LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11-1-2007 là một dấu mốc hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Ngay sau khi gia nhập WTO, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế. Ðể thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành điều chỉnh chính sách thương mại theo hướng minh bạch và thông thoáng hơn, ban hành nhiều luật và các văn bản dưới luật để thực hiện các cam kết đa phương, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập.
Mặc dù chúng ta đã thực hiện nhiều cải cách về thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nhiều vấn đề còn cần được tiếp tục xem xét như việc liên kết doanh nghiệp và Chính phủ trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế; phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện chính sách; và cách thức vận dụng các công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách thương mại quốc tế phải được hoàn thiện để vừa phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế hiện hành của thế giới, vừa phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam.
Vì vậy, việc xem xét và điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc góp phần đưa Việt Nam hội nhập thành công và đạt được mục tiêu về cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020.
Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn vấn đề “Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam sau khi gia nhập WTO” làm đề tài nghiên cứu.
Tuy nhiên, do thời gian có hạn, chắc chắn bài viết còn có những thiếu sót nhất định. Kính mong các thầy cô tham gia đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn thiện hơn.
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế 2
1. Khái niệm về Thương mại quốc tế và Chính sách thương mại quốc tế 2
2. Vai trò của chính sách thương mại quốc tế 2
3. Các công cụ chủ yếu của chính sách Thương mại quốc tế 3
4. Những nguyên tắc cơ bản của việc điều chỉnh chính sách Thương mại quốc tế. 4
5. Các dạng chính sách Thương mại quốc tế điển hình 5
Chương 2: Thực trạng chính sách thương mại quốc tế của việt nam sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới 7
1. Thực trạng chính sách TMQT của Việt Nam sau khi gia nhập WTO 7
2. Đánh giá tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong các năm gần đây. 12
2.1. Ưu Điểm 13
2.2. Nhược điểm 14
2.3. Nguyên nhân 15
Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp để hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 16
1. Quan điểm và Định hướng hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 16
2. Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam 17
2.1. Tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch 17
2.2. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế 17
2.3. Tăng cường phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế giữa các bộ ngành và cộng đồng doanh nghiệp 20
Kết luận 21
Danh mục tài liệu tham khảo 22
Mục lục 22
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1772 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điều chỉnh chính sách Thương mại quốc tế của Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11-1-2007 là một dấu mốc hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Ngay sau khi gia nhập WTO, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế. Ðể thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành điều chỉnh chính sách thương mại theo hướng minh bạch và thông thoáng hơn, ban hành nhiều luật và các văn bản dưới luật để thực hiện các cam kết đa phương, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập.
Mặc dù chúng ta đã thực hiện nhiều cải cách về thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nhiều vấn đề còn cần được tiếp tục xem xét như việc liên kết doanh nghiệp và Chính phủ trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế; phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện chính sách; và cách thức vận dụng các công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách thương mại quốc tế phải được hoàn thiện để vừa phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế hiện hành của thế giới, vừa phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam.
Vì vậy, việc xem xét và điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc góp phần đưa Việt Nam hội nhập thành công và đạt được mục tiêu về cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020.
Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn vấn đề “Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam sau khi gia nhập WTO” làm đề tài nghiên cứu.
Tuy nhiên, do thời gian có hạn, chắc chắn bài viết còn có những thiếu sót nhất định. Kính mong các thầy cô tham gia đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Khái niệm về Thương mại quốc tế và Chính sách thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ qua biên giới giữa các quốc gia. Theo nghĩa rộng hơn, thương mại quốc tế bao gồm sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất qua biên giới giữa các quốc gia.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) xem xét thương mại quốc tế bao gồm thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại quyền sở hữu trí tuệ.
Chính sách thương mại quốc tế là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, công cụ và biện pháp do nhà nước sử dụng để điều tiết và quản lý các hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia đó trong một thời gian nhất định.
Vai trò của chính sách thương mại quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế là một bộ phận của chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, có quan hệ chặt chẽ và phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Chính sách TMQT tác động mạnh mẽ đến quá trình tái sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, đến quy mô và phương thức tham gia của nền kinh tế mỗi nước vào phân công lao động quốc tế và thương mại quốc tế.
Chính sách TMQT có vai trò to lớn trong việc khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước, phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ đến quy mô tối ưu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế .
Chính sách TMQT có thể tạo nên các tác động tích cực khi nó có cơ sở khoa học và thực tiễn, tức là nó xuất phát từ các bối cảnh khách quan của nền kinh tế thế giới, chú ý đến đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế trong nước, tuân theo các quy luật khách quan trong sự vận động của các quan hệ kinh tế quốc tế và thường xuyên được bổ sung, hoàn chỉnh phù hợp với những biến đổi mau lẹ của thực tiễn.
Các công cụ chủ yếu của chính sách Thương mại quốc tế
3.1 Hệ thống thuế được xem xét thường bao gồm thuế trực tiếp và thuế gián tiếp. Các vấn đề được xem xét thường bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu theo dòng thuế, mức thuế, cơ cấu tính thuế, thuế theo các ngành, lịch trình cắt giảm thuế theo các chương trình hội nhập. Thuế quan trực tiếp là thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu hay xuất khẩu. Các loại thuế này bao gồm thuế theo số lượng, thuế giá trị và thuế hỗn hợp. Thuế gián tiếp tác động tới thương mại như thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt.
3.2 Các hàng rào phi thuế quan bao gồm trợ cấp xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, các yêu cầu về nội địa hoá, trợ cấp tín dụng xuất khẩu, quy định về mua sắm của chính phủ, các hàng rào hành chính, khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu, khu chế xuất, khu công nghiệp, các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp.
- Trợ cấp xuất khẩu là khoản tiền trả cho một công ty hay một cá nhân đưa hàng ra bán ở nước ngoài. Trợ cấp xuất khẩu có thể theo khối lượng hay theo giá trị.
- Hạn ngạch nhập khẩu là sự hạn chế trực tiếp số lượng hoặc giá trị một số hàng hoá có thể được nhập khẩu. Thông thường những hạn chế này được áp dụng bằng cách cấp giấy phép cho một số công ty hay cá nhân. Hạn ngạch có tác dụng hạn chế tiêu dùng trong nước giống như thuế song nó không mang lại nguồn thu cho chính phủ. Hạn ngạch xuất khẩu thường áp dụng ít hơn hạn ngạch nhập khẩu và thường chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng.
- Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một biến thể của hạn ngạch nhập khẩu. Nó là một hạn ngạch thương mại do phía nước xuất khẩu đặt ra thay vì nước nhập khẩu. Trong khuôn khổ các hiệp định của WTO, các biện pháp phi thuế quan bao gồm các hạn chế định lượng, hàng rào kỹ thuật, các biện pháp baả vệ thương mại tạm thời, các biện pháp quản lý về giá; các biện pháp nhập khẩu.
- Các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá là một quy định đòi hỏi một số bộ phận của hàng hoá cuối cùng phải được sản xuất trong nước. Bộ phận này được cụ thể hoá dưới dạng các đơn vị vật chất hoặc các điều kiện về giá trị.
- Trợ cấp tín dụng xuất khẩu cũng giống như trợ cấp xuất khẩu nhưng dưới hình thức một khoản vay có tính chất trợ cấp dành cho người mua.
- Quy định về mua sắm của chính phủ hay doanh nghiệp có thể hướng việc mua sắm trực tiếp vào các hàng hoá được sản xuất trong nước ngay cả khi những hàng hoá đó đắt hơn hàng nhập khẩu.
- Các hàng rào hành chính và kỹ thuật là việc các chính phủ sử dụng các điều kiện về tiêu chuẩn y tế, kỹ thuật, an toàn và các thủ tục hải quan để tạo nên những cản trở thương mại.
- Các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp là các thủ tục, biện pháp áp dụng đối với các hàng hoá bị coi là bán phá giá hay trợ cấp.
- Các khu công nghiệp và khu chế xuất tạo điều kiện cho các nhà sản xuất vì nó có những ưu đãi như tiền thuê đất, hệ thống cơ sở hạ tầng (điện, nước, viễn thông) hiệu quả và đáng tin cậy, thủ tục hành chính thuận lợi.
Những nguyên tắc cơ bản của việc điều chỉnh chính sách Thương mại quốc tế.
Chính sách TMQT của một quốc gia có ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác, bởi vậy nó chịu ảnh hưởng của nguyên tắc nhằm chống sự phân biệt đối xử, đảm bảo sự có đi có lại như sau:
• Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN): theo nguyên tắc này, một quốc gia sẽ phải thực hiện các biện pháp quản lí trong quan hệ thương mại một cách bình đẳng với tất cả các đối tác, bao gồm việc áp dụng các biện pháp ưu đãi cũng như các biện pháp hạn chế.
• Nguyên tắc ngang bằng dân tộc: áp dụng nguyên tắc này đòi hỏi Chính phủ các quốc gia phải có sự đối xử ngang bằng giữa các công ty, các doanh nghiệp trong nước với các công ty, các doanh nghiệp nước ngoài về tất cả các biện pháp áp dụng trong chính sách TMQT bao gồm: đánh thuế, các biện pháp hỗ trợ, các thủ tục hành chính, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp chống bán phá giá và đảm bảo cạnh tranh bình đẳng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quan hệ thương mại toàn thế giới. Do đó có thể khai thác tốt những nguồn lực phát triển.
Ngoài hai nguyên tắc trên, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách TMQT của các quốc gia, Chính phủ các nước luôn luôn lưu ý đến việc thực hiện nguyên tắc có đi có lại. Tức là việc đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiêp, các công ty trong nước, đồng thời phải đảm bảo lợi ích cho các công ty, doanh nghiệp nước ngoài, nhằm hạn chế những mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ thương mại.
Các dạng chính sách Thương mại quốc tế điển hình
Chính sách hướng nội ban đầu.
Chính sách hướng nội ban đầu nhằm thúc đẩy tính tự lực quốc gia, thể hiện ở việc tăng cường sản xuất lương thực, các nông sản và khoáng sản mà chúng không được nhập khẩu. Qua đó đảm bảo sự an toàn lương thực. Sử dụng các biểu thuế nhập khẩu hoặc quota nhập khẩu lương thực, khi đó thuế lương thực không phải chủ yếu nhằm nâng cao nguồn thu mà là thuế bảo hộ. Chính phủ còn đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu để tăng phần thu, qua đó làm giảm thu hút tương đối của nền nông nghiệp định hướng xuất khẩu so với nền nông nghiệp hướng nội.
Duy trì chính sách hướng nội sẽ dẫn đến tình trạng tỉ giá hối đoái tăng do kết quả của sự bảo hộ và sẽ khuyến khích nhập khẩu sản phẩm chế tạo. Khi ấy nếu khu vực nông thôn phat đạt thì sẽ gây tổn thất cho nhà sản xuất công nghiệp.
Chính sách hướng ngoại ban đầu.
Đặc điểm của chính sách này là nhiều nước đang phát triển trong giai đoạn đầu hướng vào xuất khẩu những loại hàng nông sản truyền thống và người ta thực hiện chính sách thuế nhập khẩu tương đối thấp để tăng nguồn thu cho chính phủ, vì ở giai đoạn này không có khả năng lựa chọn các loại thuế khác. Điều này đưa tới ảnh hưởng xấu là tăng giá cả tiêu dùng và một số ngành hàng sản xuất thay thế nhập khẩu trở nên phi hiệu quả. Tuy nhiên nhờ nguồn thuế tăng lên người ta có thể chi tiêu nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu.
Chính sách hướng nội tiếp theo.
Chính sách thương mại nông nghiệp hướng nội sẽ đưa tới sự mở rộng cho các ngành công nghiệp nhỏ với sự trợ cấp của Chính phủ dần dần khuyến khích nền nông nghiệp thay thế nhập khẩu. Bên cạnh chính sách bảo hộ chung người ta có thể thực hiện sự hỗ trợ có lựa chọn cho nền công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, đó là một nền công nghiệp non trẻ. Yêu cầu đặt ra với chính sách này là phải tránh được lệch lạc kéo theo cho người tiêu dùng, tránh sự lựa chọn sai các ngành non trẻ để hỗ trợ, can thiệp để khắc phục được những khiếm khuyết của công nghiệp non trẻ.
Chính sách hướng ngoại tiếp theo.
Các nước đang phát triển thường chuyển sang các chính sách hướng ngoại đối với các ngành chế tạo máy sau khi hoàn thành tới những giai đoạn ban đầu của việc thay thế nhập khẩu. Khi nào còn hỗ trợ cho việc thay thế nhập khẩu thì việc xuất khẩu sẽ còn bị cản trở do sự tăng tỉ giá hối đoái. Để các chính sách hướng ngoại thành công, điều quan trọng là phải đảm bảo giá quốc tế cho nhà xuất khẩu, tức là phải dỡ bỏ các trở ngại đối với xuất khẩu.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Thực trạng chính sách TMQT của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch theo các giai đoạn hội nhập
1.1.1. Giai đoạn thăm dò hội nhập (1988-1991)
Trong giai đoạn này, Việt Nam thực hiện công nghiệp hoá không rõ ràng nhưng có xu hướng thay thế nhập khẩu và cởi bỏ dần các hạn chế xuất khẩu, thực hiện hoàn thiện các chính sách tài chính, thuế như mở cửa sàn giao dịch ngoại hối vào năm 1991, ban hành thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế doanh thu, thuế lợi nhuận vào năm 1990.
Chính sách xuất nhập khẩu và các quy định về thương mại được thông thoáng hơn theo đó các doanh nghiệp tư nhân được trực tiếp tham gia vào thương mại quốc tế vào năm 1991 và thành lập các khu chế xuất. Tuy nhiên, một số hàng hoá vẫn bị giới hạn xuất khẩu ở một số ít công ty và các tổng công ty xuất khẩu vẫn phải đăng ký nhóm hàng hoá xuất khẩu với cơ quan quản lý nhà nước.
1.1.2. Giai đoạn khởi động hội nhập (1992-2000)
Tính đến năm 2000, các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế ở Việt Nam vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam có xu hướng thay thế nhập khẩu. Đặc điểm nổi bật trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam ở giai đoạn này là không có một lịch trình giảm thuế cụ thể.
Trong giai đoạn này, nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hoá và bảo hộ mậu dịch của Việt Nam trong chính sách thương mại quốc tế không có nhiều thay đổi so với giai đoạn thăm dò hội nhập. Việt Nam vẫn theo đuổi một chiến lược công nghiệp hoá không rõ ràng. Việt Nam vừa muốn thực hiện công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu vừa muốn hướng vào xuất khẩu. Xu hướng hướng vào xuất khẩu được ưu tiên hơn thể hiện ở việc thông thoáng hơn thủ tục xuất khẩu và thủ tục nhập khẩu như bãi bỏ hầu hết các giấy phép nhập khẩu chuyến vào năm 1995, dỡ bỏ quyền kiểm soát buôn bán gạo vào năm 1997, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu trong đó có doanh nghiệp FDI. Kể từ năm 1998, các doanh nghiệp FDI được xuất khẩu những hàng hoá không có trong giấy phép đầu tư. Năm 1993, Chính phủ cho phép nợ thuế đầu vào xuất khẩu. Các lệnh cấm nhập khẩu tạm thời hàng tiêu dùng hay cấm nhập khẩu đường vào năm 1997 trong chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam không hoàn toàn nhằm bảo hộ thị trường nội địa.
1.1.3. Giai đoạn tăng cường hội nhập (2001-nay)
Trong giai đoạn này, Việt Nam là có xu hướng hướng vào xuất khẩu. Tuy nhiên, dường như mục tiêu và phương pháp công nghiệp hoá chưa được thống nhất giữa các cấp, các ngành dẫn đến tình trạng đi theo chứ chưa chủ động hội nhập. Các danh mục hàng hoá và thuế suất nhập khẩu chủ yếu ban hành theo các hiệp định mà Việt Nam đã ký kết với EU (Châu âu), ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), Hoa Kỳ, Canada. Một mặt, Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu như cho phép xuất khẩu không hạn chế theo ngành nghề ghi trong giấy phép kinh doanh vào năm 2001, ban hành danh mục biểu thuế ưu đãi hàng năm, đàm phán ASEAN và ASEAN mở rộng cũng như ban hành quy trình xét miễn, giảm và hoàn thuế xuất khẩu và nhập khẩu vào năm 2005, đẩy mạnh đàm phán và chính thức gia nhập WTO vào 11/01/2007. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn lúng túng trong việc giải quyết việc bảo hộ thị trường nội địa cho một số ngành hàng như ô tô, sắt thép, điện tử…
Thực trạng hoàn thiện các công cụ thuế quan.
Đối với thuế nội địa, cam kết WTO cuả Việt Nam tập trung vào thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB). Quy định hiện hành có sự phân biệt đối xử nhất định đối với một số mặt hàng chủ yếu hình thành từ hoạt động nhập khẩu. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải cam kết thay đổi những quy định liên quan để tuân thủ nghĩa vụ theo quy định điều III cuả GATT 1994. Theo đó, sản phẩm bia, rượu đòi hỏi phải được điều chỉnh theo lộ trình để phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc lựa chọn tiêu dùng, sản xuất loại bia nào trở nên đơn giản với người tiêu dùng và nhà sản xuất, nhập khẩu cũng nhhư nhà quản lý trong vòng 3 năm tới vì Việt Nam sẽ áp dụng thống nhất thuế tiêu thụ đặc biệt với tất cả các loại bia mà không phụ thuộc vào hình thức đóng gói. Với rượu, tiêu chí để phân định mức thuế suất phân hoá theo nồng độ cuả rượu. Rượu trên 20 độ cồn hoặc phải áp dụng một mức thuế tuyệt đối tính trên lít hoặc một mức thuế suất tỉ lệ đơn nhất. Những thay đổi này được thực hiện trong lộ trình 3 năm kể từ ngày cam kết. Với cam kết này, những đối tượng khác chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ngoài rượu và bia sẽ không có thay đổi nào về nghiã vụ thuế TTĐB.
Đối với thuế nhập khẩu, câu trả lời tại sao hàng hoá nhập khẩu trở nên rẻ hơn và dễ tìm mua hơn là do Việt Nam cam kết ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế nhập khẩu với 10.600 dòng thuế sẽ có mức thuế bình quân giảm khoảng 3% - từ 17,4% còn 13,4%. Lộ trình cắt giảm trong vòng 5-7năm kể từ thời điểm cam kết. Đặc biệt là mặt hàng nông nghiệp đã từ lâu ta xem là mặt hàng chủ lực cuả Việt Nam bị cắt giảm tương tự- từ 23,5% xuống còn 20,9% trong vòng 5 năm. Với hàng công nghiệp là .từ 16,8% xuống còn 12,6% trong thời gian từ 5-7năm. Mức cắt giảm bình quân thuế nhập khẩu Việt Nam tuân thủ mức cắt giảm thuế chung tại vòng Urugoay là vào khoảng 27% (30% cho hàng nông sản, 24% co hàng công nghiệp) đối với các nước đang phát triển.
Theo mức cam kết cụ thể thì có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế bị cắt giảm chủ yếu là dòng thuế suất cao trên 20% chẳng hạn như sản phẩm thịt, sữa, bia, rượu, thuốc lá, hoặc xe ôtô, xe máy, xi măng, máy điều hoà, máy giặt trong khoảng thời gian 2-12 năm tới đây sẽ có được mức giá rẻ nhất so với thị trường vào thời điểm hiện nay do đạt đến mức thuế suất cam kết thấp nhất. Tuy nhiên những mặt hàng trọng yếu vẫn được duy trì mức bảo hộ nhất định. Ngành có mức thuế suất được giảm nhiều nhất là dệt may, cá, sản phẩm cá, gỗ và giấy, máy móc và thiết bị điện-điện tử. Bên cạnh đó cũng có trường hợp Việt Nam cam kết mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hoá chất và phương tiện vận tải.
Theo cam kết cắt giảm thuế tuân thủ một số hiệp định tự do theo ngành của WTO yêu cầu giảm thuế xuống còn 0% hoặc ở mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Việt Nam cam kết ngành đối với sản phẩm công nghệ thông tin , dệt may và thiết bị y tế và tham gia một phần với thời gian thực hiện 3-5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng.
Hạn ngạch thuế quan không phải là thuế nhưng có mối quan hệ với việc xác định tính hợp pháp của hàng nhập khẩu để đánh thuế. Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng đối với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. Quy định này thực tế chỉ liên quan đến số lượng hàng nhập khẩu trên thị trường.
Bên cạnh đó cũng cần phải kể đến cam kết về việc xác định trị giá hải quan (customs valuation). Xác định trị giá hải quan là căn cứ định giá tính thuế xuất khẩu hoặc nhập khầu, từ đó xác định được số tiền thuế xuất khẩu hay nhập khẩu tương ứng. Hiện nay Việt Nam quy định trị giá hải quan được xác định căn cứ vào “giá hợp đồng”. Trên thực tế, quy định này không đồng nghiã với việc xác định trị “trị giá giao dịch” được quy định tại Thoả thuận bổ sung cuả Điều 7 (về trị giá hải quan) trong Thoả thuận chung về thuế quan và thương mại 1994. Chính vì thế Việt Nam cam kết sẽ có sự đổi mới để tương thích, trong đó có việc ban hành những quy định về trình tự, thủ tục xác định trị giá hải quan.
Có vẻ như những cam kết trên không có liên quan gì đến thuế Giá trị giá tăng (GTGT). Thực chất không hẳn như vậy. Bởi lẽ thuế GTGT cũng là một trong ba nghiã vụ thuế hình thành khi thực hiện hành vi nhập khẩu. Giá tính thuế GTGT trong trường hợp này là tổng của giá giao dịch (mua hàng) với thuế nhập khẩu và thuế TTĐB (nếu đây là hàng chịu thuế TTĐB). Vì thế một khi thuế suất thuế nhập khẩu giảm dẫn đến số tiền thuế NK tương ứng giảm, hệ quả là số tiền thuế TTĐB (nếu có) và tiền thuế GTGT giảm theo do giá tính thuế thấp xuống tương ứng. Tất cả những thuế này đều là thuế gián thu nên sẽ cấu thành trong giá bán trên thị trường, vì thế thuế thấp sẽ kéo theo giá hàng hoá giảm.
Vậy là theo lộ trình mà Việt Nam cam kết thì với một khoảng thời gian nhanh nhất là ngay sau khi gia nhập và chậm nhất là 12 năm kể từ khi gia nhập, chúng ta có thể vui mừng vì người tiêu dùng Việt Nam sẽ được mua hàng nhập khẩu chất lượng cao với giá rẻ. Ước lượng mức bình quân có thể rẻ hơn hiện nay khoảng chừng gần 30% so với giá thị trường hiện tại (với điều kiện giá giao dịch không đổi). Mặc dù bên cạnh đó còn nhiều nỗi lo chung quanh việc cắt giảm thuế sẽ khiến cho hàng hóa sản xuất trong nước bị cạnh tranh quyết liệt bởi hàng nhập khẩu. Vấn đề không nằm ở chỗ quy định về thuế, mà câu trả lời nằm chính ở việc định chuẩn cho hàng hóa nhập vào thị trường Việt Nam, ở chỗ chúng ta không dung túng cho việc coi thường người tiêu dùng do việc nhà sản xuất đưa ra thị trường những sản phẩm kém chất lượng vì thiếu tính cạnh tranh. Nhìn xa hơn đó còn là bài toán cho sự đổ bộ về công nghệ, nguồn nguyên liệu chất lượng cao, giá rẻ, từ đó có tác dụng kích thích các giao dịch được xác lập nhiều hơn, đa dạng hơn, với quy mô lơn hơn, nguồn thu thuế từ đó cũng dồi dào hơn.
Chính sách thương mại quốc tế của Việt nam đã chuyển từ thay thế nhập khẩu sang hướng xuất khẩu. Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng hướng vào xuất khẩu là hoàn toàn phù hợp vì Việt Nam cần thiết phải là một bộ phận của nền kinh tế thế giới và phải tham gia có hiệu quả vào mạng lưới sản xuất khu vực và thế giới.
Trên giác độ công cụ của chính sách thương mại quốc tế, hệ thống thuế ở Việt Nam có thể được đánh giá như sau:
Một là, hệ thống thuế được thay đổi phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Điều này thể hiện ở việc biểu thuế hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam ngày càng phù hợp hơn với Hệ thống phân loại hàng hoá và mã số của Tổ chức hải quan thế giới và hệ thống biểu thuế quan hài hoà.
Hai là, thông tin về việc cắt giảm thuế ngày càng rõ ràng hơn. Thông tin về việc cắt giảm thuế được cập nhật thường xuyên và phổ cập tới toàn bộ các doanh nghiệp và những đối tượng quan tâm. Việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính và áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước tại các ngành thương mại, tài chính có tác động tích cực tới việc phổ cập thông tin về cắt giảm thuế.
Ba là, việc thay đổi, điều chỉnh thuế suất còn đột ngột. Tình trạng này là do thiếu sự phối hợp giữa Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp và các doanh nghiệp trong ngành. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền và chuẩn bị cho việc ban hành, điều chỉnh các chính sách còn kém. Mặc dù Bộ Tài chính và các Bộ chuyên ngành khẳng định vai trò tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nhưng trên thực tế khi mà doanh nghiệp còn ít tham gia vào quá trình hoạch định chính sách của Chính phủ thì khó tránh khỏi việc các chính sách bị xa rời thực tiễn kinh doanh.
Thực trạng hoàn thiện các công cụ phi thuế quan
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế không phải là một biện pháp lâu dài. Chẳng hạn, trong khuôn khổ WTO, các chính phủ phải minh bạch hoá chính sách và chuyển dần việc quản lý bằng các công cụ phi thuế quan sang thuế quan. Hiện tại, ở Việt Nam, hệ thống các công cụ phi thuế quan chưa được Bộ Công thương hay bất cứ cơ quan nào thống kê theo dõi và điều chỉnh.
Các công cụ phi thuế quan đang do các cơ quan khác nhau quản lý nhưng không trực tiếp được sử dụng như một công cụ của chính sách thương mại quốc tế. Ví dụ, Bộ Công thương quản lý hạn ngạch, hạn ngạch thuế quan, các biện pháp hành chính. Bộ Công thương, Bộ Khoa học và Công nghệ quy định tỷ lệ nội địa hoá. Tín dụng xuất khẩu lại do Ngân hàng Phát triển và các ngân hàng thực hiện. Thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu và cấp giấy chứng nhận xuất xử còn tách rời dẫn đến doanh nghiệp mất thời gian khi thực hiện thủ tục xuất khẩu. Quy chế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu chưa có định hướng ưu tiên cho các doanh nghiệp có uy tín, có tình hình tài chính lành mạnh. Hơn nữa, diện các mặt hàng được hưởng ưu đãi về tín dụng xuất khẩu còn dàn trải
Công việc theo dõi, điều chỉnh các công cụ phi thuế quan gặp khoá khăn do quy định phải xem xét biện pháp đó có hạn chế thương mại hay không.
Thông tin về việc nước ngoài áp dụng các biện pháp phi thuế đối với hàng hoá Việt Nam cũng chưa được thực hiện một cách hệ thống. Việt Nam chưa xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về các biện pháp phi thuế cũng như chưa xây dựng danh mục các mặt hàng dễ bị áp dụng các biện pháp phi thuế. Ví dụ, trong trường hợp các hàng hoá của Việt Nam bị cáo buộc phá giá, Việt Nam đã lúng túng trong giải quyết và phòng ngừa…
Việt Nam còn ít sử dụng các biện pháp như hạn ngạch thuế quan, các khoản mua sắm của chính phủ. Việc sử dụng các khoản tín dụng xuất khẩu, thưởng xuất khẩu… đang được điều chỉnh. Tuy nhiên, đối tượng chủ trì các chương trình xúc tiến thương mại còn giới hạn ở một số ít cơ quan.
Thực trạng phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Về mặt nhận thức, Việt Nam chưa thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế một cách hệ thống. Bộ Thương mại xem xét dưới góc độ chính sách xuất nhập khẩu. Bộ Tài chính xem xét dưới góc độ chính sách thuế. Bộ Công nghiệp xem xét dưới góc độ chính sách cạnh tranh, chính sách ngành. Từ đó, chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng. Các cơ quan thực hiện nhiệm vụ theo quyền hạn, nhiệm vụ do chính phủ quy định. Những công việc mới phát sinh thường mất thời gian để quyết định ai sẽ thực hiện và thực hiện như thế nào.
Thực trạng phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập cho thấy Việt Nam rất cần một cơ quan đầu mối (với đầy đủ quyền hạn, nguồn lực và trách nhiệm) phối hợp hoạt động hoàn thiện giữa các bộ, ngành liên quan. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước cần được tham gia nhiều hơn vào quá trình hoạch định và thực hiện chính sách.
Đánh giá tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong các năm gần đây.
Số liệu thống kê về tình hình xuất nhập khẩu trong thời gian vừa qua
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu
Đơn vị tính: triệu USD
Năm
Tổng số
Chia ra
Cân đối (*)
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1990
5156.4
2404.0
2752.4
-348.4
1991
4425.2
2087.1
2338.1
-251.0
1992
5121.5
2580.7
2540.8
39.9
1993
6909.1
2985.2
3923.9
-938.7
1994
9880.1
4054.3
5825.8
-1771.5
1995
13604.3
5448.9
8155.4
-2706.5
1996
18399.4
7255.8
11143.6
-3887.8
1997
20777.3
9185.0
11592.3
-2407.3
1998
20859.9
9360.3
11499.6
-2139.3
1999
23283.5
11541.4
11742.1
-200.7
2000
30119.2
14482.7
15636.5
-1153.8
2001
31247.1
15029.2
16217.9
-1188.7
2002
36451.7
16706.1
19745.6
-3039.5
2003
45405.1
20149.3
25255.8
-5106.5
2004
58453.8
26485.0
31968.8
-5483.8
2005
69208.2
32447.1
36761.1
-4314.0
2006
84717,3
39826,2
44891,1
-5064,9
2007
111326,1
48561,4
62764,7
-14203,3
2008
143398,9
62685,1
80713,8
-18028,7
2009
125384,0
56584,0
68800,0
-12216,0
Nguồn: Tổng cục thống kê
Ưu Điểm
* Tốc độ tăng trưởng của ngoại thương Việt Nam khá cao qua các năm (trung bình trên 20% năm) và cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền sản xuất xã hội (cao hơn khoảng 2-3 lần). Điều đó làm cho quy mô của kim ngạch xuất nhập khẩu cũng tăng lên nhanh chóng, có thể thấy rõ điều này qua bảng số liệu trên. Những thành quả trên đạt được là do chính sách mở cửa của Đàng và Nhà nước ta trong những năm qua.
* Thị trường trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam ngày càng mở rộng và đã chuyển mạnh từ đơn thị trường ra thành đa thị trường. Trước năm 1986 thị trường chủ yếu của ta là Liên Xô và Đông Âu (chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu).Từ năm 1987 với chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà Nước theo hướng đa phương hoá trong quan hệ bạn hàng đa dạng hoá trong các lại sản phẩm như hiện nay Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hơn 165 quốc gia trên thế giới, trong đó ký hợp đồng thương mại song phương với 72 nước. Các bạn hàng lớn nhất của Việt Nam hiện nay là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, Mỹ, EU...Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của WTO đang và sẽ giúp nền kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng trong thời gian qua và những năm tới
* Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước xây dựng những mặt hàng quy mô lớn được thị trường thế giới chấp nhận: dầu khí, gạo, thuỷ sản, dệt may, giày dép…Việc xây dựng những mặt hàng trên cho phép chúng ta khai thác những lợi thế so sánh của nền kinh tế trong phân công lao động và hợp tác quốc tế
* Nền ngoại thương Việt Nam đã chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế hoạch toán kinh doanh, phát huy quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, chuyển từ việc vay nợ nước ngoài để nhập khẩu là chủ yếu sang đầy mạnh xuất khẩu để lấy kim ngạch xuất khẩu trang trải cho nhập khẩu, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động ngoại thương.
* Cùng với qua trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, sự tham gia vào các định chế kinh tế quốc tế và đàm phán gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, cơ chế chính sách của Việt Nam đã được đổi mới mạnh mẽ theo hướng tăng tự do hoá thương mại đầu tư, giảm thiểu mức can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực buôn bán quốc tế. Điều đó đóng góp thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của ngoại thương Việt Nam
Nhược điểm
* Quy mô xuất nhập khẩu còn quá nhỏ bé so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á
* Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam còn trong tình trạng lạc hậu, chất lượng thấp, mặt hàng manh mún, sức cạnh tranh yếu (gần 40% kim ngạch là hàng nông, lâm, thuỷ sản, trên 20% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là hàng nguyên liệu, hàm lượng khoa học công nghệ thấp, do đó chịu nhiều thua thiệt trong thương mại quốc tế.
* Thị trường ngoại thương Việt Nam còn nhiều bấp bênh chủ yếu là thị trường các nước trong khu vực và các thị trường qua trung gian, còn thiếu những hợp đồng lớn và dài hạn.
* Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá luôn thấp hơn kim ngạch nhập khẩu.Cán cân thương mại chưa cân bằng, nhập siêu thường xuyên xảy ra.
* Công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu còn thiếu đồng bộ và nhất quán, khi thì buông lỏng dễ dãi. Trong hoạt động xuất nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa giữ chữ tín với bạn hàng, nhiều khi giao hàng không đúng chất lượng quy định bị phạt hợp đồng gây hậu quả nghiêm trọng trình độ nghiệp vụ ngoại thương của nhiều cán bộ còn non kém.
* Tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại đây là vấn đề quốc nạn cần sớm được giải quyết.
* Trong cơ chế chính sách đang tiếp tục được đổi mới theo hướng nới lỏng sự can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực buôn bán quốc tế, nhưng hiện tại cơ chế chính sách cũng như việc tổ chức thực thi bộc lộ nhiều bất cập.
Nguyên nhân
* Dù đã phát triển tương đối nhanh trong thời gian vừa qua nhưng nhìn chung nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế chậm phát triển.
* Doanh nghiệp trong nước vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với nước ngoài.
* Nhà nước chưa tạo ra những môi trường thật sự thuận lơi cho xuất khẩu, nhiều quy chế còn chậm đổi mới.
* Hoạt động xuất khẩu không chính ngạch tăng, các hoạt động buôn lậu vẫn chưa được ngăn chặn cụ thể.
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
Quan điểm và Định hướng hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Quan điểm
Một là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế phải chủ động gắn liền với mục tiêu công nghiệp hoá và các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hai là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế là một trong các hoạt động góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam.
Ba là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc chung, thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ thành viên của các tổ chức khu vực và quốc tế mà Việt Nam tham gia nhưng không bó buộc trong một lịch trình nhất định.
Bốn là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế phải đảm bảo sự tham gia của không chỉ các cơ quan quản lý nhà nước (hoạch định và thực thi chính sách) mà cả các đối tượng khác như cộng đồng doanh nghiệp (các hiệp hội, các doanh nghiệp) và giới nghiên cứu. Sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, và giới nghiên cứu thể hiện bằng việc chia xẻ trách nhiệm, nguồn lực và lợi ích trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế.
Năm là, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế phải đảm bảo khai thác được lợi thế của nước đi sau trong hội nhập kinh tế quốc tế
Định hướng
Mô hình thương mại mang tính chất: phát triển kinh tế theo định hướng xuất khẩu, cụ thể là chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô, đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ và theo xu hướng tự do hóa thương mại hạn chế bảo hộ mậu dịch đến mức tối đa.
Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam
Tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch
Việc tăng tính thống nhất trong nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch về chính sách thương mại quốc tế là công việc liên quan đến sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và sự thực thi của các cơ quan liên quan, đặc biệt là các bộ ngành (trực tiếp là Bộ Công thương).
Mục tiêu phù hợp nhất của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam là thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới (và trong nước). Định hướng chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam cần chỉ ra những ưu tiên chính trong số nhiều ưu tiên của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Định hướng chính sách cũng cần bao gồm các vấn đề như cách thức hỗ trợ các ngành thay thế nhập khẩu và những cam kết đảm bảo việc duy trì ổn định các chính sách hỗ trợ. Tất cả những biện pháp này cần đặt trong một hệ thống được theo dõi, đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi.
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh tự do hoá thương mại (song phương, khu vực và đa phương) và bảo hộ có chọn lọc một số mặt hàng.
Tiếp tục hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế
2.2.1. Minh bạch hoá và vận dụng linh hoạt công cụ thuế quan
Bộ Tài chính cần vận dụng linh hoạt biên thay đổi thuế để tạo sự thuận lợi cho hàng hoá Việt Nam. Việc vận dụng linh hoạt biểu thuế là hành động phù hợp với các nguyên tắc và quy định của WTO. Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia cần thực hiện bảo hộ đơn giản thông qua thuế. Việc áp dụng thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thay đổi biên thuế trong điều kiện khẩn cấp, thuế chống trợ cấp và bán phá giá là không vi phạm với WTO. Hệ thống thuế của Việt nam đang được thay đổi theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, để thuế quan thực sự là một công cụ của chính sách thương mại quốc tế, Việt Nam không những cần đảm bảo sự nghiêm túc trong thực hiện các cam kết mà còn phải biết vận dụng linh hoạt công cụ này.
Bộ Tài chính, các bộ ngành và các hiệp hội tiếp tục thực hiện minh bạch hoá thông tin về cắt giảm, điều chỉnh thuế và phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp để tăng tính dự đoán trong việc điều chỉnh thuế. Đây là nội dung được ưu tiên trong số các giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Trước hết việc cập nhật những thông tin về những điều chỉnh thuế cần được tiếp tục đưa lên các trang web của Quốc hội, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Tổng cục Hải quan và các hiệp hội. Tiếp theo, việc áp dụng và điều chỉnh các loại thuế gián tiếp như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi nhuận cần được rà soát để đảm bảo phục vụ mục tiêu phát triển ngành. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cho việc điều chỉnh thuế cần được quan tâm. Các hiệp hội cần đóng vai trò là cầu nối giữa các bộ ngành và doanh nghiệp để đảm bảo nguyên tắc lấy doanh nghiệp là trung tâm trong quá trình hoàn thiện. Để đảm bảo thực hiện giải pháp này, các hiệp hội phải chủ động đề xuất các diễn đàn và hình thức trao đổi với Bộ Tài chính, Bộ Công thương và các bộ ngành liên quan. Các bộ ngành cần tích cực tham gia, đảm bảo có phân công trách nhiệm cho các bộ phận liên quan và tiến hành theo dõi đánh giá công tác phối hợp này.
2.2.2. Sử dụng một cách hệ thống một số công cụ phi thuế quan
Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia thành viên được quyền sử dụng hạn ngạch thuế quan. Bộ Công thương cần xem xét sử dụng nhiều hơn công cụ này. Sự khác biệt giữa mức thuế trong hạn ngạch và ngoài hạn ngạch thường rất lớn (thường là gấp đôi). Tuy nhiên, việc quyết định sử dụng hạn ngạch thuế quan cho mặt hàng nào không thể chỉ phụ thuộc vào một tính toán về lợi thế so sánh hiện hữu đơn giản. Do đó, khi quyết định lựa chọn mặt hàng thực hiện áp dụng hạn ngạch thuế quan, Bộ Công thương cũng cần dựa trên phương pháp chuyên gia và thực hiện lấy ý kiến từ doanh nghiệp trong ngành.
Một thực tế ở Việt Nam là ngày càng hạn chế sử dụng giấy phép nhập khẩu và lệnh cấm nhập khẩu. Lý do được đưa ra là các quy định này không phù hợp với các quy định của WTO và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Tuy nhiên, kinh nghiệm thế giới cho thấy không quốc gia nào bỏ hoàn toàn hai công cụ này. Malaysia thậm chí còn tăng cường việc cấp giấy phép nhập khẩu khi đã trở thành thành viên của WTO. Việt Nam không “tăng cường” nhưng cũng không nên loại bỏ hoàn toàn việc cấp giấy phép nhập khẩu, đặc biệt là khi Việt Nam cần tiếp tục bảo hộ một số ngành trong nước (ví dụ như thép xây dựng, hoa quả, thực phẩm, đồ chơi trẻ em..).
Các thành viên WTO vận dụng việc sử dụng giấy phép và lệnh cấm với nhiều lý do như bảo về ngành công nghiệp, bảo vệ sức khoẻ, môi trường, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, bảo vệ các di sảnvà truyền thống văn hoá. Để sử dụng có hiệu quả việc cấp giấy phép nhập khẩu, Bộ Công thương cần phối hợp với các bộ chuyên ngành, và cộng đồng doanh nghiệp.
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, chính sách thưởng kim ngạch, thưởng thành tích đang được sửa đổi tại Việt Nam trong thời gian vừa qua cho phù hợp với các quy định liên quan đến trợ cấp xuất khẩu và thương mại liên quan đến đầu tư (TRIMS) và yêu cầu của đối tác trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Chính sách về hỗ trợ lãi suất, thưởng xuất khẩu thuộc loại trợ cấp bị cấm trong khuôn khổ WTO nên trong tương lai không thể tiếp tục áp dụng. Việc hỗ trợ các hoạt động thương mại (xúc tiến thương mại) được coi là các loại trợ cấp đèn vàng. Tuy nhiên, khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam có thể được hưởng chế độ ưu đãi (tiếp tục duy trì khuyến khích xuất khẩu) vì là nước đang phát triển có GNP đầu người thấp.
Những quy định về mua sắm của chính phủ cần được xem như là một công cụ cụ của chính sách thương mại quốc tế. Trong khuôn khổ WTO, các quy định về mua sắm của chính phủ sẽ bị coi là hàng rào phi thuế quan nếu tạo ra sự phân biệt đối xử giữa hàng hoá trong nước và hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, đối với các nước đang thực hiện công nghiệp hoá, các quy định về mua sắm của Chính phủ có thể là công cụ tốt để Chính phủ hỗ trợ khu vực sản xuất trong nước. Việc sử dụng các quy định về mua sắm của Chính phủ như là một công cụ của chính sách thương mại quốc tế cần thể hiện thực hiện tốt các quy định của Luật đấu thầu, trong đó đặc biệt chú ý đến việc thực hiện minh bạch hoá các quy định này.
Bộ công thương nên mở rộng đối tượng chủ trì chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin về thị trường, ngành hàng và rào cản thương mại đầy đủ và dễ truy cập
Cụ thể, Bộ Công thương cần xây dựng một hệ thống thông tin về các biện pháp phi thuế, về phá giá và chống bán phá giá; xây dựng cơ chế cảnh báo về khả năng tranh chấp hay bị kiện phá giá và chống bán phá giá, dự kiến những mặt hàng có khả năng bị các quốc gia bạn hàng áp dụng các biện pháp phi thuế, đặc biệt là kiện phá giá; xây dựng cách thức tận dụng có hiệu quả các thủ tục điều tra và giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO cũng như thủ tục ở các quốc gia bạn hàng. Việt Nam cũng cần tích cực tham gia vào các diễn đàn của các nước đang phát triển để xây dựng một cơ chế chống bán phá giá chặt chẽ hơn trong khuôn khổ WTO.
Các hiệp hội ngành hàng cần phối hợp với các bộ ngành hoàn thiện cơ sở dữ liệu thông tin về các thị trường, ngành hàng và các rào cản thương mại ở các thị trường được lựa chọn.
Tăng cường phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế giữa các bộ ngành và cộng đồng doanh nghiệp
Khi trở thành thành viên của WTO, sự tham gia của các doanh nghiệp và các hiệp hội doanh nghiệp vào quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế cần được thay đổi. Các doanh nghiệp tham gia rất hiệu quả vào quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế ở Thái Lan, Malaysia và Hoa Kỳ. Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy đã có sự tham gia của khu vực doanh nghiệp vào quá trình hoạch định và hoàn thiện chính sách. Tuy nhiên, kết quả thu được không có tính chất hệ thống và không có trọng tâm. Trong quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế, Việt Nam rất cần sự tham gia của doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Những doanh nghiệp này cần được mời thường xuyên tới các cuộc họp lấy ý kiến từ các kết quả nghiên cứu và gợi ý chính sách cho Bộ Công thương và các bộ ngành, cho Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế.
.
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định, sau 3 năm gia nhập WTO, mặc dù còn nhiều khó khăn trước mắt, nhưng nền kinh tế Việt nam đã vượt qua được những thách thức, rút ra được những bài học bổ ích để từng bước phát triển bền vững. Gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận với các nguồn tín dụng, công nghệ hiện đại, vật tư, nguyên liệu và cơ hội xuất khẩu sản phẩm do thị trường được mở rộng và không bị phân biệt đối xử. Môi trường kinh doanh được cải thiện một cách rõ rệt, minh bạch hơn nhờ thực thi các cam kết về minh bạch hóa chính sách, không phân biệt đối xử, giảm bớt rào cản trong tiếp cận thị trường và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đó, nhận thức của người dân và các doanh nghiệp về việc tham gia WTO đã có sự chuyển biến tích cực. Việt Nam trở thành nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào một số ngành như điện tử, tin học, dệt may, luyện và cán thép, ngân hàng, tài chính bảo hiểm, bất động sản ...
Bên cạnh những kết quả tích cực đó, trong ba năm đầu tiên gia nhập WTO, các khó khăn, thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam cũng đã hiện ra dần rõ nét. Tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ thế giới đến kinh tế Việt Nam đã cho chúng ta thấy mức độ dễ bị tổn thương của nền kinh tế nước ta. Đây là dịp để chúng ta nhìn nhận lại một cách nghiêm túc những hạn chế của chúng ta trong một loạt các vấn đề liên quan đến chính sách kinh tế và hoạt động quản lý nhà nước, để qua đó phấn đấu thực hiện tốt hơn trong năm 2010, từ công tác phân tích, dự báo tình hình biến động của thị trường hàng hoá, dịch vụ, giá cả; tới công tác điều hành quản lý hoạt động xuất nhập khẩu; từ chính sách thắt chặt tiền tệ để đối phó với lạm phát, nhưng không gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn vốn; công tác xây dựng chiến lược và quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế; tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng thời khai thác có hiệu quả những cam kết quốc tế về thương mại và đầu tư; thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội…
Để nền kinh tế Việt Nam có thể hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới tạo nền tảng để kinh tế Việt Nam phát triển bền vững trong tương lai thì chính sách phát triển thương mại của Việt Nam cũng cần phải có nhiều sự thay đổi tích cực hơn nữa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Quốc tế của Trường Đại học KTQD, đồng chủ biên GS.TS Đỗ Đức Bình; PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, nhà xuất bản trường ĐHKTQD, 2008.
Giáo trình Thương mại quốc tế, tác giả Nguyễn Thành Danh, nhà xuất bản Lao động xã hội, 2008.
Kinh tế học quốc tế - lý thuyết và chính sách tập 1 (những vấn đề về thương mại quốc tế), bản dịch, nhà xuất bản chính trị quốc gia, 1996.
Sách “toàn cầu hóa kinh tế”, tác giả Dương Phú Hiệp và các tác giả khác, nhà xuất bản khoa học xã hội, 2001.
Bài báo “Hoạt động thương mại quốc tế và những ảnh hưởng của nó đối với DN Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Trung Chính, ngày 11/06/2006 trên trang web: Vietbao.vn
Bài báo “ Thương mại Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO những tồn tại cần khắc phục để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp” (Vinanet)
Bài báo “Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO” của tác giả Nguyễn Văn Long trên Tạp chí cộng sản.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dieu_chinh_chinh_sach_tmqt_cua_vn_sau_khi_gia_nhap_wto_final_3231.doc