ trong dân nhưng vấn đề ở đây là cổ phần hoá tập cho người dân có thói quen đầu tư vào thị trường chứng khoán tiếp xúc với một thị trường mà ở đó người dân phải thực sự có một tầm hiểu biết về rủi ro và hiệu quả đầu tư. Thị trường chứng khoán ra đời đã thực sự thu hút sự chú ý của các ngân hàng thương mại trong và ngoài nước góp phần thúc đẩy hoạt động của thị trường chứng khoán sôi động.
Trang bị cho cán bộ quản lý kinh doanh theo cơ chế mới một kiến thức hiểu biết về quy luật khắc nghiệt của cơ chế thị trường. Chuyển sang công ty cổ phần tư duy của cán bộ quản lý hoàn toàn thay đổi, họ không còn thụ động trông chờ vào nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, tình trạng “ sớm vác ô đi, tối vác ô về “ đã chấm dứt, thay vào đó là ý thức trách nhiệm cao với công việc, chủ động tìm các nguồn vốn, thay đổi mới công nghệ khoa học kỹ thuật, lập phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Họ luôn luôn ý thức mọi quyền lợi của họ phụ thuộc vào quyền lợi của công ty.
2.2. Những mặt hạn chế
Chủ trương cổ phần hoá được Đảng và Nhà nước đề cập từ đầu năm 90 song chưa được các cấp, các ngành, địa phương hưởng ứng. Mặc dù đã được quán triệt chủ trương cổ phần hoá, hiểu rõ lợi ích của việc thực hiện quá trình này song với những cán bộ không có đủ năng lực quản lý lãnh đạo họ sợ mất quyền lực mất lợi ích kinh tế mà họ đang có. Người lao động do hạn chế về hiểu biết, chưa thông suốt chủ trương cổ phần hoá nên họ sợ mất việc làm, mất quyền lợi bao cấp khác, giảm thu nhập khi cổ phần hoá nhất là đối với những người trình độ thấp. Vì vậy họ không hăng hái thực hiện cổ phần hoá.
Một trong những mục tiêu cổ phần hoá là huy động vốn song trên thực tế mục tiêu này chưa được khai thác triệt để. Hiên nay nguồn vốn trong các doanh nghiệp cổ phần hoá chủ yếu vẫn là Nhà nước nắm giữ ( 51%) còn lại là do CBCNV nắm giữ, một phần nhỏ còn lại đựơc bán cho người ngoài doanh nghiệp. Mục tiêu là thu hút vốn trong vòng ngoài nước nhưng nguồn vốn ngoài nước hiện nay chiếm một tỷ lệ không đáng kể trong vốn điều lệ của doanh nghiệp do hạn chế về mức mua cổ phần lần đầu và khống chế tổng giá trị cổ phần bán cho các đối tượng nước ngoài. Thực tế hiện nay xảy ra tình trạng vốn huy động không đủ song người có tiền thì không được mua cổ phiếu.
Việc xác định giá trị doanh nghiệp còn chưa rõ ràng. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang chỉ được xác định theo số dư chi phí thực tế trên sổ kế toán không tính đến trường hợp chi phí sản xuất kinh doanh dở dang phát sinh cao hơn giá trị khối lượng nở ra. Việc thẩm tra các kết quả của doanh nghiệp làm mất nhiều thời gian công tác, đặc biệt giữa bộ phận nghiệp vụ với doanh nghiệp vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, như vấn đề xác định tỷ lệ chất lượng còn lại của tài sản doanh nghiệp đưa vào cổ phần hoá. Cán bộ tham gia công tác cổ phần hoá chưa thống nhất quan điểm doanh nghiệp là người mua hay người bán cổ phần, nên sự chỉ đạo chưa thống nhất. Mặt khác, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý tái công nợ, một phần do văn bản hướng dẫn của Nhà nước chưa hướng dẫn cụ thể nên doanh nghiệp không tự xử lý được do bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ. Doanh nghiệp muốn đòi hết nợ hoặc trích lập dự phòng phải mất nhiều năm, hoạt động kinh doanh lại luôn phát sinh nợ.Vì vậy khi tính giá trị lợi thế, nên quy định rõ thêm các điều kiện cần và đủ để xét doanh nghiệp có lợi thế hay không sau đó mới cho tính giá trị lợi thế.
Chưa có một hệ thống hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Đối với công ty cổ phần trong giai đoạn cổ phần hoá không có một tổ chức nào tham ra cung ứng dịch vụ tư vấn xây dưng phương án cổ phần hoá, từ việc định giá tài sản để cổ phần hoá, xây dựng cơ cấu vốn hoạt động, phương thức xử lý vốn tồn đọng. Giai đoạn phát hành cổ phiếu nếu có một tổ chức trung gian giúp doanh nghiệp bán chứng khoán mơí phát hành. Mặc dù chi phí có cao hơn song doanh nghiệp tìm được sự hỗ trợ về kinh nghiệm vận động bán cổ phiếu đúng luật.
III. Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá DNNN
Một số giải pháp nằm thúc đẩy cổ phần hoá các DNNN
Hoàn thiện các văn bản pháp quy về cổ phần hoá các doanh nghiệp:cổ phần hoá các DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Như vậy, nghị định 44CP và các văn bản hướng dẫn khác có đủ thẩm cỡ và sức mạnh pháp lý để điều chỉnh hay phải có văn bản pháp luật cao hơn. Qua thực tiễn cổ phần hoá đặt ra các yêu cầu không những cần phải thể chế hoá thành luật, mà còn phải bổ xung sửa đổi những văn bản luật có liên quan. Trong thời gian tới Đảng và Nhà nước ta cần có những văn bản có tính pháp lý cao quy định rõ ràng về mọi vấn đề có liên quan đến cổ phần hoá, góp phần thúc đẩy cổ phần hoá nhanh và vững chắc.
Cần có chính sách đãi ngộ tốt đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có thể cho không giám đốc một số cổ phần để thưởng công xứng đáng của họ. Quy định “ Giám đốc, phó giám đốc doanh nghiệp cổ phần hoá chỉ được mua cổ phiếu giá ưu đãi không vượt quá mức cổ phần bình quân trong danh nghiệp “. Chính điều này đã làm giảm nhiệt tình của ban giám đốc doanh nghiệp cổ phần hoá mà còn tước bỏ những quyền lợi chính đáng mà họ được hưởng như những người lao động bình thường.
Có chính sách mở rộng chủ trương huy động vốn trong toàn xã hội, bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Có quy định cụ thể về bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ thì tổ chức bán đấu giá. Cổ phiếu phải mua bán bằng đồng Việt Nam, giá trị của một cổ phần là 100.000 đồng Việt Nam. Giá bán thống nhất một giá cho nhà đầu tư nước ngoài và trong nước... Tất cả các doanh nghiệp bán cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài đều phải do Thủ Tướng quyết định. Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần chi phối thì không nên khống chế mức cổ phần bán cho cá nhân pháp nhân.
Nhằm đảm bảo sau cổ phần hoá các doanh nghiệp thực thi “cơ chế quản lý nhà nước” theo đúng luật công ty, ngoại trừ các doanh nghiệp nhà nước nắm cổ phần chi phối và cổ phần đậc biệt, Nhà nước chỉ giữ hai cổ đông là đại diện công ty tài chính và đại diện cơ quan chủ quản. Khi tiến hành đại hội cổ đông để bầu Hội đồng quản trị, giám đốc doanh nghiệp, đại diện Nhà nước chỉ bỏ hai phiếu không tuỳ thuộc số vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp nhiều hay ít. Như vậy, loại trừ khả năng Nhà nước dùng quyền khống chế để cử người vào Hội đồng quản trị hay giám đốc theo ý đồ riêng. Nhà nước nên chăng mau chóng chấm dứt cơ quan chủ quản, đại diện vốn Nhà nước chỉ còn là bộ tài chính.
Hoàn thiện chính sách tài chính ưu đãi đối với người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá. Mặc dù nghị định 44-CP của Chính phủ ra đời đã quy định ưu đãi đối với cán bộ công nhân viên và phần nào đáp ứng được nhu cầu thực tế của người lao động. Tuy nhiên vẫn còn một số điểm chưa thực sự bảo vệ người lao động như: Cổ phần hoá nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh để qua đó đem lại việc làm, thu nhập cho người lao động nhiều hơn so với trước khi cổ phần hoá. Lợi ích mới là cơ bản lâu dài chứ không phải ở chỗ người lao động được hưởng ưu đãi nhiều hay ít. Hơn nữa các quy định về ưu đãi cần ăn khớp tránh tình trạng quy định nọ khống chế quy định kia sẽ ảnh hưởng đến tâm lý người lao động và vô hình chung đã vô hiệu hoá tác dụng của các chính sách.
Hoàn thiện hệ thống xác định giá trị doanh nghiệp. Nguyên tắc để xác định giá trị doanh nghiệp trong nghị định 44CP là tương đối hoàn chỉnh nhưng khi áp dụng vào thực tế mới thấy những khó khăn phức tạp. Chẳng hạn, thiết bị nhà xưởng thời bao cấp tính quá rẻ giá trị đất không tính vào giá trị doanh nghiệp, giá trị còn lại của tài sản... Dựa vào căn cứ nào để tính,có thể xem những cách sau:
G: Tổng giá trị nội tại của doanh nghiệp
Gi: Giá trị thực tế của từng loại tài sản ở thời điểm CPH
T: Giá trị sử dụng còn lại của tài sản (%)
i = 1, 2, 3, ....n
Đối với tài sản là vốn bằng tiền thì tính theo số dư bằng tiền đã kiểm quỹ, nếu số dư là ngoại tệ phải quy đổi sang tiền Việt Nam. Đối với nợ phải thu, tài sản ký quỹ, ký cược là các khoản đã đối chiếu xác nhận. Đối với các chi phí dở dang, tính theo số dư chi phí thực tế trên sổ kế toán. Đối với lợi thế kinh doanh thì phải tinh giá trị lợi thế và giá trị lợi thế doanh nghiệp:
Tỷ suất lợi nhuận bình quân 3 năm của doanh nghiệp
=
Tổng số lợi nhuận thực hiện 3 năm liền kề
Tổng số vốn của Nhà nước 3 năm liền kề
Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch
=
Tỷ suất lợi nhuận bình quân 3 năm của DN
x
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của ngành tại địa bàn (tỉnh, TP)
Giá trị lợi thế chỉ được tính tối đa 30% vào giá trị thực của doanh nghiệp. Như vậy:
Giá trị lợi thế tính vào giá trị DN
=
Vốn Nhà nước theo sổ kế toán 3 năm liền kề
x
Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch
x 30%
Để xác định một doanh nghiệp có hoặc không có lợi thế ta phải xem xét tỷ suất lợi nhuận 3 năm liền kề của doanh nghiệp với suất nội hoàn (IRR) của xã hội. Nếu lớn hơn là doanh nghiệp có lợi thế và giá trị tính vào giá trị doanh nghiệp như tính trên, còn nếu nhỏ hơn thì:
Giá trị doanh nghiệp cổ phẩn hoá
=
Vốn Nhà nước theo sổ kế toán x tỷ suất lợi nhuận 3 năm liền kề
Tỷ suất nội hoàn xã hội
Theo cách tính này, các doanh nghiệp “bất lợi thế” khi cổ phần hoá sẽ bị giảm vốn.
Đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là nơi huy động vốn dài hạn, công ty cổ phần và thị trường chứng khoán là 2 khái niệm khác nhau trong cùng một sự phát triển. Khi thị trường chứng khoán hoạt động nhiều loại cổ phần, trái phiếu được niêm yết bán tự do. Dân chúng được quyền lựa chọn cách đầu tư có hiệu quả nhất. Thị trường chứng khoán thu hút vốn nhàn rỗi trong xã hội. Mục tiêu cổ phần hoá là huy động vốn trong dân. Vậy nên chăng có quy định không cho phép công ty cổ phần tăng vốn bằng cách vay ngân hàng mà buôcj phải phát hành cổ phần mới. Muốn vậy phải nghiên cứu hoàn thiện hơn các quy định về hoạt động của thị trường chứng khoán, điều kiện tham ra, niêm yết chứng khoán... Để thị trường hoạt động có hiệu quả.
Phát triển quỹ đầu tư- một hình thức hỗ trợ cổ phần hoá.Quỹ này đóng vai trò rất lớn làm trung gian cho việc phát hành cổ phần, là tuyến đường tốt nhất cho việc cổ phần hoá. Việt Nam nên chăng phát triển loại quỹ này, chính quỹ là người cung ứng các dịch vụ trong quá trình cổ phần hoá, đồng thời là người đi tìm và quy tụ nguồn vốn cho công ty. Cụ thể với công ty cổ phần, quỹ đầu tư có thể cung ứng từ dịch vụ tư vấn xây dựng phương án cổ phần hoá cho đến xây dựng điêù lệ và thành lập dự án đầu tư hoặc luận chứng kinh tế kỹ thuật, giúp doanh nghiệp bán những chứng khoán mới phát hành. Quỹ còn là khách hàng mua một lúc với số vốn rất lớn. Với những người đầu tư họ ít có khả năng phân tích và đánh giá đầy đủ về công ty. Chính vì thế những người đầu tư thường thông qua tư vấn của công ty môi giới chứng khoán. Vì vậy quỹ đầu tư sẽ đảm nhận thay phần việc của nhà đầu tư thay vì chỉ cung cấp dịch vụ tư vấn.
Một số kiến nghị
Kể từ khi có quyết định thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần đến nay đã có 370 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Nhìn chung tốc độ cổ phần hoá còn chậm so với mục tiêu đề ra. Nguyên nhân thì có nhiều xong chủ yếu là do môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, chủ trương cổ phần hoá chưa được quán triệt, các chế độ chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động chưa hợp lý...Để thực hiện tốt hơn chủ trương cổ phần hoá của Chính phủ trong thời gian tới, em xin mạo muội đề xuất một số vấn đề:
Hình thức mua cổ phần cần thay đổi: Ngoài việc mua cổ phần bằng tiền có thể mua bằng hiện vật, cổ phần kỹ thuật, cổ phần là các bí quyết, giải pháp công nghệ,nhãn hiệu sản xuất...nó được đánh giá theo thông lệ mua bán, chuyển nhượng. Với mục tiêu huy động vốn, việc mua cổ phần không chỉ bằng tiền, vốn còn để ở nhiều hình thức khác nhau.
Ngân hàng và các tổ chức tài chính cần tranh thủ cơ hội này. Tại sao các ngân hàng không mạnh dạn cho vay mua cổ phần? Ngân hàng có thể cho vay tăng dư nợ tín dụng thu được lãi, cổ đông đầu tư vào công ty có cổ tức cao hơn lãi xuất ngân hàng sẽ hưởng chênh lệch, nếu phát triển họ có thể được”Biếu” cổ phần do gía trị cổ phiếu tăng, để tránh rủi ro người ta sẽ đầu tư vào một vài công ty có triển vọng.
Vấn đề sử dụng tiền bán cổ phần thuộc vốn nhà nước.Tiền thu về bán cổ phần của 400 doanh nghiệp được trên 1000 tỷ đồng là quá nhỏ so với các hình thức huy động vốn khác. Nên chăng tiền bán cổ phần thuộc vốn nhà nước đưa vào tài khoản quỹ đầu tư quốc gia và ưu tiên cho việc nhà nước tái đầu tư vào các công ty cổ phần làm ăn có lãi hoặc thành lập công ty cổ phần mới mà nhà nước nắm ít nhất 20% số vốn. Như vậy sẽ tạo thêm việc làm, còn việc đào tạo, trợ cấp cho người lao động sẽ lấy ở nguồn vốn của doanh nghiệp của các quỹ khác và từ nguồn quốc tế hỗ trợ cổ phần hoá.
Cần nghiên cứu tham khảo thêm kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước khác đặc biệt là những nước có điều kiện gần giống Việt Nam. Trên cơ sở đó đánh giá lại quá trình cổ phần hoá thực tế đã diễn ra, kết hợp với những kinh nghiệp thành công của các nước khác để từ đó tìm ra được những mặt được và chưa được để điều chỉnh lại các chính sách quy định, ban hành chính sách mới phù hợp với tình hình thực tế nhằm thúc đẩy nhanh hơn nữa tiến trình cổ phần hoá.
kết luận
Qua việc nghiên cứu quá trình thực hiện cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam cho thấy: xuất phát từ kết quả hoạt động kinh doanh không hiệu quả do trình độ quản lý có hạn, máy móc trang thiệt bị lạc hậu,vốn thiếu,thói quen được bao cấp đẩy người lao động đến việc vô trách nhiệm với công việc, đã làm suy kiệt hệ thống DNNN mà ngân sách nhà nước không đủ khả năng bao cấp nữa. Trước thực tế cấp bách phải tìm được giải pháp hữu hiệu nhất để vực dậy DNNN đang trong tình trạng thua lỗ. Cổ phần hoá DNNN là một chủ trương lớn của nhà nước được chọn để khắc phục những yếu kém trên.
Với 2 mục tiêu:
Một là, huy động vốn của toàn xã hội bao gồm cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp.
Hai là, tạo điều kiện cho người lao động có cổ phần và người góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý,tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả góp phần tăng thu nhập cho người lao động và phát triển đất nước.
Vấn đề cổ phần hoá đã được đề cập từ đầu những năm 90 và ngày 1/7/1993 DNNN đầu tiên đã hoàn thành cổ phần hoá đến nay đã cổ phần hoá được hơn 400 DNNN.Những thành tựu đạt được đã chứng tỏ rằng chủ trương cổ phần hoá là một chủ trương lớn và đang ngày càng hoàn thiên hơn. Các DNNN từ khi sang công ty cổ phần đều hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thực hiện tốt cả mục tiêu xã hội và mục tiêu doanh nghiệp. Thu nhập người lao động tăng nộp ngân sách tăng lên, vốn tăng nhanh, một bầu không khí làm việc hăng say có trách nhiệm được thiết lập...Thúc đẩy các loại hình doanh nghiệp khác cùng phát triển. Kết quả cổ phần hoá thì ai cũng thấy , xong trên thực tế cho đến nay còn nhiều DNNN hoạt động kinh doanh yếu kém mà tốc độ cổ phần hoá diễn ra rất chậm. Phải chăng nguyên nhân xuất phát từ thủ tục và các chế độ cổ phần hoá.Mặc dù các văn bản hướng dẫn về việc cổ phần hoá vẫn đang được tiếp tục xem xét sửa đổi, bổ xung nhằm hoàn thiện hơn.
Song liệu các văn bản có đủ tầm cơ và sức mạnh pháp lý để điều chỉnh hay cần phải có một văn bản luật cao hơn. Trong thời gian tới Đảng và Nhà nước ta cần nghiên cứu để tìm ra những giải pháp tối ưu nhất thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá diễn ra nhanh hơn và vững chắc hơn. Có lẽ cổ phần hoá đang chờ một văn bản luật cao hơn để cổ phần hoá thực hiện tốt hơn vai trò của mình trong sự nghiệp mới.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Th.S. Trần Thị Tố Linh
đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Tài liệu tham khảo
1. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
NXB Thống kê.
2. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tài liệu hội thảo cổ phần hoá TP. Hồ Chí Minh – 1992
3. Báo cáo tình hình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian qua
Ban quản lý đổi mới doanh nghiệp Trung ương- Hà Nội 3/1999
4. Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước của Bộ kế hoạch và Đầu tư
Hà Nội 2/1999
5. Tài liệu tập huấn về cổ phần hoá
Tạp chí và báo
1. Công báo số 15 ngày 15/8/1996
Số 23 ngày 15/12/ 1996
Số 9 ngày 15/5/1997
2. Tạp chí Tài chính, số 8, 10/1998 và số 1,4/1999; số 5/2000
3. Tạp chí phát triển kinh tế số 7, 8/1997
4. Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 241 tháng 6/1998; số 246 tháng 11/1998
5. Tạp chí nghiên cứu lý luận, số 5/1999; số 11/1996; số 6/1997
6. Thời báo ngân hàng, tháng 9/1999
7. Tạp chí công nghiệp, số 4/2000
8. Tạp chí kinh tế và dự báo số 5/2000
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
I- Cơ sở lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 3
1. Thực chất của cổ phần hoá. Sự cần thiết khách quan phải cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 3
1.1. Thực chất của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 3
1.2. Sự cần thiết khách quan phải cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước 4
1.3. Mục tiêu cổ phần hoá 5
2. Qui trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần 6
II- Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta 6
1. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua 6
1.1. Giai đoạn thí điểm từ 1992 đến tháng 5/1996 6
1.2. Giai đoạn 2 từ 5/1996 – 6/1998 11
1.3. Giai đoạn triển khai hàng loạt từ 6/1998 đến nay 17
2. Những nhận xét chung về quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Việt Nam 22
2.1. Những kết quả đạt được 23
2.2. Những mặt hạn chế 24
III- Một số giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá DNNN 26
1. Một số giải pháp nhằm cổ phần hoá các DNNN 26
2. Một số kiến nghị 29
Kết luận 31
Tài liệu tham khảo 33
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35035.doc