Đề tài Định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất quan trọng của người phụ nữ

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG I 8 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 8 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 8 2. Cơ sở lý luận 9 3. Các khái niệm công cụ 10 3.1. Khái niệm “Giá trị” 10 3.2. Khái niệm “Định hướng giá trị” 11 3.3. Khái niệm “Sinh viên” 12 3.4. Khái niệm “Phẩm chất” 13 3.5. Khái niệm “Chuẩn mực” 13 3.6. Khái niệm “Truyền thống” 13 3.7. Khái niệm “Hiện đại” 14 CHƯƠNG II 15 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ 15 1. Định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất truyền thống của người phụ nữ 15 2. Định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất hiện đại của người phụ nữ 21 3. Định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất lý tưởng của người phụ nữ 26 4. Kết luận - khuyến nghị 31 4.1. Kết luận 31 4.2. Khuyến nghị 32

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2509 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất quan trọng của người phụ nữ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất quan trọng của người phụ nữ (Qua khảo sát tại khoa Văn học, Đông phương học, Xã hội học - Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội) PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Con người là nhân tố chìa khoá” chính vì lẽ đó mà việc phát triển con người luôn là một vấn đề được quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Trong xu hướng thế mở cửa hội nhập hiện nay, việc phát triển về nhân cách, phẩm chất của con người là một việc làm hết sức cần thiết để mỗi người có thể tự khẳng định phong cách của chính mình. Đặc biệt là đội ngũ tri thức trẻ- chủ nhân tương lai của đất nước, cần có định hướng đúng đắn về các giá trị trong cuộc sống. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam (trang 124) cũng đã đề cập tới vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức trong giai đoạn cách mạng mới - giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Việc nghiên cứu định hướng giá trị của sinh viên tri thức trẻ có một ý nghĩa quan trọng nhằm tìm hiểu những quy luật tiềm ẩn trong thế giới tinh thần của họ, từ đó nắm vững những phẩm chất cần phải đào tạo để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Trong báo cáo này, chúng tôi nhấn mạnh vào việc tìm hiểu những phẩm chất quan trọng của người phụ nữ thông qua nhận xét, đánh giá của tầng lớp sinh viên. Có thể nói, trong sự vận động và phát triển đi lên của của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng không thể không kể đến vai trò to lớn của người phụ nữ. Từ thời phong kiến do nặng tâm lý trọng nam khinh nữ nên người phụ nữ luôn phải cam chịu và chấp nhận số phận. Song từ những năm 60, 70 “phong trào giải phóng phụ nữ mới” đã cuốn hút việc nghiên cứu phụ nữ với ý nghĩa giáo dục và nhân văn sâu sắc. Sự phát triển của kinh tế văn hoá xã hội và việc thay đổi cách suy nghĩ đã khiến cho người phụ nữ dần dần được giải phóng được học hành, tham gia hoạt động xã hội nhiều hơn và họ đã gặt hái đượckhông ít những thành công trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Năm 1958, Liên Hợp Quốc đã tổ chức hội nghị tại Narabi (thủ đô Kênia) và vạch ra “chiến lược vì sự tiến bộ của phụ nữ”. Vì thế của người phụ nữ ngày càng được nâng cao, đòi hỏi họ phải có những phẩm chất cần thiết, đáp ứng được với nhu cầu của xã hội. Những lý do trên cho thấy việc định hướng về các phẩm chất của người phụ nữ là vấn đề thiết thực mà đội ngũ sinh viên tri thức trẻ cần phải được quan tâm. Chính vì lẽ đó mà chúng tôi đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài “Định hướng giá trị của sinh viên vì những phẩm chất quan trọng của người phụ nữ”. 2. Ý nghĩa của đề tài 2.1. Ý nghĩa lý luận Bằng việc tìm hiểu thực tế, vận dụng các phương pháp đã được học, báo cáo này góp phần giúp cho sinh viên hoàn thiện hơn các kiến thức chuyên ngành: Xã hội học Văn hoá, Xã hội học về Giới. Trong quá trình viết bào cáo thực tập đề tài còn giúp cho sinh viên nâng cao khả năng vận dụng các lý thuyết của xã hội học vào nghiên cứu thực tiễn như tương tác xã hội, cơ cấu – chứa năng, biến đổi xã hội. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài “Định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất quan trọng của người phụ nữ” là một tìm hiểu bước đầu về quan điểm, đánh giá của sinh viên trường Đại học Khoa học xã hội Nhân văn về những phẩm chất quan trọng của người phụ nữ, từ đó tìm ra một hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp, lý tưởng, phù hợp với sự phát triển của xã hội ngày nay. Kết quả của báo cáo này cũng góp phần giúp các bạn sinh viên trau dồi và hoàn thiện bản thân, hướng tới mẫu hình người phụ nữ lý tưởng với các phẩm chất, nhân cách tốt đẹp. 3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu. 3.1. Đối tượng nghiên cứu Định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất quan trọng của người phụ nữ, 3.2. Khách thể nghiên cứu Sinh viên trừờng Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn (qua khảo sát tại 3 khoa: Văn học, Đông Phương, Xã hội học). 3.3. Phạm vi nghiên cứu - Không gian: Tập trung nghiên cứu chủ yếu tại 3 khoa trường Đại học KHXH&NV. - Thời gian: từ 31/12 đến 20/2/2004 3.4. Mâũ nghiên cứu. Do thời gian hạn hẹp, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát 65 phiếu, và thu về 58 phiếu. Trong đó: * Cơ cấu năm học và ngành học. * Cơ cấu giới * Cơ cấu nơi ở trước khi vào đại học. 4. Mục đích nghiên cứu 4.1.Tìm hiểu quan điểm, đánh giá của sinh viên về những phẩm chất quan trọng của người phụ nữ. 4.2.Việc giữ gìn và phát huy các phẩm chất truyền thống tốt đẹp, đồng thời tiếp thu những phẩm chất mới phù hợp với điều kịên tự nhiên, kinh tế- xã hội hiện nay. 4.3. Vấn đề tự hoàn thiện bản thân của sinh viên nhằm hướng tới mẫu hình người phụ nữ với các phẩm chất lý tưởng. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1.Phương pháp luận Dựa trên nguyên tắc lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bên cạnh đó, áp dụng các lý thuyết của nhiều môn học như: xã hội học Văn hoá, Đạo đức học, Tâm lý học... 5.2. Phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp phỏng vấn bảng hỏi Đây là phương pháp cơ bản mà chúng tôi sử dụng khảo sát thực tế nhằm thu thập thông tin. Kết cấu bảng hỏi gồm 10 câu, xoay quanh vấn đề cần nghiên cứu. - Phương pháp phỏng vấn sâu Trong quá trình thu thập thông tin, kết hợp với phỏng vấn bảng hỏi, chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu đối tượng về vấn đề quan tâm. Qua đó khai thác sâu hơn về đề tài cũng như bổ sung thêm nhiều thông tin mà việc điều tra bằng bảng hỏi không thể thực hiện được. - Phương pháp quan sát Là một trong những phương pháp thu thập thông tin thực nghiệm mà thông qua tri giác nghe, nhìn để thu thập thông tin về quá trình các hiện tượng xã hội. Phương pháp quan sát là cách thức quan trọng cho việc thu thập thoong tin từ thực tế và là phương tiện cần thiết cho các nhà xã hội học tiếp cận với thực tế. Phương pháp này được kết hợp với quá trình đi phỏng vấn bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu, từ đó có được những thông tin chính xác nhằm cung cấp, trợ giúp cho đề tài nghiên cứu. Chúng tôi đã tiến hành quan sát hành vi, lối sống, hoạt động, giao tiếp, mối quan hệ xã hội... của sinh viên, qua đó thấy được các phẩm chất cũng như việc định hướng giá trị về các phẩm chất quan trọng của người phụ nữ. - Phương pháp phân tích tài liệu Phương pháp phân tích tài liệu thực chất là cải biến mục đích của thông tin có sẵn trong các tài liệu, hay nói cách khác là xem xét các thông tin có sẵn trong các tài liệu để rút ra những thông tin cần thiết nhằm đáp ứng những mục tiêu nghiên cứu của một đề tài nhất định. Trong báo cáo này, chúng tôi đã sử dụng những kiến thức và thông tin có được trong các tài liệu, sách báo, đề tài nghiên cứu... về định hướng giá trị và các phẩm chất quan trọng của người phụ nữ. 6. Giả thuyết nghiên cứu - Quan điểm của sinh viên về các phẩm chất truyền thống của người phụ nữ đã có sự thay đổi. - Sinh viên đánh giá cao các phẩm chất hiện đại của người phụ nữ nhằm đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế- văn hoá- xã hội ngày nay. - Xu hướng kết hợp các phẩm chất truyền thống và phẩm chất hiện đại để có được phẩm chất lý tưởng, tiến tới hoàn thiện mẫu hình người phụ nữ trong tương lai. 7. Khung lý thuyết Các điều kiện KT-XH Gia đình Nhà trường Môi trường xã hội Định hướng giá trị của sinh viên Phẩm chất truyền thống Phẩm chất hịên đại Phẩm chất lý tưởng CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu “Phụ nữ là một nửa bầu trời”, do đó vấn đề nghiên cứu về phụ nữ là rất cần thiết. Bà Joan Kelly- sử gia nổi tiếng người Anh đã từng nói: “ Chúng ta có thể phải khôi phục địa vị của người phụ nữ trong lịch sử vì phụ nữ phải xây dựng lại lịch sử của chúng ta”. Điều đó đã khẳng định vai trò to lớn của người phụ nữ trong xã hội. Ở nước ta hiện nay, người phụ nữ đang ngày càng tham gia đông đảo, tích cực và thành công trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xứng đáng với danh hiệu “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Mặc dù vị thế của người phụ nữ đang ngày càng được nâng cao. song không vì thế mà họ quên đi vai trò, bổn phận làm con, làm vợ, làm mẹ... của mình. Họ vẫn không ngừng học hỏi và trau dồi bản thân để khẳng định phẩm chất đáng quý của người phụ nữ không chỉ “giỏi việc nước” mà còn “đảm việc nhà”. Tầng lớp tri thức trẻ- sinh viên cần nhận thức và định hướng đúng đắn về những phẩm chất quan trọng của người phụ nữ. Đã có một số cuốn sách, bài viết quan tâm đến vấn đề này như: - Cuốn sách “Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục nhân cách”- PGS PTS Nguyễn Quang Uẩn, PGS PTS Nguyễn Thạc, PGS PTS Mạc Văn Trang- Hà Nội 1995. - Cuốn sách “Định hướng giá trị của sinh viên- con em cán bộ khoa học”- PGS TS Vũ Hào Quang- NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội 2001. Bài viết “Những phẩm chất nhân cách cần giáo dục cho sinh viên”- Mạc Văn Trang- Nghiên cứu định hướng và giáo dục con người số 4/1994. Trong các cuốn sách, bài viết đó, các tác giả đã đề cập đến vấn đề định hướng về phẩm chất, nhân cách của con người nói chung và của sinh viên nói riêng. Qua nghiên cứu thực tế tại ba khoa thuộc trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã giúp chúng tôi tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này. 2. Cơ sở lý luận Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng làm phương pháp luận nhận thức và giải thích các vấn đề xã hội một cách khách quan và khoa học. Quá trình nhận thức trong xã hội chỉ dừng lại xem xét bên ngoài sự vật, hiện tượng mà việc cần thiết là phải nhận thức được bản chất bên trong hoặc chỉ ra được tính quy luật vốn có của nó. Mặt khác, các sự kiện, hiện tượng trong đời sống con người phải được nhìn nhận trong mối quan hệ biện chứng. Lý thuyết cơ cấu- chức năng: Theo lý thuyết này, xã hội được nhìn nhận như một hệ thống hoàn chỉnh của sự quan hệ qua lại giữa các bộ phận. Các nghiên cứu thường xem xã hội giống như cơ thể con người, trong đó các bộ phận có những chức nãng riêng và những chức năng này thoả mãn nhu cầu của hệ thống và bộ phận. Theo Talcoltt Pasons, một hệ thống phải có khả năng duy trì hoạt động theo một mô hình xã hội, trên cơ sở đó sẽ đổi mới động cơ, hoạt động hay trong hoạt động của chính thành viên để tạo ra một hoạt động hài hoà, đồng thời có khả năng tiếp thu cái mới đối với sự biến đổi của môi trường. Lý thuyết biến đổi xã hội: Mọi xã hội cũng giống như tự nhien- không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã hội chỉ là sự ổn định của bề ngoài, còn thực tế nó không ngừng thay đổi bên trong bản thân nó. Do đó, bất cứ xã hội nào và bất cứ nền văn hoá nào cho dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng luôn luôn biến đôỉ. Và sự biến đổi đó trong xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn, và điều này làm cho ta thấy sự biến đổi đó không còn là điều mới mẻ, nó đã trở nên dường như chuyện thường ngày. Có nhiều cách quan niệm về sự biến đổi xã hội. Một cách hiểu rộng nhất, cho đó là sự thay đổi so sánh với một tình trạng xã hội hoặc một nếp sống có trước. Biến đổi xã hội là một quá trình qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi qua thời gian. 3. Các khái niệm công cụ 3.1. Khái niệm “Giá trị” Khái niệm giá trị được đề cập đến và nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học: Triết học, kinh tế học, đạo đức học, mĩ học, tâm lý học, xã hội học... Đây là một khái niệm đã từng được tranh luận quyết liệt nhất trong Xã hội học. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm “Giá trị”. Từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết định nghĩa: “Giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩ của các đối tượng thuộc thế giới chung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hoặc toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định không phải bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên mà là bởi tính chất cuốn hút ( lôi cuốn) của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi các hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng, tâm thể và mục đích”. Trong từ điển Triết học của Liên Xô do N.M.Rozental chủ biên, định nghĩa “Giá trị- những định nghĩa về mặt xã hội của các khách thể trong thế giới chung quanh, nhằm nêu bật tác dụng tích cực hoặc tiêu cực của các khách thể ấy đối với con người và xã hội (cái lợi, cái thiện và ác, cái xấu...nằm trong những hiện tượng xã hội hoặc đời sống tự nhiên)”. Từ điển Đức có nêu: “Giá trị (Triết học) là ý nghĩa tích cực của một chủ thể hoặc khách thể trong mối quan hệ với những chủ thể hoặc khách thể khác” Trong Từ điển Tiếng Việt, giá trị được định nghĩa như sau: 1. Cái gì làm cho một vật có ích lợi, có nghĩa là đáng quý về một mặt nào đó. 2. Tác dụng, hiệu lực. 3. Lao động xã hội, kết tinh trong sản phẩm hàng hoá. 4. Số đo của một đại lượng. Theo I.H.Fichter - nhà xã hội học Hoa Kỳ: “Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc xã hội đều có một giá trị” Còn theo Durkheim thì “Giá trị dù có đặc tính bề ngoài đối với tất cả các thành viên của xã hội, giá trị xã hội có thuộc tính ép buộc về mặt đạo đức vì bản thân nó phụ thuộc vào hiện thực khách quan, đồng thời nó lại là một phần của chính hiện thực khách quan đó”. Một tác giả khác có tên tuổi nổi tiếng nhất của trường phái xã hội học cơ cấu chức năng là T.Pason đã xem giá trị như là quy tắc cao nhất của hành vi, nhờ đó mà sự đồng thuận, nhất trí được thực hiện cả trong nhóm nhỏ lẫn trong xã hội tổng quát. Giá trị tham gia vào việc định hướng giá trị của hệ thống xã hội, nó quyết định xu hướng hành động xã hội. Do vậy, giá trị cũng là cái chức năng tất yếu của xã hội để duy trì và hình thành trật tự xã hội. Có thể nói “Giá trị định hướng hành vi của con người trong đời sống xã hội theo xu hướng xác định, đồng thời nó kích thích, thúc đẩy và điều chỉnh những hành động nhằm đạt tới mục tiêu cụ thể. Giá trị như là chiếc đèn dẫn đường cho các chủ thể hoạt động nhận thức được cách thức liên hệ trong các quan hệ xã hội, nó giúp cho cá nhân gia nhập vào hệ thống văn hoá xã hội nó đồng thời bổ sung cho tính liên tục và đa dạng của các nền văn hoá nhờ vào loại liên hệ căn bản trong tương tác xã hội, chính vì thế mà các nhà xã hội học cho rằng giá trị là hạt nhân của văn hoá” (Định hướng giá trị của sinh viên con em cán bộ khoa học. Vũ Hào Quang –Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội Trang 26-27). 3.2. Khái niệm “Định hướng giá trị” Theo Từ điển Bách Khoa toàn thư Xô Viết “Định hướng giá trị” là: Cơ sở tư tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mĩ giúp chủ thể đánh giá thực tại xung quanh và định hướng trong thực tại đó. Phương pháp phân loại các khách thể của cá nhân theo giá trị của chúng. Định hướng giá trị hình thành thông qua sự chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội và thể hiện trong các mục đích, tư tưởng, chính kiến, ham muốn...của nhân cách. Trong cấu trúc của hoạt động con người, định hướng giá trị gắn với gắn liền với các đặc điểm nhận thức và ý chí của nhân cách. Hệ thống định hướng giá trị tạo thành nội dung xu hướng của nhân cách và là cơ sở bên trong các mối quan hệ giữa cá nhân với thực tại. Sự phát triển định hướng giá trị là dấu hiệu của sự chín muồi nhân cách, là chỉ tiêu đo đạc tính xã hội của nhân cách... Trong từ điển “Tâm lý học tóm tắt” của Liên Xô, tác giả A.V Petrocski, MG Jrosevski quan niệm: “Định hướng giá trị là phương thức chủ thể sử dụng để phân biệt với các sự vật theo ý nghĩa của chúng đối với chính mình từ đó hình thành nội dung cơ bản của xu hướn, động cơ hoạt động. Như vậy, trong định hướng giá trị của cơ quan hệ đến cái mặt nhận thức, ý chí và cảm xúc trong sự phát triển nhân cách. Tác giả Ladov cho rằng: “Định hướng giá trị là những biểu tượng của con người về những mục đích chủ yếu của cuộc đời và các phương tiện cơ bản đạt những mục tiêu ấy. Định hướng giá trị đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các chương trình hành vi (ứng xử) lâu dài. Chúng hình thành trên cơ sở những nhu cầu của chủ thể về việc nắm vững những hình thức cơ bản của hoạt động sống trong những hình thức cơ bản của hoạt động sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể xác định và do tính chất của các quan hệ xã hội quy định. Các quan hệ xã hội này là nguồn gốc khách quan hình thành những nhu cầu ấy”. Các nhà tâm lý học xã hội thì cho rằng: Hệ thống định hướng giá trị phản ảnh hệ tư tưởng và văn hoá của xã hội cơ sở bên trong của những quan hệ giữa con người đối với những giá trị khác nhau có tính vật chất, chính trị, tinh thần và đạo đức. Định hướng giá trị của nhóm hình thành trong quá trình hoạt động cùng nhau (phụ thuộc vào vị trí của nhóm trong hệ thống cá quan hệ xã hội). 3.3. Khái niệm “Sinh viên” Thuật ngữ “sinh viên” được bắt nguồn từ một từ gốc Latinh: “Students” với nghĩa là người làm việc, học tập, tìm hiểu, khai thác tri thức (Từ điển Bách khoa thư- tiếng Nga). Hiểu theo nghĩa thông thường thì “Sinh viên” là những người đang học trong các trường Đại học, cao đẳng. 3.4. Khái niệm “Phẩm chất” Phẩm chất là cái làm nên giá trị của người hoặc vật ( Từ điển Tiếng Việt –Minh Tân, Thanh Nghi, Xuân Lãm-NXB Thanh Hoá, trang 1025 ) 3.5. Khái niệm “Chuẩn mực” Chuẩn mực là một quy tắc hành vi có giá trị phổ biến mà việc tuân thủ nó được những thành viên khác của xã hội trông đơị và thừa nhận. Như vậy, nó nói lên đặc biệt rõ cái cần phải, cái nghĩa vụ và mệnh lệnh đối với hànhvi. Chuẩn mực là khả biến trong phạm vi một nền văn hoá hay giữa các nền văn hoá, mặc dù mang tính nghĩa vụ hàm ẩn nó vẫn chỉ ra một sự tương đối. (Từ điển Xã hội học- G.Endruweit và G.Trommsdorff- NXB Thế Giới) Trong đời sống xã hội, chuẩn mực được hiểu là những quy ước chung của cả cộng đồng hay một nhóm hạn hẹp, có thể công khai hoặc ngầm ẩn, song được mọi người chia sẻ về mặt hành vi. với chức năng là điểm tựa cho hành vi, chuẩn mực xã hội điều chỉnh toàn bộ lĩnh vực quan hệ của con người, chỉ ra và quy định mỗi người cần phải xử sự như thế nào trong những tình huống cụ thể. (Xã hội học Văn hoá- Mai Văn Hai, Mai Kiệm-NXB Khoa học xã hội) 3.6. Khái niệm “Truyền thống” Truyền thống gốc từ Latinh là Tratio, nghĩa là một hoạt động gửi đi truyền lại. Theo Bách khoa của Liên Xô cũ: Truyền thống là những tục lệ, trật tự quy tắc ứng xử truyền từ đời này sang đời khác. Theo Từ điển Tiếng Việt của trung tâm Từ điển Triết học(Trang 1027,1081)-NXB Khoa học và xã hội : Truyền thống theo nghĩa danh từ là thói quen hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, truyền thống là những tục lệ, trật tự quy tắc ứng xử, phong tục tập quán đã đạt giá trị chuẩn mực trên các lĩnh vực của lối sống được truyền từ đời này sang đời khác. 3.7. Khái niệm “Hiện đại” Hiện đại là thời đại hiện nay (Trang 576- Từ điển Tiếng Việt - Minh Tân, Thanh Nghi, Xuân Lãm - NXB Thanh Hoá ) CHƯƠNG II KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất truyền thống của người phụ nữ Người phụ nữ Việt Nam trong chế độ phong kiến xưa luôn phải chịu những bất bình đẳng rất lớn so với nam giới. Các quy tắc, luật tục của xã hội đã trói buộc thân phận của họ từ khi sinh ra cho tới khi mất đi. Một quy tắc được áp đặt phổ biến nhất là quy tắc “tam tòng, tứ đức ”. Tam tòng có nghĩa là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Ở nhà, người con gái phải tuân theo mọi mệnh lệnh, mọi sự chỉ bảo, dạy dỗ của cha đẻ. Người xưa thường có câu: “Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư”. Có thể nói vị thế của người cha trong gia đình là quan trọng nhất, mọi việc đều do người cha quyết định kể cả việc lựa chọn người chồng tương lai cho con cái họ. Nhưng khi về nhà chồng, người phụ nữ lại phải tuân thủ người chồng, họ không có quyền định đoạt bất cứ việc gì trong gia đình, không những thế họ còn phải có trách nhiệm thực hiện tất cả những công việc, quy tắc ứng xử, lối sống... mà người chồng áp đặt cho. Thậm chí khi người chồng qua đời, người phụ nữ cũng không có quyền quyết định cuộc đời mình mà phải tiếp tục tuân thủ con trai của mình. Có thể nói, quy tắc “tam tòng” đã trói buộc người phụ nữ suốt đời phụ thuộc vào người đàn ông trong gia đình. Bên cạnh đó, người phụ nữ còn phải luôn giữ được phẩm chất “tứ đức” đó là: công, dung, ngôn, hạnh. “Công” nghiã là công việc, người phụ nữ phải chăm chỉ lao động, đảm đang mọi công việc nội trợ trong gia đình. “Dung” nghĩa là dung nhan, là hình thức bên ngoài. Người phụ nữ phải biết ăn mặc gọn gàng, kín đáo và phù hợp với từng hoàn cảnh. “Ngôn” nghĩa là ngôn từ, lời nói cần phải đúng mực, cư xử tốt, đúng bổn phận của mình. “Hạnh” nghĩa là đức hạnh, người con gái phải trong trắng thuỷ chung, có đạo đức tốt. Đây là những phẩm chất đạo đức truyền thống mà người phụ nữ xưa kia phải thực hiện như một nghĩa vụ. Song, liệu trong sự phát triển của nền kinh tế- văn hoá- xã hội như hiện nay, các đức tính, phẩm chất đó có còn cần thiết đối với phụ nữ hay không, và cần thiết ở mức độ nào? Trên cơ sở thu thập ý kiến khách quan của sinh viên, chúng tôi đã thấy được quan điểm, đánh giá của các bạn về vấn đề này như sau. Biểu 1: Đánh giá của sinh viên về quan điểm cho rằng “Phụ nữ hiện nay ít coi trọng các phẩm chất truyền thống ” Đa số sinh viên không đồng ý với quan điểm “Phụ nữ hiện nay ít coi trọng các phẩm chất truyền thống” chiếm (58.6%), chỉ có một số ít (15.5% ) đồng ý và 25.9% lưỡng lự không nghiêng về phía nào. “Em thấy những giá trị truyền thống là rất quan trọng, nó được xác lập từ lâu đời, hơn nữa nam giới cũng rất coi trọng các phẩm chất truyền thống nên người phụ nữ vẫn cần phải giữ gìn các phẩm chất ấy.” HTT (Nữ 22 tuổi, sv năm 2 Khoa Đông phương) Như vậy, có thể nói mặc dù xã hội ngày càng phát triển song người Việt Nam nói chung và người phụ nữ nói riêng vẫn luôn tôn trọng bản sắc văn hoá và hướng về những giá trị truyền thống. Điều quan trọng là họ đã nhận thức được những phẩm chất nào cần giữ gìn, phát huy và những phẩm chất nào cần phải có sự thay đổi cho phù hợp với thời đại. Bảng 1: Đánh giá của sinh viên về những phẩm chất truyền thống cần giữ gìn và phát huy của người phụ nữ. đơn vị: % Mức độ Phẩm chất Rất cần thiết Cần thiết Không rõ Ít cần thiết Không cần thiết Ở nhà theo cha 1,7 20,7 6,9 27,6 43,1 Lấy chồng theo chồng 10,3 25,9 3,4 41,1 19 Chồng chết theo con 3,4 5,2 5,2 32,8 53,4 Đảm đang 46,6 50 1,7 0 1,7 Cư xử đúng mực 56,9 41,1 0 1,7 0 Đạo đức tốt 67,2 31,1 0 1,7 0 Chung thuỷ 62,1 34,5 1,7 1,7 0 Nhân hậu, vị tha 53,5 43,1 0 3,4 0 Nhìn vào bảng số liệu ta thấy quy tắc “tam tòng” đã có sự thay đổi. Sinh viên không đánh giá cao các quy tắc này. Có tới 43.1% cho rằng quy tắc “ở nhà theo cha ” đã không còn phù hợp. Người con gái khi còn ở nhà không nhất thiết phải tuân thủ theo mọi mệnh lệnh và sự sắp đặt của người cha. Họ hoàn toàn có quyền quyết định cho tương lai và sự nghiệp của bản thân, cha mẹ chỉ có vai trò định hướng và đưa ra những ý kiến nhằm góp ý cho con cái. Quan niệm “chồng chết theo con” hầu như không được chấp nhận (53.4%) và 32.8% sinh viên cho rằng “ít cần thiết”. Đây là quan điểm rất dân chủ, thể hiện xu hướng giải phóng phụ nữ khỏi các lễ giáo phong kiến quá khắt khe và lỗi thời. Trong ba quy tắc ấy, chỉ có quy tắc “lấy chồng theo chồng” là có số người chấp nhận cao nhất (25.9%). Xét về tương quan năm học thì 20% sinh viên năm thứ nhất cho rằng “lấy chồng theo chồng” là cần thiết, 35.3% sinh viên năm thứ hai chia sẻ quan điểm đó và 23.8% sinh viên năm thứ tư có cùng nhận xét. Mặc dù người phụ nữ hiện nay đã có những nhận thức tiến bộ và đang khẳng định vị trí của bản thân trong xã hội, song quan niệm gia trưởng vẫn còn tồn tại trong tiềm thức của họ và việc “lấy chồng theo chồng” vẫn được nhiều người ủng hộ. Xét trong điều kiện thực tế nam giới vẫn chiếm ưu thế về quyền lực và sức mạnh thể chất. Việc đàn ông là trụ cột gia đình đã ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân, do đó người phụ nữ vẫn chấp thuận việc “lấy chồng theo chồng” là chuyện đương nhiên. Trong xu thế bình đẳng giới hiện nay, nam giới cũng đã có những thay đổi lớn về tư tưởng, họ đang ngày càng tham nhiều vào các công việc gia đình mà trước kia người phụ nữ phải một mình đảm nhận. Đây là suy nghĩ rất đúng đắn, thể hiện thái độ chia sẻ trách nhiệm của nam giới với người phụ nữ trong mọi công việc. Mặc dù vị thế của người phụ nữ trong xã hội đã được cải thiện một cách rõ rệt, song sinh viên vẫn đánh giá cao các phẩm chất truyền thống. Có 46.6% sinh viên cho rằng “đảm đang” là một phẩm chất rất cần thiết đối với người phụ nữvà 50% nhận xét đây là phẩm chất cần thiết. Xét về tương quan nơi ở trước khi vào Đại học, ta thấy các sinh viên ở nông thôn đánh giá rất cao về phẩm chất “đảm đang”với 63.2% cho rằng đây là đức tính rất cần thiết đối với người phụ nữ và 31.6% đánh giá là cần thiết. Còn sinh viên ở thành phố, thị xã thì đánh giá mức độ rất cần thiết là 38.5% và cần thiết là 59%. Có thể thấy, các sinh viên xuất thân từ nông thôn vẫn có sự chú ý nhiều hơn về phẩm chất “đảm đang”do họ tiếp xúc nhiều với các công việc đồng áng. Nhìn chung là sinh viên đã có đánh giá cao về đức tính “đảm đang”của người phụ nữ. Đây là phẩm chất quan trọng để người phụ nữ xứng đáng với danh hiệu “giỏi việc nươc, đảm việc nhà”. Không chỉ đam đang, quán xuyến được các công việc gia đình, người phụ còn cần phải “cư xử đúng mực”. Có 56.9% sinh viên coi đây là phẩm chất “rất cần thiết”và 41.4% cho rằng đức tính này là cần thiết. Cư xử đung mực nghĩa là người phụ nữ phải biết ăn nói dịu dàng, “kính trên nhường dưới”, “đi hỏi về chào”....Đây là phẩm chất quan trọng mà người phụ nữ cần chú ý. Trong số các phẩm chất truyền thống của người phụ nữ thì “đạo đức tốt”là đức tính được nhiều người ủng hộ nhất,với 67.2% sinh viên cho rằng “rất cần thiết”và 31.1% đánh giá là “cần thiết”, chỉ có 1.7% cho là “ít cần thiết”. Người phụ nữ trong chế độ cũ phải thực hiện quy tắc “tứ đức”, trong đó phẩm hạnh là một quy tắc quan trọng.Cũng có thể hiểu đạo đức tốt là lối sống lành mạnh, quan hệ đúng mực và tâm hồn trong sáng. Đây là phẩm chất và tâm hồn trong sáng. Đây là phẩm chất đáng quý mà người phụ nữ dù ở thời đại nào cũng cần phải gìn giữ và phát huy. Phẩm chất chung thuỷ. cũng được các bạn sinh viên quan tâm chú ý. Với 62.1% đánh giá đây là phẩm chất rất cần thiết và 34,5% cho rằng cần thiết. Mặc dù xã hội hiện đại có cái nhìn thông thoáng hơn về phẩm chất đạo đức của người phụ nữ, song sinh viên vẫn có đánh giá cao về phẩm chất này. Xét theo tương quan nam nữ, chúng ta thấy nam sinh viên đánh giá rất cao về phẩm chất chung thuỷ của người phụ nữ (70%) so với 60,4% sinh viên nữ có cùng ý kiến. Trong bối cảnh nền kinh tế mở cửa và sự giao thoa của nhiều nền văn hoá khác nhau, vấn đề quan hệ nam nữ đã được nhiều người nhìn nhận thoáng hơn. Song tầng lớp sinh viên có xu hướng đề cao phẩm chất chung thuỷ, điều này có ý nghĩa rất quan trọng. Phẩm chất nhân hậu, vị tha được sinh viên đánh giá là rất cần thiết (53,5%) và cần thiết (43,1%). Như vậy có thể thấy rõ định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất truyền thống của người phụ nữ. Những phẩm chất “lỗi thời” đã không được sinh viên ủng hộ, tuy nhiên chắt lọc từ những giá trị lâu đời, sinh viên vẫn coi trọng các phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Đặc biệt, tầng lớp tri thức lại có xu hướng lựa chọn mẫu hình người phụ nữ có nhiều phẩm chất truyền thống. Biểu 2. Đánh giá về người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp Qua điều tra cho thấy, có 63,8% sinh viên cho rằng đối với họ người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp nhất chính là người mẹ, trong đó có tới 80% sinh viên nam lựa chọn phương án này và chỉ có 60,4% sinh viên nữ có cùng quan điểm. Đánh giá của sinh viên cũng rất đa dạng: người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp nhất là: bà, bác, cô, dì...(6,9%); chị, em gái (1,7%); bạn bè: (3,4%), nhân vật trong phim, truyện (8,6%); nhân vật nổi tiếng (6,9%). Một điểm đáng lưu ý là một số bạn sinh viên nữ đã rất tự tin khi đánh giá bản thân hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Bên cạnh đó, sinh viên nam cũng đã đánh giá về người phụ có nhiều phẩm chất tốt đẹp chính là bạn gái, người yêu của mình. Việc trau dồi kiến thức, rèn luyện bản thân là rất cần thiết đối với sinh viên nói chung và sinh viên nữ nói riêng. Định hướng của sinh viên về các phẩm chất truyền thống của người phụ nữ có vai trò rất quan trọng. Không chỉ đánh giá về các đức tính tốt đẹp của người phụ nữ, sinh viên còn thông qua đó để phấn đấu, tu dưỡng bản thân, phát huy những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. 2. Định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất hiện đại của người phụ nữ Người ta thường nói “Phụ nữ chiếm nửa phần nhân loại”- đó là nửa phần nhân loại với những chức năng mà nửa kia của nhân loại không thể thay thế. Phu-ri-ê đã từng nói rằng “Muốn biết tính chất triệt để của một cuộc cách mạng đến đâu, ta phải xem thái độ của nó đối với phụ nữ”. Như vậy, có thể thấy vai trò của người phụ nữ trong xã hội là vô cùng quan trọng. Bảng 3. Đánh giá của sinh viên về vị trí của người phụ nữ trong xã hội hiện nay Đánh giá % Rất được coi trọng 12,1 Được coi trọng 51,7 Bình thường 34,5 ít được coi trọng 1,7 Không được coi trọng 0 Không rõ 0 Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, sinh viên trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đánh giá rất cao về vị trí và vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Ý kiến của các bạn sinh viên cũng khá đa dạng với 12,1% cho rằng vị trí của người phụ nữ trong xã hội hiện nay rất được coi trọng. Đa số sinh viên cho rằng người phụ nữ ngày nay được coi trọng (51,7%). Tuy nhiên vẫn có khá nhiều ý kiến đánh giá vị trí của người phụ nữ trong xã hội là bình thường (34,5%). Chỉ có một số ít cho rằng người phụ nữ hiện nay ít được coi trọng (1,7%), và điều đáng mừng là không có sinh viên nào cho rằng vị trí của người phụ nữ trong xã hội không được coi trọng. Những đánh giá khách quan của sinh viên đã làm rõ hơn thực tế vị trí của người phụ nữ trong xã hội hiện nay. Mặc dù người phụ nữ đã tự khẳng định được vai trò và vị thế của mình trên mọi lĩnh vực, song sự bất bình đẳng vẫn tồn tại. Có thể nói tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân, đặc biệt là nam giới. Chính vì lẽ đó, người phụ nữ Việt Nam trong xã hội ngày nay càng phải hoàn thiện hơn về phẩm chất, nhân cách của mình để chứng tỏ vai trò và vị trí của bản thân. Nếu như người phụ nữ ở chế độ cũ luôn ý thức được việc tuân thủ theo những quy tắc, tục lệ truyền thống, rèn luyện phẩm chất “tam tòng, tứ đức”, việc làm đẹp là rất giới hạn và kín đáo, thì người phụ nữ ngày nay không những trau dồi, hoàn thiện các phẩm chất tốt đẹp của bản thân mà còn phải tự chăm sóc đến hình thức bên ngoài. Biểu 3. Sự cần thiết phải quan tâm đến hình thức bên ngoài Người ta thường nói “Ăn cho mình, mặc cho người”. Việc làm đẹp cho bản thân là một nhu cầu chính đáng mà người phụ nữ dù ở tầng lớp xã hội nào cũng quan tâm, chú ý đến. Có tới 96,6% sinh viên cho rằng người phụ nữ cần thiết phải quan tâm đến hình thức bên ngoài, chỉ có 3,4% ý kiến không cho là như vậy. “Đã là phụ nữ thì ai mà chẳng mốn mình đẹp, theo em việc chăm sóc về hình thức bên ngoài là rất quan trọn, cách trang điểm, ăn mặc nhiều khi cũng thể hiện tính cách của mỗi người” (NHH, 20t, Sinh viên năm thứ 1- Khoa Văn học) Bảng 4. Đánh giá của sinh viên về mức độ quan trọng của hình thức bên ngoài đơn vị % Mức độ Hình thức Rất quan trọng Quan trọng Bình thường Ít quan tâm Không quan trọng Hình thức đẹp 8,6 39,7 46,6 1,7 3,4 Biết ăn mặc, gọn gàng 53,5 43,1 1,7 1,7 0 Biết cách làm đẹp 34,5 56,9 6,9 1,7 0 Qua điều tra cho thấy sinh viên đã có sự đề cao về hình thức bên ngoài. Đây là điều tất yếu và phù hợp với bối cảnh phát triển của nền kinh tế- văn hoá- xã hội hiện nay. Về hình thức đẹp, có thể coi đó là những nét đẹp “có sẵn” của mỗi người. Vẻ đẹp có thể toát lên từ khuôn mặt, dáng đi, nước da hay đơn giản chỉ là một nụ cười... Hình thức đẹp có thể do bẩm sinh, cũng có thể do rèn luyện mà nên, chính vì thế, đây được coi là cái vốn của mỗi người phụ nữ. Tuy nhiên, quan niệm rằng người con gái phải có hình thức đẹp đã không còn là mơ ước của đại đa số nam nữ sinh viên. Chỉ có 8,6% cho rằng hình thức đẹp là rất quan trọng, 39.7% sinh viên có ý thức đẹp cũng quan trọng. Phần lớn sinh viên cho rằng hình thức đẹp là bình thường (46,6%). Một số ít đánh giá là “Ít quan trọng” (1,7%) và không quan trọng (3,4%). Người con gái cúng nên biết cách ăn mặc đẹp, gọn gàng và phù hợp với từng hoàn cảnh. Có 53,5% sinh viên cho rằng điều đó là rất quan trọng, 43,1% cho rằng quan trọng, chỉ có 1,7% cho rằng ít quan trọng. Việc ăn mặc đúng cách cũng thể hiện được tính cách và phẩm chất của người con gái. Văn hoá thể hiện rất rõ nét qua cách ăn mặc. Không nhất thiết phải là những trang phục đắt tiền, hợp thời trang mà việc ăn mặc gọn gàng, phù hợp mới là điều quan trọng. “Sinh viên nữ trường mình ăn mặc khá “bắt mắt”, điều đó chứng tỏ các bạn rất quan tâm đến hình thức bên ngoài, tuy nhiên mình nghĩ rằng cách ăn mặc đẹp nhất là trang phục phù hợp với bản thân, không màu mè và phải kín đáo” (NTHY, Nữ, 23t, Năm thứ 4- Xã hội học) Việc làm đẹp cho bản thân là một nhu cầu tất yếu của người phụ nữ dù ở lứa tuổi nào. Người ta thường nói “Không có người phụ nữ xấu, chỉ có người phụ nữ không biết làm đẹp”. Đa số sinh viên có quan điểm là phụ nữ thì phải biết cách làm đẹp (56,9%); 34,5% cho rằng điều đó là rất quan trọng, chỉ có 6,9% đánh giá là bình thường và 1,7% nhận xét rằng ít quan trọng. Như vậy, có thể nói sinh viên trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã có những cách nhìn mới mẻ trong vấn đề chăm sóc về hình thức của người phụ nữ. Điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế mở cửa, nền văn hóa có sự giao lưu, hội nhập và phát triển như ngày nay. Người phụ nữ hiện đại không còn bó hẹp bản thân với những công việc trong gia đình. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã khiến cho họ có nhiều cơ hội để tiếp cận với những công việc ngoài xã hội. Những rào cản của định kiến đã bị phá bỏ, thay vào đó là nỗ lực vươn lên tự khẳng định mình của người phụ nữ hiện đại. Không những thế họ còn có khả năng đảm nhiệm nhiều vị trí cao trong xã hội và đạt được không ít thành công trên mọi lĩnh vực. Song, không vì thế mà họ quên đi vai trò quan trọng của mình. Xã hội càng phát triển, người phụ nữ càng phải rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế- văn hoá- xã hội. Bảng 5. Những phẩm chất cần thiết cho người phụ nữ với điều kiện kinh tế - xã hội - hiện nay Phẩm chất Tỷ lệ (%) Nội trợ giỏi 31 Biết ăn mặc, làm đẹp 36,2 Biết xã giao 46,6 Học vấn cao 50 Sức khoẻ tốt 41,1 Biết làm kinh tế 19 Năng động, tự tin 72,4 Khác 3,4 Trên đây là những định hướng của sinh viên về những phẩm chất hiện đại của người phụ nữ. Sinh viên đã có đánh giá cao về sự năng động, tự tin của người con gái, với 72,4% ý kiến cho rằng đây là phẩm chất cần thiết. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, người phụ nữ tham gia vào nhiều hoạt động và đóng góp công sức của mình trên mọi lĩnh vực thì sự năng động, tự tin là không thể thiếu được. Em thấy phụ nữ bây giờ nhiều người thành đạt lắm. Em rất khâm phục sự năng động, tự tin và ý chí vươn lên của họ. (NMH, nam, 21t, Sinh viên năm thứ 2, Đông Phương học) Học vấn cao cũng được sinh viên đánh giá là cần thiết với 50% số người được hỏi cho rằng như vậy. Đây một điều đáng mừng đối với sự phát triển của xã hội hiện nay. Các sinh viên đánh giá cao trình độ học vấn của người con gái tức là đánh giá cao về tri thức, đó là nền tảng của sự tiến bộ xã hội. Quan niệm của đạo Khổng cho rằng “Đàn bà là tiểu nhân là những kẻ khó dạy” giờ đây không còn phù hợp nữa. Người phụ nữ đang ngày càng lĩnh hội được nhiều kiến thức và khẳng định được năng lực của bản thân. Không chỉ có học vấn cao, người phụ nữ còn cần phải biết xã giao, biết ăn nói. Đây là phẩm chất mà 46,6% sinh viên cho rằng cần thiết đối với phụ nữ. Sự tiến bộ của xã hội đòi hỏi ở người phụ nữ một phong cách xã giao, cách ăn nói dịu dàng, khéo léo, đúng mực, lịch sự. Điều đó không chỉ thể hiện nghệ thuật giao tiếp mà còn phản ánh nhận thức, phẩm chất, nhân cách của người phụ nữ. Bên cạnh các phẩm chất năng động, tự tin, học vấn cao, biết xã giao, sinh viên còn đánh giá cao trong các phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội hiện nay như: biết ăn mặc, làm đẹp (36,2%), sức khoẻ tốt (41,1%), nội trợ giỏi (31%) và biết làm kinh tế (19%). Ngoài ra, có một số sinh viên cho rằng người phụ nữ ngày nay phải mạnh mẽ, sáng tạo, cá tính...Điều này chứng tỏ sinh viên rất quan tâm tới việc định hướng các giá trị về phẩm chất quan trọng của người phụ nữ. Xã hội càng tiến bộ thì xu hướng đánh giá cao vai trò, vị trí của người phụ nữ càng lớn mạnh. 3. Định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất lý tưởng của người phụ nữ Người phụ nữ lý tưởng là người hội tụ tất cả những phẩm chất tốt đẹp. Điều quan trọng không phải là tìm ra người phụ nữ đó mà đưa ra một mẫu hình chung dựa trên sự đánh giá của mọi người. Sinh viên cần có định hướng đúng về các phẩm chất được coi là lý tưởng của người phụ nữ, từ đó học tập và rèn luyện bản thân nhằm hướng tới mẫu hình người phụ nữ mà mình mong muốn. Bảng 6. Những phẩm chất lý tưởng của người phụ nữ. đơn vị: % Ý kiến Phẩm chất Rất ủng hộ Ủng hộ Bình thường Không ủng hộ Ở nhà theo cha 1,7 15,5 3,8 44,8 Lấy chồng theo chồng 5,2 25,9 56,9 31 Chồng chết theo con 0 12,1 27,6 60,3 Đảm đang, nội trợ giỏi 36,2 50 10,3 3,5 Hình thức đẹp 12,1 46,5 41,4 0 Biết ăn mặc, làm đẹp 27,6 63,8 41,4 0 Biết xã giao 43,1 53,5 3,4 0 Đạo đức tốt 65,5 27,6 6,9 0 Chung thuỷ 60,3 32,8 5,2 1,7 Nhân hậu, vị tha 55,2 36,2 8,6 0 Học vấn cao 37,9 44,8 17,3 0 Sức khoẻ tốt 36,2 53,5 10,3 0 Năng động, tự tin 53,4 41,4 5,2 0 Biết làm kinh tế 22,4 51,7 25,9 0 Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy sinh viên đánh giá cao các phẩm chất: đạo đức tốt (65,5), chung thuỷ (60,3%), nhân hậu, vị tha (55,2%) và năng động, tự tin (53,4%). Có thể nói đây là những phẩm chất quan trọng mà các bạn sinh viên cho rằng tất cần thiết đối với người phụ nữ. Một số phẩm chất khác cũng đóng vai trò quan trọng như: biết xã giao (43,1%), học vấn cao (37,9%); đảm đang, nội trợ giỏi (36,2%) và sức khoẻ tốt (35,2%). Ngoài ra người phụ nữ còn cần phải có các phẩm chất biết ăn mặc, làm đẹp (27,6%), biết làm kinh tế (22,4%), hình thức đẹp (12,1%). Theo tôi người phụ nữ lý tưởng là người thành công trong sự nghiệp, đảm đang việc nhà để có cuộc sống gia đình ổn định (MHS, nữ, 23t, SV năm thứ 4) Có thể nói, ý kiến của sinh viên thì rất đa dạng, song khi phân tích phải lựa chọn ra những phẩm chất mà họ cho là cần thiết nhất, lý tưởng nhất thì các ý kiến của sinh viên đã có sự tập trung vào một số phẩm chất quan trọng. Đây là cơ sở để đánh giá định hướng của sinh viên về các phẩm chất lý tưởng của người phụ nữ, đồng thời cũng là mẫu hình người phụ nữ mà sinh viên hướng tới. Các ý kiến đánh giá tập trung nhiều vào 5 phẩm chất sau. Bảng 7. Các phẩm chất lý tưởng của người phụ nữ. đơn vị: % Phẩm chất Tỉ lệ Năng động, tự tin 70,7 Đảm đang, nội trợ giỏi 60,3 Đạo đức tốt 60,3 Học vấn cao 51,7 Biết xã giao 48,3 Phần lớn sinh viên lựa chọn phẩm chất “năng động, tự tin” (70,7%). Có thể nói đây là đức tính rất cần thiết đối với phụ nữ trong xu thế hội nhập và phát triển đất nước hiện nay. Bên cạnh đó một phẩm chất cũng khá quan trọng là “đảm đang, nội trợ giỏi” (60,3%). Phụ nữ dù giỏi giang đến đâu, có địa vị cao trong xã hội đi chăng nữa cũng vẫn cần phải thực hiện vai trò của người phụ nữ trong nhà, có như vậy mới đảm bảo được hạnh phúc gia đình luôn bền vững. Người phụ nữ biết dung hoà giữa công việc và gia đình sẽ là người phụ nữ thành công trong cuộc sống. Phẩm chất đạo đức quan tốt cũng là một yếu tố không thể thiếu đối với người phụ nữ được coi là lý tưởng. Có 60,3% sinh viên ủng hộ ý kiến đó. Người phụ nữ vừa thành đạt, vừa có đạo đức sẽ được xã hội đánh giá là con người “tài đức vẹn toàn”. Sinh viên cũng đánh giá cao về trình độ học vấn của người phụ nữ với 51,7% cho rằng “học vấn cao” là phẩm chất quan trọng của người phụ nữ lý tưởng. “Biết xã giao”cũng là đức tính được nhiều sinh viên lựa chọn (48,3%). Vì phẩm chất đó không chỉ nói lên khả năng giao tiếp mà còn thể hiện tính cách của người phụ nữ. Người xưa đã có câu: “Chim khôn hót tiếng rảnh rang, người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe”. Chính vì lẽ đó mà người phụ nữ dù ở thời đại nào cũng cần phải chú ý đến cách ăn nói, cư xử của mình. Xét theo tương quan giơi tính, ta thấy : Sinh viên nam và sinh viên nữ có sự lựa chọn, đánh giá khác nhau về các phẩm chất lý tưởng. Biểu 5: Đánh giá của nữ sinh viên về các phẩm chất lý tưởng của người phụ nữ Sinh viên nữ đã có sự lựa chọn như sau: Năng động, tự tin (72,9%) là yếu tố quan trọng nhất, đạo đức tốt(64,6%) cũng là phẩm chất rất cần thiết. Đức tính đảm đang, nội trợ giỏi (62,5%) cũng không thể thiếu được, và người phụ nữ lý tưởng cần phải biết xã giao(47,9%). Đây là những phẩm chất quan trọng mà phần lớn sinh viên đều lựa chọn. Song, sinh viên nam đã có những ý kiến đánh giá mà chúng ta cần chú ý. Biểu 6: Đánh giá của nam sinh viên về các phẩm chất lý tưởng của người phụ nữ Nam sinh viên đánh giá rất cao phẩm chât “biết cách ăn mặc, làm đẹp”(70%) của người phụ nữ. Đó là do: xã hội ngày càng phất triển thì nhu cầu về thẩm mỹ càng được đề cao. Con gái nên biết cách ăn mặc một chút, nói thế bạn đừng nghĩ con trai chúng tôi quá quan trọng về hình thức, nhưng nếu nhìn các bạn gái ăn mặc đẹp thì chúng tôi cũng thấy có cảm tình hơn. ( NTH, Nam, 24 t, SV năm thứ 4 ) Một điểm đáng chú ý là sinh viên nam không chú trọng quá nhiều đến “học vấn cao”như là sinh viên nữ. Có thể giải thích rằng: người con gái luôn muốn giải phóng mình khỏi những quan niệm phong kiến cổ hủ, lỗi thời. Và theo họ thì để tự khẳng định mình không hề thua kém nam giới thì việc có nhận thức, học vấn cao là rất cần thiết. Trong khi đó, nam giới vẫn có tư tưởng không muốn phụ nữ hơn mình về nhận thức, do đó họ không yêu cầu quá cao về việc người phụ nữ phải có trình độ học vấn cao. Như vậy, có thể thấy rằng mẫu hình người phụ nữ lý tưởng mà sinh viên lựa chọn là sự kết hợp của các phẩm chất truyền thống và các phẩm chất hiện đại. Trong bối cảnh kinh tế- văn hoá- xã hội hiện nay, người phụ nữ ngày càng tham gia tích cực vào mọi lĩnh vực xã hội và đạt được rất nhiều thành công. Dù vậy, người phụ nữ vẫn luôn phải có những phẩm chất tốt đẹp để tự khẳng định bản thân mình. Đặc biệt, mẫu hình người phụ nữ lý tưởng mà sinh viên lựa chọn sẽ là động lực để các bạn nữ sinh viên tự hoàn thiện phẩm chất bản thân, trở thành người có ích cho xã hội. 4. Kết luận - khuyến nghị 4.1. Kết luận Việc nghiên cứu định hướng giá trị của sinh viên sẽ cho chúng ta thấy dự báo về mô hình hành vi của một lớp người, lớp trí thức trong tương lai. Họ là đội quân quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Nghiên cứu định hướng giá trị của sinh viên về những phẩm chất quan trọng của ngươì phụ nữ là một việc làm cần thiết nhằm thấy được những ý kiến đánh giá của sinh viên về các đức tính tốt đẹp mà người phụ nữ trong xã hội hiện nay cần phải có. Qua khảo sát tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, chúng tôi đã rút ra được những kết luận như sau: Phẩm chất “tam tòng”của người phụ nữ xưa hầu như không nhận được sự ủng hộ của sinh viên. Trong bối cảnh kinh tế- văn hoá-xã hội hiện nay, phẩm chất này không còn phù hợp nữa. Sinh viên vẫn đánh giá cao các phẩm chất truyền thống của người phụ nữ như: đảm đang, cư xử đúng mực, đạo đức tốt, chung thuỷ.... Xã hội ngày càng phát triển, người phụ nữ có cơ hội tham gia vào các lĩnh vực và đã đạt được nhiều thành công. Do đó họ cần phải có nhiều phẩm chất tốt đẹp đáp ứng với yêu cầu của thời đại. Sinh viên đã có những định hướng vào các phẩm chất hiện đại của người phụ nữ như: năng đông, tự tin; học vấn cao; biét xã giao; biết ăn mặc, làm đẹp....... Sinh viên khi đánh giá về các phẩm chất lý tưởng của người phụ nữ có xu hướng kết hợp các phẩm chất truyền thống và hiện đại. Đây là mẫu hình người phụ nữ mà sinh viên mong muốn. Bên cạnh đó cũng là cơ sở để các bạn sinh viên nữ tự hoàn thiện bản thân. Đa số sinh viên cho rằng vị trí của người phụ nữ hiện nay đang được xã hội quan tâm và coi trọng. Đây cũng là một kết quả đáng mưng, góp phần vào công cuộc giải phóng phụ nữ và đem lại sự bình đẳng về giới trong sự phát triển của xã hội ngày nay. 4.2. Khuyến nghị Phụ nữ chiếm nửa phẩn nhân loại. Do đó việc nghiên cứu về phụ nữ được rất nhiều nhà khoa học quan tâm. Trong báo cáo này, chúng tôi chỉ nghiên cứu một vấn đề nhỏ, đó là những phẩm chất quan trọng của người phụ nữ qua định hướng, đánh giá của sinh viên trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn. Với kết quả thu được, chúng tôi xin đưa ra một số khuyến nghị như sau: Sinh viên cần phải trau dồi kiến thức, rèn luyện bản thân và không ngừng phấn đấu để hoàn thiện phẩm chất, nhân cách cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, trở thành người có ích cho xã hội. Nhà trường nên phát động nhiều phong trào văn hoá nâng cao nhận thức văn hoá xã hội toàn diện cho sinh viên, đồng thời khích lệ sinh viên phát huy khả năng trí tuệ của mình. Bên cạnh đó định hướng giá trị của sinh viên vào việc hoàn thiện phẩm chất của bản thân. Xã hội cần tạo ra tạo ra điều kiện cho tầng lớp tri thức trẻ tiếp cận với nền khoa học kỹ thuật hiện đại. Ngoài ra không ngừng phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cộng đồng cần phải có cách nhìn đúng đắn về vai trò và vị trí cuả người phụ nữ trong xã hội. Có như vậy mới đem lại sự bình đẳng và công bằng. Bản thân người phụ nữ cũng cần phải trân trọng các phẩm chất truyền thống, phát huy những đức tính tốt đẹp, phù hợp với xã hội hiện đại, nhằm xứng đáng với tám chữ vàng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban tặng cho người phụ nữ Việt Nam, đó là “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Xã hội học văn hoá - Mai Văn Hai, Mai Kiệm- NXB Khoa học xã hội - Hà Nội, 2003. 2. Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam - NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội 2001. 3. Xã hội học Gia đình - Mai Huy Bich - NXB Khoa học xã hội - Hà Nội 2003 4. Xã hội học về giớivà phát triển - Lê Ngọc Hùng - Nguyễn Thị Mĩ Lộc - NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2000. 5. Từ điển Xã hội học - Nguyễn Khắc Việt - NXB Thế giới 1994. 6. Phương pháp nghiên cứu Xã hội học - Phạm Văn Quyết - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2001. 7. Định hướng giá trị của sinh viên- con em cán bộ khoa học- Vũ Hào Quang- NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2001. 8. Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị - PGS PTS Nguyễn Quang Uẩn, PGS PTS Nguyễn Thạc, PGS PTS Mạc văn Trang - Hà Nội 1995. 9. Từ điển Tiếng Việt - Minh Tân, Thanh Nghi, Xuân Lãm - NXB Thanh Hoá 1998. 10. 50 từ then chốt của Xã hội học - Jean Golfin (Hiền Phong dịch, Thanh Lê giới thiệu). 11. Những vấn đề Xã hội học - Thanh Lê - NXB Thanh niên - Hà Nội 2002. 12. Từ điển Xã hội học - G. Endruweit và G.Trommsdorff-NXB Thế Giới 2001 13. Xã hội học - Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2001 14. Gia đình Việt Namvà người phụ nữ trong gia đình thời kì CNH - HĐH đất nước - Đỗ Thị Bình (chủ biên). 15. Nghiên cứu Xã hội học - NXB Chính trị Quốc gia- 1997. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXHH (0).doc
Tài liệu liên quan