Bên nước ngoài góp vốn bằng máy móc thiết bị hoặc dây chuyền công nghệ. Trong nhiều trường hợp, bên nước ngoài đã khai tăng giá trị máy móc công nghệ góp vốn của mình. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhiều doanh nghiệp liên doanh đã nâng giá trị thiết bị máy móc góp vốn của bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh đã gây thiệt hại lớn cho bên Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Bên Việt Nam trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân của việc nâng giá thiết bị máy móc góp vốn liên doanh của bên nước ngoài có thể là:
+ Do Việt Nam chưa có quy định về tính giá trị (thương quyền) nên trong một số trường hợp phần góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất lại quá lớn so với giá thực của khu đất làm cho việc đàm phán kéo dài vì vậy Bên nước ngoài khó chấp nhận. Chính vì vậy nhà đầu tư nước ngoài đã nâng giá trị thiết bị máy móc để đảm bảo quyền lợi cho mình.
+ Trong một số trường hợp, khi đàm phán với nước ngoài các đối tác Việt Nam đã đưa ra mức cho thuê quá thấp để được Bên nước ngoài chấp nhận. Nhưng khi thẩm định vụ án, họ lại yêu cầu phải đàm phán để tăng giá thuê đất do vậy sẽ gặp khó khăn, bị mất nhiều thời gian và cũng khó thuyết phục Bên nước ngoài.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điạ vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiễn áp dụng và yêu cầu đòi hỏi khách quan của nền kinh tế, hệ thống thuế đã được bổ xung, sửa đổi về mặt sắc thuế và thuế xuất cho phù hợp. Hiện tại, thuế hiện hành bao gồm các loại thuế cơ bản sau:
- Thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Thuế xuất nhập khẩu.
- Thuế tài nguyên.
- Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
- Thuế tiền thuê mặt nước, mặt biển.
- Thuế chuyển nhượng vốn.
- Thuế thu nhập cá nhân.
- Thuế gía trị gia tăng.
Tuỳ theo mục tiêu hoạt động của từng doanh nghiệp (sản xuất mặt hàng gì hoặc kinh doanh dịch vụ gì...) và tuỳ theo tình hình cụ thể mà doanh nghiệp sẽ phải nộp một số thuế và lệ phí bổ xung.
*Thuế thu nhập doanh nghiệp:
“Các doanh nghiệp liên doanh phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 25% lợi nhuận thu được, trong trường hợp khuyến khích đầu tư, mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 20% lợi nhuận thu được, trường hợp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư, thì mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% lợi nhuận thu được. Đối với lĩnh vực dầu khí và một số tài nguyên quý hiếm khác thì mức thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Luật dầu khí và pháp luật có liên quan''.(Điều 38 sửa đổi, bổ sung ngày 9/6/2000 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ).
Nhà nước ta có biện pháp khuyến khích và thu hút đầu tư nước ngoài. Đó là chính sách miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc nhà nước ban hành và ưu đãi một số khung thuế suất riêng đối với doanh nghiệp liên doanh là tạo sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài, mặt khác tạo điều kiện quản lý tốt hơn việc nộp thuế của doanh nghiệp liên doanh đối với nước ngoài.
* Thuế xuất nhập khẩu:
Hàng xuất khẩu và nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được áp dụng theo điều 47 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, (được sửa đổi bổ sung ngày 9/6/2000).
1. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng xuất khẩu hàng nhập khẩu của doanh nghiệp liên doanh được áp dụng theo Luật thuế nhập khẩu, thuế nhập khẩu.
2. Doanh nghiệp liên doanh được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu để tạo tài sản cố định, bao gồm:
a. Thiết bị, máy móc.
b. Phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và phương tiện vận chuyển dùng để đưa đón công nhân.
c. Linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm với thiết bị, máy móc phương tiện chuyên dùng qui định tại điểm b
d. Nguyên liệu, vật tư dùng để chế tạo thiết bị, máy móc trong dây truyền công nghệ hoặc để chế tạo linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm với thiết bị máy móc.
e. Vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được.
Việc miễn thuế nhập khẩu qui định tại khoản này được áp dụng cho cả trường hợp mở rộng quy mô dự án, thay thế đổi mới công nghệ.
3. Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất của các dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm, kể từ khi bắt đầu sản xuất.
4. Chính phủ quy định việc miễn giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với các hàng hoá đặc biệt cần khuyến khích đầu tư khác.
* Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Lợi nhuận mà nhà đầu tư nước ngoài thu được do hoạt động đầu tư liên doanh tại Việt Nam (kể cả thuế thu nhập doanh nghiệp được hoàn lại do tái đầu tư và lợi nhuận thu được do chuyển nhượng vốn), nếu chuyển ra nước ngoài hoặc được giữ lại ngoài Việt Nam đều phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Thuế xuất chuyển lợi nhuận ra nước ngoài được quy định chi tiết tại Điều 50 Nghị định 24/2000NĐ- CP như sau:
a. 3% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với:
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
- Nhà đầu tư nước ngoài góp vốn pháp định từ 10 triệu USD trở lên.
- Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn thuộc danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư.
b. 5% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với nhà đầu tư nước ngoài góp vốn pháp định từ 5 triệu USD đến dưới 10 triệu USD và đối với doanh nghiệp đầu tư vào các dự án thuộc lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học.
c. 7% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài góp vốn pháp định không thuộc các trường hợp quy định taị điểm a,b điều này.
Thuế chuyển lợi nhuận được thu theo từng lần chuyển lợi nhuận.
Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài đã nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nhưng sau đó không chuyển ra nước ngoài, thì số thuế đã nộp sẽ được hoàn lại.
* Thuế tài nguyên đất:
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng mặt đất, mặt nước, mặt biển phải trả tiền thuê, trong trường hợp khai thác tài nguyên phải nộp thuế tài nguyên theo qui định của pháp luật.
* Thuế chuyển nhượng vốn:
Phần vốn góp của các bên trong doanh nghiệp liên doanh có quyền chuyển nhượng phần giá trị vốn góp của mình. Trong trường hợp chuyển nhượng cho doanh nghiệp ngoài liên doanh thì điều kiện chuyển nhượng không được thuận lợi hơn so với điều kiện đã đặt ra cho các bên trong doanh nghiệp liên doanh.
Trong trường hợp chuyển nhượng vốn có phát sinh lợi nhuận, bên chuyển nhượng nộp với thuế xuất 25% lợi nhuận thu được.
Lợi nhuận chịu thuế bằng giá trị chuyển nhượng trừ đi giá trị ban đầu của phần vốn chuyển nhượng trừ đi chi phí chuyển nhượng(nếu có). Điều 52 Nghị định 24/2000NĐ- CP.
* Thuế giá trị gia tăng(VAT) trong các doanh nghiệp liên doanh.
Ngày 10/5/1997, Quốc hội nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng và có hiệu lực từ ngày 1/1/1999.
Tại Điều 3 của Luật thuế giá trị gia tăng quy định: ''đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng là tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế tại Việt Nam. Không phân biệt ngành nghề hình thức,tổ chức, kinh doanh và các tổ chức cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế''. Như vậy, theo quy định trên thì những doanh nghiệp liên doanh sản xuất hàng hoá, cung ứng dịch vụ, nhập khẩu hàng hoá (trừ những tài sản cố định của dự án) đều thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng.
Doanh nghiệp liên doanh phải nộp thuế giá trị gia tăng đối với:
a. Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong đây chuyền công nghệ thuộc loại trong nước chưa sản xuất được, nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp liên doanh.
Trường hợp dây chuyền, thiết bị máy móc đồng bộ nhập khẩu thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng, nhưng trong dây chuyền đó có cả loại thiết bị, máy móc trong nước đã sản xuất được thì cũng không tính thuế giá trị gia tăng cho cả dây chuyền thiết bị, máy đồng bộ.
b. Vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp liên doanh.
c. Nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất sản phẩm cung cấp cho các loại doanh nghiệp trực tiếp sản xuất sản phẩm xuất khẩu.
Ngoài ra, để tạo điều kiện cho việc sản xuất kinh doanh bình thường của các doanh nghiệp liên doanh sau khi áp dụng thuế giá trị gia tăng thay thuế doanh thu mà bị lỗ do thuế giá trị gia tăng phải nộp lớn. Thời hạn giảm thuế được tính hàng năm và không quá 3 năm ( kể từ ngày 1/1/1999), thời gian đủ dể doanh nghiệp liên doanh thích ứng với đạo luật thuế mới này.
Ngoài các luật thuế nêu trên, doanh nghiệp liên doanh phải nộp các loại thuế khác theo qui định của pháp luật và có nghĩa vụ đóng nộp các khoản thuế đầy đủ, đúng hạn, liên quan đến ngành sản xuất kinh doanh của mình theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Về mặt tín dụng:
Doanh nghiệp liên doanh mở tài khoản bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài tại ngân hàng Việt Nam hoặc tại ngân hàng liên doanh hoặc tại chi nhánh ngân hàng nước ngoài đặt tại Việt Nam.
Trong trường hợp đặc biệt được ngân hàng nhà nước Việt Nam chấp thuận doanh nghiệp liên doanh được phép mở tài khoản ở nước ngoài.( Luật đầu tư nước ngoài Điều 35 được sửa đổi, bổ sung ngày 9/6/2000). Như vậy pháp luật Việt Nam quy định doanh nghiệp liên doanh được chọn ngân hàng thuận lợi để mở tài khoản của doanh nghiệp .
Việc chuyển đổi giữa tiền Việt Nam và tiền nước ngoài được thực hiện theo tỷ giá hối đoái chính thức do ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm chuyển đổi.
2.4.4 Trong lĩnh vực kế toán thống kê.
Kế toán thống kê là lĩnh vực quan trọng, thông qua công tác thống kê của các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành điều tra đánh giá hoạt động của liên doanh trên cơ sở đó xác định mức giá phải nộp và thực hiện các biện pháp quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Mặt khác cũng thông qua công tác kế toán, thống kê mà các doanh nghiệp tự đánh giá hiệu quả hoạt động của mình.
Doanh nghiệp liên doanh áp dụng chế độ kế toán Việt Nam, trường hợp cần áp dụng chế độ kế toán thông dụng khác thì phải được Bộ Tài Chính chấp thuận (Điều 37 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Công tác kế toán của doanh nghiệp liên doanh phải được thực hiện theo đúng chế độ kế toán đã được đăng ký và được chấp thuận, cũng như phải tuân thủ các quy định khác của nhà nước Việt Nam về công tác kế toán đối với một doanh nghiệp liên doanh.
Cơ quan tài chính Việt Nam có quyền kiểm tra tiến hành kiểm tra tình hình thực hiện công tác kế toán tài chính tại Việt Nam. Việc kiểm tra định kỳ hàng năm công tác kế toán của doanh nghiệp do cơ quan thuế Việt Nam nơi doanh nghiệp hoạt động và đăng ký nộp thuế thực hiện. Trong trường hợp cần thiết cơ quan tài chính Việt Nam có quyền kiểm tra đột xuất tình hình tài chính, kế toán của doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh phải thực hiện nghiêm chỉnh quyết định kiểm tra, cung cấp đầy đủ các tài liệu có liên quan đến nội dung kiểm tra, bố trí người có đủ thẩm quyền trả lời và giải thích các câu hỏi của đoàn kiểm tra bằng văn bản đính kèm theo biên bản kiểm tra.
Doanh nghiệp liên doanh có trách nghiệm phải thực hiện nghiêm chỉnh các kiến nghị của đoàn kiểm tra và có quyền báo cáo với cơ quan ban hành quyết định kiểm tra về hoạt động kiểm tra tại doanh nghiệp.
Chế độ khấu hao tài sản cố định của doanh nghiệp liên doanh được thực hiện theo quyết định của chính phủ.
Đơn vị đo lường dùng trong kế toán và thống kê là đơn vị đo lường chính thức của Việt Nam, các đơn vị đo lường khác phải được quy đổi ra đơn vị đo lường chính thức của Việt Nam. Trong trường hợp cần thiết, doanh nghiệp có thể đề nghị Bộ tài chính chấp thuận việc sử dụng đơn vị tiền tệ nước ngoài.
Việc ghi chép kế toán và thống kê được thực hiện bằng tiếng Việt Nam và tiếng nước ngoài thông dụng đã được cơ quan tài chính thống kê Việt Nam chấp thuận và phải được ghi trong điều lệ doanh nghiệp.
- Về công tác kiểm toán:
Báo cáo chính thức hàng năm của doanh nghiệp liên doanh được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán kiểm toán độc lập của Việt Nam hoặc công ty kiểm toán độc lập khác được phép hoạt động ở Việt Nam theo quy định của pháp luật về kiểm toán. Báo cáo tài chính hàng năm phải gửi cho cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài( Điều 37 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam theo qui định của pháp luật về kiểm toán, trước khi gởi tới các cơ quan cấp giất phép đầu tư, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính và tổng cục thống kê trong vòng 3 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính của doanh nghiệp.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam về công tác kiểm toán thì việc kiểm toán báo cáo kế toán của doanh nghiệp phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng kiểm toán phải được ký kết giữa doanh nghiệp với công ty kiểm toán phù hợp với các quy định của nhà nước Việt Nam về công tác kiểm toán doanh nghiệp.
Pháp luật về kiểm toán và công ty kiểm toán đối với doanh nghiệp liên doanh được quy định: ''Công ty kiểm toán được chỉ định phải phối hợp với một công ty kiểm toán Việt Nam cũng thực hiện kiểm toán sau khi được Bộ tài chính chấp thuận. Kết quả kiểm toán chỉ có giá trị pháp lý khi hai công ty kiểm toán nước ngoài và Việt Nam cùng nhất chí và cùng ký''.
Trong trường hợp công ty kiểm toán của Việt Nam từ chối sự phối hợp thì công ty kiểm toán nước ngoài sẽ thực hiện kiểm toán cho doanh nghiệp, sau khi thông báo và được Bộ tài chính chấp thuận. Công ty kiểm toán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính độc lập, khách quan, trung thực của kết quả kiểm toán. Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kế toán kiểm toán.
2.5 Giải quyết tranh chấp giữa các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh.
Tranh chấp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là điều không tránh khỏi trong cơ chế thị trường, đặc biệt đối với doanh nghiệp liên doanh thì có sự tham gia góp vốn và quản lý của chủ thể khác biệt về ngôn ngữ, pháp luật, phong tục, tập quán...thì tranh chấp càng dễ phát sinh hơn.
Tranh chấp xảy ra khi có sự bất đồng giữa các bên tham gia, xuất phát từ đặc điểm của mỗi loại hình doanh nghiệp nên tranh chấp cũng thể hiện đặc điểm của từng loại hình đó.
Điều 122 Nghị định 24/2000 NĐ-CP: '' Tranh chấp giữa các bên liên doanh với các doanh nghiệp Việt Nam trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng và hoà giải '' Thương lượng và hoà giải là giải pháp ưu tiên để giải quyết mối bất đồng giữa các bên liên doanh bởi vì việc giải quyết thông qua hoà giải sẽ tiết kiệm được thời gian, kinh phí, không gây gián đoạn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và giữ được tinh thần hợp tác đoàn kết giữa các bên.
Hoà giải được coi là thành khi các bên thoả thuận với nhau về việc giải quyết các vấn đề thuộc nội dung tranh chấp và tự nguyện thi hành những điều đã thoả thuận.
Trong trường hợp hoà giải không thành,các bên tranh chấp có thể thoả thuận một trong các phương thức giải quyết sau đây:
a. Toà án Việt Nam.
b. Trọng tài Việt Nam hoặc trọng tài nước ngoài, trọng tài quốc tế.
c. Trọng tài do các bên thoả thuận thành lập.
+ Tranh chấp giữa doanh nghiệp liên doanh với tổ chức kinh tế khác:
Đây là tranh chấp thường được phát sinh do việc không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không đúng các nghĩa vụ của doanh nghiệp liên doanh hay tổ chức kinh tế khác theo hợp đồng đã được ký kết giữa các chủ thể này.
Đối với tranh chấp này, các bên có thể cùng thương lượng hoà giải, nếu hoà giải không thành sẽ được giải quyết tại trọng tài hoặc toà án Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.
+ Tranh chấp giữa doanh nghiệp liên doanh với các cơ quan quản lý Nhà nước phát sinh do sự không thống nhất về các vấn đề quản lý Nhà nước và việc thực hiện pháp luật của các doanh nghiệp liên doanh. Việc giải quyết tranh chấp này được tiến hành theo trình tự thủ tục riêng đối với từng vụ việc cụ thể.
Trong những loại hình kể trên thì tranh chấp giữa các bên liên doanh vẫn xảy ra nhiều hơn.
chương III
thực trạng doanh nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và những phương hướng hoàn thiện các quy định về doanh nghiệp liên doanh.
Một trong những mục đích chính của việc mở cửa nền kinh tế, khuyến khích đầu tư nước ngoài là thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tạo việc làm cho người lao động và mở rộng xuất khẩu. Như vậy thu hút đầu tư nước ngoài liên quan chặt chẽ tới quá trình chuyển đổi của các thành phần kinh tế, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, rõ ràng, thông thoáng và có khả năng cạnh tranh với các nước khác trong khu vực.
Vào thời điểm những năm cuối thập kỷ 80, chính sách cấm vận của Mỹ chống Việt Nam rất hà khắc: Nó không những ngăn cấm sự trao đổi ngoại thương và còn ngăn cấm cả các nước khác quan hệ chính thức với Việt Nam. Trong bối cảnh hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam không có gì đáng kể mở rộng ngoại thương, viện trợ kinh tế từ các nước phát triển gần như không có, cho nên việc hợp tác đầu tư với nước ngoài là một đòi hỏi khách quan trong chính sách phát triển đất nước Việt Nam.
Ngược dòng trở lại chúng ta thấy: Năm 1977,chỉ hơn một năm sau ngày đất nước thống nhất, các nhà lãnh đạo cao nhất của Việt Nam đã có một quyết định làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước đó là việc ban hành điều lệ đầu tư nước ngoài ở nước CHXHCN Việt Nam kèm theo Nghị định 115/NĐ ngày 19/4/1977 của chính phủ gọi tắt là ''điều lệ1977'' và đến năm 1987 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời. Đến nay đã được sửa đổi và bổ xung nhiều lần qua các năm (1990,1992,1996,2000) đã hoàn chỉnh dần và có hệ thống. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức khác nhau. Song hình thức doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam đóng vai trò chủ yếu và chiếm ưu thế hơn cả, doanh nghiệp liên doanh đã góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế trong những năm vừa qua. Cụ thể là doanh nghiệp liên doanh chiếm 60-70% tổng số vốn đầu tư nước ngoài. Tăng trưởng kinh tế năm 1996 đạt 10% 1997 tăng 12,3% và năm 1998 đạt 14%, 1999 đạt 15%. Cho đến nay hầu hết các ngành kinh tế đều có dự án liên doanh.
Tính đến cuối năm1999-2000, có hơn 660 dự án đầu tư theo hình thức liên doanh đi vào hoạt động và đóng góp cho ngân sách Nhà nước khoảng 3.079,6 triệu USD. Một số ngành công nghiệp mới hình thành qua hình thức liên doanh như kính xây dựng, lắp ráp ô tô, điện tử... các dự án thực hiện khá tốt góp phần sản xuất nhiều mặt hàng xuất khẩu và thay thế những mặt hàng mà trước đây ta vẫn phải nhập khẩu.
Việc mở cửa thu hút vốn đầu tư không những phát triển nền kinh tế trong nước mà còn có ý nghĩa rất lớn lớn đối với xã hội như tiếp nhận hàng chục nghìn lao động trực tiếp, ngoài ra còn tạo việc làm thu nhập ổn định cho hàng chục vạn lao động gián tiếp bao gồm công nhân xây dựng và các dịch vụ khác có liên quan, góp phần đào tạo cho Việt Nam những nhà quản lý giỏi và đội ngũ công nhân lành nghề. Chính vì sự góp mặt của doanh nghiệp liên doanh đã tạo ra môi trường cạnh tranh giúp các doanh nghiệp trong nước vươn lên học tập phương pháp quản lý tiến bộ, kinh nghiệm về tổ chức sản xuất kinh doanh từ các nhà đầu tư nước ngoài,giúp họ nhanh nhạy với thị trường và quen dần với tập quán làm ăn quốc tế. Bên cạnh những mặt đạt được đó, chúng ta cần phát huy và quan tâm hơn nữa tới thực tiễn áp dụng luật đầu tư nói chung và chế độ pháp lý với doanh nghiệp liên doanh nói riêng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng nhiều, thực hiện phương châm hai bên cùng có lợi. Để làm được vấn đề này chúng ta cần hoàn thiện một số qui định trong Luật đầu tư nước ngoài đối với doanh nghiệp liên doanh.
3.1. Thực trạng và phương hướng hoàn thiện các quy định của doanh nghiệp liên doanh.
3.1.1. Hình thức tổ chức pháp lý của doanh nghiệp liên doanh.
Hình thức tổ chức của doanh nghiệp liên doanh chưa đa dạng. Luật đầu tư nước ngoài hiện nay chỉ cho phép doanh nghiệp liên doanh nói riêng và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung được hoạt động và thành lập dưới hình thức duy nhất là công ty trách nhiệm hữu hạn. Đây là loại hình doanh nghiệp mà vốn của công ty do các bên đóng góp và mỗi bên hưởng quyền cũng như chịu rủi ro trong phần vốn góp của mình, ưu điểm của loại hình doanh nghiệp này là Nhà nước dễ quản lý trong quá trình hoạt động, cơ cấu tổ chức bộ máy đơn giản, thực hiện được mục tiêu là thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Nhưng hạn chế của loại hình doanh nghiệp liên doanh là không thể huy động vốn qua việc bán cổ phần ra bên ngoài, do đó doanh nghiệp liên doanh thường gặp khó khăn về tài chính. Đấy là lý do tại sao công ty trách nhiệm thường có quy mô nhỏ.
Chính vì vậy, để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài, luật đầu tư nước ngoài cần qui định mở rộng các hình thức tổ chức của doanh nghiệp liên doanh mà cụ thể là cho phép doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. So với hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, thì công ty cổ phần có những ưu điểm sau:
+ Doanh nghiệp liên doanh cổ phần được huy động vốn từ nhân dân bằng cách phát hành chứng khoán mà chủ yếu là cổ phiếu và trái phiếu. Giải quyết khó khăn về vốn giúp cho doanh nghiệp liên doanh mở rộng sản xuất, phát triển nhanh về quy mô.
+ Sự chuyển dịch vốn linh hoạt giữa các cổ đông sử dụng hiệu quả vốn đầu tư.
Với hình thức công ty cổ phần, nhà đầu tư có quyền lựa chọn hình thức thích hợp, phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam.
Để doanh nghiệp liên doanh nói riêng và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung thành lập dưới hình thức công ty cổ phần thực sự phát huy được vai trò tích cực của mình và nhất là để không ảnh hưởng đến chính sách ''thu hút vốn đầu tư nước ngoài'' của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Vì thế, pháp luật nên có quy định cụ thể tỷ lệ vốn mà công ty cổ phần có vốn nước ngoài được quyền thu hút ở thị trường trong nước.
3.1.2. Trong lĩnh vực tài chính tín dụng.
a. Vấn đề vay vốn của doanh nghiệp liên doanh.
Muốn vay vốn của ngân hàng, các doanh nghiệp phải sản xuất kinh doanh có lãi, không có nợ quá hạn và phải có vốn tự có. Vốn tự có gồm giá trị thực của điều lệ , các quỹ dự trữ và một số tài sản ''nợ'' khác nếu có.
Trong khi đó vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh được quy định tại Điều 15 Nghị định 24/2000NĐ-CP như sau: ''Vốn pháp định có thể được góp một lần khi thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc góp từng phần theo phương thức và tiến độ góp vốn pháp định quy định tại hợp đồng liên doanh''. Như vậy, doanh nghiệp liên doanh không thể vay vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam khi chưa đóng đủ vốn pháp định, trong khi đó luật đầu tư nước ngoài lại không bắt buộc doanh nghiệp liên doanh phải đóng góp đầy đủ vốn pháp định khi thành lập.
Đây chính là sự không thống nhất giữa các quy định của Luật đầu tư nước ngoài và pháp luật ngân hàng, đồng thời là nguyên nhân cản trở việc vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp liên doanh.
Vì vậy, để giải quyết tình trạng trên, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, cần phải sửa đổi điều kiện vay vốn của doanh nghiệp liên doanh, trong đó cho phép doanh nghiệp liên doanh vay vốn khi góp vốn đúng tiến độ nghi trong hợp đồng liên doanh .
+ Việc bảo lãnh vay vốn cho các doanh nghiệp liên doanh.
Nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài yêu cầu doanh nghiệp liên doanh phải có sự bảo lãnh ngân hàng nhà nước đối với phần vốn vay của bên Việt Nam thì mới được vay vốn của tổ chức tín dụng này. Để đáp ứng được đòi hỏi này, ngày 16/7/1997 Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành văn bản số 3031/KTTH giao cho ngân hàng Nhà nước bảo lãnh hoặc chỉ định ngân hàng thương mại quốc doanh bảo lãnh vay vốn nước ngoài với phần vốn bên Việt Nam tham gia liên doanh. Tuy nhiên, thủ tục bảo lãnh còn quá phiền hà và có nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, tốn nhiều thời gian, phải qua nhiều cấp, nhiều ngành giải quyết, thận chí có khi phải có ý kiến của thủ tướng chính phủ mới giải quyết được. Hơn nữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép mở tài khoản vay tại một ngân hàng nước ngoài. Điều này làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong thanh toán và dễ gặp rủi ro. Đây cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư nước ngoài ngại liên doanh với đối tác Việt Nam.
Đồng thời nhà nước cho liên doanh được thế chấp bằng tài sản có nguồn gốc từ vay vốn, tuy nhiên ngân hàng nhà nước chưa chấp thuận việc này vì vướng mắc Luật Dân Sự. Điều 346, 347 Bộ Luật dân sự quy định ''thế chấp tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện với bên có quyền...''.
b. Thuế thu nhập cá nhân.
Theo pháp lệnh thuế ban hành ngày 19/5/1994 và pháp lệnh sửa đổi (một số điều của pháp lệnh thuế thu nhập cao) năm 1997-1998 thì thuế xuất thu nhập là cao đối với người Việt Nam và người nước ngoài. Đặc biệt thuế thu nhập cá nhân đối với người Việt Nam cao nhất là 60% và thuế phụ là 30% đối với số tiền lớn hơn 8 triệu đồng. Hơn nữa, hiện nay mức khởi điểm tính thuế đối với công dân Việt Nam lại thấp. Với qui định về thuế thu nhập cao của Việt Nam thì nhiều doanh nghiệp liên doanh cho rằng việc thu hút chuyên môn giỏi vào làm việc ở Việt Nam rất khó khăn, làm tăng chí phí của doanh nghiệp - nhiều doanh nghiệp liên doanh cho rằng họ không tăng lương cho công nhân là người Việt Nam lên trên 2 triệu đồng vì phải chịu thuế thu nhập . Do đó, thiệt hại đến quyền lợi của người lao động Việt Nam.
Thuế thu nhập là một nguồn thu cho ngân sách nhằm điều tiết thu nhập thực hiện chính sách xã hội. Tuy nhiên thuế thu nhập có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, theo em Nhà nước cần nghiên cứu ban hành pháp luật thuế thu nhập hợp lý so với khu vực và nâng cao mức khởi điểm chịu thuế lên hơn 2 triệu đối với lao động là người Việt Nam, có như vậy quyền lợi của người lao động mới được bảo đảm, khuyến khích sản xuất, tăng năng xuất và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn.
c. Thuế nhập khẩu.
Hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu của Việt Nam còn nhiều bất hợp lý, những quy định chồng chéo của nhiều cơ quan quản lý nhà nước và thiếu sự cụ thể, chi tiết của các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành đối với hoạt động sản xuất, nhập khẩu.
Mặc dù đã có các luật thuế, nhưng thủ tục thực hiện các luật thuế này cũng còn nhiều phiền hà, gây khó khăn cho doanh nghiệp liên doanh.
Cùng một mặt hàng nhập khẩu, nhưng hải quan Việt Nam có thể áp dụng nhiều thuế xuất khác nhau làm cho doanh nghiệp không biết trước mức thuế phải nộp để tính vào giá thành sản xuất và ký hợp đồng sản phẩm. Hệ thống phân loại thuế theo tiêu chuẩn SKD-CKD-IKD (tiêu chuẩn riêng của Việt Nam) gây khó khăn lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi nhập các linh kiện, phụ tùng, máy móc, thiết bị.
Thời hạn hoàn thuế xuất nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập để sản xuất hàng xuất khẩu là quá ngắn. Để khắc phục những bất hợp lý trên cần phải:
+ Nghiên cứu lại hệ thống phân loại tiêu chuẩn SKD-CKD- IKD tìm ra những bất hợp lý để khắc phục.
+ Thống nhất mã thuế áp dụng.
3.1.3 Trong lĩnh vực lao động, tiền lương.
Tình trạng vi phạm các quy định của pháp luật về tiền lương, điều kiện làm việc, phúc lợi xã hội hoặc hợp đồng lao động vẫn còn tồn tại trong các doanh nghiệp liên doanh. Trong đó vi phạm các quy định pháp luật về mức lương trả cho công nhân khá phổ biến trong các doanh nghiệp liên doanh. Trong năm vừa qua Thanh tra thuộc Bộ Lao động thương binh xã hội đã tiến hành kiểm tra hơn 70 công ty có vốn đầu tư nước ngoài (trong đó có doanh nghiệp liên doanh) đã phát hiện ra 15% số công nhân Việt Nam chịu mức lương thấp hơn mức lương tối thiểu do chính phủ quy định, một số công nhân chỉ được trả 20 USD/tháng, 80% các doanh nghiệp nói trên vi phạm quy định trả lương cho công nhân có tay nghề chỉ ở mức lương tối thiểu. Hầu hết các doanh nghiệp được thanh tra không có chương trình tăng lương cho công nhân hoặc có thì ở mức thấp hơn quy định của Chính phủ. Trong khi đó cường độ lao động, thời gian lao động kéo dài và kỷ luật lao động ở trong các doanh nghiệp liên doanh quá khắt khe, chỉ một sai sót nhỏ của người lao động cũng có thể bị doanh nghiệp liên doanh phạt bằng cách cắt lương, đuổi việc, thậm chí còn bị xúc phạm thân thể. Tình trạng vi phạm pháp luật lao động, tiền lương còn khá phổ biến bởi vì:
+ Doanh nghiệp liên doanh hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai về quy định pháp luật, tiền lương.
+ Người công nhân không hiểu rõ pháp luật hoặc có biết nhưng không dám phản đối vì sợ mất việc làm.
+ Cán bộ điều hành trong doanh nghiệp liên doanh là người Việt Nam đồng tình làm ngơ trước yêu cầu chính đáng của công nhân Việt Nam và tình trạng vi phạm của doanh nghiệp.
+ Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chưa làm tốt công việc kiểm tra về lao động tiền lương. Khi phát hiện thì xử lý chưa nghiêm. Để khắc phục tình trạng trên nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật tiền lương với các hình thức sử lý vi phạm rõ ràng, nghiêm khắc cần phải thiết lập một hệ thống công đoàn tại các doanh nghiệp liên doanh.
Hiện nay còn nhiều doanh nghiệp liên doanh chưa thành lập tổ chức công đoàn, nhiều tổ chức công đoàn được thành lập nhưng chỉ là hình thức, chưa phát huy được vai trò bảo vệ quyền lợi của người lao động. Ngoài ra các doanh nghiệp liên doanh không tạo điều kiện cho tổ chức công đoàn hoạt động.
3.1.4 Vốn góp của các bên liên doanh.
a Tài sản góp vốn của bên nước ngoài.
Bên nước ngoài góp vốn bằng máy móc thiết bị hoặc dây chuyền công nghệ. Trong nhiều trường hợp, bên nước ngoài đã khai tăng giá trị máy móc công nghệ góp vốn của mình. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhiều doanh nghiệp liên doanh đã nâng giá trị thiết bị máy móc góp vốn của bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh đã gây thiệt hại lớn cho bên Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Bên Việt Nam trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân của việc nâng giá thiết bị máy móc góp vốn liên doanh của bên nước ngoài có thể là:
+ Do Việt Nam chưa có quy định về tính giá trị (thương quyền) nên trong một số trường hợp phần góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất lại quá lớn so với giá thực của khu đất làm cho việc đàm phán kéo dài vì vậy Bên nước ngoài khó chấp nhận. Chính vì vậy nhà đầu tư nước ngoài đã nâng giá trị thiết bị máy móc để đảm bảo quyền lợi cho mình.
+ Trong một số trường hợp, khi đàm phán với nước ngoài các đối tác Việt Nam đã đưa ra mức cho thuê quá thấp để được Bên nước ngoài chấp nhận. Nhưng khi thẩm định vụ án, họ lại yêu cầu phải đàm phán để tăng giá thuê đất do vậy sẽ gặp khó khăn, bị mất nhiều thời gian và cũng khó thuyết phục Bên nước ngoài.
+ Hơn nữa việc tiếp nhận công nghệ cũ, lạc hậu không chỉ xảy ra đối với nước ta, mà với tất cả cácnước có trình độ trang bị máy móc thiết bị công nghệ tương đối thấp trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để hạn chế và tiến tới việc chấm dứt việc nâng giá trị của Bên nước ngoài đối với thiết bị máy móc, theo em cần tiến hành các biện pháp sau:
- Cần xây dựng hệ thống giá thuê đất bao gồm cả chi phí giải toả mặt bằng, phù hợp với thông lệ quốc tế đặc biệt là với cả các nước trong khu vực.
- Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài có tư cách đạo đức tốt và trình độ chuyên môn cao, tạo nguồn cung cấp các thông tin về thiết bị máy móc và giá cả. Căn cứ vào giá cả, tính phức tạp và sự hiểu biết của Bên Việt Nam, có thể quyết định thuê hay không thuê tổ chức giám định độc lập để xác định chính xác giá cả.
- Cần có quy định xử lý nghiêm minh đối với việc khai tăng giá.
b. Đối tác Việt Nam tham gia góp vốn liên doanh:
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia góp vốn liên doanh còn ít. Tham gia hợp tác đầu tư thành lập doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay chỉ mới có hơn 150 dự án liên doanh với nước ngoài (chiếm 8,2% dự án liên doanh đã đăng ký). Như vậy các dự án liên doanh nước ngoài mà doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia góp vốn thường có quy mô nhỏ, điều này phản ánh khả năng hạn hẹp về tài chính của các doanh nghiệp này.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là doanh nghiệp thuộc sở hữu của tư nhân có đặc điểm là năng động, có trách nhiệm cao đối với tài sản doanh nghiệp (xuất phát từ quan hệ sở hữu). Vì vậy, để khai thác triệt để tiềm năng của các thành phần kinh tế vào hoạt động đầu tư nước ngoài, nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói chung và các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân nói riêng tham gia liên doanh với nước ngoài bằng cách quy định về giảm tiền thuê đất, thuế xuất các loại thuế...
Việc tham gia của các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân sẽ góp phần quản lý tốt phần vốn góp của Bên Việt Nam, hạn chế tình trạng doanh nghiệp liên doanh xin chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do làm ăn thua lỗ.
c. Tiến độ góp vốn liên doanh.
Theo quy định luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thì doanh nghiệp liên doanh do bên nước ngoài và bên Việt Nam hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh với nguyên tắc cùng góp vốn, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Vì vậy, nhiều dự án liên doanh không thực hiện đúng hoặc chậm tiến độ góp vó ảnh hưởng tới việc triển khai thi công dự án liên doanh.
Điều 9 Luật đầu tư nước ngoài quy định: ''Tiến độ góp vốn do các bên thoả thuận ghi trong hợp đồng liên doanh và được cơ quan quản lý Nhà nước và đầu tư nước ngoài chấp thuận''. Như vây, quy định trên đã không tạo được cơ sở pháp lý vững chắc để đảo bảo tiến độ góp vốn của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, tiến độ góp vốn do cơ qua có thẩm quyền chấp thuận nên dễ phát sinh tiêu cực trong quá trình xét duyệt. Khi có sự vi phạm về tiến độ góp vốn thì hình thức xử lý duy nhất là thu hồi giấy phép đầu tư. Về vấn đề này cần được điều chỉnh cụ thể hơn.
Luật đầu tư nên quy định rõ thời gian, tiến độ và giới hạn góp vốn để các bên thực hiện hợp lý. Chẳng hạn như : Trong thời hạn 3 tháng (sau khi cấp giấy phép đầu tư) các bên phải đóng góp đủ 30% phần vốn của mình và trong một năm sau các bên phải hoàn thành toàn bộ việc góp vốn của mình. Đối với từng vi phạm pháp luật cần quy định những biện pháp xử lý riêng.
- Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh:
Điều 16 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: ''Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được giảm vốn pháp định'' theo như qui định trên doanh nghiệp liên doanh phải đảm bảo vốn pháp định của mình trong suốt quá trình hoạt động mà không được giảm. Quy định như vậy là Nhà nước muốn tạo ra sự ổn định về lượng vốn đầu tư đã đăng ký của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam .
Tuy nhiên trong hoạt động sản xuất kinh doanh không thể tránh khỏi rủi ro, điều kiện bất lợi xảy ra ngoài ý muốn của nhà đầu tư. Ví dụ như: thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp, mất khả năng tài tài chính của một số bên trong doanh nghiệp liên doanh... đòi hỏi doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, giảm vốn pháp định cho phù hợp với khả năng của mình và điều kiện kinh doanh. Do vậy qui định bắt buộc nhà đầu tư không được giảm vốn pháp định là không hợp lý. Nên chăng luật đầu tư nước ngoài cho phép doanh nghiệp liên doanh nói riêng và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung được giảm vốn pháp định trong quá trình kinh doanh, nhưng phải đảm bảo vốn pháp định trong vốn đầu tư không được thấp hơn tỷ lệ mà pháp luật qui định tối thiểu đối với từng trường hợp.
3.1.5 Vấn đề về sử dụng đất, triển khai dự án liên doanh.
a. Thủ tục thuê đất:
Thủ tục về đất đai Việt Nam rất phức tạp, gây khó khăn trở ngại để thực hiện dự án đầu tư nói chung và doanh nghiệp liên doanh nói riêng. Để triển khai được dự án liên doanh, trên thực tế phải mất rất nhiều thời gian và chi phí. Nguyên nhân của tình trạng này là do hệ thống pháp luật còn rườm rà, phức tạp và quá trình thực hiện các qui định của pháp luật không thống nhất còn cứng nhắc.
Theo Thông tư 679TT/CĐ của Tổng Cục địa chính ngày 12/5/1997 hướng dẫn về việc thuê đất và thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài thì:
- Doanh nghiệp liên doanh (hoặc bên liên doanh thuê góp vốn) phải ký kết hợp đồng với tổ chức có tư cách pháp nhân về đo đạc địa chính (trong khi thực hiện một bước là xác định địa điểm thực hiện dự án)
- Sau khi có giấy phép đầu tư doanh nghiệp liên doanh (hoặc bên liên doanh) thuế đất phải gửi bản sao giấy phép đầu tư (có công chứng) và bản đồ địa chính khu đất (trích lục hoặc chính đo) đến sở địa chính. Sau khi nhận được các văn bản trên sở địa chính thực hiện các công việc:
+) Kiểm tra xác nhận vào địa chính khu đất.
+) Lập biên bản kiểm tra hồ sơ đất đai.
Trên thực tế để hoàn thành thủ tục trên phải thực hiện đo đất đến ba lần còn để được cấp giấy phép quyền sử dụng đất phải qua 11 cơ quan với nhiều chữ ký của lãnh đạo cơ quan, thời hạn lại kéo dài vài ba năm.
Chính sách đất đai áp dụng với lĩnh vực đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều vướng mắc:
- Giá thuê đất của Việt Nam cao hơn so với nhiều nước trong khu vực. Nếu tính cả chi phí đền bù, giải toả thì giá đất bị đẩy lên quá cao. Đây là yếu tố làm giảm sức cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư, thời điểm tính giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn vào doanh nghiệp liên doanh chưa hợp lý.
Để đơn giản hoá thủ tục thuê đất, tổng cục địa chính cần phải ban hành văn bản hướng dẫn các sở địa chính về việc đo đất. Cụ thể là yêu cầu sở địa chính uỷ quyền cho một tổ chức có tư cách pháp nhân tiến hành đo đất và lập bản đồ một lần cùng với sự giám sát của Sở địa chính.
b. Giải toả mặt bằng:
Giải toả mặt bằng là vấn đề rất phức tạp vì nó liên quan đến quyền của các bên khi tiến hành đền bù. Trong khi đó chính quyền xã, huyện quản lý trực tiếp đất đai thì ít khi quan tâm đến vì không có quyền lợi liên quan, mặt khác các hộ gia đình trong vùng đất để thực hiện dự án không chịu di chuyển, đòi mức đền bù cao, thậm chí còn có hành vi chống đối chính quyền. Vì vậy nhiều dự án liên doanh có giải toả và đền bù kéo dài, trong nhiều trường hợp việc giải toả này kéo dài trong một số măn thậm chí có dự án kéo dài đến 5 năm. Thủ tục giải phóng mặt bằng còn phức tạp gây mất cơ hội và thời gian của các nhà đầu tư. Hiệu lực pháp luật còn thấp mặc dù đã được sửa đổi nhưng thiếu những văn bản hướng dẫn chi tiết.
Theo Điều 89 Nghị định 24/2000 NĐ-CP quy định:
UBND cấp tỉnh nơi có dự án đầu tư có trách nhiệm tổ chức đền bù, giải phóng mặt bằng, hoàn thành các thủ tục cho thuê đất. Chi phí gíải toả được tính vào vốn đầu tư của dự án. UBND thoả thuận với doanh nghiệp được thuê đất về nguồn tài chính để thực hiện việc giải toả.
Trường hợp bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, bên Việt Nam có trách nhiệm giải phóng mặt bằng và hoàn thành các thủ tục để được quyền sử dụng đất. Chi phí thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt bằng được tính trong phần vốn góp của bên Việt Nam hoặc do các bên thoả thuận.
c. Giấy phép sử dụng đất:
Thủ tục cấp giấy phép sử dụng đất cho liên doanh đối với phần đất mà bên Việt Nam góp vốn bằng quyền sử dụng đất rất chậm. Phần đất của bên Việt Nam góp vốn đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy phép đầu tư đã quy định diện tích đất vẫn phải làm mọi thủ tục như đối với đất mới. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho liên doanh đối với phần đất mà bên Việt Nam được giao góp vốn liên doanh về cơ bản là thay đổi chủ thể sử dụng và mục đích sử dụng.
Để tạo điều kiện cho việc triển khai dự án được nhanh sau khi được cấp giấy phép sử dụng đất. Sở Địa chính ở các Tỉnh, Thành phố chỉ tiến hành đo đạc, lập bản đồ địa chính một lần và đơn giản hoá mọi thủ tục khác về đất đai. Đồng thời thiết lập qui trình giao đất đúng luật nhưng đơn giản, tránh trùng lặp, rút ngắn thời gian, nhất là công đoạn đo đạc.
3.1.6. Bảo hiểm.
Trong cơ chế thị trường thì doanh nghiệp liên doanh cũng như các doanh nghiệp khác không thể tránh khỏi rủi ro. Vì vậy, một thị trường bảo hiểm phát triển là rất cần thiết, giúp cho doanh nghiệp liên doanh tham gia ổn định sản xuất kinh doanh và làm tăng tính an toàn của môi trường đầu tư nước ngoài nói chung.
Trong khi đó pháp luật bảo hiểm Việt Nam chưa cho phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài , các tổ chức bảo hiểm đầu tư nước ngoài chỉ được nhận tái bảo hiểm sau khi đã ưu tiên doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động ở Việt Nam. Tuy nhiên, tổ chức nước ngoài cũng chỉ được nhận tái bảo hiểm một phần trách nhiệm (một phần do công ty bảo hiểm quốc gia nhận tái bảo hiểm bắt buộc).
Trên thực tế, công ty bảo hiểm Quốc gia (BAOVIET) có năng lực hạn chế nên lại tái bảo hiểm cho tổ chức nước ngoài.
Những quy định chặt chẽ về bảo hiểm trên là nhằm mục đích tránh tình trạng chảy lệ phí ra nước ngoài, nhưng về phía doanh nghiệp liên doanh tham gia bảo hiểm thì việc bảo hiểm qua nhiều khâu trung gian sẽ làm tăng chi phí bảo hiểm và phức tạp.
Vì vậy, Nhà nước cần nghiên cứu ban hành pháp luật cho phép doanh nghiệp liên doanh 100% vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, cho phép công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động trực tiếp (tại Việt Nam) bảo hiểm đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy, để tạo một thị trường bảo hiểm phát triển mang tính cạnh tranh, cung cấp tốt nhất dịch vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp liên doanh làm giảm rủi ro đầu tư sản xuất kinh doanh ở Việt Nam.
3.1.7 Cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh.
Hiện nay có hơn 10.000 cán bộ Việt Nam tham gia trực tiếp quản lý trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó số cán bộ làm trong các doanh nghiệp liên doanh là chủ yếu. Trình độ và năng lực kinh nghiệm quản lý của cán bộ Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh còn yếu kém. Trên thực tế, chỉ có 15-20% cán bộ đáp ứng yêu cầu công tác doanh nghiệp liên doanh. Bên cạnh đó, tỷ lệ vốn trung bình của Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh mới chiếm 30% vốn pháp định. Do vậy, số người của bên Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị tương đối ít và vai trò của bên Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh rất thấp, không bảo vệ được quyền lợi của bên Việt Nam, quyền lợi của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh...
Trong nhiều trường hợp, cán bộ Việt Nam đã bị phía nước ngoài lợi dụng, có trường hợp cán bộ Việt Nam phục vụ cho quyền lợi của chủ đầu tư nước ngoài. Phía Việt Nam góp vốn liên doanh chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh (98,2% về vốn, 92,2% về dự án liên doanh). Vì vậy, đổi mới công tác cán bộ trước hết và quan trọng nhất là tập trung vào cán bộ của Nhà nước trong các doanh nghiệp liên doanh là điều cần thiết.
Để khắc phục tình trạng trên, Nhà nước nên giải quyết các biện pháp sau:
- Chính phủ cần ban hành văn bản quy định tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm nâng cao trình độ quản lý kinh doanh, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ cũng như nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường, về luật pháp... cho đội ngũ cán bộ quản lý.
Cần xử lý nghiêm khắc đối với cán bộ vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho phía Việt Nam và doanh nghiệp liên doanh.
Ban hành các quy định khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế hợp tác để tăng phần vốn góp của bên Việt Nam trong quản lý doanh nghiệp liên doanh sẽ được nâng cao.
Tóm lại: Muốn thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, chúng ta cần cải thiện môi trường pháp lý thông thoáng, đa dạng để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Điều này không chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt, bức thiết hiện nay, mà còn mang tính chiến lược lâu dài. Thu hút nước ngoài là cần thiết nhưng chúng ta phải độc lập tự chủ, phải phát huy đầy đủ nội lực thì mới đứng vững và đi lên một cách tự tin, vững chắc. Từ đó, chúng ta hội nhập với quốc tế một cách bình đẳng, chúng ta cần nắm vững và quán triệt phương châm '' giữ độc lập tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, động viên cao độ nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với việc tranh thủ nguồn lực bên ngoài. xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới ''
Vấn đề hết sức cấp thiết là phải cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Đây là vấn đề tất yếu trong bối cảnh kinh tế quốc tế hiện nay.
Kết luận và kiến nghị
Từ khi ra đời, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được dư luận đánh giá là thông thoáng, có tính hấp dẫn cao. Với ưu thế đó, từ khi thực hiện đến nay, với hơn 1400 dự án đăng ký với tổng số vốn là gần 30 tỷ USD. Doanh nghiệp liên doanh đã góp phần quan trọng cho việc phát triển kinh tế.
Tính đến năm 1999 đầu năm 2000, có hơn 660 dự án đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh đi vào hoạt động và đóng góp cho ngân sách nhà nước khoảng 3.079,6 triệu USD. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong số 660 dự án doanh nghiệp liên doanh chỉ có 180 doanh nghiệp kinh doanh thuận lợi, nhưng doanh nghiệp liên doanh cũng là hình thức đầu tư luôn có tổng số vốn đăng ký chiếm tỷ trọng cao trong các dự án đầu tư nước ngoài. Năm 1995 số vốn của dự án liên doanh đẫ đăng ký chiếm 76,9%; năm 1996 là 81,9% đến đầu năm 1998 thì số vốn đăng ký chiếm 70%; năm 1999-2000 là 67,8% vốn nước ngoài đã đăng ký. Với số vốn và dự án lớn nhất, hình thức doanh nghiệp liên doanh đã đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Đến nay, hầu hết các tập đoàn, công ty lớn có tên tuổi như: Toyota, Sony(Nhật), IBM(Mỹ), Merceders(Mỹ), Daewoo, Hyundai (Hàn Quốc), JVC (Nhật)... Đã có dự án đầu tư liên doanh tại Việt Nam. Qua xem xét số dự án đang hoạt động, dể dàng nhận thấy một điều là các nhà đầu tư nước ngoài có mặt hầu hết trên các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Số dự án này được thực hiện chủ yếu dưới hình thức đầu tư doanh nghiệp liên doanh thông qua ký hợp đồng liên doanh.
Như vậy, hình thức thông qua liên doanh là hình thức luôn được các nhà đầu tư ưu chuộng nhất. Bằng việc sửa đổi luật đầu tư liên tục, kịp thời. Nhà nước ta đã khuyến khích đầu tư vào hình thức này qua việc dành cho doanh nghiệp liên doanh nhiều điều kiện ưu đãi nhất. Đầu tư vào doanh nghiệp liên doanh có lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, vừa có lợi cho các nhà đầu tư trong nước.
Vì vậy mà nó được ưa chuộng hơn. Qua liên doanh với nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước đã tiếp thu, đổi mới công nghệ, học tập kinh nghiệm tiên tiến của nước ngoài. Do vậy, năng lực sản xuất trong nước ngày một nâng cao đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước.
Để đạt được những kết quả khả quan như trên, chúng ta không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng như vai trò quản lý của Nhà nước có tính quyết định tới sự thành công và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh. Nhà nước ta, với đường lối sáng tạo đã thực sự tạo ra một môi trường pháp lý hấp dẫn, tạo điều kiện cho sự phát triển của loại hình đầu tư phổ biến này.
Để hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh em xin có kiến nghị như sau:
Sau vài năm ban hành nghị định 12/CP ngày 18/2/1997 quy định về những chính sách khuyến khích đối với miền núi, vùng sâu,vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn nhưng tốc độ đầu tư vào các vùng trên chưa phù hợp với thực tiễn, khả năng thu hút còn hạn chế, chưa tạo được hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài.
Để tăng trưởng tốc độ đầu tư ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. em xin có ý kiến như sau:
- Tăng thời hạn miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các dự án trồng rừng, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng miền núi.
- Tiếp tục giảm tiền thuê đất đối với miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Với ý kiến đóng góp của bản luận văn này, em hy vọng được đóng góp một phần vào việc hoàn thiện môi trường pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế và có những đặc điểm riêng nhằm phát huy tối đa vai trò của doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam trong chính sách thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, là cơ sở pháp lý đảm bảo cho doanh nghiệp liên doanh tăng và trở thành một loại hình doanh nghiệp thu hút nhất đối với các nhà đầu tư với hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất đúng với vị trí vai trò vốn có của nó.
Lời cảm ơn !
Khoá luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn nhiệt tình và chân thành của thầy giáo Đỗ Mạnh Hồng. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đền người thầy của mình cùng toàn thể các thầy, cô giáo trong Khoa và gia đình, bạn bè, đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực hiện Khoá luận này.
mục lục
lời nói đầu.
chương 1: những vấn đề lý luận về đầu tư nước ngoài 3
1.1 Khái niệm đầu tư nước ngoài và các loại hình đầu tư nước ngoài 3
1.1.1 Khái niệm đầu tư nước ngoài 3
1.1.2 Các loại hình đầu tư nước ngoài 4
1.1.2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài 4
1.1.2.2 Đầu tư gián tiếp nước ngoài. 5
1.2 Tác động của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam 6
1.3 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam-quá trình hình thành và phát triển 7
1.3.1 Các hình thức đầu tư nước ngoài theo Luật đầu tư năm 2000 8
1.3.1.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 9
1.3.1.2 Doanh nghiệp liên doanh 9
1.3.1.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 11
Chương 2: Địa vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh theo Luật đầu tư năm 2000 13
2.1 Sự ra đời của doanh nghiệp liên doanh 14
2.1.1 Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp liên doanh 15
2.1.2 Vai trò, vị trí của doanh nghiệp liên doanh trong nền kinh tế 18
2.2 Thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh 19
2.2.1 Chọn đối tác đầu tư 19
2.2.2 Chuẩn bị hồ sơ thành lập doanh nghiệp liên doanh 21
2.2.3 Thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh 25
2.3 Cơ cấu tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp liên doanh 27
2.4 Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp liên doanh 35
2.4.1 Trong lĩnh vực bảo đảm vật tư tiêu, thụ sản phẩm 36
2.4.2 trong lĩnh vực tiền lương 36
2.4.3 Trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, thanh toán 38
2.4.4 Trong lĩnh vực kế toán thống kê 43
2.5 Giải quyết tranh chấp giã các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh 45
Chương 3: Thực trạng doanh nghiệp liên doanh theo Luận đầu tư nước ngoài tại việt nam và phương hướng hoàn thiện các quy định về doanh nghiệp liên doanh 47
3.1 Thực trạng và phương hướng hoàn thiện các quy định của doanh nghiệp liên doanh 49
3.1.1 Hình thức tổ chức và pháp lý của doanh nghiệp liên doanh 49
3.1.2 Trong lĩnh vự tài chính, tín dụng 50
3.1.3 Trong lĩnh vực lao động tiền lương 52
3.1.4 Vốn góp của các bên liên doanh 53
3.1.5 Vấn đề sử dụng đất triển khai dự án liên doanh 56
3.1.6 Bảo hiểm 59
3.1.7 Cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh 59
kiến nghị và kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Báo cáo đầu tư của Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2000
2. Công báo năm 2000 - 2001
3. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam
4. Giáo trình luật kinh tế - Trường đại học luật Hà Nội, 1998
5. Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam - Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2000
6. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996
7. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000
8. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và văn bản hướng dẫn thi hành( được sửa đổi, bổ xung ngày 9/6/2000) - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2000
9. Thời báo kinh tế
10. Tạp chí doanh nghiệp đầu tư nước ngoài năm 2000
11. Nghị định số 24/2000NĐ-CP ngày 31/7/2000 của chính phủ quy định chi tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
12. Thông tư số 12/2000/TT-BKH ngày 15/9/2000 của Bộ Kế Hoạch và Đầu tư hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0008.doc