Doanh nghiệp liên doanh có quyền trực tiếp ký hợp đồng lao động với người lao động. Hai Bên có toàn quyền thoả thuận với nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi về các mặt của quan hệ lao động theo quy định của pháp luật lao động. Hợp đồng lao động phải được giao kết trực tiếp giữa người sử dụng lao động và người lao động. Người sử dụng lao động trong doanh nghiệp liên doanh là Tổng giám đốc doanh nghiệp liên doanh hoặc người được Tổng Giám đốc uỷ quyền. Hợp đồng lao động được ký kết bằng văn bản và phải được làm thành hai bản, mỗi Bên giữ một bản (Điều 28 Bộ Luật lao động). Mẫu của hợp đồng lao động được thực hiện thống nhất do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phát hành.
Nội dung của hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu sau: Công việc phải làm, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngợi, tiền lương, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và Bảo hiểmxã hội đối với người lao động.
Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các trường hợp sau:
- Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
- Hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 đến 3 năm;
- Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới 1 năm.
1.3: Doanh nghiệp liên doanh có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Để đảm bảo cho doanh nghiệp liên doanh đi vào hoạt động kinh doanh có hiệu quả và thực hiện tốt công việc trong vấn đề sử dụng và quản lý lao động. Pháp luật lao động đã quy định: Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động. Tuy nhiên sự chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động là sự kiện pháp lý hết sức quan trọng nên được pháp luật lao động quy định rất chặt chẽ.
Doanh nghiệp liên doanh có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp theo quy định tại Điều 38 khoản 1 Bộ Luật lao động.
Khi doanh nghiệp liên doanh đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo các trường hợp nêu trên (trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 38 nói trên) thì người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:
- Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn.
- Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 đến 3 năm.
- Ít nhất 3 ngày đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ, theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới 1 năm.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Địa vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1997.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt: nếu có sản phẩm, hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì phải nộp thuế theo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Thuế thu nhập cá nhân: Theo pháp lệnh sửa đổi một số điều của Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
- Tiền thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển: Nếu doanh nghiệp sử dụng mặt đất, mặt nước, mặt biển phải trả tiền thuê.
- Các khoản phí và lệ phí như: Lệ phí trước bạ, lệ phí cấp Giấy phép đầu tư...
6. Các nghĩa vụ tài chính khác:
a. Chuyển lỗ:
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp liên doanh được chuyển khoản lỗ của bất kỳ năm thuế nào sang năm tiếp theo và được bù khoản lỗ đó bằng lợi nhuận của những năm tiếp theo, nhưng không được quá 5 năm (Điều 40 Luật đầu tư, Điều 11 NĐ10/1998).
Tuy nhiên khi bắt đầu sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp phải đăng ký với cơ quan thuế phương pháp thực hiện chuyển lỗ của doanh nghiệp và thực hiện đúng phương pháp và thời gian chuyển lỗ đã đăng ký.
b. Lập quỹ:
Sau khi nộp thuế lợi tức, doanh nghiệp liên doanh trích 5% lợi nhuận còn lại để lập quỹ dự phòng. Quỹ dự phòng được giới hạn mức 10% vốn pháp định của doanh nghiệp. Tỷ lệ lợi nhuận dành ra để lập quỹ phúc lợi và các quỹ khác do các bên thoả thuận và ghi trong Điều lệ của doanh nghiệp ( Điều 41 Luật đầu tư )
Năm tính thuế đối với doanh nghiệp liên doanh bắt đầu từ ngày 1 tháng 1và kết thúc ngày 31 tháng 12 dương lịch (Điều 60 Nghị định 12/CP )
V- Trong lĩnh vực quản lý ngoại hối.
Mỗi một quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình và nó là biểu hiện của một đơn vị giá trị nhất định. Khi đồng tiền này được lưu hành sang một quốc gia khác nó được coi là ngoại hối.
Ngoại hối có hai loại: tiền mặt và tiền chuyển khoản.
ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 9 khoản 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 01/1997/QH10 ngày 12/12/1997: “Ngoại hối là tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài”.
Quản lý ngoại hối là các quy định của Chính phủ áp dụng đối với các hoạt động liên quan đến các nguồn ngoại hối ra, vào của một nước và các giao dịch khác có liên quan đến tiền tệ nước ngoài (bao gồm tiền giấy, tiền kim loại và các Giấy tờ có giá như tiền). Chính phủ thông qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để quản lý ngoại hồi nhằm mục địch ổn định tiền tệ trong nước, bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế và bảo toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước. Với mục định như vậy, tuỳ theo điều kiện cụ thể, Chính phủ sẽ đề ra một chính sách quản lý ngoại hối cho phù hợp. Chính sách quản lý ngoại hối được thay đổi tuỳ theo từng thời kỳ và tuỳ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế của đất nước cho phù hợp.
ở nước ta từ khi có chủ trương thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài là một chủ trưởng hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước có như vậy chúng ta mới đáp ứng được nhu cầu về ngoại tệ để phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên chúng ta phải có một chính sách quản lý ngoại hối hợp lý, chặt chẽ thông qua các hoạt động xuất nhập khẩu, chuyển tiền ra nước ngoài, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam... có kế hoạch điều tiết để ổn định chính sách tiền tệ trong nước.
1. Mở và sử dụng tài khoản.
Trên cơ sở Điều 35 Luật đầu tư thì doanh nghiệp liên doanh mở tài khoản bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài tại Ngân hàng Việt Nam hoặc tại Ngân hàng liên doanh hoặc tại chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đặt tại Việt Nam.
Trong trường hợp đặc biệt được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận, doanh nghiệp liên doanh được phép mở tài khoản vốn vay tại Ngân hàng ở nước ngoài.
Như vậy thì doanh nghiệp liên doanh sẽ mở tài khoản ngoại tệ và tài khoản đồng Việt Nam tại Ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam. Thông thường thì doanh nghiệp liên doanh thường mở tài khoản tại Ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đặt tại Việt Nam.
Theo qui định Thông tư số 2 - TT/NH7 ngày 28/6/1997 của Ngân hàng Nhà nước thì doanh nghiệp liên doanh phải mở tài khoản tiền gửi vốn chuyên dùng bằng ngoại tệ ở một Ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ tại cùng địa phương, nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Tài khoản tiền gửi vốn chuyên dùng bằng ngoại tệ để thực hiện các giao dịch chuyển vốn (vốn đầu tư vào và ra khỏi Việt Nam, tiền gốc của các khoản vay nước ngoài chuyển vào và ra khỏi Việt Nam...)
Ngoài ra, trong quá trình xây dựng cơ bản hình thành doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp phải mở tài khoản riêng tại Ngân hàng đặt tại Việt Nam để theo dõi việc thu chi tài chính trong việc xây dựng cơ bản hình thành doanh nghiệp. Mọi thu, chi liên quan tới việc xây dựng công trình phải được thực hiện thông qua tài khoản này. (Điều 89 Nghị định 12/CP).
Sau khi đã mở tài khoản tại ngân hàng, mọi khoản thu, chi bằng ngoại tệ và đồng Việt Nam của doanh nghiệp liên doanh đều phải thực hiện thông qua các tài khoản của mình mở ở ngân hàng, chấp hành các qui định hiện hành của Việt Nam về quản lý ngoại hối và đồng Việt Nam về thanh toán không dùng tiền mặt.
Trong trường hợp năng lực tài chính của doanh nghiệp không đủ để thực hiện dự án thì tuỳ theo sự cần thiết về việc mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước của Việt Nam có thể xem xét cho doanh nghiệp liên doanh được phép mở tài khoản vốn vay tại Ngân hàng ở nước ngoài để tiếp nhận vốn vay nếu bên cho vay nước ngoài yêu cầu phải mở tài khoản vốn vay tại Ngân hàng ở nước ngoài.
Tài khoản vốn vay mở ở nước ngoài sẽ chấm dứt hoạt động khi hợp đồng vay vốn nước ngoài hết hiệu lực.
2. Cân đối ngoại tệ.
Về nguyên tắc, Doanh nghiệp liên doanh phải tự bảo đảm nhu cầu về tiền nước ngoài cho hoạt động của mình (Điều 33 Luật đầu tư).
Như vậy, các khoản thu ngoại tệ của doanh nghiệp ít nhất phải đáp ứng được các khoản chi ngoại tệ, kể cả các khoản lợi nhuận chuyển ra nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh không được tự do chuyển đổi từ tiền Việt Nam ra tiền nước ngoài để cân đối ngoại tệ của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp liên doanh đầu tư vào các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố), sản xuất hàng thay thế nhập khẩu thiết yếu và một số dự án đặc biệt quan trọng được Ngân hàng nhà nước Việt Nam bảo đảm cho chuyển đổi tiền Việt Nam ra ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu hợp lý. Các đối tượng nói trên được trực tiếp liên hệ với các Ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ để mua số ngoại tệ cần thiết theo đúng chế độ quản lý ngoại hối hiện hành của Việt Nam. Tại Điều 15 Nghị định số 10/1998/NĐ-CP ngày 23/11/1998 của Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam quy định:
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo đảm cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất hàng thay thế nhập khẩu thiết yếu và các công trình đầu tư quan trọng do Bộ kế hoạch và Đầu tư công bố. Việc bảo đảm bán ngoại tệ đối với các doanh nghiệp nói trên được áp dụng ổn định trong suốt thời gian hoạt động của doanh nghiệp.
2. Doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất có nghĩa vụ xuất khẩu sản phẩm và các doanh nghiệp khác không thuộc đối tượng nói tại khoản 1 Điều này được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hỗ trợ một phần nhu cầu ngoại tệ trong trường hợp thật sự cần thiết và hợp lý trong 3 năm đầu kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu sản xuất, kinh doanh theo thứ tự ưu tiên sau:
- Nhập khẩu nguyên vật liệu sản xuất trong năm;
- Nhập khẩu phụ tùng thay thế;
- Trả lãi tiền vay.
3. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ (du lịch, khách sạn, văn phòng cho thuê, vận tải công cộng...) được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét cho mua ngoại tệ phù hợp với các quy định về quản lý ngoại hối hiện hành.
Những đối tượng trên nếu muốn xin mua ngoại tệ thì phải lập hồ sơ mua ngoại tệ gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hồ sơ mua ngoại tệ theo quy định tại Thông tư Số 2 - TT/NH7 ngày 28/6/1997 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ thông báo quyết định cho mua hay không cho mua ngoại tệ cho doanh nghiệp liên doanh.
3. Chuyển vốn vào và ra khỏi Việt Nam, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài:
Việc chuyển ngoại tệ vào hoặc ra khỏi Việt Nam như: vốn pháp định, vốn tái đầu tư, lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài, gốc, lãi và phí của các khoản vay nước ngoài phải thực hiện qua tài khoản tiền gửi vốn chuyên dùng bằng ngoại tệ mà doanh nghiệp liên doanh đã đăng ký với chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố.
Khi hết năm tài chính, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam được chuyển ra nước ngoài phần lợi nhuận của mình. Theo quy định tại Điều 22 Luật đầu tư và Điều 73 Ngị định 12/CP: Sau khi thực hiện các nghĩa vụ về thuế, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam được chuyển ra nước ngoài:
- Lợi nhuận thư được từ hoạt động kinh doanh;
- Tiền thu nhập do cung ứng dịch vụ và chuyển giao công nghệ;
- Tiền gốc và lãi của các khoản vay nước ngoài trong quá trình hoạt động;
- Vốn đầu tư;
- Các khoản tiền và tài sản khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình.
Khi kết thúc và giải thể doanh nghiệp liên doanh thì Bên nước ngoài được quyền chuyển ra nước ngoài vốn đầu tư và vốn tái đầu tư vào doanh nghiệp sau khi đã thanh toán mọi khoản nợ và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài chính đối với Nhà nước Việt Nam. Trường hợp số tiền chuyển ra nước ngoài cao hơn vốn ban đầu (gốc) và vốn tái đầu tư thì số tiền chênh lệch đó chỉ được chuyển ra nước ngoài khi cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chuẩn y.
4. Chuyển đổi tiền nước ngoài sang tiền Việt Nam và ngược lại.
Theo quy định tại Điều 75 Nghị định 12/CP: Tỷ giá chuyển đổi tiền nước ngoài sang tiền Việt Nam và ngược lại áp dụng trong quá trình đầu tư và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh được thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Như vậy, việc quy đổi các loại ngoại tệ và đồng Việt Nam để góp vốn được áp dụng theo tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm quy đổi (Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giữa giá trị của đồng Việt Nam với giá trị của đồng tiền nước ngoài).
Việc mua bán các loại ngoại tệ liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh được thực hiện theo tỷ giá kinh doanh tại Ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ ở thời điểm giao dịch.
VI. Trong lĩnh vực kế toán - thống kê.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, việc áp dụng chế độ kế toán cũng là vấn đề quan trọng cần được lựa chọn kỹ. Bởi vì thông qua công tác kế toán, thông kê, các doanh nghiệp hạch toán được chính xác và tự đánh giá được hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Không những thế thông qua công tác kế toán thống kê của doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, theo dõi, giám sát và đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở đó để xác định mức thuế phải nộp và thực hiện các biện pháp quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Vì vậy chế độ kế toán, thống kê của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và doanh nghiệp liên doanh nói riêng được pháp luật điều chỉnh khá đầy đủ trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Pháp lệnh kế toán và thống kê được công bố theo lệnh số 6 - LCT/HĐNN 8 ngày 20/5/1988 của Hội đồng Nhà nước, NĐ12/CP và Thông tư số 60 - TC/CĐKT ngày 1-9-1977 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện công tác kế toán và kiểm toán đối với các doanh nghiệp, tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 37 Luật đầu tư: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh áp dụng chế độ kế toán Việt Nam. Trường hợp cần áp dụng chế độ kế toán thông dụng khác thì phải được Bộ Tài chính chấp thuận. Như vậy, công tác kế toán, kiểm toán, thống kê trong các doanh nghiệp liên doanh phải tuân theo các quy định của pháp luật về kế toán, kiểm toán, thống kê của Việt Nam. Trên cơ sở của Điều 37 Luật đầu tư thì Doanh nghiệp liên doanh cũng là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy doanh nghiệp liên doanh sẽ áp dụng chế độ kế toán Việt Nam. Cụ thể là:
1. Thủ tục đăng ký chế độ kế toán.
Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày doanh nghiệp liên doanh được cấp Giấy phép đầu tư, doanh nghiệp phải thực hiện đăng ký hệ thống chế độ kế toán xin áp dụng với Bộ Tài chính để kịp thời ghi chép, phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Khi đăng ký Hệ thống chế độ kế toán với Bộ Tài chính, doanh nghiệp liên doanh phải trình bộ hồ sơ đăng ký.
Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký hệ thống chế độ kế toán hợp lệ của doanh nghiệp liên doanh, Bộ Tài chính sẽ có ý kiến chính thức bằng văn bản về việc đăng ký chế độ kế toán của Việt Nam. Nếu trong trường hợp tài liệu trong hồ sơ đăng ký Hệ thống chế độ kế toán của doanh nghiệp không đầy đủ, rõ ràng theo quy định hiện hành, Bộ Tài chính sẽ yêu cầu doanh nghiệp liên doanh giải thích và bổ sung thêm tài liệu. Thời gian chờ doanh nghiệp giải thích và bổ sung tài liệu không được tính vào thời hạn trả lời của Bộ Tài chính như đã nêu ở trên.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp liên doanh có thể thay đổi chế độ kế toán đang áp dụng. Khi muốn có những thay đổi so với nội dung đăng ký chế độ kế toán đã được chấp thuận, doanh nghiệp liên doanh phải đề nghị bằng văn bản với Bộ Tài chính và chỉ được thực hiện các điểm sửa đổi này khi có sự chấp thuận bằng văn bản của Bộ tài chính. Việc thay đổi chế độ kế toán chỉ được thực hiện ở đầu năm tài chính của doanh nghiệp liên doanh.
Trường hợp doanh nghiệp liên doanh cần áp dụng chế độ kế toán thông dụng khác (ngoài hệ thống chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam) thì phải được Bộ Tài chính chấp thuận.
2. Những nguyên tắc cơ bản về việc thực hiện công tác kế toán thống kê trong doanh nghiệp liên doanh.
2.1- Việc ghi chép kế toán và thống kê:
Được thực hiện bằng chữ số ả rập và bằng tiếng Việt Nam hoặc đồng thời bằng tiếng Việt Nam và một thứ tiếng nước ngoài thông dụng khác, phải được ghi trong Điều lệ của doanh nghiệp liên doanh và trong đăng ký chế độ kế toán.
Việc ghi chép kế toán và thống kê về giá trị sử dụng đơn vị tiền tệ là Đồng Việt Nam. Doanh nghiệp liên doanh cũng có thể sử dụng đơn vị tiền tệ nước ngoài để ghi chép sổ kế toán và lập báo cáo kế toán nhưng phải đăng ký trong chế độ kế toán xin phép áp dụng và được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản trước khi thực hiện. Trong trường hợp các đơn vị ( khác với đơn vị) tiền tệ chính thức được chấp thuận phải ghi theo nguyên tệ và quy đổi ra đơn vị tiền tệ chính thức theo tỷ giá giao dịch của nghiệp vụ kinh tế phát sinh, hoặc tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ kinh tế.
Việc ghi chép kế toán và thống kê về hiện vật và thời gian phải sử dụng các đơn vị đo lường chính thức của Việt Nam. Các đơn vị đo lường khác (nếu có) phải quy đổi ra đơn vị đo lường chính thức của Việt Nam và có thể sử dụng thêm đơn vị đo lường phụ để ghi chép sổ kế toán.
2.2- Năm tài chính (niên độ kế toán).
Năm tài chính của doanh nghiệp liên doanh phải phù hợp với năm tính thuế được quy định tại Điều 60 của Nghị định 12/CP. Cụ thể là năm tài chính của doanh nghiệp bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 và kết thúc ngày 31 tháng 12 năm dương lịch. Năm tài chính có thể là năm dương lịch hoặc là năm 12 tháng liên tục bắt đầu từ quý và đăng ký trong chế độ kế toán xin áp dụng. Năm tài chính đầu tiên sẽ được tính kể từ ngày được cấp Giấy phép đầu tư đến ngày kết thúc của năm tài chính được chấp thuận.
Kỳ kế toán trong năm tài chính là:
- Tháng: Tính từ ngày 1 đến ngày cuối cùng của tháng.
- Quý: Tính từ ngày 1 tháng đầu tiên của quý đến ngày cuối cùng của tháng cuối quý.
2.3- Tổ chức bộ máy kế toán:
Để thực hiện công tác kế toán, doanh nghiệp liên doanh phải tổ chức riêng Bộ máy kế toán hoặc có thể thuê tổ chức dịch vụ kế toán hoạt động độc lập, hợp pháp tại Việt Nam.
Trong trường hợp doanh nghiệp liên doanh tổ chức Bộ máy kế toán độc lập thì phải bố trí đủ cán bộ kế toán.
Doanh nghiệp liên doanh cũng có thể thuê tổ chức dịch vụ kế toán hoạt động độc lập, hợp pháp tại Việt Nam để thực hiện công tác kế toán trên cơ sởhợp đồng kinh tế ký kết giữa hai Bên thì dịnh vụ kế toán cung cấp phải tuân thủ các quy định về công tác kế toán như đối với trường hợp Doanh nghiệp tự thực hiện công tác kế toán theo các quy định của chế độ kế toán Doanh nghiệp.
2.4. Thực hiện công tác kế toán: Công tác kế toán của doanh nghiệp liên doanh gồm những nội dung sau:
-Ghi chép ban đầu: mọi hoạt động kinh tế phát sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh đều phải lập chứng từ kế toán theo mẫu đã đăng ký. Chứng từ kế toán phát sinh từ Bên ngoài Việt Nam phải đăng ký trước và phải được dịch ra tiếng Việt Nam những nội dung chủ yếu. Chứng từ kế toán phải là bản gốc mới có giá trị pháp lý.
-Ghi sổ kế toán: căn cứ ghi sổ kế toán là chứng từ kế toán. Sổ kế toán phải được ghi rõ ràng, liên tục, có hệ thống và không được tẩy xoá. Doanh nghiệp liên doanh chỉ có một hệ thống số kế toán chính thức áp dụng theo hệ thống chế độ kế toán đã đăng ký.
- Đăng ký về sử dụng số kế toán với cơ quan thuế địa phương (nơi đăng ký nộp thuế) hai sổ kế toán là sổ cái và sổ nhật ký, hoặc sổ đăng ký chứng từ ghi sổ (số trang và dấu giáp lai). Sổ cái và sổ nhật ký, hoặc sổ đăng ký chứng từ ghi sổ của doanh nghiệp không có xác nhận của cơ quan thuế đại phương sẽ không được chấp nhận về mặt pháp lý.
2.5. Báo cáo kế toán của doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp phải lập báo cáo kế toán theo đúng hệ thống chế độ báo cáo kế toán đã đăng ký và được chấp thuận của Bộ Tài chính. Báo cáo kế toán phải đảm bảo tính trung thực, đầy đủ, chính xác, kịp thời, liên tục và có hệ thống về:
- Số liệu có và tình hình hiện động của các loại tài sản, nguồn vốn các khoản chi phí, giá thành sản phẩm, dịch vụ, lao vụ, doanh thu, lợi tức hoạt động kinh doanh.
- Tình hình thực hiện các luật thuế và các nghĩa vụ khác đối với Nhà nước Việt Nam theo Giấy phép đầu tư.
2.6. Nơi nhận và thời hạn báo cáo tài chính.
a. Nợi nhận báo cao tài chính: doanh nghiệp liên doanh nộp bán cáo tài chính cho Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Tổng cục thống kê, cơ quan thuế địa phương (nợi doanh nghiệp đặt trụ sở chính).
Đối với doanh nghiệp liên doanh hoạt động trong khu chế xuất thì phải gửi báo cáo tài chính cho Ban quản lý khu chế xuất, cơ quan thuế khu chế xuất.
b. Thời hạn nộp và công bố báo cáo tài chính:
- Báo cáo quỹ: chậm nhất 15 ngày kể từ ngày kết thúc quý.
- Báo cáo năm: Trong vòng 3 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính của doanh nghiệp liên doanh.
Nếu doanh nghiệp kinh doanh chấm dứt hoạt động với bất kỳ lý do nào đều phải có thông báo bằng văn bản và lập báo cáo tài chính tính đến thời điểm chấm dứt hoạt động với Bộ Tại chính.
3. Công tác kiểm toán các doanh nghiệp liên doanh.
Trên tinh thần quy định tại Điều 37 Luật đầu tư thì Báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp liên doanh được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập của Việt Nam hoặc công ty kiểm toán độc lập khác được phép hoạt động tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về kiểm toán.
Báo cáo kết quả kiểm toán của công ty kiểm toán gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Xác nhận tính khách quan, trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính và các số liệu kế toán.
- Nhận xét, đánh giá tính hình thực hiện công tác kế toán; chấp hành hệ thống chế độ kế toán đã đăng ký và được Bộ Tài chính chấp thuận, chấp hành pháp luật, chế độ, thế lệ kế toán.
- Những kiến nghị.
Báo cáo kiểm toán của công ty kiểm toán độc lập phải có kỹ và ghi rõ họ, tên, số đăng ký Giấy phép hành nghề của kiểm toán viên, chữ ký của giám đốc và dấu của công ty kiểm toán độc lập. Công ty kiểm toán độc lập phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính độc lập, khách quan, trung thực của kết quả kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phải được kèm với báo cáo tái chính năm của doanh nghiệp liên doanh khi giử tới các cơ quan có chức năng và công bố công khai các tài chính.
4. Kiểm kê tài sản.
Doanh nghiệp liên doanh phải tiến hành kiểm kê tài sản ít nhất một lần trong niên độ kế toán và bắt buộc phải tiến hành kiểm kê toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp ở thời điểm kết thúc năm tài chính. Kết quả kiểm kê tài sản được phản ánh trong biên bản kiểm kê và báo cáo tổng hợp kết quả kiểm kê.
Sau khi tiến hành kiểm kê tài sản thì Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm kê phải được đính kém báo cáo tài chính để gửi tới các cơ quan có chức năng. Doanh nghiệp liên doanh phải có trách nhiệm bảo đảm sự khớp đúng giữa giá trị tài sản thực tế (số liệu kiểm kê) với số liệu ghi trên sổ kế toán, báo cáo kế toán và báo cáo tài chính.
Như vậy, doanh nghiệp liên doanh phải có nghĩa vụ ghi sổ và lập báo cáo kế toán đúng sự thật; sử dụng các loại chứng từ, biển mẫu hợp lệ đúng với chế độ kế toán đã đăng ký và đã được chấp thuạn;p bảo quản chu đáo tài liệu kế toán thống kê gồm: chứng từ, sổ, báo cáo kế toán và các tài liệu khác có liên quan đến kế toán trong quá trình sử dụng và khi chức hết thời hạn bảo quan và lưu trữ theo quy định hiện hành. Doanh nghiệp liên doanh phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan tài chính và của các cơ quản lý chức năng trong việc thực hiện công tác kế toán. Doanh nghiệp liên doanh phải có nghĩa vụ cung cấp các tài liệu có liên quan đến việc kiểm tra và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của cơ quan tài chính.
VII. Trong lĩnh vực quan hệ lao động.
Mục đích của Đảng và Nhà nước ta khi ban hành Bộ Luật lao động là nhằm bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và còn quyền khác của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động. Tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hoà và ổn định, góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động, người quản lý lao động nhằm đạt nắng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội. Khong những thế nó còn nhằm tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết được tình trạng thất nghiệp. Theo Điều 13 Bộ Luật Lao động “Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước , của doanh nghiệp và của toàn xã hội “.
Chính vì vậy việc hình thành các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và doanh nghiệp liên doanh nói riêng có quy mô lớn, sử dụng nhiều lao động đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực. Thực tế cho thấy qua hơn 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài đã có hàng chục vạn lao động có việc làm trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp, tác động mạnh mẽ đến thị trường lao động Việt Nam. Tuy nhiên, doanh nghiệp liên doanh hoạt động với mục tiêu là thu lợi nhuận được tối đa và hoạt động theo cơ chế thị trường, do đó nguyên tắc quản lý lao động của doanh nghiệp có những nét đặc thù riêng.
Tại Điều 26 Luật đầu tư nước ngoài có quy định: “Người sử dụng lao động, người lao động Việt Nam và người lao động nước ngoài phải tuân thủ các quy định của pháp luật lao động và pháp luật có liên quan, tôn trọng danh dự, nhân phẩm và phong tục của nhanh”. Như vậy là quan hệ lao động trong các doanh nghiệp liên doanh được điều chỉnh bằng Bộ Luật lao động ban hành ngày 23/9/1994.
Quyền lợi và nghĩa của doanh nghiệp liên doanh về quan hệ lao động theo quy định của pháp luật có những đặc điểm đặc biệt sau:
1. Quyền của doanh nghiệp liên doanh:
1.1: Doanh nghiệp liên doanh được tự do tuyển dụng người lao động.
Trên cơ sở quy định tại Điều 8 khoản 1 Bộ Luật lao động thì doanh nghiệp liên doanh có quyền tuyển chọn lao động, bố trí, điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên để đảm bảo được mục tiêu đề ra khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài là tạo thêm việc làm cho người lao động, Điều 25 Luật đầu tư quy định doanh nghiệp được tuyển dụng theo nhu cầu kinh doanh và phải ưu tiên tuyển dụng công dân Việt Nam, chỉ được tuyển dụng người nước ngoài làm những công việc đòi hỏi trình độ kỹ thuật và quản lý mà Việt Nam chưa đáp ứng được, nhưng phải đào tạo lao động Việt Nam thay thế.
Vì vậy doanh nghiệp liên doanh có thể tuyển chọn lao động là người Việt Nam theo coi phương pháp thức sau:
- Doanh nghiệp liên doanh có thể thông qua coi tổ chức dịch vụ việc làm để tuyển chọn lao động (các tổ chức dịch vụ việc làm được thành lập hợp pháp theo quy định của luật pháp luật).
- Doanh nghiệp liên doanh có thể trực tiếp tuyển chọn lao động nếu tổ chức dịch vụ việc làm giới thiệu hoặc tuyển lao động không đáp ứng được yêu cầu mà doanh nghiệp liên doanh đã đặt ra nhưng phải thông báo cho cơ quan lao động cấp tỉnh hoặc cơ quan có thẩm quyền khác nơi đặt trụ sở của doanh nghiệp biết.
Đối với việc tuyển dụng lao động là người nước ngoài: khi có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh cần giải trình sự cần thiết phải sử dụng lao động nước ngoài có kèm theo chứng chỉ nghề nghiệp của người lao động nước ngoài gửi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của doanh nghiệp để xem xét việc cấp Giấy phép lao động theo quy định của pháp luật về lao động (Điều 51 Nghị định 12/CP).
Việc Nhà nước Việt Nam quy định quyền cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và doanh nghiệp liên doanh nói riêng được sử dụng lao động là người nước ngoài làm những công việc đòi hỏi trình độ kỹ thuật và quản lý mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được đã giúp cho các nhà đầu tư an tâm trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua đó Nhà nước ta cũng đã quy định là phải đào tạo lao động Việt Nam thay thế cũng đã giúp cho lao động Việt Nam có thể học hỏi được kinh nghiệm quản lý và tiếp thu được kỹ thuật của họ.
1.2: Doanh nghiệp liên doanh được trực tiếp ký hợp đồng lao động.
Theo quy định của pháp luật lao động: “Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữ người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi Bên trong quan hệ lao động”. (Điều 26 Bộ Luật lao động).
Doanh nghiệp liên doanh có quyền trực tiếp ký hợp đồng lao động với người lao động. Hai Bên có toàn quyền thoả thuận với nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi về các mặt của quan hệ lao động theo quy định của pháp luật lao động. Hợp đồng lao động phải được giao kết trực tiếp giữa người sử dụng lao động và người lao động. Người sử dụng lao động trong doanh nghiệp liên doanh là Tổng giám đốc doanh nghiệp liên doanh hoặc người được Tổng Giám đốc uỷ quyền. Hợp đồng lao động được ký kết bằng văn bản và phải được làm thành hai bản, mỗi Bên giữ một bản (Điều 28 Bộ Luật lao động). Mẫu của hợp đồng lao động được thực hiện thống nhất do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phát hành.
Nội dung của hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu sau: Công việc phải làm, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngợi, tiền lương, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và Bảo hiểmxã hội đối với người lao động.
Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các trường hợp sau:
- Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
- Hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 đến 3 năm;
- Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới 1 năm.
1.3: Doanh nghiệp liên doanh có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Để đảm bảo cho doanh nghiệp liên doanh đi vào hoạt động kinh doanh có hiệu quả và thực hiện tốt công việc trong vấn đề sử dụng và quản lý lao động. Pháp luật lao động đã quy định: Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động. Tuy nhiên sự chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động là sự kiện pháp lý hết sức quan trọng nên được pháp luật lao động quy định rất chặt chẽ.
Doanh nghiệp liên doanh có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp theo quy định tại Điều 38 khoản 1 Bộ Luật lao động.
Khi doanh nghiệp liên doanh đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo các trường hợp nêu trên (trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 38 nói trên) thì người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:
- ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn.
- ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 đến 3 năm.
- ít nhất 3 ngày đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ, theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới 1 năm.
2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp liên doanh.
2.1. Doanh nghiệp liên doanh sử dụng lao động phải có những điều kiện đảm bảo về an toàn lao động, vệ sinh lao động cho người lao động.
Doanh nghiệp liên doanh phải có trách nhiệm trang bị đầy đủ phương tiện bảo hộ lao động bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động cho người lao động. Phải bảo đảm nơi làm việc đạt tiêu chuẩn về không gian, độ thoáng, độ sáng, đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép về bụi, hơi, khí độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng ấm, ồn rung và các yếu tố có hại khác, các yếu tố đó phải được định kỳ kiểm tra đo lường.
Doanh nghiệp liên doanh phải định kỳ kiểm tra, tu sửa máy, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng theo tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động. Ngoài ra phải tuân theo các quy định khác của Bộ Luật lao động như tại các Điều 99, 100, 101 và Điều 107.
2.2. Nghĩa vụ trả lương cho người lao động.
Doanh nghiệp liên doanh có nghĩa vụ trả tiền lương cho người lao động trên cơ sở tiền lương do doanh nghiệp và người lao động thoả thuận căn cứ vào năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Ngoài ra sự thoả thuận về trả lương giữa doanh nghiệp liên doanh với người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Theo quy định tại Điều 132 khoản 2 Bộ Luật lao động: “Mức lương tối thiểu đối với người lao động là người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh do Chính phủ quy định và công bố sau khi lấy ý kiến của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động”.
Việc Nhà nước ta quy định mức lương tối thiểu mà doanh nghiệp liên doanh phải trả cho người lao động như hiện nay, mức quy định này là không còn phù hợp nữa. Mức lương tối thiểu theo quy định tại công văn 1085/KTTH ngày 11/3/1996 của phó Thủ tướng Chính phủ quy định lại mức lương tối thiểu cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là phải từ 45 đô la Mỹ/tháng trở lên đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trường hợp doanh nghiệp liên doanh đóng trên địa bàn thuộc các thành phố loại 2 có mức lương tối thiểu là không thấp hơn 40 đô la Mỹ/tháng. Còn đối với các tỉnh còn lại mức lương tối thiểu là 35 đô la Mỹ/tháng Hiện nay do cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, tình trạng dãn lao động trong các doanh nghiệp liên doanh đang gia tăng. Do đó cần phải phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, tập thể người lao động nghiên cứu quy định lại mức lương tối thiểu cho phù hợp với tình hình mới. Trước mắt, cần nghiên cứu lại mức lương tối thiểu của một số doanh nghiệp liên doanh thực sự khó khăn tại các địa bàn trước đang thuộc các thành phố có mức lương tối thiểu cao được vận dụng mức lương tối thiểu thấp hơn theo quy định mới về những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
2.3. Tôn trọng quyền của người lao động tham gia tổ chức chính trị, chính trị - xã hội
Khi doanh nghiệp liên doanh đi vào hoạt động thì người lao động trong doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập hoạt động công đoàn theo Luật công đoàn để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình được hưởng phúc lợi tập thể, có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp liên doanh theo nội dung của doanh nghiệp và quy định của pháp luật
2.4. Nghĩa vụ về bảo hiểm xã hội:
Pháp luật về đầu tư nước ngoài quy định: Doanh nghiệp liên doanh bảo hiểm tài sản và trách nhiệm dân sự tại công ty Bảo hiểmViệt Nam hoặc công ty Bảo hiểm khác được phép hoạt động tại Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh thực hiện việc bảo hiểm trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm ký với các công ty Bảo hiểmViệt Nam hoặc công ty Bảo hiểm khác được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Đối tượng bảo hiển gồm con người, tài sản, trách nhiệm dân sự và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật.
Về bảo hiểm xã hội trong doanh nghiệp liên doanh thì khoản tiền bảo hiểm xã hội thuộc nghĩa vụ của doanh nghiệp bằng 10% tổng số quỹ tiền lương của người lao động làm việc tại các doanh nghiệp và lấy từ quỹ chi của doanh nghiệp. Trong 10% bảo hiểm xã hội đó thì trích 2% nộp cho cơ quan lao động địa phương, còn 8% được đưa vào quỹ bảo hiểm xã hội lập tại doanh nghiệp để chi cho các chế độ theo quy định như trích 3% để đóng bảo hiểm y tế cho người lao động.
Ngoài ra doanh nghiệp liên doanh phải tuân thủ các quy định khác của pháp luật lao động như về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, các chế độ khác của người lao động....Đồng thời các doanh nghiệp liên doanh phải chịu sự kiểm tra của cơ quan lao động, có trách nhiệm thực hiện mọi yêu cầu hợp pháp của thanh tra Nhà nước về lao động bao gồm: Thanh tra lao động, Thanh tra an toàn lao động, Thanh tra vệ sinh lao động.
VIII. Trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ, Bảo vệ mội trường.
1.Trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ.
Việc chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam trong các dự án đầu tư nước ngoài được thực hiện dưới dạng góp vốn bằng giá trị công nghệ hoặc mua công nghệ trên cơ sở hợp đồng, phù hợp với pháp luật về chuyển giao công nghệ (Điều 29 Luật đầu tư nước ngoài).
Theo Điều 37 Nghị định 12/CP: Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi và bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của bên chuyển giao công nghệ để thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên công nghệ chuyển giao vào Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Là một công nghệ tạo ra sản phẩm mới và cần thiết tại Việt Nam hoặc sản xuất hàng xuất khẩu:
- Nâng cao tính năng ký nhận, chấp nhận sản phẩm, nâng cao năng lực sản xuất:
- Tiếp kiệm nguyên liện, nhiên liệu, khai thức và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
Ngoài việc đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định cho công nghệ chuyển giao vào Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư nước ngoài dưới hình thức góp vốn hoặc mua công nghệ trên cơ sở hợp đồng chuyển giao công nghệ, bên chuyển giao công nghệ phải có công nghệ một cách hợp pháp.
Do vậy khi góp vốn bằng công nghệ, nhà đầu tư phải lập hồ sơ chuyển giao công nghệ. Hồ sơ chuyển công nghệ có các tài liệu liên quan đến sở hữu công nghiệp và các văn bản xác nhận về tính năng kỹ thuật, nguyên tắc thoả thuận giá trị công nghệ của các bên liên doanh. Hồ sơ chuyển giao công nghệ phải được gửi kèm theo Hồ sơ dự án xin cấp Giấy phép đầu tư. Việc góp vốn bằng công nghệ phải được cơ quan quản lý Nhà nước về công nghệ và môi trường xem xét chấp thuận.
Việc chuyển giao công nghệ được thực hiện dưới hình thức góp vốn thì giá trị công nghệ chuyển giao dùng để góp vốn các bên thoả thuận và trong mọi trường hợp không vượt quá 20% vốn phát định.
Việc chuyển giao công nghệ dưới hình thức mua công nghệ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ.
Như vậy việc chuyển giao công nghệ dưới hình thức mua công nghệ phải tuân theo những quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ. Theo Điều 814 Bộ Luật dân sự đáp ứng các yêu cầu sau:
1.Mục đích sử dụng của công nghệ.
2. Chỉ tiêu về chất lượng và kinh tế, kỹ thuật công nghệ:
3. Các chi tiêu về chất lượng sản phẩm:
4. Các quy định về hình dáng sản phẩm:
5. Các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.
2. Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác ở Việt Nam, doanh nghiệp liên doanh cũng phải tuân thủ ngiêm ngặt Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam. Điều 51 Luật đầu tư nước ngoài: Doanh nghiệp có trách nhiệm tuân thủ những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường ?.
Các tổ chức, cá nhân khi xây dựng các công trình kinh tế, khoa học...chủ đầu tư dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường đến cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường thầm định (Điều 18 Luật bảo vệ môi trường).
Doanh nghiệp liên doanh sẽ phải căn cứ vào doanh mục các dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường do Bộ khoa học, công nghệ và Môi trường công bố.
Việc lập và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Kết quả thẩm định về báo cáo đánh giá tác động môi trường là một trong những căn cứ để cơ quan cấp Giấy phép đầu tư xét duyệt dự án hoặc cho phép thực hiện.
Đối với các dự án ngoài doanh mục mà Bộ khoa học, công nghệ và môi trường công bố phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, trong hồ sơ xin phép đầu tư nhà đầu tư chỉ cần giải trình các yếu tố có thể ảnh hưởng đến môi trường, nên các giải pháp xử lý và cam kết bảo vệ môi trường như trong quá trình xây dựng và hoạt động kinh doanh.
Trường hợp nhà đầu tư áp dụng tiêu chuẩn môi trường tiên tiến của quốc tế trong quá trình xây dựng và hoạt động kinh doanh tại Việt Nam thì chỉ cần đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước về chuyển giao công nghệ và môi trường.
Hiện nay, một số quy định về bảo vệ môi trường của nước ta cao hơn các nước trong khu vực, cá biệt có quy định cao hơn các nước phát triển. Vấn đề đặt ra hiện nay là việc những quy định về bảo vệ mội trường đó của nước ta cần được xử ly thoả đáng để phù hợp với thực hiện hơn.
IX. Trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp.
Trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, các tranh chấp phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Do đó trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp liên doanh nếu có phát sinh tranh chấp là điều đã được dự báo trước. Đây là một vấn đề thực tế cần phải được thừa nhận để từ đó có những tiếp cận và thừa nhận vấn đề một cách khách quan và toàn diện.
1. Những tranh chấp có thể xẩy ra trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Thực tế có thể xảy ra những tranh chấp sau:
- Tranh chấp giữa các bên trong doanh nghiệp liên doanh với nhau:
- Tranh chấp giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với nhau
- Tranh chấp giữa doanh nghiệp liên doanh với các tổ chức kinh tế Việt Nam (Doanh nghiệp Việt Nam).
- Tranh chấp giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương.
2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tranh chấp.
- Tranh chấp giữa các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh thường xảy ra giữa Bên hoặc các Bên Việt Nam với Bên hoặc các Bên nước ngoài là do:
+ Một trong các bên trong doanh nghiệp liên doanh không thực hiện đúng nghĩa vụ, cam kết ghi trong hợp đồng liên doanh như không thực hiện đúng tiến độ góp vốn... Việc phá vỡ các cam kết ghi trong hợp đồng liên doanh có thể do những nguyên nhân khách quan như sự biến động của giá cả thị trường, do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường hoặc do những thay đổi về chính sách của Nhà nước ... cũng có thể là do các bên tham gia liên doanh thiếu thiện chí kinh doanh lâu dài hoặc động cơ đầu tư của nhà đầu tư không nghiêm túc...
+ Do có những khác biệt trong phong cách quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh mà các bên không phải trong mọi trường hợp đều dễ dàng thống nhất quan điểm với nhau. Các mâu thuẫn này thường xuất hiện trong mối quan hệ giữa các thành viên Hội đồng quản trị và các thành viên Ban Giám đốc khi họ là người của các Bên khác nhau.
+ Do có những bất đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quán, tác phong lao động, lối sống ... cũng dễ làm nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân này thường xuất hiện xung đột giữa những người làm thuê cho doanh nghiệp với lãnh đạo doanh nghiệp.
+ Ngoài ra còn do Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh chưa thực hiện việc phân định trách nhiệm rõ ràng về chức năng hoạt động giữa các thành viên do đó có sự lẫn lộn giữa các bên trong điều hành hoạt động của doanh nghiệp liên doanh hoặc các bên không thực hiện đúng và đầy đủ chức năng quản lý của mình.
Tranh chấp giữa doanh nghiệp liên doanh với các tổ chức kinh tế khác (giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với nhau, doanh nghiệp liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam). Các tranh chấp này xảy ra là do vi phạm hợp đồng kinh tế đã được ký kết (trong việc cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, tiêu thụ sản phẩm ...) Đây là những tranh chấp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các tổ chức kinh tế. Ngoài ra còn có những tranh chấp do cạnh tranh trên thị trường, tranh chấp về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng sản phẩm ...
3. Xử lý tranh chấp:
Việc xử lý tranh chấp phát sinh là nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư và nhằm cải thiện được mối quan hệ hợp tác giữa các bên trong doanh nghiệp liên doanh. Do vậy để đạt được mục đích đó thì việc xử lý tranh chấp phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định. Khi xử lý tranh chấp phải tuân theo các nguyên tắc sau:
- Việc xử lý tranh chấp phải lấy thương lượng và hoà giải trên tinh thần hợp tác, có thiện chí, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau giữa các bên làm nền tảng.
- Tranh chấp phải được xét xử công khai, các bên liên quan có quyền lựa chọn bất kỳ cơ quan trọng tài nào hoặc cơ quan xét xử nào để giải quyết nếu không tự giải quyết bằng thương lượng và hoà giải.
- Tuân thủ pháp luật Việt Nam và tôn trọng tập quán quốc tế.
- Cơ sở pháp lý để xử lý tranh chấp là các văn bản pháp luật và các tài liệu mang tính pháp lý như Giấy phép đầu tư, hợp đồng liên doanh, Điều lệ doanh nghiệp liên doanh và các cam kết hoặc các thoả thuận chính thức giữa các bên có liên quan
- Việc xử lý tranh chấp phải đúng người, đúng việc, đúng địa chỉ.
Việc xử lý tranh chấp được tiến hành theo các cách thức sau đây.
- Đối với tranh chấp pháp sinh giữa các Bên tham gia doanh nghiệp liên doanh với nhau trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng và hoà giải giữa các Bên với nhau. Nếu hoà giải thành các Bên chủ động xử lý tranh chấp theo phương án đã được các Bên chấp thuận. Trong trường hợp hoà giải không thành, các Bên tranh chấp có thể thoả thuận một trong các phương thức giải quyết sau đây:
+ Trọng tài Việt Nam
+ Trọng tài Việt Nam hoặc Trọng tài nước ngoài, Trọng tài quốc tế.
+ Trọng tài do các bên thoả thuận thành lập.
- Đối với các tranh chấp giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với nhau (doanh nghiệp liên doanh với doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp liên doanh với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) hoặc giữa doanh nghiệp liên doanh với các tổ chức kinh tế Việt Nam cũng được giải quyết thông qua tại tổ chức trọng tài hoặc Toà án Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.
- Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng BOT, BTO, BT được giải quyết theo phương thức do các bên thoả thuận ghi trong hợp đồng.
- Tranh chấp giữa doanh nghiệp liên doanh với các cơ quan quản lý các cấp định giải quyết thông qua hoà giải. Trong trường hợp không hoà giải được với nhau, các bên tranh chấp trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
kết luận
Kể từ khi Nhà nước ta ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cho đến hết năm 1998, trên địa bàn cả nước đã có 2578 dự án được cấp Giấy phép với tổng số vốn đăng ký đạt 35,1 tỷ USD, có 534 dự án được tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt 4,58 tỷ USD, nâng tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng vốn bổ sung đạt 39,68 tỷ USD. Tính riêng trong năm 1998 đã có 260 dự án đầu tư nước ngoài được cấp Giấy phép với tổng số vốn đăng ký là 4.058,6 triệu USD tương ứng với 78,5% số dự án của năm 1997 (333 dự án) và 89,9% số vốn đăng ký của năm 1997 (4.445 triệu USD). Có thêm 133 dự án xin tăng vốn với giá trị tăng thêm là 769 triệu USD. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm là 4827,6 triệu USD.
Có thể nói thành tựu mà doanh nghiệp liên doanh đã mang lại trong hơn 10 năm qua là rất to lớn. Doanh nghiệp liên doanh đã có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội trên một số mặt chủ yếu sau:
- Doanh nghiệp liên doanh đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Với số dự án và số vốn thường chiếm 2/3 đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh đã góp phần đưa tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đạt 8,5% trong thời kỳ 1991 - 1997.
- Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp liên doanh đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đầu tư dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh đã đi vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, tỷ trọng các dự án của các lĩnh vực công nghiệp, chế biến nông - lâm - thuỷ sản, sản xuất hàng xuất khẩu ngày càng tăng. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ ngày càng cân đối hơn. Trừ thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa, phần lớn dự án còn lại tập trung ở ba vùng kinh tế trọng điểm.
- Doanh nghiệp liên doanh cũng đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Nhiều công nghệ mới trong nhiều ngành kinh tế quan trọng đã được nhập vào nước ta như: thiết kế, chế tạo máy biến thế; dây chuyền tự động, lắp ráp hàng điện tử; lắp ráp ô tô; sản xuất vật liệu xây dựng... Nhìn chung phần lớn các thiết bị là đồng bộ, có trình độ bằng hoặc cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khu vực.
- Doanh nghiệp liên doanh đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Không những thế người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh còn có điều kiện được đào tạo, nâng cao tay nghề, tiếp thu kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tác phong lao động công nghiệp.
- Doanh nghiệp liên doanh đã góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Hiện nay đã có trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam, bao gồm nhiều Công ty và tập đoàn nổi tiếng trên thế giới. Đối tác trong nước tham gia vào các doanh nghiệp liên doanh chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước chiếm 92,8% số dự án và 98% vốn đăng ký.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả mà doanh nghiệp liên doanh đã mang lại trong hơn 10 năm qua còn có những tồn tại và những vấn đề phát sinh trong quá trình thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, đó là:
- Quá trình cải thiện môi trường đầu tư ở nước ta diễn ra chậm chạp, chủ yếu do thủ tục hành chính còn rườm rà, chính sách “mở cửa” trên thực tế vẫn chưa được thực hiện. Về thủ tục cấp Giấy phép đầu tư còn phức tạp, đa đầu mối nhưng nhìn chung các đầu mối này còn lúng túng chưa giải quyết dứt điểm các vấn đề vướng mắc, gặp khó khăn trong khâu xét duyệt dự án.
- Sau khi cấp Giấy phép đầu tư thì việc triển khai thực hiện dự án còn rất chậm, kéo dài. Vấn đề nổi cộm lên là thủ tục cấp đất, đền bù di dân giải phóng mặt bằng.
- Về chuyển giao công nghệ thì trong trường hợp liên doanh phía Việt Nam phải nhờ đối tác nước ngoài vay vốn lên thường phải chấp nhận những công nghệ lạc hậu do chính đối tác nước ngoài chuyển giao.
- Hầu hết trong các doanh nghiệp liên doanh, cán bộ Việt Nam cử sang làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh thường là chưa qua đào tạo, thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững pháp luật và thương trường, không biết ngoại ngữ. Có thể nói cán bộ là yếu tố quyết định nhưng đang là khâu yếu nhất.
- Trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh thì hoạt động của Hội đồng Quản trị khó thống nhất được các vấn đề bởi do “nguyên tắc nhất trí” gây ảnh hưởng tới vấn đề điều hành doanh nghiệp liên doanh.
Kiến nghị
Để đạt được mục tiêu thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đề ra cho giai đoạn 1996 - 2000 là khoảng 13 á 15 tỷ USD (vốn thực hiện) chiếm trên 31% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong khi đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ba năm 1996 - 1998 ước thực hiện khoảng 7 tỷ USD, như vậy trong hai năm 1999 - 2000 phải thực hiện từ 6 tỷ USD trở lên mới đạt mức dự kiến. Để đạt được mục tiêu này phải có sự đóng góp của hình thức đầu tư doanh nghiệp liên doanh. Bởi trên thực tế hình thức doanh nghiệp liên doanh vẫn là hình thức thu hút chủ yếu nguồn vốn đầu tư nước ngoài như đã phân tích ở trên. Thông qua việc nhìn nhận một số khó khăn và vướng mắc mà doanh nghiệp liên doanh gặp phải cũng như các hình thức đầu tư nước ngoài khác, em xin có một số giải pháp sau nhằm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam.
- Cần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, nhanh chóng ban hành những văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam, bổ sung những văn bản còn thiếu và làm rõ các quy định hiện hành nhằm bảo đảm tính thống nhất, tạo khung pháp lý đầy đủ cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chẳng hạn như cần bổ sung vào Luật Đầu tư nước ngoài một số phương thức đầu tư mà nhiều nước đang áp dụng. Sửa đổi một số quy định hiện hành đã làm mất lợi thế cạnh tranh của nước ta, đặc biệt là thuế nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân đối với người nước ngoài...
- Hoàn thiện bộ máy quản lý hoạt động đầu tư từ Trung ương đến địa phương. Trong đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần tăng cường công tác quản lý chung về đầu tư nước ngoài, kịp thời hướng dẫn, cùng với các cơ quan có thẩm quyền và cơ quan được phân cấp uỷ quyền cấp Giấy phép đầu tư giải quyết, tháo gỡ kịp thời các khó khăn cho các nhà đầu tư.
- Đối với các doanh nghiệp liên doanh đang hoạt động thì các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp phải tập trung chỉ đạo và điều hành xử lý các vấn đề phát sinh, cụ thể là:
+ Đối với các dự án đang làm thủ tục hành chính hoặc xây dựng cơ bản thì tập trung tháo gỡ các thủ tục hành chính gây cản trở tiến độ triển khai dự án, bãi bỏ các thủ tục, giấy tờ không cần thiết...
+ Đối với các dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanh thì Nhà nước cần xem xét cho các dự án đã được cấp Giấy phép đầu tư được hưởng ngay những ưu đãi của các quy định mới về thuế lợi tức ưu đãi, giá thuế đất mới; hỗ trợ bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp thực sự khó khăn do khủng hoảng kinh tế trong khu vực...
- Bố trí cán bộ có năng lực, phẩm chất vào các vị trí chủ chốt trong doanh nghiệp liên doanh. Bồi dưỡng, đào tạo lại cán bộ đang làm việc tại hơn 1000 doanh nghiệp liên doanh đang hoạt động. Thực hiện cơ chế tuyển dụng, điều động, miễn nhiệm cán bộ Việt Nam đang làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh. Đây là biện pháp nhằm kiểm soát các hoạt động của Bên nước ngoài theo đúng quỹ đạo của luật pháp và còn nhằm tiếp thu được các kinh nghiệm làm ăn và kinh nghiệm quản lý nhằm từng bước tiếp nhận quyền lãnh đạo điều hành doanh nghiệp liên doanh.
- Về đối tác Việt Nam tham gia doanh nghiệp liên doanh thì phải cần chấm dứt tình trạng hễ ai có quyền sử dụng đất là trở thành đối tác trong liên doanh bằng cách Nhà nước thu hồi và giao đất cho các doanh nghiệp có điều kiện về chuyên môn, kỹ thuật, cán bộ để liên doanh với nước ngoài. Mở rộng hơn nữa cho các thành phần kinh tế của Việt Nam hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0024.doc