Đề tài Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010

LỜI MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHNNVN. 3 1. Mục đích ra đời của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 3 2. Tóm tắt quá trình phát triển: 3 a. Thời kỳ 1951 - 1954 5 b. Thời kỳ 1955 - 1975 5 c. Thời kỳ 1975 - 1985 5 d. Thời kỳ 1986 đến nay 5 3. Văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng nhà nước Việt Nam 7 CHƯƠNG II: VỊ TRÍ PHÁP LÝ, TƯ CÁCH PHÁP NHÂN, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA NHNNVN. 9 1) Vị trí pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 9 2) Tư cách pháp nhân: 12 3) Chức năng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam 13 4) Nhiệm vụ và quyền hạn 14 5) Nhận xét chung: 17 CHƯƠNG III: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA NHNNVN 19 1. Hoạt động của NHNN 19 a. Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia 19 b. Phát hành tiền 20 c. Hoạt động tín dụng 20 2. Đối với việc hoạch định và thực thi Chính sách tiền tệ 21 3. Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối 22 4. Hoạt động thông tin báo cáo 23 5. Các hoạt động khác 24 a) Tài chính, hạch toán, kế toán và báo cáo của ngân hàng nhà nước 24 b) Thanh tra ngân hàng, tổng kiểm tra của ngân hàng nhà nước 25 CHƯƠNG IV: ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA NHNNVN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 27 1. Thực trạng hoạt động của NHNN 27 2. Tính độc lập của NHTW 28 3. Các tiêu chí hoàn thiện NHNN 30 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33  Văn bản pháp luật 33  Giáo trình-Bài báo khoa học 34  Đường link trang web 35 LỜI MỞ ĐẦU Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, hệ thống ngân hàng chiếm một vai trò quan trọng, quyết định và chi phối các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Sự hình thành của tiền tệ đã làm cho quá trình trao đổi hàng hóa thuận lợi và dễ dàng hơn rất nhiều giữa những người cùng khu vực địa lý, cùng một quốc gia cũng như giữa các quốc gia với nhau. Kèm theo đó là sự xuất hiện của những thương gia chuyên kinh doanh những dịch vụ trung gian, giữ tiền, cho vay, Đó là những hình thức sơ khai của ngân hàng hiện nay. Từ đây các quốc gia trên thế giới đã xây dựng, hình thành nên hệ thống ngân hàng riêng cho quốc gia mình và phát triển đến ngày nay. Việt Nam cũng không ngoại lệ, sau khi miền Bắc giành được độc lập thì nước ta đã manh nha hình thành nên ngân hàng riêng của Việt Nam. Đến năm 1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kí quyết kịnh thành lập thông qua sắc lệnh 15/SL. Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là một bước ngoặt lịch sử, là kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Từ đó đến nay, gắn liền với sự phát triển của từng thời kỳ cách mạng, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (từ tháng 1/1960 đến nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã từng bước lớn mạnh và phát triển, góp phần quan trọng vào việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện thể chế tiền tệ, tín dụng và hệ thống ngân hàng Việt Nam, phục vụ tích cực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phần trình bày của nhóm trong bộ môn Luật Ngân hàng,chúng em bàn về vấn đề: “Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam 2010”. Qua bài tiểu luận nhỏ này, chúng em không có tham vọng đi đến tất cả các vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy, hoạt động hay chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN)theo quy định của pháp luật mà chỉ đề cập đến một vài khía cạnh nổi bật. Trong tương lai, khi có đầy đủ kiến thức và thời gian, nhóm sẽ nghiên cứu sâu hơn về đề tài này.

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2859 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hủ quyết quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng của tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận, chia, tách, hợp nhất của các tổ chức tín dụng. Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm soát tín dụng xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền. Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ. Ngân hàng nhà nước về thanh toán quốc tế, hoạt động đối ngoại… Chức năng ngân hàng trung ương: Phát hành tiền và cung cấp vốn cho nền kinh tế, cho các tổ chức tín dụng Hỗ trợ thông tin về hoạt động ngân hàng để đảm bảo an toàn cho hệ thống.NHNN thường xuyên có những thông tin về hoạt động để phát hiện kịp thời và đưa ra những chính sách phù hợp Thực hiện điều chuyển tiền trong tài khoản của các tổ chức tín dụng để điều hòa lưu thông tiền tệ Tuy nhiên các chức năng nhiệm vụ của ngân hàng NN hiện nay được qui định theo hướng quá coi trọng chức năng quản lý nhà nước về ngân hàng trong khi đó chức năng ngân hàng trung ương không được quan tâm thỏa đáng. Ví dụ như: tại khoản 2 điều 10 Luật NHNN 2003 quy định: “Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy điều hành của ngân hàng nhà nước do chính phủ quy định.” Tại khoản 1 điều 11 Luật NHNN 2003 quy định: “Thống đốc ngân hàng Nhà nước là thành viên chính phủ, chịu trách nhiệm lãnh đạo và điều hành ngân hàng nhà nước.” Trên thế giới, pháp luật về ngân hàng trung ương của các nước rất ít khi đề cập đến chức năng quản lý nhà nước về ngân hàng của cơ quan phát hành tiền quốc gia mà chủ yếu đề cập đến hoạt động này dưới danh nghĩa là chức năng giám sát về kiểm soát an toàn của hệ thống ngân hàng.Vì vậy chúng em cho rằng chức năng NHTW cần được quan tâm và chú trọng hơn nữa trên cơ sở phân tích nêu trên. Nhiệm vụ và quyền hạn: Thứ nhất theo điểm c khoản 2 điều 5 Luật NHNN 2003 và khoản 1 điều 4 luật NHNN 2010 thì NHNN có nhiệm vụ đầu tiên là Điều hành chính sách tiền tệ được thể hiện trên 3 khía cạnh sau: Ổn định giá trị đồng tiền: Được biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát được thể hiện thông qua chỉ số giá tiêu dùng và các công cụ, biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra Bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng Hoạt động của các tổ chức tín dụng có những tác động lớn đến sự ổn định xã hội, phát triển kinh tế của đất nước, vì với tư cách là các trung gian tài chính, tổ chức tín dụng là những doanh nghiệp có khả năng huy động và sử dụng nguồn vốn rất lớn trong xã hội. Việc quản lý thiếu chặt chẽ có thể dẫn đến đổ vỡ tổ chức tín dụng, gây ra sự mất lòng tin trong nhân dân và đe dọa sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng cũng như của cả nền kinh tế. Do vậy, Luật NHNN 2003 và đặc biệt là luật NHNN 2010 đã có nhiều quy định để nâng cao nhiệm vụ trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước về các yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng Như vậy so với các qui định trong luật NHNN 2003 thì luật NHNN 2010 đã xác định rõ được thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước trong việc giám sát an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng thông qua hai hoạt động giám sát và thanh tra, cùng với việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ hơn đối với hệ thống tổ chức tín dụng. Bảo đảm sự an toàn của hệ thống thanh toán Thứ hai, theo điểm a khoản 1 điều 5 luật NHNN 2003 và theo khoản 2 điều 4 Luật NHNN 2010 đều qui định NHNN có nhiệm vụ tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và của ngành ngân hàng Thứ ba theo điểm c khoản 1 điều 5 Luật NHNN 2003 và theo khoản 4 điều 4 Luật NHNN 2010 qui định NHNN có nhiệm vụ ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản qui phạm pháp luật Thứ tư theo khoản 5 điều 4 luật NHNN 2010 qui định NHNN có nhiệm vụ xây dưng chỉ tiêu lạm phát hằng năm trình Chính phủ và để Chính phủ trình quốc hội. Như vậy, Quốc hội sẽ quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN. Đây là qui định khá cụ thể so với điểm b khoản 1 điều 5 Luật NHNN 2003 qui định NHNN có nhiệm vụ “Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này; xây dựng chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng Việt Nam” Thứ năm theo điểm a khoản 2 điều 5 Luật NHNN 2003 và theo khoản 7, 8 điều 4 Luật NHNN 2010 thì NHNN sẽ tổ chức và điều hành phát triển tiền tệ, thực hiện công tác thống kê , dự báo, in đúc bảo quản vận chuyển tiền; phát hành , thu hồi, thay thế tiêu hủy tiền Thứ sáu theo khoản 9 điều 4 Luật NHNN 2010 đã qui định cụ thể hơn về việc Cấp sửa đổi bổ sung giấy phép hoạt động của các tổ chức tín dụng so với Luật NHNN 2003 ( theo điểm d khoản 1 điều 5).Cụ thể là : “Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng, giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép thành lập văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho các tổ chức không phải là ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ chức; chấp thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật” Thứ bảy theo khoản 10 điều 4 Luật NHNN 2010 qui định NHNN thực hiện đại diện chủ sở hữu nhà nước trong các tổ chức tín dụng. Đây là qui định mới so với luật NHNN 2003 Thứ tám điểm đ khoản 2 điều 5 luật NHNN 2003 và khoản 17 điều 4 luật NHNN 2010 qui định NHNN có nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra và xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, thực hiện quản lí nhà nước về ngoại hối, quản lý việc cho vay và thu hồi nợ nước ngoài. Chính sách ngoại hối là một bộ phận quan trọng của chính sách tiền tệ, vì vậy NHNN được giao nhiệm vụ quản lý ngoại hối và việc tổ chức kiểm tra thực hiện. NHNN ban hành các văn bản hướng dẫn về quản lý ngoại hối, tổ chức thực hiện và kiểm tra. NHNN có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối trong nước qua các nghiệp vụ mua bán, kinh doanh ngoại hối nhằm ổn định tỉ gía hối đoái của đồng Việt Nam. Tuy nhiên so với luật NHNN 2003 thì Luật NHNN 2010 có qui định mới về nhiệm vụ quản lý dự trữ ngoại hối ( theo khoản 18 điều 4 ). Chúng ta biết rằng việc sử dụng dự trữ ngoại hối vào mục đích chi tiêu thuộc phạm vi ngân sách cần thiết phải do Quốc hội quyết định, để bảo đảm đúng chức năng, nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước của Quốc hội. Tuy nhiên, do điều kiện hiện nay Quốc hội chưa họp được thường xuyên, chỉ họp hai kỳ trong một năm, đề nghị Quốc hội ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định vấn đề này để xử lý một cách kịp thời các yêu cầu sử dụng Dự trữ ngoại hối nhà nước cho các nhu cầu đột xuất, cấp bách. Kể từ khi hình thành vào năm 1991 đến nay, dự trữ ngoại hối nhà nước của Việt Nam được Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước quản lý luôn đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm nguồn lực để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, chính sách tỷ giá, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế và đáp ứng nhu cầu ngoại hối đột xuất cấp bách của Nhà nước. Dự trữ ngoại hối là một hạng mục tài sản có trong Bảng cân đối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và được coi là một tài sản bảo đảm cho giá trị tiền trong lưu thông. Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó chủ yếu là để can thiệp thị trường ngoại hối nhằm ổn định giá trị đồng tiền thông qua nghiệp vụ mua bán ngoại tệ với các tổ chức tín dụng. Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước được quản lý dưới nhiều hình thức như tiền gửi, đầu tư vào trái phiếu Chính phủ các nước G7…để đáp ứng nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ của nền kinh tế, vừa để sinh lời, đảm bảo giá trị của Quỹ. Việc quy định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước theo quy định của Chính phủ là phù hợp với pháp luật hiện hành về quản lý ngoại hối. Trong trường hợp việc sử dụng Dự trữ ngoại hối làm thay đổi dự toán Ngân sách nhà nước thì thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách. Thứ chín Quản lí hệ thống thông tin tín dụng và nhiều nhiệm vụ quyền hạn khác theo qui định Ngoài ra so với luật NHNN 2003 thì luật NHNN 2010 có những qui định mới như sau: Theo khoản 12 điều 4 luật NHNN 2010 có qui định “ Quyết định áp dụng biện pháp xử lý đặc biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng, gồm mua cổ phần của tổ chức tín dụng; đình chỉ, tạm đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tín dụng; đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về phá sản đối với tổ chức tín dụng” Hoặc khoản 13 qui định NHNN có nhiệm vụ “Chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế hoạch và tổ chức thực hiện phòng, chống rửa tiền” Hoặc khoản 14 qui định NHNN “Thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi” Hoặc khoản 25 qui định NHNN có nhiệm vụ “Tham gia với Bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh” Nhận xét chung: Các qui định trong Luật NHNN 2003 về nội dung của các điều luật còn khá khái quát, không bảo đảm yêu cầu đặt ra cho việc áp dụng. Vì vậy để phân định rõ về nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN thì chúng ta có thể tách Điều 5 ra thành 2 phần: một phần quy định về nhiệm vụ; một phần nói về quyền hạn. Việc tách biệt 2 nội dung nhiệm vụ và quyền hạn không chỉ có ý nghĩa làm rõ nhưng việc NHNN phải làm mà quan trọng hơn là khẳng định NHNN có những quyền hạn gì một cách rõ ràng nhất.Việc bố trí các khoản trong Điều 5 cần bố trí theo hướng quy định từ nhiệm vụ, quyền hạn cao nhất. Mặt khác việc qui định chung chung như Luật NHNN 2010 cũng sẽ không phân định được một cách rõ tràng về nhiệm vụ quyền hạn của NHNN tương ứng với từng chức năng cụ thể. Ngoài ra chúng ta cần hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng quy định rõ hơn nữa trách nhiệm giải trình, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước trước Quốc hội, Chính phủ và công chúng. Đây là nội dung quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng Trung ương nhằm minh bạch hóa, công khai hóa các quyết định trong điều hành của mình không những với cơ quan cấp trên mà còn với công chúng, thị trường. CHƯƠNG III: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA NHNNVN Hoạt động của NHNN: Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia: Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt - như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối. Theo điều 15 LNHNNVN 2010, Ngân hàng nhà nước Việt Nam có trách nhiệm: Chủ trì xây dựng chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hằng năm trình Chính Phủ. Điều hành chính sách tiền tệ quốc gia thông qua các công cụ. Các công cụ chủ yếu để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia: Công cụ tái cấp vốn (điều 17 LNHNNVN ): Là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp một khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ. Được ngân hàng sử dụng dưới hình thức cho vay theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu theo phương thức thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác Công cụ lãi suất (điều 18 LNHNNVN): Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Lãi suất cơ bả : lãi suất căn cứ vào đó ngân hàng thực hiện cho vay nằm trong biên độ +- 5% để điều hành chính sách tiền tệ chống nạn cho vay nặng lãi Tỷ giá hối đoái (điều 19 LNHNNVN): Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ. Căn cứ vào cung cầu ngoại tệ trên thị trường và nhu cầu điều tiết của nhà nước xác định và công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam. Dự trữ bắt buộc (điều 20 LNHNNVN): Áp dụng đối với các tổ chức tín dụng. Để duy trì hoạt động kinh doanh và hạn chế rủi ro thì các tổ chức tín dụng phải thành lập quỹ dự phòng. Để đáp ứng nhu cầu chi trả thanh toán đột xuất và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng, tổ chức tín dụng phải gửi tại ngân hàng nhà nước một số tiền gửi theo mức từ 0 – 20 % tổng số dư tiền gửi ở tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại tiền gửi và tổ chức tín dụng khác nhau phụ thuộc vào mức độ rủi ro. Nghiệp vụ thị trường mở (điều 21 LNHNNVN): Là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. Thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn: tín phiếu kho bạc , chứng chỉ tiền gửi… Phát hành tiền: (điều 23 LNHNNVN): Phát hành tiền là cung ứng tiền vào lưu thông làm phương tiện thanh toán. Chỉ có NHNN là cơ quan duy nhất mới có quyền phát hành tiền bao gồm tiền giấy và tiền kim loại. Mọi hành vi từ chối nhận, lưu hành đồng tiền do NHNN phát hành đều bị coi là bất hợp pháp Hoạt động tín dụng : Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhà nước khác biệt về bản chất so với hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. Bởi vì hoạt động tín dụng của ngân hàng nhà nước nhằm mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn cho hệ thống tín dụng. Thông qua các hình thức: bảo lãnh; cho vay; tạm ứng cho ngân sách nhà nước; góp vốn, mua cổ phần. Cho vay (điều 30 LNHNNVN): Là hình thức hoạt động tín dụng của ngân hàng nhà nước. Ngân hàng nhà nước cho các tổ chức tín dụng là ngân hàng vay ngắn hạn. Hoạt động cho vay này thể hiện vai trò của ngân hàng nhà nước là ngân hàng của các ngân hàng. Trường hợp đặc biệt, NHNN cho vay đối với tổ chức tín dụng tạm thời mất khả năng chi trả, nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các TCTD khi được Thủ Tướng Chính Phủ đồng ý. Bảo lãnh (điều 31 LNHNNVN): Được xem là hình thức hoạt động tín dụng của ngân hàng nhà nước nhưng chỉ áp dụng cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài theo chỉ định của Thủ tướng Chính Phủ. Không bảo lãnh cho tổ chức cá nhân vay vốn. Tạm ứng cho ngân sách nhà nước ( điều 32 LNHNNVN): Là hình thức hoạt động tín dụng của NHNN để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Việc ngân hàng nhà nước cho ngân sách nhà nước cho vay hoặc tạm ứng cho ngân sách nhà nước tức là cung ứng thêm tiền cho lưu thông sẽ gây ra lạm phát và ảnh hưởng tới chính sách tiền tệ. Nước ta trong tình hình nền kinh tế chuyển đổi nên nguồn chi rất lớn mà nguồn thu lại có hạn nên ngân sách nhà nước thường gặp tình trạng thiếu hụt tạm thời, nếu không có sự hỗ trợ của nhà nước sẽ rất khó khăn. Vì vậy cần phải có quy định tạm ứng cho ngân sách nhà nước và khoản tạm ứng này phải được hoàn trả trong năm ngân sách trừ trường hợp đặc biệt do Thủ Tướng Chính Phủ quyết định. Góp vốn, mua cổ phần (điều 33 LNHNNVN): NHNN không được góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng và doanh nghiệp khác. Đối với việc hoạch định và thực thi Chính sách tiền tệ: Luật quy định rõ khái niệm chính sách tiền tệ quốc gia để làm cơ sở xây dựng thẩm quyền của các cơ quan (Quốc hội, Chính phủ, NHNN) đối với chính sách tiền tệ. Theo đó, chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Về thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, Luật cụ thể hóa được vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc quyết định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ. Cụ thể là: Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng; Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm; Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ. Thẩm quyền cụ thể của NHNN trong việc thực thi chính sách tiền tệ: Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Về công cụ lãi suất, Luật đã quy định lãi suất điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất cơ bản để chống cho vay nặng lãi, vừa đảm bảo để NHNN điều hành, thực thi chính sách tiền tệ, vừa có cơ sở để áp dụng quy định của các luật liên quan như Luật Dân sự, Hình sự, Lao động, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước… Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để NHNN thay đổi nội hàm lãi suất cơ bản theo hướng lãi suất cơ bản không phải là cơ sở để các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh mà làm cơ sở cho việc phòng, chống cho vay nặng lãi trong nền kinh tế. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các TCTD với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác. Theo quy định của Luật này, NHNN quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá. Thẩm quyền của NHNN trong thực thi chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá trị đồng tiền đã được nâng cao hơn. Bên cạnh đó, NHNN tổ chức hệ thống thống kê, dự báo về tiền tệ và ngân hàng; công khai thông tin về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo qui định của pháp luật; chủ trì lập, theo dõi, dự báo và phân tích kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế; NHNN tham gia với Bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh; Thống đốc NHNN có quyền thành lập các ban, hội đồng tư vấn về các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của NHNN; Hoạt động của NHNN được qui định rộng hơn trong trường hợp cho vay đặc biệt đảm bảo có thể can thiệp sớm hơn, hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng… Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối : Nhiệm vụ quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối của NHNN đã qui định tại khoản 17 Điều 4 và mục 5 trong phần các hoạt động của NHNN trong LNHNN 2010, chính điều này càng thể hiện chức năng của NHNN trong việc vai trò quản lý của nhà nước thông qua các nghiệp vụ ngân hàng trung ương. Như chúng ta đã biết quản lý ngoại hối là hoạt động rất nhạy cảm đối với hoạt động của nền kinh tế, với chức năng kiểm soát lượng tiền lưu thông trong xã hội cùng việc bảo đảm cán cân thương mại. NHNN cần kiểm soát chặt chẽ ngoại hối và hoạt động ngoại hối nhằm có sự điều chỉnh phù hợp khi có sự biến động trên thị trường ngoại hối.Với chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nhà nước, NHNN có những thầm quyền nhất định đề thực hiện nhiệm vụ của mình như tồ chức và phát triền thị trường ngoại tệ nhằm mở rộng thị trường trao đổi ngoại tệ thích hợp xu hướng mở cửa hội nhập của nước ta. Bên cạnh đó để đảm bảo cho an ninh tài chinh, tiền tệ Quốc gia, NHNN luôn phải theo sát tình hình hoạt động để có thể trình Chính Phủ quyết định biện pháp hạn chế giao dịch ngoại hối. Nhằm tạo sự vận hành thuận lợi cho hệ thống các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác thực hiện hoạt động ngoại hối, NHNN chịu trách nhiệm trong việc cấp phát, thu hồi giấy phép hoạt động của các tổ chức này. Nhiệm vụ này bắt buộc NHNN phải có những hoạt động thanh tra, giám sát nhằm có những biện pháp khắc phục kịp thời cũng như ngăn chặn được những khó khăn xảy ra đối với các tổ chức trên. Ngoài ra, NHNN thực hiện quản lý dự trữ ngoại hối Quốc Gia, so với Luật NHNN năm 2003, luật năm 2010 mở rộng thêm về dự trữ ngoại hối Quốc Gia bao gồm thêm quyền rút vốn đặc biệt, dự trữ tại Qũy tiền tệ quốc tế. Với chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế và bảo toàn dự trữ ngoại hối quốc gia phòng trừ khi xảy ra những nhà nước có những nhu cầu cấp bách. Trước đây, NHNN phải báo cáo tình hình hoạt động trước Thủ tướng Chính phủ và UBTVQH nhưng hiện nay chỉ phài báo cáo trước Thủ tướng Chính phủ. Qui định có thấy sự thống nhất trong cơ cấu quản lý, tạo thuân lợi trong việc quy trách nhiệm nếu có sai sót trong quá trình quản lý của NHNN vì thực tế NHNN là cơ quan ngang bộ của Chính Phủ theo Điều 2 LNHNN 2010.Bộ tài chính là cơ quan thực hiện việc kiểm tra quản lý dự trự ngoại hối nhà nước do NHNN thực hiện theo qui định của pháp luật tạo thuận lợi trong quá trình kiểm tra Bộ tài chính có thể đóng góp ý kiến để NHNN hoàn thành nhiệm vụ được giao. Song song với chức năng quản lý, NHNN còn tham gia vào việc mua bán ngoại hối ở thị trường trong và ngoài nước thông qua các nghiệp vụ của ngân hàng Trung ương theo qui định của Thủ tướng Chinh phủ. Với mục tiêu bảo đảm cho chính sách tiền tệ quốc gia vận hành hiệu quả, một trong những nhiệm vụ chính của NHNN. Hoạt động thông tin báo cáo: Những qui đinh về các hoạt động thông tin báo cáo được thể hiện tại mục 6 phần các hoạt động của NHNN theo LNHNN năm 2010, gồm 7 điều từ điều 33 đến điều 41. Với nội dung thể hiện trong các điều luật thì trách nhiệm cung cấp các thông tin, dữ liệu thuộc về các cá nhân, tổ chức và các tổ chức tín dụng, những chủ thể thực hiện các chính sách tiền tệ do NHNN điều hành. Là các đối tượng trực tiếp chịu sự thanh tra, kiểm tra, đánh giá của NHNN nên trách nhiệm báo cáo kịp thời, chính xác, nhanh chóng và trung thực các thông tin quan trọng cho NHNN phục vụ cho công tác thống kê, phân tích, dự báo giúp bảo đảm cho chính sách tiển tệ quốc gia và công tác quản lý ngoại hối phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường tiền tệ. Với sự biến động liên tục nên những thông tin được cung cấp tạo thuận lợi cho hoạt động dự báo tình hình thay đối trên thị trường tiển tệ, kiểm soát được lượng tiền ngoại tệ và nội tệ lưu thông trong nền kinh tế. Bảo đảm cán cân thanh toán và yêu cầu xây dưng Bảng cân đổi tiền tệ. Bên canh trách nhiệm của các tổ chức tín dụng thì NHNN cũng thực hiện các nhiệm vụ của mình về hoạt động thông tin. Với chức năng quản lý của mình NHNN là tổ chức thu nhận thông tin từ phía các tổ chức tín dụng và các tổ chức liên quan và sử dụng các nguồn này vào công tác xây dựng chính sách. Đồng thời, NHNN cũng đảm nhiệm luôn vai trò lưu trữ, cung cấp và công bố thông tin công khai theo thầm quyền cho tất cả mọi chủ thể trong nển kinh tế nắm bắt kịp thời mọi chủ trương chính sách, tạo sự phối hợp nhịp nhàng giữa Nhà nước và các đối tượng chịu sự điều chỉnh của các chính sách, chủ trương. Để đảm bảo độ tin cậy cho những thông tin quan trọng vể lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng của Nhà nước, NHNN có quyền từ chối yêu cầu cung cấp thông tin của tổ chức, cá nhân trừ trường hợp theo yêu cầu cuả cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì lĩnh vực tiền tệ ngân hàng là lĩnh vực có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế nên việc giữ bí mật thông tin cuả các tổ chức tín dụng, bí mật tiền gửi của tổ chức, cá nhân theo pháp luật là rất quan trọng. Nó tạo sự ổn định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Cán bộ, công chức NHNN phải giữ bí mật thông tin hoạt động nghiệp vụ của NHNN. Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách của nhà nước nhằm phát kinh tế đất nước do vậy các hoạt động phục vụ cho chính sách cần được giám sát chặt chẽ bởi Quốc hội, UBTVQH cùng các cơ quan khác của Quốc hội. Thủ tướng chính phủ báo cáo hoặc ủy quyển cho Thống đốc NHNN báo cáo theo định kì 06 tháng và hẳng năm. Theo LNHNN 2010 trách nhiệm và quyền cuả NHNN được qui định rõ ràng và tách bạch và phạm vi của sự giám sát trong quá trình hoạt động. Thêm vào đó, hoạt động xuất bản các ấn phẩm vể tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật,tạo điều kiện cho thông tin trong hoạt động tiền tệ phổ biến đến tất cả mọi đối tượng trong xã hội. Càng thể hiện sự công khai trong chế độ quản lý tiền tệ của NHNN. Và đây cũng chính là điểm mới so với LNHNN 2003. Các hoạt động khác: Tài chính, hạch toán, kế toán và báo cáo của ngân hàng nhà nước NHNN là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước vì vậy chế độ tài chính là độc lập, hạch toán độc lập. Vì đây là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện nên phải thõa mãn mức vốn pháp định do Thủ tướng chính phủ quyết định. Ngoài vốn pháp định, NHNN còn được Nhà nước giao các loại tài sản khác, được lập từ chênh lệch thu chi nhằm thực hiện chính sách tiển tệ quốc gia. Do nguồn vốn của NHNN do ngân sách nhà nước cấp nên kết quả tài chính cuả NHNN sau khi trích lập các quỹ từ kết quả tài chinh hằng năm được nộp ngân sach nhà nước. Theo Điều 45 LNHNN 2010 các quỹ được lập tử kết quả tài chính năm bao gồm : Qũy thực hiện tài chính chính sách tiền tệ quốc gia. Qũy dự phòng quốc gia. Qũy khác do Thủ tướng chính phủ quyết định. Với chế độ thu,chi tài chính thực hiện theo qui định cuả Luật ngân sách nhà nước. Do đó Thủ tướng chính phủ qui định nội dung thu chi tài chinh phù hợp với hoạt động nghiệp vụ đặc thù của NHNN. Kết quả tài chính cuả NHNN được xác định bằng các nguồn thu từ hoạt động nghiệp vụ ngân hàng và các nguồn thu khác, sau khi trừ các nguồn chi hoạt động và các khoản dự phòng khác. Nguyên tắc này tuân thủ theo qui định tại Điều 44 LNHNN 2010. Các khoản thu chi tài chính của NHNN phù hợp với nội dung thu chi được qui định thực hiện hạch toán theo chuẩn mực kế toán của Việt Nam và chế độ kế toán đặc thù của NHTW theo qui định của Thủ tướng chính phủ. Do hoạt động cuả NHNN là hoạt động đặc thù trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng nên chế độ hạch toán của nó cũng cần có những đặc thù riêng để phù hợp với hạch toán chính xác, nhằm phản ảnh đúng khả năng hoạt động của NHNN. Nhằm tránh thất thoát ngân sách nhà nước trong quá trình thực hiện quản lý chức năng của nhà nước cũng như thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng trung ương. Thông qua chế độ thu chi tài chính cũng như hạch toán tài chính, Nhà nước đã sử dụng chế độ kiểm toán báo cáo tài chính hằng năm để xác nhận các khoản thu chi tài chính trong năm tài chính của NHNN bắt đầu từ 01 tháng 01 kết thúc ngày 31 tháng 12 năm dương lịch là hợp lý và chính xác hay không. So với LNHNN 2003, Luật NHNN năm 2010 đã cụ thể nhiều vấn đề về thu chi, hạch toán cũng như kiểm toán tài chính trong hoạt động của NHNN. Thanh tra ngân hàng, tổng kiểm tra của ngân hàng nhà nước: Để có những hành động kịp thời trước sự biến động của nền kinh tế, Nhà nước cần chủ động các hoạt động thanh tra, giám sát nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng… Đó là những mục đích của thanh tra, giám sát ngân hàng qui định tại điều 50 luat NHNN năm 2010. Tạo điều kiện trong hoạt động thanh tra đáp ứng được những yêu cầu đề ra thì khi tiến hành phải tuân theo các nguyên tắc tại điều 51 luật NHNN năm 2010 để việc thực hiện quá trình thanh tra mang lại hiệu quả thiết thực. Trình tự, thủ tục thanh tra giám sát ngân hàng do Thống đốc ngân hàng nhà nước qui định. Sự phối hợp giữa NHNN và các bộ, ngành liên quan trong hoat động thanh tra giúp quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước được thể hiện rõ ràng, tạo sự chặt chẽ trong tiến trình thực hiện rà soát các hoạt động thanh tra. Để thực hiện quyền quản lý nhà nước của NHNN đối với lĩnh vực tiền tệ -ngân hàng, các cơ quan thanh tra qui định tại điều 49 luật NHNN năm 2010 ra quyết định thanh tra khi có các căn cứ qui định tại điều 54 đó là : Chương trình, kế hoạch thanh tra. Yêu cầu của Thống đốc NHNN. Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Khi có dấu hiệu rủi ro đe dọa sự an toàn hoạt động của tồ chức tín dụng. Với những căn cứ này các cơ quan thanh tra, giám sát kịp thời có thể đưa ra những khuyến nghị để các đối tượng bị thanh tra, giám sát điều chình phù hợp tình hoạt động. Bên canh đó, khi phát hiện vi phạm hoặc nhận thấy các rủi ro, NHNN có thể đưa ra các biện pháp xử lý đối với đối tượng thanh tra để hạn chế mức độ rủi ro có thể xảy ra. Tóm lại, hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN đã góp phần giảm đi tác hại của những rủi ro đối với hoạt động ngân hàng, giúp các cơ quan nhà nước nắm bắt kịp tình hình của thị trường tiền tệ, để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia hiệu quả hơn. CHƯƠNG IV: ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA NHNNVN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. Thực trạng hoạt động của NHNN: Những ngày gần đây, câu chuyện được bàn tán nhiều nhất trên các mặt báo có lẽ chính là những bất ổn thể hiện rõ trong chính sách vĩ mô của các nền kinh tế. Bước qua thời kì tồi tệ nhất của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, các nền kinh tế lớn đang tập trung vào việc tái cơ cấu lại nội bộ nền kinh tế một cách mạnh mẽ. Đó là sự lựa chọn tất yếu sau sự đe dọa sụp đổ hàng loạt các định chế tài chính lớn trên thế giới, khởi nguồn từ các yếu kém trong bên trong, non nớt chưa đủ sức thích nghi với sức mạnh của xu thế toàn cầu hóa. Động thái của các ngân hàng trung ương lớn cố gắng hạ giá đồng tiền để kích thích tăng trưởng đang dấy lên nguy cơ cho một cuộc “chiến tranh tiền tệ” mà hậu quả có lẽ khó lường trước được. Thị trường hoảng loạn tìm nơi lưu giữ giá trị trước sự mất giá của các đồng tiền lớn. Giá vàng nhảy múa, lạm phát tăng, thất nghiệp đe dọa. Bức tranh kinh tế toàn cầu vẫn còn chưa tươi sáng. Những bất ổn toàn cầu như làm khó thêm nền kinh tế non nớt của nước ta. Vấn đề thâm hụt ngân sách tăng cao hơn kiểm soát là hậu quả của các gói kích cầu, tăng chi tiêu và đầu tư công của năm 2009. Các định chế tài chính lớn đã lên tiếng cảnh báo Việt Nam, niềm tin dần mất đi đối với tiền Đồng. Trong khi USD đang mất giá trên thế giới thì tại Việt Nam, sức cầu ở thị trường tự do đẩy tỉ giá lên cao ngất ngưởng. NHNN vừa mới quyết định bán Đôla ra thị trường nhằm bình ổn giá nhưng có vẻ như hạt muối bỏ biển. Dự trữ ngoại hối của Viện Nam xuống thấp trong thời điểm gần cuối năm là lúc cần nhập các mặt hàng phục vụ nhu cầu mua sắm mang tính chu kỳ. Người dân lo sợ lạm phát ra sức tích trữ vàng và Đôla, một lượng lớn vàng và Đôla theo đó thoát khỏi sự lưu thông làm tăng sức ép lên thị trường ngày một méo mó thêm. Các dòng tài chính trong nước như đang chững lại do hoạt động không hiệu quả, nền kinh tế tưởng như rất mong manh. Chính phủ nước ta đang cố gắng mọi mặt, phải giữa ổn định giá cả thị trường, lãi suất, kiềm chế lạm phát nhưng cố không để nền kinh tế trở lại suy thoái. Có ổn định thì mới có tiết kiệm, có đầu tư và có tăng trưởng. Có vẻ mọi việc đang dần trở nên phức tạp hơn và chưa thấy được lối ra rõ ràng. Có lẽ cuối cùng, khi chuyện xấu nhất xảy ra, dân nghèo sẽ là những người chịu đựng những mất mát lớn nhất từ chính sự lạm phát, cán cân công bằng mà luật pháp cố duy trì trong xã hội sẽ càng nghiêng hơn nữa. Có nhiều ý kiến của các chuyên gia cho rằng, những khó khăn hiện tại của nước ta là xuất phát từ chính sự yếu kém về mặt quản lý. Nó tiềm ẩn ngay từ những năm kinh tế tăng trưởng nóng 2006-2007, khi đó chính phủ ra sức theo đuổi mục tiêu phát triển kinh tế nhanh mà quên mất đi sự chú trọng vào phát triển bền vững. Những chính sách vĩ mô, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ do chính phủ thực hiện một cách quá lỏng lẻo đã gây nên sự tăng trưởng nóng đó. Về mặt lý luận, tăng trưởng và duy trì ổn định phải ở một mức độ vừa phải và không một lúc có thể đạt được cả hai một cách tuyệt đối. Lấy ví dụ ở nước Mỹ, Tổng thống là người trực tiếp thực hiện các biện pháp để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Khi tổng thống tạo được tăng trưởng cao nhưng có thể dẫn tới lạm phát, cục dự trữ liên bang Mỹ sẽ quyết định tăng lãi suất để hạn chế kinh doanh, giúp tránh lạm phát đồng thời làm tăng trưởng chậm lại. Đó chính là sự đánh đổi giữa tăng trưởng và ổn định bằng cách phân chia trách nhiệm kiểm soát cho hai cơ quan độc lập với nhau và kìm hãm lẫn nhau. Quay trở lại Việt Nam, có ý kiến cho rằng chính vì Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam như một công cụ nằm trong tay chính phủ, mất đi sự độc lập tương đối do đó không có điều kiện thực hiện tốt các chức năng như một NHTW đúng nghĩa theo thông lệ thế giới. Bất cập xảy ra là Ngân hàng Nhà nước không được độc lập hoạch định, thực thi chính sách tiền tệ, lại có thể bị can thiệp, chi phối bởi các chính sách khác của Chính phủ. Đôi khi, Ngân hàng Nhà nước còn đóng vai trò là cơ quan tài chính thứ hai của Chính phủ sau Bộ Tài chính, phải tài trợ cho các dự án lớn. Gây nên sự bội chi ngân sách, quản lý kém trong đầu tư, không sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Dẫu sao, một vấn đề luôn có hai mặt, cái tốt của mô hình trên nằm ở chỗ Chính phủ có thể nhanh chóng điều khiển và phối hợp NHNN cùng với các cơ quan khác để linh hoạt trong việc quản lý quốc gia. Vậy mức độ độc lập, địa vị pháp lý và chức năng NHNN nên quy định như thế nào là hợp lý? Nên hay không tách NHNN ra khỏi chính phủ, điều đó vẫn còn nhiều quan điểm… Tính độc lập của NHTW: Nếu hệ thống ngân hàng được ví là huyết mạch thì Ngân hàng Trung ương (NHTW) chính là trái tim của nền kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khi có một NHTW thực hiện tốt chức năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ở bất kỳ quốc gia nào, NHTW cũng đều đóng vai trò đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Hiện nay, trên thế giới có 3 mô hình NHTW phổ biến là NHTW trực thuộc Quốc hội, NHTW trực thuộc Chính phủ và NHTW nằm trong Bộ Tài chính. Mặc dù vậy, tính chất hoạt động của NHTW ở các nước đều có xu hướng hội tụ đồng nhất là về mục tiêu hoạt động chủ yếu của NHTW là ổn định giá cả và NHTW tương đối độc lập với Chính phủ. Sự độc lập của Ngân hàng Trung ương để hoạt động hiệu quả bao gồm tính độc lập về chức năng, độc lập về mặt tổ chức, độc lập về mặt nhân sự và độc lập về tài chính. -Tính độc lập về chức năng nghĩa là Ngân hàng Trung ương độc lập trong việc theo đuổi các mục tiêu của chính sách tiền tệ và trong việc thực thi cụ thể các chính sách tiền tệ theo hướng ổn định giá trị đồng tiền cũng như trong việc thực hiện các chức năng của Ngân hàng Trung ương như ngân hàng của các ngân hàng. Tuy nhiên, Ngân hàng Trung ương có nhiệm vụ hỗ trợ Chính phủ trong việc theo đuổi các mục tiêu chính sách kinh tế chừng nào việc này không mâu thuẫn với những mục tiêu đích thực của chính sách tiền tệ. -Tính độc lập về mặt tổ chức có nghĩa là cần xác định vị thế pháp lý của Ngân hàng Trung ương độc lập so với các tổ chức Nhà nước khác. Ngân hàng Trung ương được quyền quyết định cơ cấu tổ chức, bộ máy phù hợp với chức năng nhiệm vụ của mình được quy định trong luật. - Độc lập về mặt nhân sự thể hiện sự độc lập của lãnh đạo Ngân hàng Trung ương trước những chỉ đạo của các tổ chức chính trị cấp trên trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Lãnh đạo của Ngân hàng Trung ương có sự kiên định trong việc thực thi chính sách tiền tệ mà không bị phụ thuộc vào một áp lực nào. -Ngân hàng Trung ương phải có chế độ tài chính riêng theo nghĩa hoạt động tài chính độc lập để phù hợp với đặc thù hoạt động ngân hàng. Chế độ tài chính độc lập của Ngân hàng Trung ương độc lập ngay cả với ngân sách nhà nước phải được quy định rõ ràng trong luật ngân hàng để đảm bảo cho việc thực hiện chế độ tài chính độc lập của Ngân hàng Trung ương sẽ trái ngược với các quy định trong luật khác như Luật Ngân sách. Theo một nghiên cứu được Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố vào tháng 12/2004, về cơ bản, các NHTW trên thế giới được phân thành 4 cấp độ độc lập tự chủ gồm: - Thứ nhất, độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động: Với mô hình này, NHTW có trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ (CSTT), chế độ tỷ giá (nếu không theo chế độ thả nổi tỷ giá) và có quyền quyết định mục tiêu hoạt động chủ yếu trong số các mục tiêu đã được pháp luật quy định. Đây là cấp độ độc lập tự chủ cao nhất mà một NHTW có thể đạt được mà ví dụ điển hình là Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Tuy nhiên, đây cũng chính là cấp độ độc lập tự chủ khó vận dụng nhất, vì nó đòi hỏi NHTW phải có uy tín cao và năng lực thực thi rất tốt thì mới có thể biến mục tiêu hành hiện thực, nhất là trong giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ (CSTT) thắt chặt. Bên cạnh đó, cấp độ độc lập tự chủ này cũng đòi hỏi NHTW có khả năng dự báo chuẩn xác trên cơ sở các thống kê kinh tế- tài chính, vì chỉ có như vậy thì NHTW mới có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. - Thứ hai, độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động: Ở cấp độ này này, NHTW cũng được trao trách nhiệm quyết định CSTT và chế độ tỷ giá nhưng khác với cấp độ độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động ở chỗ một mục tiêu hoạt động chủ yếu của NHTW được quy định cụ thể trong Luật, ví dụ như mục tiêu hoạt động hàng đầu của NHTW Châu Âu (ECB) là “duy trì sự ổn định  giá cả”. - Thứ ba, độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành: Với mô hình này, Chính phủ hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu CSTT sau khi thảo luận, thỏa thuận với NHTW. Khi quyết định được thông qua, NHTW có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu trên cơ sở được trao đủ thẩm quyền cần thiết để có thể toàn quyền lựa chọn những công cụ điều hành CSTT phù hợp nhất. Tiêu biểu cho cấp độ độc lập tự chủ này là Ngân hàng Dự trữ New Zealand (The Reserve Bank of New Zealand) và Ngân hàng Canada (The Bank of Canada). Nói cách khác, NHTW được trao đủ thẩm quyền để lựa chọn các công cụ điều hành một cách linh hoạt và phù hợp nhất nhằm đạt được các chỉ tiêu đã được thoả thuận giữa Chính phủ/Quốc hội với NHTW.  - Thứ tư, độc lập tự chủ hạn chế: Là cấp độ độc lập tự chủ thấp nhất, theo đó Chính phủ là nơi quyết định chính sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá trình triển khai thực thi CSTT. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHTW, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Đây chính là trường hợp của NHNN Việt Nam hiện nay và trên thực tế thì mức độ độc lập tự chủ này đã bắt đầu bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập. Các tiêu chí hoàn thiện NHNN: Trong các mức độ độc lập được IMF nêu, mức “độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành” tỏ ra phù hợp nhất với NHNN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như trong nhiều năm tới, đặc biệt là trong bối cảnh việc điều hành CSTT ở nước ta đã từng bước được đổi mới theo nguyên tắc thị trường, dần loại bỏ các công cụ trực tiếp và sử dụng các cụng cụ gián tiếp. Hơn nữa, mức độ độc lập tự chủ này cho phép dung hoà giữa mục tiêu của CSTT với các mục tiêu của chính sách kinh tế trong một giai đoạn nhất định. Một số ý kiến cho rằng, nâng cao vị thế, vai trò độc lập của NHTƯ không hoàn toàn đồng nghĩa với việc tách NHTƯ ra khỏi bộ máy của Chính phủ. Ý kiến này không phải là không có cơ sở thực tế, chẳng hạn như trường hợp của Trung Quốc. Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (dưới sự lãnh đạo của Quốc vụ viện) thiết lập và thực thi chính sách tiền tệ, thực hiện thanh tra và kiểm soát toàn bộ hoạt động ngân hàng. Mục tiêu của chính sách tiền tệ là duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng Nhân dân Trung quốc dưới sự lãnh đạo của Quốc vụ viện thực hiện độc lập chính sách tiền tệ, thực hiện các chức năng, hoạt động của mình theo pháp luật không có sự can thiệp của chính quyền các cấp địa phương, hoặc các tổ chức hành chính khác ở tất cả các cấp, các tổ chức Nhà nước hoặc tư nhân. Như vậy, Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không chỉ độc lập trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ mà còn độc lập trong toàn bộ chức năng và hoạt động của mình. Với đặc điểm văn hoá, tập quán ứng xử của người Việt Nam, nếu Ngân hàng Nhà nước vẫn là cơ quan của Chính phủ thì khó tránh khỏi những chi phối quá mức của Chính phủ, thậm chí là từ các cơ quan ngang cấp khác trong Chính phủ, điều này có thể dẫn đến việc đưa ra những quyết định không phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ, không chuyên hóa chức năng. Vì vậy, mô hình Ngân hàng Nhà nước là cơ quan trực thuộc Quốc hội, chịu sự giám sát, kiểm tra của Quốc hội có lẽ phù hợp và thuận tiện hơn cho việc phát huy vai trò độc lập của Ngân hàng Nhà nước.Tuy nhiên cũng cần tránh khuynh hướng cho rằng, nâng cao vai trò độc lập của NHTW nghĩa là NHTW thoát ly hoàn toàn khỏi Chính phủ. Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ và cũng là mục tiêu hoạt động của NHTW là ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần thiết lập các quy định pháp lý về mối quan hệ giữa NHTW với Chính phủ nhằm bảo đảm hoạt động của NHTW hỗ trợ tốt cho các chương trình kinh tế của Chính phủ. Theo đó, để đảm bảo NHNN là một NHTW đúng nghĩa với sự độc lập riêng cũng như phối hợp linh hoạt với các cơ quan khác cần thực hiện theo hướng sau: Nâng cao tính độc lập, khả năng hoạt động độc lập của NHNN: Ngăn chính phủ biến NHNN thành công cụ thực hiện chính sách tiền tệ vì mục đích riêng cho bộ máy bằng cách tác động quá sâu đến khả năng cung tiền, khả năng cho vay của NHNN đối với nền kinh tế. Phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ và NHNN trong quá trình hoạch định và thực thi CSTT mà theo đó, đề nghị cơ quan nhà nước các cấp sửa đổi Luật NHNN để nâng cao vị thế pháp lý, tính độc lập của NHNN, trước hết coi NHNN là NHTW, cụ thể là: Được bổ sung vốn điều lệ; chủ động xây dựng, tổ chức điều hành CSTT; chịu trách nhiệm điều hành cung ứng tiền theo mục tiêu đã được Quốc hội quyết định; tăng cường nhiệm vụ giám sát, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. Cấu trúc lại NHNN theo mô hình quản lý tập trung, gọn nhẹ, hiệu quả, phù hợp với chức năng của NHTW, với những nghiệp vụ cơ bản là: Hoạch định và điều hành CSTT; tổ chức và quản lý hệ thống thanh toán và nghiệp vụ phát hành kho quỹ. Thu gọn các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố để thành lập các chi nhánh khu vực; giảm bớt nhiệm vụ về quản lý nhà nước như tín dụng chính sách ưu đãi, xử lý nợ cho vay của TCTD, ban hành văn bản liên quan đến cơ chế tín dụng thương mại của TCTD. Xây dựng đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và trung thành và chân chính. Tránh tình trạng các nhân viên này lợi dụng chức vụ mà kiếm lợi, tiết lộ thông tin, hay cậy thế mà sách nhiễu người dân. Theo đó, NHNN phải có những chính sách đãi ngộ nhất định và tạo cơ hội cho nhân viên học tập, nâng cao nghiệp vụ, tác phong nghề nghiệp, cách thức quản lý. Xây dựng hệ thống thông tin kinh tế, tiền tệ hiện đại theo hướng minh bạch hóa tiện cho việc giám sát quản lý. Xây dựng hệ thống các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế và nợ nước ngoài theo thông lệ và cam kết quốc tế. Nâng cao chất lượng, tính cập nhật hệ thống báo cáo thống kê của NHNN đảm bảo nắm chính xác, kịp thời các diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ ở trong và ngoài nước để điều chỉnh thích hợp CSTT. Hoàn thiện hệ thống thu thập thông tin tiền tệ nội ngành và kết nối với các tổ chức, Bộ, ngành khác để mở rộng bảng cân đối tiền tệ của NHNN, bao gồm cả hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính khác, làm cho việc điều tiết tiền tệ phù hợp với cung - cầu vốn thị trường. Nâng cao chất lượng thông tin, báo cáo, thống kê ngân hàng bằng việc kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ thống kê ngân hàng; hoàn thiện các chỉ tiêu thống kê ngân hàng trong chỉ tiêu quốc gia; xây dựng danh mục và phân loại danh mục dịch vụ, báo cáo thống kê ngân hàng theo chuẩn mực quốc gia phù hợp với chuẩn mực quốc tế và khu vực. Xây dựng và bảo đảm an toàn, bảo mật các dữ liệu, thông tin và hệ thống trang thiết bị thông tin ngân hàng. Chủ động và độc lập việc tổ chức điều tra định kỳ, theo đợt để đưa ra các báo cáo về thị trường tài chính, tiền tệ, xây dựng cán cân thanh toán làm cơ sở cho việc dự báo kinh tế vĩ mô, tiền tệ. Từng bước công khai hoá thông tin, trao đổi các dịch vụ thông tin phù hợp với quy định của Nhà nước Xây dựng hệ thống hiện đại về giám sát, cảnh báo sớm và xử lý các sự cố về hoạt động ngân hàng. Cấu trúc lại mô hình tổ chức và chức năng hệ thống thanh tra theo chiều dọc; ban hành quy định về thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro; thiết lập hệ thống giám sát từ xa tập trung, xây dựng hệ thống cảnh bảo sớm cho các TCTD, nhất là về tỷ giá, lãi suất, tăng trưởng và chất lượng tín dụng; triển khai thực hiện các quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả tại TCTD; hoàn thiện quy định về an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế; ứng dụng công nghệ hiện đại trong công tác thanh tra, giám sát từ xa, phòng ngừa rủi ro. Phát triển đồng bộ các bộ phận của thị trường tiền tệ: cần có quy mô đủ lớn, phản ánh đúng cung - cầu vốn thị trường để NHNN có thông tin chính xác, tác động kịp thời đối với TTTT, là cơ sở hạ tầng để việc chuyền dẫn CSTT có hiệu quả đối với nền kinh tế. Cần phải đa dạng và chuẩn hoá các công cụ nợ trên thị trường; các bộ phận của thị trường tài chính tiền tệ cần vận hành đúng nguyên tắc thị trường; phát triển thị trường liên ngân hàng, thị trường ngoại hối; thiết lập cho được các loại lãi suất chuẩn và đường cong lãi suất để NHNN có công cụ điều tiết thích hợp. ÏÏ HẾTÒÒ Văn bản pháp luật: Sắc lệnh số 15/SL - Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành ngày 06/05/1951 thành lập ngân hàng đầu tiên của nhà nước Việt Nam. Nghị định 171/CP – Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 26/10/1961 về tổ chức hoạt động ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Nghị định 63/NĐ – CP – ban hành ngày 16/06/1977 quy định cơ cấu tổ chức và bộ máy của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Quyết đinh số 172 – Chính phủ ra quyết định ngày 09/10/1987 quy định chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nghị định số 53/HĐBT – Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành ngày 26/03/1988 quy định về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và pháp lẹnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng, Công ty tài chính - được Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 23/05/1990. Luật Ngân hàng Nhà nước và luật các Tổ chức tín dụng – Quốc hội ban hành ngày 12/12/1997. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2003 – do Quốc hội ban hành ngày17/06/2003 nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Ngân Hàng Nhà nước 1997. Bộ luật dân sự Việt Nam 2005- Quốc hội ban hành ngày 27/06/2005. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 – Quốc hội ban hành ngày 29/06/2010, hiệu lức thi hành từ 01/01/2011. Giáo trình-Bài báo khoa học: Chủ biên TS. Võ Đình Toàn - Giáo trinh Luật Ngân hàng – trường Đại học Luật Hà Nội – NXB Công An nhân dân Hà Nội 2007. Tập thể tác giả - Giáo trình Luật Ngân hàng – trường Đại học Luật TPHCM Tập thể tác giả - Giáo trình luật hành chính – trường Đại học Luật Hà Nội (trang 31-32). Tác giả Nguyễn Hoài-Tuấn Linh - Bài viết: “Sửa đổi luật Ngân hàng Nhà nước: giao quyền nhưng phải đủ tầm”. Tác giả TS.Nguyễn Văn Tuyến, trường Đại học Luật Hà Nội – Sách tham khảo “Dự thảo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Tác giả Hồng Phúc – Bài viết: “Để Ngân hàng Nhà nước làm đúng vai trò” Tác giả Doãn Hữu Tuệ (Viện chiến lược Ngân hàng-Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) - Bài viết: “Mô hình nào cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Tác giả PGS-TS.Nguyễn Văn Luân – Sách tham khảo “Các nguyên lý tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – NXB ĐHQG 2008. Tác giả Vũ Thế Vậc (Vụ trưởng NHNNVN) – Bài viết “Xây dựng địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để trở thành một Ngân hàng Trung ương hiện đại” (Số chuyên đề)  (14/02/2006) Tác giả TS.Lê Xuân Nghĩa (Vụ trưởng NHNNVN) – Bài viết “Tính độc lập của ngân hàng Trung ương – một nền tảng quan trọng cho hoạt động của ngân hàng trung ương hiện đại” (Số chuyên đề) (14/02/2006) Tác giả PGS.TS Nguyễn Đình Tự - Báo điện tử văn hóa Doanh nhân-Bài viết “Ngành ngân hàng Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO- kết quả và những vấn đề đặt ra” (kỳ I) (06/11/1010). Tác giả TS. Nguyễn Văn Giàu (Ủy viên BCT Trung ương Đảng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN) - Bài viết “Hoạt động ngân hàng Việt nam thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát và góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế” (Số 1+2/2009)  (10/02/2009) Đường link trang web: file:///D:/tai%20lieu/luat%20ngan%20hang/278399-l%E1%BB%8Bch-s%E1%BB%AD-h%C3%ACnh-th%C3%A0nh-v%E1%BB%8B-tr%C3%AD-ph%C3%A1p-l%C3%BD-t%C6%B0-c%C3%A1ch-ph%C3%A1p-nh%C3%A2n-v%C3%A0-ch%E1%BB%A9c.htm file:///D:/tai%20lieu/luat%20ngan%20hang/433202.htm www.saga.vn/Upload/dangquangn/NHTW.pdf www.saga.vn/Upload/dangquangn/NHTW.pdf+Tr%E1%BB%A5+s%E1%BB%9F+Ng%C3%A2n+h%C3%A0ng+trung+%C6%B0%C6%A1ng+l%E1%BA%A1i+%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c+%C4%91%E1%BA%B7t+%E1%BB%9F+th%C3%A0nh+ph%E1%BB%91+Frankfurt ""&HYPERLINK ""_dad=portalHYPERLINK ""&HYPERLINK ""_schema=PORTALHYPERLINK ""&HYPERLINK ""pers_id=297108HYPERLINK ""&HYPERLINK ""item_id=30936592HYPERLINK ""&HYPERLINK ""p_details=1 ""&HYPERLINK ""WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/sbv_vn/sbv_vn/vn.sbv.print/vn.sbv.printing.magazine/vmtCITIcYYV0U2nvmdnjeBl2010-01-11-06-19-19

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doclu3.doc
Tài liệu liên quan