Việc lựa chọn mô hình CNH –HĐH rút ngắn hiện đại là một tất yếu khách quan trong thời kì xây dựng CNXH. Do đó Đảng và nhà nước đã có nhiều chủ trương nhằm thúc đẩy thực hiện con đường CNH –HĐH được thuận lợi hơn. Việt Nam chúng ta là một trong những nước đi sau, tuy là đi sau nhưng chúng ta có rất nhiều lợi thế để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn, nhiều lợi thế như vậy do đó chúng ta cần tận dụng, khai thác các cơ hội đó một cách có hiệu quả góp phần tăng trưởng kinh tế, xây dựng đất nước theo hướng hiện đại sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới trong tiến trình hội nhập.
16 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1751 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Điều kiện và giải pháp thực hiện công nghiệp hoá – hiện đại hoá rút ngắn hiện đại ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Hai mươi năm qua, kể từ Đại hội Đảng VI lịch sử năm 1986, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, tạo cơ sở vững chắc để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sớm đưa nước ta khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là con đường tất yếu và cơ bản cho sự phát triển của mỗi quố́c gia. Tuy nhiên, sự nghiệp CNH- HĐH đất nước nhất là đối với nền kinh tế nước ta, đòi phải có một quá trình, một thời gian dài. Nhưng một vấn đề đặt ra có thể rút ngắn hơn không?.Cơ sở, yếu tố, điều kiện nào cho phép rút ngắn khoảng thời gian đó, phải được phân tích dựa trên các yếu tố khách quan, chủ quan trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay trong xu thế phát triển hội nhập nền kinh tế khu vực và quốc tế.
Trong thời gian ngắn tìm hiểu về đề tài, bài làm của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ của cô giáo để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA PHÁT TRIỂN RÚT NGẮN Ở NƯỚC TA.
1.Công nghiệp hóa – hiện đại hóa và vai trò công nghiệp hóa –hiện đại hóa ở nước ta.
Khái niệm
CNH - HĐH đang trở thành xu thế tất yếu của sự phát triển xã hội nhất là đối với các nước đang phát triển. Đối với những nước đang phát triển như nước ta thì việc thực hiện thành công CNH - HĐH là thực sự có ý nghĩa. Hội nghị Ban Chấp hành TW lần thứ bảy khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “ Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao ”.
1.2. Vai trò công ̣nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập chưa hoàn thiện. Do đó quá trình CNH - HĐH tạo ra cơ sở vật chất làm biến đổi về chất lực lượng sản xuất nhờ đó mà thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và hiện đại hoá nền quốc phòng – an ninh. Sự phát triển của công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo tiền đề thúc đẩy quá trình hội nhập của các quốc gia. Công nghiệp hoá chính là quá trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân XHCN.
1.3. Những nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta trong những năm trước mắt.
a. Coi trọng công ngiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gần với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản nhằm khai thác có hiệu quả các loại hình này, đảm bảo vững chắc yêu cầu an toàn lương thực cho xã hội; tạo nguồn nguyên liệu có khối lượng lớn, chất lượng cao, giá thành hạ, đủ đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến; tăng giá trị và khối lượng hàng xuất khẩu; tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động; phân công lại lao động xã hội; hình thành các điểm công nghiệp gắn liền với đô thị hoá tại chỗ, mở mang thị trường và dịch vụ cho công nghiệp.
Để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn cần phải chú trọng đến các vấn đề thuỷ lợi hoá, các công nghệ tiến bộ hiện đại như công nghệ sinh học, cơ giới hoá, điện khí hoá; phát triển mạnh công, thương nghiệp, dịch vụ, du lịch…; tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng.
b. Phát triển công nghiệp.
Hướng ưu tiên của phát triển công nghiệp là: các ngành chế biến lương thực – thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trong những ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường để phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả ( năng lượng – nhiên liệu, vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, đóng và sửa chữa tàu thuỷ, luyện kim, hoá chất ).
c. Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chất của nền kinh tế.
Trong cơ chế thị trường, kết cấu hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của sản xuất, kinh doanh và đời sống của dân cư. Nước ta đi lên từ một nền sản xuất nghèo nàn, kết cấu hạ tầng hết sức thấp kém, không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Do vậy trong những năm tới chúng ta cần xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân. Cụ thể là hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống điện, nước..Tuy nhiên nguồn tài chính của chúng ta do có hạn nên trong những năm trước mắt việc xây dựng kết cấu hạ tầng phải tập trung vào khâu cải tạo, mở rộng nâng cấp. Việc xây dựng nên có trọng tâm vào những khâu trọng điểm có như vậy mới tạo điều kiện cho mở rộng đầu tư, phát triển nhất là việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
d. Phát triển nhanh các ngành du lịch, dịch vụ.
Nước ta có lợi thế có nhiều cảnh đẹp tự nhiên do đó tạo điều kiện cho phát triển các ngành du lịch, dịch vụ. Sự phát triển của ngành du lịch một mặt cho phép khai thác tiềm năng du lịch, tăng thu nhập tạo công ăn việc làm cho dân cư.. mặt khác góp phần mở rộng giao lưu, phát triển kinh tế đối ngoại, mở cửa nền kinh tế. Phát triểncá lĩnh vực hàng không, hàng hải , bưu chính – viễn thông, bảo hiểm, ngân hàng – tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu của về dịch vụ của nhân dân góp phần nâng cao chất lượng của cuộc sống.
e. Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ trên cơ sở khai thác triệ để các lợi thế, tiềm năng từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau làm cho tất cả các vùng cùng nhau phát triển. Trong những năm tới phải tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm có điều kiện sớm đưa lại hiệu quả cao, đồng thời phải hỗ trợ cho những nơi khó khăn để phát triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo, đưa các vùng này ra khỏi tình trạng kém phát triển. Quan tâm phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh các vùng miền núi hải đảo, chú trọng các vùng Tây Nguyên, Tây Bắc..
f. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, mở cửa nền kinh tế là cần thiết với tất cả các nước. Do đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể thành công nếu không mở cửa nền kinh tế. Tuy nhiên mở cửa như thế nào cũng cần quan tâm và cân nhắc kĩ càng “ hoà nhập nhưng không có nghĩa là hoà tan ”, chúng ta hoà nhập để học hỏi kinh nghiệm, học hỏi thành tựu và những mặt tích cực và trong quá trình học hỏi cũng sàng lọc những tiêu cực để phù hợp với bản sắc văn hoá của dân tộc.
II. ĐIỀU KIỆN VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ RÚT NGẮN HIỆN ĐẠI Ở NƯỚC TA.
2.1.Một số điều kiện giúp thực hiện quá trình CNH-HĐH rút ngắn.
Quá trình thực hiện sự nghiệp CNH - HĐH là một quá trình diễn ra lâu dài , liên tục trong nhiều năm tuy nhiên sau một vài năm tiến hành cho thấy ở nước ta xuất hiện một số điều kiện và yếu tố chủ quan cho phép chúng ta có thể rút ngắn tiến trình CNH-HĐH của Việt Nam, sự rút ngắn đó tạo rất nhiều thuận lợi cho việc đưa đất nước nhanh tiến lên CNXH.
Chúng ta là một trong số các nước đi sau trong tiến trình CNH – HĐH trên thế giới do vậy không chỉ có chúng ta mà nhiều nước đi sau được thừa hưởng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển ở đỉnh cao.Vì vậy trong điều kiện hội nhập toàn cầu, CNH - HĐH ở nhiều quốc gia có điều kiện để rút ngắn hơn do được tiếp thu những thành quả khoa học. Nhưng câu hỏi đặt ra là trong điều kiện như thế nào thì có thể rút ngắn?. Nhìn chung là nước đó phải hội tụ những thành quả bước đầu trong kinh tế, trong cơ sở hạ tầng, trong đội ngũ lao động và còn có thể nhiều yếu tố khác nữa. Cụ thể là:
Sau nhiều năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc, tốc độ tăng trởng liên tục trong nhiều năm liền, nhiều công nghệ đã có khả năng thích nghi và dần dần chúng ta đã làm chủ công nghệ tiên tiến của nước ngoài trong nhiều lĩnh vực như: viễn thông, khai thác dầu khí, năng lượng, cơ khí ô tô , điện tử, xây dựng, sinh học..Khoa học công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc huy động và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực trong nước góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Trên cơ sở đó một số yếu tố của nền kinh tế tri thức đã được hình thành và phát huy tác dụng.
Nước ta đã tạo ra hệ thống kết cấu hạ tầng khá đồng bộ, tương đối hiện đại phục vụ cho sự nghiệp phát triển như: hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, sân bay, hệ thống cầu cảng, hệ thống cáp truyền tải điện, hệ thống thông tin liên lạc̣ trong nước và quốc tế đã và đang tạo tiền đề cho việc phát triển. Mặt khác có thể thấy chúng ta đã hình thành hàng trăm khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao với hệ thống kết cấu hạ tầng khá đồng bộ, hiện đại đáp ứng nhu cầu đầu tư lớn ở một số tỉnh như khu công nghiệp Bình Dương, khu lọc dầu Dung Quất, Hải Phòng, Hưng Yên.. các khu này không những tạo công ăn, việc làm, tăng năng lực sản xuất, tạo thị trường xuất khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách mà còn tạo ra hệ thống các doanh nghiệp với công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, quản lý tiên tiến, sức cạnh tranh khá là một trong những nhân tố đi dầu trong sự nghiệp CNH - HĐH -HĐH.
Hệ thống luật pháp ngày càng được bổ sung và hoàn thiện để trở nên linh hoạt và mềm dẻo hơn. Nhiều công ty luật được hình thành làm nhiệm vụ tư vấn pháp luật và hỗ trợ tốt cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài đến nay đã góp phần thu hút nguồn đầu tư nước ngoài vào trong nước cụ thể: có hơn 3000 doanh nghiệp FDI đang hoạt động, chiếm 38% giá trị sản xuất công nghiệp và gần 30% giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Sự tham gia của nhiều công ty, tập đoàn nước ngoài vào Việt Nam đã tạo cho sự cạnh tranh, học hỏi cho các doanh nghiệp trong nước giúp chúng ta nắm bắt thêm nhiều kinh nghiệm quản lí, công nghệ của nước bạn từ đó áp dụng vào doanh nghiệp của nước mình góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn của đất nước.
Thêm vào đó chúng ta đã từng bước hội nhập trong khu vực và quốc tế như gia nhập hiệp hội các nước trong khu vực Đông Nam Á: ASEAN, tổ hcức hợp tác kinh tế Châu – Á Thái Bình Dương APEC, tiến tới gia nhập WTO. Sự ra nhập các tổ chức lớn như vậy tạo tiền đề, điều kiện và cũng là thách thức cho các nước huy động và phẩn bổ nguồn lực phát triển, đồng thời giúp các quốc gia xây dựng nền kinh tế trên cơ sở nền kinh tế mở , đa phương lành mạnh, cởi mở, caṇh tranh.Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức để các nước đi sau thực hiện nhanh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Chúng ta biết rằng “ nhân lực là nguồn lực của mọi nguồn lực ” chúng ta đã tạo được nguồn nhân lực có kiến thức khoa học, kinh nghiệm thực tế phong phú và chất lượng từng bước đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH. Hệ thống các trường đại học, cao đẳng, các viện, các trung tâm nghiên cứu triển khai ngày càng mở rộng và được nâng cao đáp ứng cho quá trình CNH – HĐH ngày càng tăng của đất nước.
Tóm lại sau 20 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, nguồn thu và dự trữ của ngân sách ngày càng tăng đã và đang cho phép chúng ta tăng cường cho đầu tư phát triển , mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư trong khu vực và thế giới.. tất cả các điều này tạo ra những yếu tố và điều kiện để chúng ta đẩy nhanh tiến trình CNH-HĐH đất nước.
2.2. Thực chất và nội dung mô hình CNH-HĐH rút ngắn.
2.2.1. Phát triển rút ngắn
Quá trình CNH-HĐH bao gồm hai nội dung :
Một là: đạt và duy trì một tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó́.
Hai là: lựa chọn và áp dụng một phương thức CNH - HĐH cho phép bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo kiểu phát triển tuần tự , cổ điển để đạt tới một nền kinh tế phát triển hơn theo kiểu “ đi tắt đón đầu ”.
Quan điểm CNH - HĐH rút ngắn dựa trên những cơ sở hiện thực nào?
Về nội dung “tăng tốc”. Có hai loại điều kiện sau :
Loại thứ nhất bao hàm các yếu tố tự thân, bên trong như dạng “ nội lực bên trong ”. Đối với nước ta là nước có xuất phát điểm thấp nên tương đối dễ đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong một quãng thời gian khá dài, theo nguyên tắc “ hiệu ứng đuổi kịp ”.
Loại điều kiện thứ hai bao gồm các yếu tố “ngoại sinh”, tức là những lợi thế phát triển mà thời đại dành cho các nước đi sau nói chung và những lợi thế ngoại sinh đặc thù : lợi thế địa - kinh tế - chính trị .
Thứ hai , về khả năng phát triển “đảo lôgic ”. Bao gồm:
Các nước đi sau , nhờ liên kết và hợp tác kinh tế quốc tế, có thể tận dụng các nguồn tài chính bên ngoài để rút lại rất ngắn, thậm chí bỏ qua quãng đường lâu dài và gian khổ của giai đoạn tích lũy nguyên thủy. Như Việt Nam hiện nay nhờ tận dụng lợi thế của nước đi sau chúng ta đã thu hút được sự đầu tư của nhiều nước mạnh như Mỹ, Nhât..thông qua nhiều chương trình viện trợ, giúp đỡ. Họ không chỉ giúp đỡ chúng ta về tài chính, công nghệ mà còn giúp ta cách thức điều hành quản lí nhằm tiến tới chung ta thực sự làm chủ các công nghệ đó.
2.2.2 Phát triển bền vững.
Tuy là trên quan điểm phát triển rút ngắn, tuy nhiên không phải vì thế mà bất chấp những hậu quả để đạt được mục đích gây huỷ hoại tới môi trường, gây tệ nạn, ảnh hưởng tới đời sống của dân cư. Do vậy phát triển bền vững là khái niệm phản ánh nội dung và tính chất mới của phát triển, của quá trình CNH - HĐH. Giải quyết vấn đề này trước hết liên quan đến việc xác định mộ chiến lược phá triển tổng thể hợp lí mà hạt nhân là chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Định hướng của chiến lược này là: Không chỉ nên theo đuổi các mục tiêu tốc độ do bị ám ảnh quá mức bởi cái gọi là nguy cơ tụt hậu phát triển về mặt kinh tế mà quên mất nguyên lí phát triển phát triển cân bằng – bền vững.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không đơn thuần chỉ là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian dài mà thực chất phát triển còn bao hàm bảo đảm tăng trưởng chất lượng và phát triển là yếu tố quyết định phát triển rút ngắn.
Sự kết hợp tính” bền vững” với nội dung rút ngắn cho phép hình dung đầy đủ quan niệm CNH-HĐH rút ngắn. Không thể hiểu chính xác mô hình phát triển rút ngắn hiện đại mà lại thiếu một trong hai vế đó.
2.2.3. Phát triển trong hội nhập, dựa vào hội nhập.
Bối cảnh hiện nay cho thấy bất kì quốc gia nào cũng chỉ có thể phát triển được trong môi trường mở cửa hội nhập quốc tế. Hội nhập hiện ra là một phương thức và htủ đoạn phát triển quan trọng, là hành động kiến tạo môi trường phát triển thích hợp với các điều kiện quốc tế hiện đại. Quan điểm này phản ánh vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn:
Hội nhập với tư cách là phương tiện ( động lực )
Hội nhập với tư cách là mục tiêu ( trung gian ) của phát triển.
Đối với nước ta, khi các nguồn lực bên trong còn khan hiếm, lại thiếu nghiêm trọng các lợi thế phát triển chủ đạo của thời đại ( công nghệ - kĩ thuật cao ) , nếu không hội nhập chúng ta sẽ tự đánh mất cơ hội tiếp nhận các lợi thế đó, là từ bỏ một động lực phát triển quan trọng mà cuộc đua tranh phát triển quốc tế tạo ra.
Việc xác định rõ thực chất và nội dung của các thách thức - rủi ro hội nhập là cần thiết để lựa chọn các nhiệm vụ ưu tiên để thực hiện CNH - HĐH rút ngắn .Để thực hiện điều đó:
Vấn đề thứ nhất là yêu cầu thực hiện nguyên tắc phát triển dựa vào lợi thế so sánh của đất nước và được phát huy trên cơ sở hội nhập kinh tế quốc tế.
Vấn đề htứ hai: xây dựng hệ thống quốc phòng ngừa rủi ro hội nhập . Về lâu dài, để đối phó với các rủi ro này phải nhanh chóng tạo ra thế và lực phát triển mạnh mẽ, nâng cao vị thế trong cạnh tranh trên thương trường.
Tóm lại CNH – HĐH rút ngắn theo định hướng XHCN trên cơ sở phát huy lợi thế so snáh của đất nước, được thực hiện trong hội nhập và dựa vào hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Một số giải pháp chiến lược để thực hiện mô hình CNH- HĐH phát triển rút ngắn.
3.1. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.
Hiền tài được ví như là “ nguyên khí của quốc gia ” do vậy Đảng và nhà nước luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu và luôn ưu tiên cho giáo dục nhằm đào tạo nguồn nhân lực có hiệu quả cho đất nước bởi vì quá trình CNH - HĐH không chỉ đòi hỏi phải có vốn, kĩ thuật ..mà còn cần phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó. Đứng trước mục tiêu rút ngắn quá trình CNH - HĐH nguồn nhân lực của nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế yếu kém và bất cập. Do đó cần có những chính sách nhằm nâng cao không chỉ số lượng mà cả chất lượng của nguồn nhân lực đó. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đẩy nhanh CNH - HĐH đất nước:
Cải cách căn bản chương trình giáo dục. Chương trình giáo dục mới phải đáp ứng được mục tiêu tạo nền tảng tri thức để thực hiện mo hình CNH – HĐH rút ngắn phù hợp với yêu cầu mới của thời đại toàn cầu hoá tri thức.
Xây dựng hệ thông các trường học, trường dạy nghề rộng khắp để có thể đáp ứng nhu cầu về số lượng học viên ngày càng đông đảo.
Mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục, đào tạo với nước ngoài, học hỏi tri thức, kinh nghiệm quản lí.
Có các chính sách đãi ngộ, trọng dụng, thích đáng nhân tài.
Giáo dục đạo đức, lí tưởng sống cho thế hệ thanh niên để họ thấy rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Có thể nói phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết định triển vọng của tiến trình CNH - HĐH rút ngắn, đội ngũ nhân lực trẻ có tri thức sẽ là lực lượng xung kích để xây dựng đất nước phát triển.
3.2. Phát triển khoa học và công nghệ.
Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công thì phải xây dựng một tiềm lực khoa học công nghệ thích ứng với đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá bởi vì khoa học công nghệ được coi là động lực của CNH, HĐH. Khoa học - công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, CNH – HĐH nói riêng của các quốc gia. Do đó trong giai đoạn trước mắt việc phát triển KH – CN ở nước ta phải tập trung vào các hướng chủ yếu sau:
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu để đáng giá chính xác tài nguyên quốc gia, nắm bắt các công nghệ cao cùng những thành tựu của khoa học và công nghệ để từ đó đề xuất một chiến lược đúng đắn cho sự việc ứng dụng vào các ngành kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và khai thác, sử dụng hợp lí, bảo vệ tài nguyên quốc gia.
Mở rộng quan hệ hợp tác KH – CN với các nước và các tổ chức quốc tế nhằm tiếp cận, kế thừa những thành tựu KH – CN của thế giới, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế.
Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến, bao gồm đẩy mạnh các hình thức đào tạo, tăng cường cơ sở vật chất – kĩ thuật cho các ngành khoa học và công nghệ.
Sự phát triển khoa học công nghệ đã, đang và sẽ tạo động lực cho quá trình CNH - HĐH rút ngắn được tiến hành thành công. Do vậy cần có những chính sách hiệu quả hơn nữa trong việc phát triển lĩnh vực này.
3.3. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
Quá trình CNH - HĐH đòi hỏi nguồn vốn rất to lớn. Do đó, mở rộng quy mô huy động và sử dụng vốn có hiệu quả tạo tiền đề quan trọng để CNH - HĐH thành công. Để huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước nhà nước cần ban hành các chính sách kinh tế: như các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, chính sách về thuế, về lãi suất..hiện nay sau khi nhà nước ban hành luật đầu tư nước ngoài đã thu hút được nguồn vốn đầu tư rất lớn, không những tăng năng lực sản xuất, tạo thị trường xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách.
Ngoài ra để huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, xây dựng và phát triển thị trường vốn là giải pháp có ý nghĩa quan trọng.
Xây dựng môi trường vĩ mô thuận lợi thì hoạt quy mô huy động và hiệu quả sử dụng vốn cang cao.
3.4.. Giải pháp phát triển vùng.
Các giải pháp phát triển vùng như sau:
Thứ nhất , quy hoạch phát triển các vùng trọng điểm phải đặt trong quy hoạch. Trong quy hoạch này, điểm mấu chốt là định dạng các mối liên hệ kinh tế cơ bản giữa các vùng trên cơ sở phân lao động dựa vào lợi thế phát triển của mỗi vùng.
Thứ hai, khi đã xác định các vùng kinh tế trọng điểm, việc ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho chúng sẽ là yếu tố quyết định thành công của chiến lược tăng trưởng theo “ cực”.
Thứ ba, cần đặc biệt quan tâm phát triển những vùng có thể mạnh về tiềm năng tự nhiên cho phép tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập với số vốn đầu tư tương đối ít.
Thứ tư, sử dụng có hiệu quả hơn chương trình mục tiêu của nhà nước nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo và tạo lập cơ sở phát triển ban đầu cho các địa phương có điều kiện khó khăn.
Với nguồn lực trong nước còn hạn hẹp, việc đẩy nhanh tiến trình CNH - HĐH đòi hỏi tập trung phát triển một số vùng có khả năng tăng trưởng nhanh. Khi các “ đầu tầu ” này đã phát triển mạnh nó sẽ lan toả ra các vùng khác tạo sự phát triển đồng bộ, góp phần thúc đẩy sự phát triển đồng bộ trên cả lãnh thổ.
3.5. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong xu thế toàn cầu hoá, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng được tiến hành thuận lợi và càng thành công nhanh chóng bấy nhiêu. Do vậy mà mở rộng kinh tế đối ngoại là hoạt động mang tính tất yếu đối với mỗi quốc gia. Để nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại chúng ta cần:
Tạo nền kinh tế chính trị ổn định, đảm bảo sự ổn định về môi trường kinh tế chính trị, xã hội.
Ban hành, hoàn thiện, sửa đổi hệ thông luật pháp mang tính linh hoạt đáp ứng nhu cầu hội nhập.
Nhà nước thống nhất quản lí trên tầm vĩ mô mọi hoạt động kinh tế đối ngoại.
Xây dựng một số Tổng công ty hoặc tập đoàn lớn có uy tín, có khả năng cạnh tranh trong quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Muốn hội nhập kinh tế quốc tế thì không thể không phát triển kinh tế đối ngoại. Đối với nước ta hiện nay việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là một vấn đề bức thiết được đảng và nhà nước quan tâm, nâng cao ảnh hưởng của kinh tế đối ngoại góp phần thúc đẩy quá trình tăng trưởng nhanh hơn, bền vững hơn.
KẾT LUẬN
Việc lựa chọn mô hình CNH –HĐH rút ngắn hiện đại là một tất yếu khách quan trong thời kì xây dựng CNXH. Do đó Đảng và nhà nước đã có nhiều chủ trương nhằm thúc đẩy thực hiện con đường CNH –HĐH được thuận lợi hơn. Việt Nam chúng ta là một trong những nước đi sau, tuy là đi sau nhưng chúng ta có rất nhiều lợi thế để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn, nhiều lợi thế như vậy do đó chúng ta cần tận dụng, khai thác các cơ hội đó một cách có hiệu quả góp phần tăng trưởng kinh tế, xây dựng đất nước theo hướng hiện đại sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới trong tiến trình hội nhập.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Giáo trình Kinh Tế Chính Trị - Nhà Xuấ́t Bản Chính Trị Quốc Gia.
Mô hình CNH-HĐH rút ngắn theo định hướng XHCN của Việt Nam trong giai đoạn tới – Đỗ Hoài Nam-Trần Đình Thiên – Nghiên Cứu Kinh Tế số 300.
Tạp chí kinh tế và phát triển.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35787.doc