Nhưng giải pháp cho ngành thương mại – dịch vụ đó là:
Thứ nhất, xây dựng một thị trường ttrong nước thống nhất, mở rộng thị trường nước ngoài. Cần mở rộng các loại hìn dịch vụ để đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Thứ hai, tạo ra những quỹ tín dụng lớn bằng cách liên kết liên doanh các ngân hàng, công ty tín dụng, nhằm đáp ứng được nhu cầu về vốn và tăng khả năng thu chi của các tổ chức tín dụng.
Thứ ba, có chính sách tài chính tiền tệ hợp lí tránh lạm phát. Với dịch vụ thì xây dựng nhiều loại hình dịch vụ. Có chính sách khuyến khích nhà đầu tư trẻ vào lĩnh vực dịch vụ quan trọng như điện tín, thông tin liên lạc, công nghệ thông tin.
Thứ tư, phát triển, cho nhập khẩu công nghệ phục vụ thương mại và dịch vụ. Có chính sách đào tạo cán bộ hợp lý đáp ứng được yêu cầu của thương mại, dịch vụ trong điều kiện hiện nay.
42 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1697 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định hướng – giải pháp cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h kinh tế xã hội chưa thích hợp và đồng bộ đã gây ra nhiều trở ngại cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ. Như chính sách đầu tư cho nông nghiệp chưa thoả đáng, cơ sở hạ tầng nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức nhất là thuỷ lợi, hệ thống tín dụng chưa tiếp cận được với người dân..v..v. Những điều này gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp của đất nước ta.
2. Thực trạng cơ cấu ngành công nghiệp
2.1. Vị trí, đặc đIểm việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở nước ta:
Ngành công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Chính vì vậy để phát triển kinh tế nhất thiết phải xây dựng một cơ cấu công nghiệp hợp lý, nhằm tận dụng và phát huy thế mạnh của đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là một quá trình mang tính qui luật phổ biến ở tất cả các nước. Song, ở nước ta nó mang đặc điểm đó là:
- Nước ta đang trong giai đọan đầu của quá trình công nghiệp hoá - Hiện đại hoá cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ yếu, trình độ trang bị kỹ thuật trong các ngành nhìn chung còn yếu kém, lao động thủ công còn phổ biến, chất lượng hàng hoá thấp, khả năng xuất khẩu bị hạn chế.
- Việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp ở nước ta cần đạt được tốc độ cao để góp phần phục vụ công nghiệp hoá theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Từ đó mới có thể giải quyết được các yêu cầu tiêu dùng ngày càng cao của dân cư, và từng bước đưa nước ta hoà nhập với sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới.
2.2. Thực trạng cơ cấu ngành công nghiệp ở nước ta
Ngành công nghiệp đã từng bước vu'ợt qua những khó khăn, thách thức và những đòi hỏi khắc nghiệt của thị trường, cố gắng vươn lên theo hướng đổi mới công nghệ, cơ cấu và tổ chức lại sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường, làm ra nhiều sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội.
Sau thời kỳ phát triển chậm và không ổn định 1986-1990 (tốc độ tăng bình quân 6,0%), ngành công nghiệp đã nhanh chóng vượt qua những thách thức của thị trường, thích nghi với cơ chế quản lý mới, dần dần khôi phục ổn định và tăng trưởng với tốc độ cao, đặc biệt là trong thời kỳ 1991 - 1995. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản lượng công nghiệp 10 năm 1991 - 2000 đạt 13%/năm so với mục tiêu đề ra là 9,5% - 12,5%, trong đó, thời kỳ 1991 - 1995 tăng 13,7%/năm, thời kỳ 1996 - 2000 dự kiến tăng 12,2%/năm. Công nghệ sản xuất của một số ngành sản xuất vật chất chủ yếu đã có những đổi mới, trình độ công nghệ được nâng lên một bước.
Công nghiệp quốc doanh được tổ chức sắp xếp lại, tăng cường đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị nên đã có bước tiến đáng kể, số lượng và chất lượng sản phẩm đều tăng. Giá trị sản xuất công nghiệp quốc doanh tăng bình quân hàng năm 11,7% thời kỳ 1991-2000, trong đó thời kỳ 1991 - 1995 tăng bình quân 13,4%/năm, thời kỳ 1996 - 2000 tăng bình quân 10%/năm.
Công nghiệp ngoài quốc doanh được khuyến khích phát triển trong những lĩnh vực mà Nhà nu'ớc không cấm với mọi quy mô và trên tất cả các địa bàn, nhưng tốc độ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài Quốc doanh tăng bình quân 10 năm (1991-2000) là 9,15%/năm, trong đó thời kỳ 5 năm (1991 - 1995) tăng bình quân 10,6%, thời kỳ 5 năm (1996 - 2000) tăng bình quân 7,7%.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh, chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng tăng nhanh, đóng góp đáng kể vào mục tiêu tăng trưởng, vào việc nâng cao trình độ công nghệ và trình độ quản lý của nền kinh tế. Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bình quân 10 năm qua tăng 22,3%, trong đó thời kỳ 5 năm (1991 - 1995) tăng bình quân 24,20%, thời kỳ 5 năm (1996 - 2000) tăng bình quân 20,40%.
Nhiều sản phẩm quan trọng có ý nghĩa chiến lược, có tác động lớn đến nhiều ngành kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng khá, đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước, không những đã thay thế được hàng nhập khẩu, tiết kiệm được ngoại tệ mà còn đóng góp đáng kể vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu cho đất nước. Kết quả sản xuất một số sản phẩm công nghiệp chính như sau:
Đơn vị tính
Mục tiêu
Thực hiện
Mục tiêu
Mục tiêu
chiến lu'ợc
5 năm do
1991
1995
2000
ĐH VIII đề ra
Điện phát ra
Tỷ Kwh
30
9,3
14,7
26
Dầu thô khai thác
Tr.tấn
16
4
7,6
16,5-17
Khí
Tr.m3
4000
1500
Than sạch
Tr.tấn
10
5
7,7
10
Thép cán
Tr.tấn
2
0,149
0,38
1,4
Phân lân các loại
1000tấn
1200
1020
Phân đạm
1000tấn
400-900
50
Vải lụa các loại
Triệu m
800
280
221
400
Giấy các loại
1000tấn
300
109
204
300
Xi măng
Tr. Tấn
18-20
3127
5854
11,5
Đường các loại
1000tấn
1000
372
593
1000
Nguồn điện tăng thêm
MW
3000
1330
Các tỉnh có điện
Tỉnh
61
61
Tỷ lệ huyện có điện
%
100
100
Tỷ lệ xã có điện
%
80
80
Dầu thô: Sản lu'ợng năm 1990 là 2,7 triệu tấn, dự kiến năm 2000 đạt 16,5 triệu tấn, gấp 6,1 lần so với năm 1990. Ngoài ra, bắt đầu từ năm 1995 đã đưa khí đồng hành vào bờ phục vụ phát điện với sản lượng năm 1999 ước đạt 1,2 tỷ m3 và năm 2000 dự kiến đạt 1,5 tỷ m3. Có thể nói dầu khí là một trong những lĩnh vực có tốc độ phát triển cao nhất trong toàn ngành công nghiệp và đã trở thành một mũi nhọn trong chiến lược phát triển năng lượng của cả nước.
Điện: Các công trình nguồn tăng nhanh, tổng công suất ngành điện đến 31/12/1998 là 4937 Mw, sản lượng điện phát ra năm 1999 tăng gấp 2,7 lần so với năm 1990 (năm 1990 là 8,79 tỷ Kwh, năm 1999 là 23,81 tỷ Kwh), dự kiến năm 2000 đạt sản lượng trên 26 tỷ Kwh. Với công suất và sản lượng điện như hiện nay đã đảm bảo cung cấp đủ và ổn định cho các nhu cầu của nền kinh tế. Các công trình lu'ới điện được đầu tư đồng bộ và bám sát các mục tiêu quan trọng phục vụ sản xuất, an ninh quốc phòng cũng như các mục tiêu xã hội. Đến năm 2000, có thể đạt được mục tiêu 100% số huyện và 80% số xã, phường trên toàn quốc có điện. Ngành điện đã thực sự trở thành nhân tố quan trọng làm tiền đề cho sản xuất và đời sống phát triển.
Than: Từ mức 4,62 triệu tấn than sạch năm 1990, đã đạt sản lượng 11,3 triệu tấn năm 1998 (xuất khẩu gần 3,2 triệu tấn), và dự kiến 10 triệu tấn năm 2000 (xuất khẩu trên 3,5 triệu tấn). Do nhu cầu than trong nước không tăng, tồn kho lớn, thị trường xuất khẩu (phần lớn là thị trường Nhật bản) có biến động nên từ năm 1999 chính phủ đã phải chủ động giảm sản lượng khai thác xuống còn khoảng 10 triệu tấn mỗi năm, trong đó dành để xuất khẩu 3,5 triệu tấn.
Thép: từ 2 khu liên hợp luyện cán thép Thái Nguyên và Biên Hoà trước đây, chúng ta đã xây dựng được một ngành công nghiệp luyện cán thép khá phong phú bằng nhiều nguồn vốn khác nhau: vốn liên doanh liên kết, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn vay... Đến nay, công suất thiết kế của ngành đạt khoảng 2 triệu tán thép cán; sản lượng thép thương phẩm năm 1999 là 1,22 triệu tấn và dự kiến năm 2000 đạt 1,4 triệu tấn. Sản lượng phôi thép tương ứng năm 1999 là 250.000 tấn (năm 1990 chỉ sản xuất 140.000 tấn thép thương phẩm và 100.000 tấn phôi thép). Nhìn chung, hiện nay ngành thép đã đảm đương được nhiệm vụ cung cấp đủ các loại thép xây dựng thông thường cho các nhu cầu tiêu dùng và sản xuất.
Xi măng: năm 1999 tổng công suất thiết kế các nhà máy xi măng đạt 18 triệu tấn, đến năm 2000 đạt khoảng 22 - 25 triệu tấn. Tuy vậy, do thị trường hạn hẹp nên sản lượng sản xuất năm 2000 dự kiến chỉ đạt trên dưới 11,5 triệu tấn, đáp ứng đủ nhu cầu xây dựng trong nu'ớc.
Vải: Năm 1990 sản xuất 318 triệu mét, sau đó liên tục giảm sút đến năm 1995 còn 222 triệu mét, nhưng từ năm 1996 lại tăng dần, đến năm 1999 đạt 317 triệu mét, dự kiến năm 2000 đạt khoảng 400 triệu mét. Nhìn chung, công suất của ngành có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu về các loại vải thông thường và một phần các loại vải cao cấp.
Giấy: Nếu nhu' năm 1990 cả nước chỉ sản xuất được 79 nghìn tấn giấy thì đến năm 1999, sản lượng đã tăng lên đến 338,2 nghìn tấn, dự kiến năm năm 2000 đạt mục tiêu đã đề ra là trên 300 ngàn tấn, gấp 3,80 lần so với sản lượng năm 1990.
Ngoài những sản phẩm chính kể trên, trong 10 năm qua, đã đưa vào sản xuất hàng loạt những chủng loại sản phẩm mới mà trước đó chưa có như ti vi, ô tô, xe máy, máy tính và nhiều loại thiết bị điện tử khác. Việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế mở, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài... đã hình thành và xây dựng được nhiều ngành công nghiệp mới, góp phần đáng kể vào thay đổi diện mạo và vị thế của ngành công nghiệp Việt Nam không những ở thị trường nội địa mà cả trên thương trường quốc tế.
Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp cũng tăng lên nhanh chóng trong 10 năm qua: Từ chỗ chỉ xuất khẩu được 1,25 tỷ USD năm 1990 (năm 1991 giảm xuống chỉ còn gần 1 tỷ USD), giá trị xuất khẩu công nghiệp đã tăng lên tới 7,1 tỷ USD năm 1999, dự kiến 7,8 tỷ USD năm 2000, đạt tốc độ 20,1%/ năm. Cơ cấu xuất khẩu công nghiệp đã dịch chuyển nhanh theo hướng tăng dần tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (từ 30% năm 1991 lên 60,3% năm 2000), vốn có giá trị gia tăng cao và sử dụng nhiều lao động, giảm tỷ trọng xuất khẩu khoáng sản và sản phẩm công nghiệp nặng (tỷ trọng giảm tương ứng từ 70% xuống 39,7%).
Trong nội bộ ngành cơ cấu đóng góp trong thời kỳ 1991 – 2000 dược phản ánh thông qua bảng số liệu sau:
Đơn vị: %
1995
2000
Toàn ngành
100
100
1. Công nghiệp khai thác
13,5
15
- Dầu khí
10,5
12
2. Công nghiệp chế tác
80,5
79
- Sản xuất thực phẩm
26,1
23,6
- SP phi kim loại
8,9
9,2
- Sản phẩm dệt
6
5,6
- Hoá chất
4,9
5,4
- SP da, giả da
3,4
4,7
- SP kim loại
3,3
2,6
- Điện tử, CNTT
3,0
3,8
3. Điện ga và nước
6
6
- Điện, ga
5,3
5,6
Nguyên nhân của sự chậm phát triển ngành công nghiệp đó là:
- Chúng ta đã duy trì quá lâu một mô hình cơ cấu kinh tế công nghiệp tương đối hỗn tạp, chưa xác định rõ ràng ngành chủ yếu, mũi nhọn của đất nước. Điều đó làm hạn chế tốc độ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế mở, hạn chế quá trình đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, hạn chế việc hòa nhập vào tình hình kinh tế khu vực và thế giới.
- Khi xem xét, phân tích và hoạch định chính sách cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ta chưa chú ý làm rõ các cơ cấu bổ xung như cơ cấu sản phẩm, cơ cấu ngành hàng sản xuất, cơ cấu ngành hàng xuất khẩu nhìn chung chúng ta còn nặng về phân tích định tính mà ít chú trọng phân tích định lượng.
Một xu hướng lành mạnh đáng quan tâm trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là xu hướng biến đổi cơ cấu và phát triển các ngành công nghiệp dựa trên cơ sở ưu tiên phân bổ vốn đầu tư và ưu tiên các điều kiện khác sang sử dụng các chính sách đòn bẩy, tăng cường liên kết kinh tế, cải thiện nội dung hoạt động của ngành và tăng quyền tự chủ của các doanh nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn hàng đầu cho sự phát triển.
3. Thực trạng cơ cấu ngành thương mại - dịch vụ
3.1. Vị trí, đặc điểm của việc chuyển dịch cơ cấu ngành thương mại và dịch vụ:
Thương mại là một ngành kinh tế có nhiệm vụ tổ chức lưu thông hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của sản xuất và dân cư trên thị trường nội địa và nhu cầu xuất khẩu. Quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, việc chuyển dịch cơ cấu thương mại và dịch vụ không chỉ mang ý nghĩa phát triển ngành Thương maị , mà còn tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu của các ngành khác như công nghiệp và nông nghiệp .
Cơ cấu thương mại và dịch vụ là một hệ thống đa cấu trúc, với nhiều mối quan hệ ràng buộc hữu cơ trong quá trình hoạt động của nó. Cơ cấu ngành về lĩnh vực kinh doanh về thực chất phản ánh cơ cấu và mối quan hệ cung cầu về hàng hoá và dịch vụ trên thị trường do cơ cấu sản xuất và cơ cấu nhu cầu quyết định. Nó tự hình thành và tự điều chỉnh thông qua trạng thái cân bằng động của mối quan hệ cung cầu. Tuy nhiên , cơ cáu thương mại và dịch vụ trên các địa bàn lãnh thổ còn có sự tham ghia của các nhân tố chủ quan và nó phản ánh trình độ tổ chức kinh tế xã hội trên các vùng lãnh thổ . Cũng như kết quả của chính sách và sự phân bố lực lượng sản xuất trên các địa bàn.
Cơ cấu ngành thương mại và dịch vụ hợp lí là một hệ cấu trúc đa phức ở trong trạng thái cân bằng động. Trên thế cân bằng đó, các mối quan hệ kinh tế được thực hiện một cách thuận lợi, thế mạnh của các vùng và các thành phần kinh tế được phát huy một cách tổng hợp. Những lợi thế về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ của đất nước và thời đại được khai thác triệt để, nhằm phục vụ dùng và tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân, đảm bảo công bằng và dân chủ, xây dựng xã hội văn minh.
Việc chuyển dịch cơ cấu thương mại dch vụ phải theo hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá đất nước, theo đó các quan hệ kinh tế được xây dựng trên cơ sở ứng dụng tiến bộ Khoa học - Kỹ thuật vào sản xuất và lưu thông hàng hoá. Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá đất nước sẽ tác động đến cơ cấu thương mại và dịch vụ, thông qua sự chuyển dịch các tầng lớp xã hội và kéo theo là sự tăng trưởng và biến đổi cơ cấu qui mô và nhu cầu tiêu dùng; thông qua việc mở rộng các nguồn vận động của hàng hoá, tiền vốn, lao động trong lưu thông, thông qua sự bố trí, tổ chức các thị trừơng trọng điểm ở thành phố, cửa khẩu, khu chế xuất, khu tự do thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá.
3.2. Thực trạng cơ cấu của ngành thương mại - dịch vụ ở nước ta
Các ngành dịch vụ đã phát triển ngày càng đa dạng, vừa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa phục vụ tốt đời sống, từng bước nâng cao chất lu'ợng phục vụ.
Ngành thương nghiệp phát triển khá, bảo đảm ngày càng tốt hơn các cân đối lớn về vật tư hàng hoá thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón, lương thực, đường... trong từng vùng và toàn quốc.
Việc lưu thông vật tư hàng hoá từng bước chuyển sang cơ chế thị trường, giá cả được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu với sự tham gia của các thành phần kinh tế, làm cho thị trường trong nước phát triển sống động, tổng mức lưu chuyển hàng hoá tăng nhanh.
Thương nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại theo hướng tạo nguồn hàng bán buôn, tham gia kinh doanh bán lẻ đối với một số mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, thép, xi măng, phân bón, giấy viết, hoá chất, mở rộng mạng lưới trao đổi, mua bán hàng hoá với thị trường nông thôn, miền núi, đô thị.
Tại các khu vực đô thị đã hình thành nhiều mô hình tổ chức kinh doanh văn minh, hiện đại như siêu thị, cửa hàng tự chọn. Hệ thống chợ được hình thành và xây dựng mới ở cả thành thị, nông thôn và miền núi. Riêng đối với các vùng còn khó khăn, chúng ta vẫn duy trì cơ chế hỗ trợ, bù giá lưu thông cho những mặt hàng thiết yếu.
Trong thời kỳ 1991-1995, tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội tăng bình quân trên 30% năm. Giá trị hàng hoá bán ra trên thị trường trong nước năm 2000 đạt gấp 12,3 lần so với năm 1990.
Trong 5 năm 1996-2000, tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ xã hội chỉ ở mức 14,1% (kể cả tốc độ tăng giá). Tình trạng khó tiêu thụ một số mặt hàng tiêu dùng trên thị trường đã làm cho các doanh nghiệp phải sản xuất cầm chừng. Trước tình hình đó, Nhà nu'ớc đã sớm ban hành nhiều cơ chế chính sách mạnh dạn nhằm mở rộng nhanh thị trường nội địa, Đặc biệt, chủ trương và các giải pháp về kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng được triển khai thực hiện, đạt được một số kết quả nhất định.
Du lịch đã có bước phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cho sản xuất và đời sống dân cư. Nhiều trung tâm du lịch được nâng cấp, trùng tu, cải tạo; các loại hình du lịch phát triển đa dạng; các tuyến du lịch mới bằng đường bộ, đường sông, đường biển, ở cả miền núi, cao nguyên, đồng bằng, vùng ven biển và hải đảo đã được nghiên cứu và đưa vào khai thác. Đặc biệt, trong những năm gần đây, đã tập trung khai thác, nâng cao giá trị nhân văn và bản sắc văn hoá dân tộc trong các tuyến du lịch, làm cho sản phẩm du lịch càng thêm phong phú, hấp dẫn du khách.
Cơ sở lưu trú du lịch đã phát triển rất nhanh, chất lư được nâng cao rõ rệt. Lực lượng lao động trong lĩnh vực du lịch phát triển nhanh, bình quân hàng năm tăng 25%; 50% số lao động đã được đào tạo qua các trường dạy nghề, các khoá bồi dưỡng ngắn hạn về du lịch.
Dịch vụ vận tải cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao lu'u hàng hoá và đi lại của nhân dân với nhiều loại phương tiện đa dạng và phương thức thuận lợi theo cơ chế kinh tế thị trường. Cơ sở vật chất ngành vận tải đã tăng lên đáng kể . Tốc độ tăng bình quân hàng năm 10 năm qua về vận chuyển hàng hoá là 9,2% và về vận chuyển hành khách là 14,25%, trong đó: thời kỳ 1991 - 1995 lần lượt là 8,5% và 20,3%; thời kỳ 1996 - 2000 là 9,82% và 8,67%.
Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển nhanh, đến nay mạng lưới viễn thông trong nước đã được hiện đại hoá về cơ bản. Tất cả các tỉnh và các huyện được trang bị tổng đài điện tử và nối với nhau qua tuyến cáp quang, các tuyến viba số. Mật độ điện thoại năm 1999 khoảng 4 máy/100 dân, tăng 13,8 lần so với năm 1991. Các thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đạt xấp xỉ 20 máy/100 dân. 75,7% số xã, phường trên toàn quốc đã có điện thoại. Mạng viễn thông đi quốc tế đu'ợc xây dựng khá hiện đại, hoàn chỉnh và ngày càng được tăng cường về quy mô với 3 cửa ngõ viễn thông đi quốc tế, 8 trạm vệ tinh và các tuyến cáp quang biển hiện đại với trên 5000 kênh liên lạc trực tiếp với gần 40 nước trên thế giới và quá giang đến các nước còn lại. Nhiều loại hình dịch vụ thông tin mới đã đi vào khai thác bước đầu thoả mãn nhu cầu thông tin thương mại của công chúng như dịch vụ điện thoại di động, INTERNET, điện thoại dùng thẻ cardphone... Về tốc độ phát triển điện thoại Việt Nam đứng hàng thứ 2 trên thế giới. Mạng lưới bưu chính với 2900 bưu cục được cơ giới hoá 100% đường thư liên tỉnh, 70% đường thư nội tỉnh, từng bước hiện đại hoá, tự động hoá các khâu giao dịch, khai thác, vận chuyển. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp bưu chính tăng bình quân hàng năm trên 15%.
Các dịch vụ tài chính, kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm,... đều có những thay đổi cơ bản về chất. Đã hình thành được thị trường dịch vụ bảo hiểm với sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, bước đầu hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Hiện nay, trên thị trường bảo hiểm Việt Nam có 9 doanh nghiệp bảo hiểm (4 doanh nghiệp Nhà nước, 2 công ty cổ phần và 3 công ty liên doanh), trong đó doanh nghiệp Nhà nu'ớc chiếm trên 90% thị phần, tiến hành hơn 40 loại sản phẩm bảo hiểm. Bảo hiểm đã góp phần thu hút một lượng vốn khá lớn, tăng khả năng tích luỹ vốn và đầu tư cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, chất lượng hoạt động các dịch vụ không cao, hiệu quả thấp, tốc độ tăng trưởng toàn ngành chậm lại nhanh trong khi ngành này chiếm tỷ trọng lớn trong GDP làm cho tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có xu hướng giảm mạnh.
Thương nghiệp chưa thực sự chủ động đóng vai trò cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Hiệu quả của kinh doanh thương nghiệp Nhà nước thấp, thương nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tuy phát triển nhanh về số lượng nhưng hoạt động chủ yếu vẫn là kinh doanh nhỏ lẻ hiệu quả không cao.
Dịch vụ vận tải đang là vấn đề cực kì bức xúc hiện nay, nhất là vận tải công cộng ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Ngành giao thông vận tải chưa chuyển hướng kịp thời trong việc quản lý mạng lưới vận tải có nhiều thành phần tham gia, thiếu hướng dẫn cần thiết cho các thành phần kinh tế phát triển theo hướng quy hoạch, kế hoạch. Dịch vụ vận tải lên vùng cao, vùng sâu, vùng xa chưa đáp ứng được nhu cầu. Dịch vụ hàng không vẫn thua lỗ trong nhiều năm. Chất lượng vận tải kém, nhiều loại phương tiện vận tải đã được sử dụng lâu, hết thời hạn khấu hao vẫn được lưu hành, cộng với việc kiểm tra, kiểm soát giao thông không thường xuyên và nghiêm túc nên tình trạng tai nạn giao thông xảy ra nghiêm trọng, nhất là các loại phương tiện vận tải đường bộ, đường sông.
Ngành du lịch vẫn trong tình trạng yếu kém cả về cơ sở vật chất lẫn điều kiện và phương thức hoạt động, do đó chất lượng sản phẩm du lịch thấp và sức cạnh tranh yếu. Các khu, điểm du lịch đang đu'ợc khai thác chủ yếu ở dạng tự nhiên, chưa được đầu tư mạnh dạn bằng các nguồn vốn trong dân để nâng độ hấp dẫn khách hàng. Chương trình du lịch còn nghèo nàn, giá cả và một số phí trong du lịch còn cao (giá thuê phòng, giá vé máy bay, điện thoại, ăn uống trong khách sạn).
Các loại dịch vụ khác như tài chính, ngân hàng, tư vấn, bảo hiểm,... chậm phát triển. Giá trị dịch vụ loại hình này chỉ chiếm khoảng 2% GDP đã ảnh hưởng không tốt tới quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành thương mại và dich vụ còn bộc lộ những nhược điểm về mặt cơ cấu. Đó là:
- Cơ cấu kinh doanh chưa được thực sự hợp lí so với cơ cấu của sản xuất và cơ cấu nhu cầu tiêu dùng. Tiềm năng xuất, nhập khẩu chưa được khai thác triệt để, chậm cải tiến, hiệu quả thấp, vì hàng xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô hoặc sơ chế, hàm lượng kỹ thuật thấp. Hàng nhập chủ yếu là hàng tiêu dùng hoặc nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, còn hàng tư liệu sản xuất, thiết bị hiện đại không đáng kể. Trên thực tế, hoạt động xuất nhập khẩu chưa thực sự góp phần đầu tư cho lĩnh vực mũi nhọn, chưa tháo gỡ khó khăn cho sản xuất trong nước và chưa tạo thế đứng vững chắc ttrên thị trường thế giới.
- Tỉ lệ giữa kinh doanh Dịch vụ và Thương mại chưa hợp lí. Kinh doanh chủ yếu hướng vào phát triển dịch vụ sinh hoạt, nhưng lại thiếu định hướng quản lí , chưa quan tâm đúng mức đến kinh doanh có khả năng mở rộng nguồn thu cho ngân sách, tạo ra nhiều công ăn việc làm. Riêng trong dịch vụ sinh hoạt thì hoạt động Công - Thương nghiệp quốc doanh bị thu hẹp dần, và số tư nhân kinh doanh dịch vụ ngày càng tăng.
- Cơ cấu thị trường giữa các khu vực phát triển không đều. Thị trường thành phố phát triển nhanh, nhịp độ buôn bán khẩn trương và lực lượng hàng hoá phong phú, nhưng chủ yếu là phát triển về số lượng hộ kinh doanh, về qui mô thì nói chung còn nhỏ bé. Thị trường nông thôn ngày một tiêu điều và thị trường miền núi nhiều khi bỏ trống. Thị trường này có đặc trưng chung là kém phát triển, sức mua thấp, phát triển không đều giữa các vùng và ảnh hưởng của Thương nghiệp quốc doanh ngày một giảm. Cơ cấu kỹ thuật trong lĩnh vực thương mại tương đối lạc hậu. Trong thời kỳ bao cấp, nhà nước chỉ đầu tư xây dựng cơ bản cho ngành Thương nghiệp 6,5% cho giai đoạn 1961 – 1965 và 5% cho năm 1985 so với vốn đầu tư chung. Mức đầu tư của nhà nước cho Thương nghiệp tiếp tục chuyển sang cơ chế thị ttrường. Mạng lưới kho tàng chủ yếu là che mưa che nắng, thiếu các thiết bị bảo quản, bốc xếp, thiếu hệ thống kho chuyên dụng, lao động trong ngành Thương nghiệp nói chung đều là thủ công, cho nên năng xuất thấp và nặng nhọc. Trong toàn quốc chưa có trung tâm Thương nghiệp nào đạt trình độ hiện đại.
- Đội ngũ lao động ttrong ngành Thương nghiệp, còn nhiều hạn chế, phần lớn chưa qua đào tạo, trình độ quả lí, khả năng tiếp thị và hiểu biết luật pháp nói chung còn nhiều hạn chế. Tình hình đó gây nhiều khó khăn cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật để chuyển dịch cơ cấu ngành Thương mại - Dịch vụ theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.
Chương III: Định hướng – giảI pháp cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta
I. những định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong những năm tới ở nước ta
1. Định hướng chung:
Quá trình xây dựng kinh tế ở nước ta trong thời gian qua đã đem lại cho chúng ta rất nhiều bài học quí.
Thứ nhất, cơ cấu kinh tế ngành sẽ chuyển dịch dần từ Nông nghiệp lạc hậu sang cơ cấu Nông nghiệp – Công nghiệp, đặc biệt là Công nghiệp chế biến – Kết cấu hạ tầng – Dịch vụ và sau đó là: Công nghiệp – Nông nghiệp – Dịch vụ hiện đại. Việc xây dựng cơ cấu ngành phải phù hợp với tính qui luật về sự phát triển các ngành sản xuất vật chất, phù hợp với khả năng của đất nước và phù hợp với phân công lao động hợp tác quốc tế. Cơ cấu kinh tế đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn định.
Thứ hai, xu hướng khép kín, tự cấp, tự túc trong cơ cấu kinh tế trước đây đã phá vỡ lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối của nhiều vùng, nhiều địa phương, đã kìm hãm việc chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động xã hội và kết quả là hiẹu quả sản xuất và đầu tư thấp kém. Quá trình phá vỡ nền kinh tế khép kín, là một quá trình đẩy mạnh sự phân công lao động xã hội theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là một quá trình huy động mọi lực lượng xã hội , mọi thành phần kinh tế, mọi trình độ kỹ thuật công nghệ, mọi qui mô vào việc phát triển sản xuất hướng vào trao đổi, là một quá trình khai thác và phát huy lợi thế so sánh, mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
Thứ ba, muốn phát huy được lợi thế so sánh, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả thì phải hướng mạnh về xuất khẩu, nhưng đồng thời phải coi trọng thị trường trong nước, phát huy mọi nguồn nội lực hiện có.
Thứ tư, phải bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư. Việc bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư phải phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa, phải đối mặt với cách nghĩ, cách làm, dám thừa nhận thay đổi những quyết định sai lầm tất cả các nghành, địa phương và đơn vị cơ sở phải chủ động, quyết tâm sắp sếp lại sản xuất và xây dựng trong phạm vi của mình, cùng với trung ương thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư trong cả nước.
Thứ năm, cần thực hiện mở cửa cả bên trong và bên ngoài nền kinh tế. Khuyến khích tự do kinh doanh, làm giàu một cách chính đáng nhằm phát huy thế mạnh nội lực và tận dụng thời cơ, điều kiện của thế giới.
Với những bài học quí báu đó, đảng ta đã xây dựng nhiều định hướng ttrong từng giai đoạn nhất định, cụ thể nhằm mục tiêu đưa đất nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. đó là:
1.1. Định hướng chung cho giai đoạn 2001 đến 2010
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược 10 năm 2001 - 2010 là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc được nâng cao.
Mục tiêu cụ thể của Chiến lược là:
- Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu. ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp 16 - 17%, công nghiệp 40 - 41%, dịch vụ 42 - 43%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%.
- Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá.
- Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thống thủy nông phát triển và phần lớn được kiên cố hóa. Hầu hết các xã được sử dụng điện, điện thoại và các dịch vụ bưu chính - viễn thông cơ bản.
- Dự kiến mức tăng trưởng GDP hàng năm là 8% - 9%, tốc độ tăng xuất khẩu khoảng 14% - 15% / năm, tốc độ tăng nhập khẩu 12% - 13%/ năm. Đến năm 2010 dân số nước ta vào khoảng 92 – 95 triệu người, GDP bình quân đầu người 1300 – 1500 USD/ năm.
Các ngành hàng, mặt hàng theo thứ tự ưu tiên là:
- Ngoài những mặt hàng công nghiệp chế biến sâu đã được phát triển vào thời kỳ 1996 – 2000, trong thời kỳ này sẽ phát triển một số mặt hàng mới như sản phẩm cơ điện, xăng dầu, khí hoá lỏng, sản phẩm cao su, xi măng và vật liệu xây dựng, hoá chất, phân bón và sản phẩm thuỷ tinh, sắt thépvà sản phẩm kim loại.
- Hàng nông - lâm - thuỷ sản chế biến như gạo, cà phê, chè, lạc nhân, hạt điều đóng gói, rau quả hột, quần áo lụa tơ tằm, thuỷ sản lâm sản.
- Dịch vụ thu ngoai tệ: Tương tự thời kỳ 1996 – 2000 nhưng được phát triển với tốc độ cao hơn, qui mô lớn hơn, chất lượng đạt ngang trình độ các nước trong khu vực.
1.2. Định hướng chung cho giai đoạn 2010 đến 2020
Dự kiến tăng GDP thời kỳ này là 7% - 8%/ năm, tốc độ tăng xuất khẩu đạt 11% - 12%/ năm, nhập khẩu tăng 9% - 10% /năm. Đến năm 2020 dân số nước ta dự tính đạt 107 – 110 triệu người với GDP bình quân đầu người đạt 3000 – 3500 USD/ người/năm.
Giai đoạn này chúng ta cơ bản đã hoàn thành quá ttrình công nghiệp hoá và nền kinh tế việt nam trở thành một nước có trình độ công nghiệp ttrung bình tiên tiến. Trong thời kỳ này, bên cạnh việc tiếp tục phát triển các ngành sẵn vẫn cần lợi thế so sánh thì chúng ta nên chú trọng phát triẻn các lĩnh vực có trình độ tự động hoá cao, tạo ra hàng hoá có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới.
Các ngành hàng mặt hàng theo thứ tự ưu tiên gồm:
- Các ngành công nghiệp chế biến sâu đã dược phát triển ở thời kỳ trước, thời kỳ này chú trọng phát triển thiết bị tự động hoá, rô bốt , công nghiệp năng lượng, luyên kim, vật liệu mới, công nghệ sinh học.
- Hàng nông - lâm - thuỷ sản chế biến sâu như trước đây nhưng ở trình độ công nghệ cao chất lư tốt hơn.
- Các dịch vụ phần mềm, dịch vụ du lịch quốc tế, chuyển khẩu, tái xuất khẩu, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng dược phát triển cả về bề rộng và bề sâu với chất lượng quốc tế.
2. Định hướng cho từng ngành
2.1. Định hướng cho ngành nông - lâm - ngư nghiệp
(1)- đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái ở từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lao động,tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn. Đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đạt mục tiêu tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và về thu nhập trên một đơn vị diện tích; tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, tăng đáng kể thị phần của các nông sản chủ lực trên thị trường thế giới.
Chú trọng điện khí hóa, cơ giới hóa ở nông thôn. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu, cơ khí phục vụ nông nghiệp, công nghiệp gia công và dịch vụ; liên kết nông nghiệp – công nghiệp - dịch vụ trên từng địa bàn và trong cả nước.
Bằng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tê, xã hội nông thôn. Quy hoạch hợp lý và nâng cao hiệu quả việc sử dụng quỹ đất, nguồn nước, vốn rừng gắn với bảo vệ môi trường. Quy hoạch các khu dân cư, phát triển các thị trấn, thị xã, các điểm văn hóa ở làng xã, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần, xây dựng cuộc sống dân chủ, công bằng, văn minh ở nông thôn.
(2)- Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
Điều chỉnh quy hoạch sản xuất lương thực phù hợp với nhu cầu và khả năng tiêu thụ, tăng năng suất đi đôi với nâng cấp chất lượng. Bảo đảm an ninh lương thực trong mỗi tình huống. Xây dựng các vùng sản xuất tập trung lúa làm hàng hóa và ngô làm thức ăn chăn nuôi; tận dụng điều kiện thích hợp của các địa bàn khác để sản xuất lương thực có hiệu quả. Nâng cao giá trị và hiệu quả xuất khẩu gạo. Có chính sách bảo đảm lợi ích của người sản xuất lương thực.
Phát triển theo quy hoạch và chú trọng đầu tư thâm canh các vùng cây công nghiệp như cà-phê, cao-su, chè, điều, hạt tiêu, dừa, dâu tằm, bông, mía, lạc, thuốc lá..., hình thành các vùng rau, hoa, quả có giá trị cao gắn với phát triển cơ sở bảo quản, chế biến.
Phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm; mở rộng phương pháp nuôi công nghiệp gắn với chế biến sản phẩm; tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp.
Phát huy lợi thế về thủy sản, tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vươn lên hàng đầu trong khu vực. Phát triển mạnh nuôi, trồng thủy sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn, nhất là nuôi tôm, theo phương thức tiến bộ, hiệu quả và bền vững môi trường. Tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ; chuyển dời cơ cấu nghề nghiệp, ổn định khai thác gắn bó; nâng cao năng lực bảo quản, chế biến sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế và trong nước. Mở rộng và nâng cấp các cơ sở hạ tầng, dịch vụ nghề cá. Giữ gìn môi trường biển và sông, nước, bảo đảm cho sự tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản.
Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, nâng độ che phủ của rừng lên 43%. Hoàn thành việc giao đất, giao rừng ổn định và lâu dài theo hướng xã hội hóa lâm nghiệp, có chính sách bảo đảm cho người làm rừng sống được bằng nghề rừng. Kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp và có chính sách hỗ trợ để định canh, định cư, ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân miền núi. Ngăn chặn nạn đốt, phá rừng. Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế, tạo nguồn gỗ, nguyên liệu cho công nghiệp bột giấy, công nghiệp chế biến gỗ và làm hàng mỹ nghệ xuất khẩu; nâng cao giá trị sản phẩm rừng.
(3)- Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin. Chú trọng tạo và sử dụng giống cây, con có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. ứng dụng công nghệ sạch trong nuôi, trồng và chế biến rau quả, thực phẩm. Hạn chế việc sử dụng hóa chất độc hại trong nông nghiệp. Xây dựng một số khu nông nghiệp công nghệ cao. Tăng cường đội ngũ, nâng cao năng lực và phát huy tác dụng của cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
(4)- Tiếp tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thủy lợi ngăn mặn, giữ ngọt, kiểm soát lũ, bảo đảm tưới, tiêu an toàn, chủ động cho sản xuất nông nghiệp (kể cả cây công nghiệp, nuôi, trồng thủy sản) và đời sống nông dân. Đối với những khu vực thừơng bị bão, lũ, cùng với các giải pháp hạn chế tác hại thiên tai, phải điều chỉnh quy hoạch sản xuất và dân cư thích nghi với điều kiện thiên nhiên. Nâng cao năng lực dự báo thời tiết và khả năng chủ động phòng chống thiên tai, hạn chế thiệt hại.
(5)- Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn . Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may mặc, da – giày...) và chế biến nông sản ở thành phố về nông thôn. Có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Trên cơ sở chuyển môt bộ phận lao động nông nghiệp sang các ngành, nghề khác, từng bước tăng quỹ đất canh tác cho mọi lao động nông nghiêp, mở rộng quy mô sản xuất, tăng việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn.
Giá trị gia tăng nông nghiêp (kể cả thủy sản, lâm nghiệp) tăng bình quân hàng năm 4,0-4,5%. Đến năm 2010, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt khoảng 40 triệu tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16-17%; tỷ trọng ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên khoảng 25%. Thủy sản đạt sản lượng 3,0-3,5 triệu tấn (trong đó khoảng 1/3 là sản phẩm nuôi, trồng). Bảo vệ 10 triệu ha rừng tự nhiên, hoàn thành chương trình trong 5 triệu ha rừng. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 9-10 tỷ USD, trong đó thủy sản khoảng 3,5 tỷ USD.
2.2- Định hướng cho ngành Công nghiệp
2.2.1.Phát triển công nghiệp
Phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, như chế biến nông, lâm, thủy sản, may mặc, da – giày, điện tử - tin học, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng...
Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng: dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng... với bước đi hợp lý, phù hợp vói điều kiện vốn, công nghệ, thị trừơng, phát huy được hiệu quả.
Phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, đIện tử, tự động hóa. Chú trọng phát triển công nghiệp sản xuất phần mềm tin học thành ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng vượt trội.
Phát triển các cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết, kết hợp công nghiệp quốc phòng với công nghiệp dân dụng.
Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở.
Phát triển rộng khắp các cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ và vừa với ngành, nghề đa dạng. Đổi mới, nâng cấp công nghệ trong các cơ sở hiện có để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Sử dụng phù hợp các công nghệ có khả năng thu hút nhiều lao động. Phát triển nhiều hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn, giữa sản xuất nguyên liệu với chế biến, tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở đảm bảo hài hòa về lợi ích. Tăng tỷ lệ nội địa hóa trong công nghiệp gia công, lắp ráp. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, bảo hộ sở hữu công nghiệp, bảo vệ môi trường.
2.2.2. Phát triển ngành xây dựng
Đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và có năng lực đấu thầu công trình xây dựng ở nước ngoài. ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng và hiệu lực quy hoạch, năng lực thiết kế, xây dựng và thẩm mỹ kiến trúc. Phát triển các hoạt động tư vấn và các doanh nghiệp xây dựng, trong đo chú trọng các doanh nghiệp mạnh theo từng lĩnh vực thủy điện, thủy lợi, cảng, cầu đường... Tăng cường quản lý nhà nước về quy hoạch, kiến trúc và xây dựng.
Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp (kể cả xây dựng) bình quân trong 10 năm tới đạt khoảng 10 - 10,5%/năm. Đến năm 2010, công nghiệp và xây dựng chiếm 40 - 41% GDP và sử dụng 23 - 24% lao động. Giá trị xuất khẩu công nghiệp chiếm 70 - 75% tổng kim ngạch xuất khẩu. Bảo đảm cung cấp đủ và an toàn năng lượng (điện, dầu khí, than); đáp ứng đủ nhu cầu về thép xây dựng, phân lân, một phần phân đạm; cơ khí chế tạo đáp ứng 40% nhu cầu trong nước, tỷ lệ nội địa hóa trong sản xuất xe cơ giới, máy va thiết bị đạt 60 - 70%; công nghiệp điện tử – thông tin trở thành ngành mũi nhọn; chế biến hầu hết nông sản xuất khẩu; công nghiệp hàng tiêu dùng đáp ứng được nhu cầu trong nước và tăng nhanh xuất khẩu.
2.2.3. Kết cấu hạ tầng
Phát triển năng lượng đi trước một bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an toàn năng lượng quốc gia. Sử dụng tốt các nguồn thủy năng (kết hợp với thủy lợi), khí và than để phát triển cân đối nguồn điện. Xây dựng các cụm khí - điện - đạm ở Phú Mỹ và khu vực Tây Nam. Xúc tiến nghiên cứu, xây dựng thủy điện Sơn La. Nghiên cứu phương án sử dụng năng lượng nguyên tử. Đồng bộ hóa, hiện đại hóa mạng lưới phân phối điện quốc gia. Đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh điện; có chính sách thích hợp về sử dụng điện ở nông thôn, miền núi. Tăng sức cạnh tranh về gia điện so với khu vực.
Phát triển mạng lưới thông tin hiện đại và đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong hệ thống lãnh đạo, quản lý và các dịch vụ tài chính, thương mại, giáo dục, y tế, tư vấn... Mở rộng khả năng hòa mạng viễn thông với chi phí có khả năng cạnh tranh quốc tế; phủ sóng phát thanh, truyền hình đến các xã, thôn trong cả nước và mở rộng đến nhiều nơi trên thế giới với chất lượng ngày càng cao.
Về đường bộ, hoàn thành nâng cấp quốc lộ 1 và xây dựng đường Hồ Chí Minh. Nâng cấp, xây dựng các tuyến quốc lộ khác, chú trọng các tuyến đường biên giới, các tuyến đường vành đai và tuyến đường từ các vùng tới các trung tâm phát triển lớn, các cầu vượt sông lớn, các tuyến nối với các nước thuộc tiểu vùng sông Mê-kông mở rộng. Phát triển, nâng cấp hệ thống giao thông trên từng vùng, kể cả giao thông nông thôn, bảo đảm thông suốt quanh năm. Nâng cấp hệ thống đường sắt hiện có, mở thêm tuyến mới đến các trung tâm kinh tế. Hoàn thiện hệ thống cảng biển quốc gia và mạng lưới các cảng địa phương theo quy hoạch. Phát triển vận tải thủy, tăng năng lực vận tải biển gắn với phăt triển công nghiệp đóng và sửa chữa tàu. Hiện đại hóa các sân bay quốc tế, nâng cấp các sân bay nội địa.
Cung cấp đủ nước sạch cho đô thị, khu công nghiệp và cho trên 90% dân cư nông thôn. Giải quyết cơ bản vấn đề thoát nước và xử lý chất thải ở các đô thị.
2.3. Định hướng cho ngành dịch vụ
Phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động để mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế có hiệu quả. Hình thành các trung tâm thương mại lớn, các chợ nông thôn, nhất là ở miền núi, bảo đảm cung cấp một số sản phẩm thiết yếu cho vùng sâu, vùng xa và hải đảo; tạo thuận lợi cho việc tiêu thụ nông sản. Phát triển thương mại điện tử. Nhà nước, các hiệp hội, các doanh nghiệp phối hợp tìm kiếm, mở rộng thị trường cho sản phẩm Việt Nam.
Phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hàng hóa , hành khách ngày càng hiện đại, an toàn, có sức cạnh tranh, vươn nhanh ra thị trường khu vực và thế giới. Dành thị phần lớn cho doanh nghiệp trong nước trong vận chuyển hàng hóa Việt Nam theo đường biên và đường hàng không quốc tế. Phát triển mạnh vận chuyển hành khách công cộng ở các thành phố lớn.
Tiếp tục phát triển nhanh và hiện đại hóa dịch vụ bưu chính – viễn thông; phổ cập sử dụng Internet . Điều chỉnh giá cước để khuyến khích sử dụng rộng rãi. Đến năm 2010, số máy điện thoại, số người sử dụng Internet trên 100 dân đạt mức trung bình trong khu vục.
Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước.
Mở rộng các dịch vụ tài chính – tiền tệ như tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng khoán,... đi thẳng vào công nghệ hiện đại, áp dụng các quy chuẩn quốc tế. Từng bước hình thành trung tâm dịch vụ tài chính lớn trong khu vực.
Phát triển mạnh các dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, dịch vụ phục đời sống, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội.
Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 7 - 8%/năm và đến 2010 chiếm 42 - 43% GDP, 26 - 27% tổng số lao động.
II. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta:
1. Giải pháp chung:
Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá thì chính phủ và các cấp chính quyền địa phương phải làm ba việc thuộc chức năng của mình: qui hoạch, phát triển kết cấu hạ tầng và hỗ trợ phát triển.
Thứ nhất, phải qui hoạch tốt. đây là khâu quan trọng vì nó mở đường cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả, tránh tự phát vô tổ chức để lại hậu quả kéo dài. Sau qui hoạch phải tổ chức làm đúng theo qui hoạch tránh tình trạng làm sai, lợi dụng qui hoạch để kiếm lợi riêng.
Thứ hai , chăm lo kết cấu hạ tầng. Phát triển kết cấu hạ tầng theo qui hoạch là điều kiện quan trọng hàng đầu phục vụ cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Phải chú trọng xây dựng cả kết cấu hạ tầng kinh ttế kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội để đảm bảo cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong thời gian tới, phải tập chung cho những công trình phục vụ trực tiếp việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo qui hoạch đã nêu.
Thứ ba,hỗ rtrợ phát triển, bên cạnh việc cải thiện môi trường chung cho đàu tư kinh doanh, nhà nước khuyến khích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế bằng các chính sách hỗ trợ phát triển, chủ yếu là các lĩnh vực:
- Giúp đỡ việc tạo mặt bằng sản xuất kinh doanh bằng chính sách đát đai và các điều kiện về kết cấu hạ tầng.
- Về vốn tín dụng tiếp tục có giải pháp tăng nhanh vốn tín dụng đi liền với các chính sách và hình thức thích hợp cho các hộ gia đình và các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế có thể vay vốn đầu tư phát triển.
- ứng dụng khoa học công nghệ.
- Hỗ trợ thông tin, tiếp thị.
- áp dụng chính sách ưu đãi với các lĩnh vực, ngành nghề cần khuyến khích.
2. Giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu của các ngành kinh tế
2.1. Giải pháp cho ngành công nghiệp
Nhằm thúc đảy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu của ngành nông nghiệp các biện pháp chủ yếu được đưa ra đó là:
Thứ nhất, dự báo xu thế phát triển của thị trường. đây là giải pháp có vị trí quan trọng đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bởi vì thị trường là nhân tố khách quan, tác động nhiều mặt tới cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp cần sử dụng tổng hợp các phương pháp dự báo, các phương pháp maketing, các phương pháp toán kinh tế để dự báo đúng xu thế phát triển đó.
Thứ hai, tạo nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Sử dụng tổng hợp tất cả các biện pháp để huy động vốn và chú ý khả năng thu hồi vốn và khả năng sinh lời của một đồng vốn. Tuỳ theo đặc điểm và trình độ phát triển nền kinh tế trong từng giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá mà lựa chọn các hình thức và biện pháp thu hút nguồn vốn chủ yếu.
Thứ ba, lựa chọn công nghệ và các yếu tố đầu vào. việc lựa chọn công nghệ mới và thực hiện tốt quá trình chuyển giao công nghệ cần theo hướng ưu tiên, có lựa chọn, có trọng điểm. Hiện đại hoá công nghệ hiện có kết hợp với khai thác công nghệ truyền thống, nhằm đạt tốc độ nhanh và có hiệu quả, vừa bảo đảm tính hiện đại vừa tạo được nhiều việc làm, vùa khai thác sử dụng tốt các tiềm năng về nguyên liệu của đất nước và năng lực sản xuất của ngành.
Thứ tư, xây dựng kết cấu hạ tầng. Ngày nay, việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội cần đi trước và mở đường cho đầu tư phát triển sản xuất. Kết cấu hạ tầng phải thích ứng với yêu cầu phát triển sản xuất, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để đảm bảo hiệu quả đầu tư và sản xuất, kinh doanh sau này. Đặc biệt chú trọng đến hệ thống cung ứng điện năng ,hệ thống giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc.
Thứ năm, tăng cường quản lí vĩ mô công nghiệp. Đây là một giải pháp có tác dụng chi phối mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp. Công tác này được tiến hành trên nhiều mặt như : Hoàn thiện phương án phân bố công nghiệp theo lãnh thổ, tổ chức hình thành các khu công nghiệp, những cụm công nghiệp một cách đồng bộ .
2.2. Giải pháp cho ngành nông - lâm - ngư nghiệp
Những giải pháp cho ngành nông - lâm - ngư nghiệp bao gồm :
Thứ nhất, dự báo xu thế phát triển của thị trường. Bằng các phân tích khoa học để dự báo chính xác nhu cầu thị ttrường đối với hàng nông lâm ngư nghiệp để từ đó có kế hoạch sản xuất hợp lí.
Thứ hai, tạo vốn và sử dụng vốn. Người nông dân hầu hết là nghèo và ít vốn vì vậy khâu tạo vốn là đặc biệt quan trọng, nhằm giúp ngươi nông dân đầu tư sản xuất và buôn bán. cần khuyến khích và cho nông dân vay vốn làm ăn với lãi xuất thấp, lâu dài.
Thứ ba, xây dựng kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp. kết cấu hạ tầng là yếu tố cần thiét giúp tăng sản lượng, năng xuất nông nghiệp vì vậy cần được quan tâm thích đáng. Trước hết là xây dựng các công trình thuỷ lợi, mương, đắp đê chắn mặn.
Thư tư, đầu tư cho công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật và các yếu tố đầu vào khác. Nhà nước cần tổ chức nghiên cứu khoa học nhằm mục tiê xoay dựng nền nông nghiệp hiện đại, lấy cơ khí hoá điện khí hoá nông thôn làm cơ sở nghiên cứu tạo giống cây trồng vật nuôi mới nâng cao năng xuất rút ngắn thời vụ, thực hiện chính sách giao đất nông nghiệp lâu dài để người nông dân yên tâm sản xuất trên đất được giao.
Thứ năm, đào tạo đội ngũ cán bộ quản llí nông nghiệp có trình độ khoa học kỹ thuật – công nghệ, có năng lực phẩm chất tốt.
2.3. Giải pháp cho ngành thương mại – dịch vụ
Nhưng giải pháp cho ngành thương mại – dịch vụ đó là:
Thứ nhất, xây dựng một thị trường ttrong nước thống nhất, mở rộng thị trường nước ngoài. Cần mở rộng các loại hìn dịch vụ để đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.
Thứ hai, tạo ra những quỹ tín dụng lớn bằng cách liên kết liên doanh các ngân hàng, công ty tín dụng, nhằm đáp ứng được nhu cầu về vốn và tăng khả năng thu chi của các tổ chức tín dụng.
Thứ ba, có chính sách tài chính tiền tệ hợp lí tránh lạm phát. Với dịch vụ thì xây dựng nhiều loại hình dịch vụ. Có chính sách khuyến khích nhà đầu tư trẻ vào lĩnh vực dịch vụ quan trọng như điện tín, thông tin liên lạc, công nghệ thông tin.
Thứ tư, phát triển, cho nhập khẩu công nghệ phục vụ thương mại và dịch vụ. Có chính sách đào tạo cán bộ hợp lý đáp ứng được yêu cầu của thương mại, dịch vụ trong điều kiện hiện nay.
Tài liệu tham khảo
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần VI.
Nhà xuất bản chính trịquốc gia.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần V.II.
Nhà xuất bản chính trịquốc gia.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII.
Nhà xuất bản chính trịquốc gia.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IX.
Nhà xuất bản chính trịquốc gia.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần X.
Nhà xuất bản chính trịquốc gia.
6. Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
7. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lê nin. tập 2
Nhà xuất bản giáo dục.
Chuyển dich cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu
vực và thế giới.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Nghiên cứu kinh tế.
Số 300 tháng 5/2003.
10. Kinh tế và dự báo.
Số 9/2000.
11. Thông tin và lí luận.
Số10/1999(260).
12. Phát triển kinh tế.
Số 115/2000.
13. Tạp chí sinh hoạt lí luận.
Số 32/1999.
14. Tạp chí phát triển kinh tế.
Số 117/2000.
15. Tạp chí phát triển kinh tế.
Số 121/2000.
16. Tạp chí kinh tế và phát triển.
Số 45/2001.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành
trọng điểm ở việt nam.
Đỗ Hoài Nam (nhà xuất bản khoa học xã hội hà nội – 1996).
Nguồn Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
http\\:www. Mpi.gov.vn\
Tạp chí Cộng sản
Số 666 (1+2/1-2003).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35518.doc