Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vị trí đó xuất phát từ các lí do chủ yếu sau:
- Công nghiệp là một bộ phận hợp thành cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp -dịch vụ. Do những đặc điểm vốn có của nó, trong quá trình phát triển nền kinh tế lên sản xuất lớn, công nghiệp phát triển từ vị trí thứ yếu trở thành ngành có vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế đó.
- Mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, công nghiệp là ngành không những chỉ khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên liệu nguyên thuỷ được khai thác và chế biến từ các loại tài nguyên khoáng sản, động thực vật thành các sản phẩm trung gian, để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho con người.
- Sự phát triển của công nghiệp là một yếu tố có tính quyết định để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền kinh tế lên nền sản xuất lớn, tuỳ theo trình đọ phát triển của công nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, xuất phát từ những đặc điểm và điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia mỗi thời kì cần phải xác định đúng vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, hình thành phương án cơ cấu công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ và định hướng từ chuyển dịch cơ cấu đó một cách có hiệu quả. Đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nền kinh tế, nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia.
23 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 941 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định hướng và các giải pháp phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thời kì 2000-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các giải pháp phát triển công nghiệp tập trung vào vấn đề bố trí sản xuất, về thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra cho phát triển công nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu là vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Thời gian nghiên cứu tập trung chủ yếu vào giai đoạn 1995-1999.
Nội dung và kết cấu chuyên đề
Tên đề tài "Định hướng và các giải pháp phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thời kì 2000-2010"
Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phần bảng phụ lục, chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về công nghiệp và vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Chương II: Thực trạng phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thời kì 1995-1999.
Chương III: Phương hướng và các giải pháp phát triển chủ yếu đến năm 2010.
Chương I
Những vấn đề lí luận chung về công nghiệp và vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
I-/ Công nghiệp và sự phân loại sản xuất công nghiệp.
1.Công nghiệp và những đặc trưng chủ yếu của sản xuất công nghiệp.
1.1. Khái niệm công nghiệp.
Công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cơ bản, là khu vực chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp bao gồm ba loại hoạt động chủ yếu: Khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thuỷ, sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội, khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản xuất và trong sinh hoạt. Để thực hiện ba hoạt động cơ bản đó dưới sự tác động của phân công lao động xã hội trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công nghệ, trong nền kinh tế quốc dân hình thành hệ thống các ngành công nghiệp: khai thác tài nguyên khoáng sản, động, thực vật cá ngành sản xuất và chế biến sản phẩm và các ngành công nghiệp dịch vụ sửa chữa:
- Hoạt động khai thác là hoạt động khởi đầu của toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp. Nó cắt đứt các đối tượng ra khỏi môi trường tự nhiên.
- Chế biến là hoạt động làm thay đổi hoàn toàn về chất của các nguyên liêu nguyên thuỷ, để toạ ra sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến để tạo ra sản phẩm cuối cùng.
- Sửa chữa là một hoạt động không thể thiếu được nhằm khôi phục, kéo dài tuổi thọ của các tư liệu lao động trong các ngành sản xuất.
Từ những nội dung đã trình bày trên có thể hiểu công nghiệp là một ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, bao gồm một hệ thống các ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp, mỗi ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp đó lại bao gồm nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều loại hình thức khác nhau. Trên góc độ trình độ kĩ thuật và hình thức tổ chức sản xuất,công nghiệp còn được cụ thể hoá bằng các khái niệm khác nhau như: công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp lớn và công nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp nằm trong nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, công nghiệp quốc doanh và công nghiệp ngoài quốc doanh...
1.2. Đặc trưng của sản xuất công nghiệp.
a) Các đặc trưng về mặt kĩ thuật-sản xuất của công nghiệp
-Đặc trưng về công nghệ sản xuất: Trong công nghiệp chủ yếu là quá trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ lí hoá của con người làm thay dổi các đối tượng lao dộng thành các sản phẩm thích ứng với nhu cầu của con người. Khác với nông nghiệp quá trình tác động chủ yếu là băng phương pháp sinh học, các tác động cơ, lí, hoá trong nông nghiệp chỉ là những tác động tạo điều kiện môi trường sinh thái để cây trồng, vật nuôi có thể phát triển. Nghiên cứu đặc trưng về công nghệ sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tổ chức sản xuất và ứng dụng khoa học công nghệ thích ứng vơí mỗi ngành. Trong công nghiệp ngày nay phương pháp công nghệ sinh học cũng được ứng dụng ngày càng rộng rãi đặc biệt là công nghiệp thực phẩm.
-Đặc trưng về sự biến đổi của các đối tượng lao động sau mỗi chu kì sản xuất: Các đối tượng lao động của trình sản xuất công nghiệp sau mỗi chu kì sản xuất được thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể này chuyển sang các sản phẩm có công dụng cụ thể hoàn toàn khác. Hoặc một loại nguyên liệu sau quá trình sản xuất có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có công dụng khác nhau. Trong khi đó đối tượng lao động của sản xuất nông nghiệp sau quá trình sản xuất chỉ có sự thay đổi về lượng là chủ yếu. Nghiên cứu đặc trưng này của sản xuất công nghiệp có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn trong việc tổ chức quá trình sản xuất và chế biến, trong việc khai thác và tổng hợp nguyên liệu.
-Đặc trưng về công dụng kinh tế của sản phẩm: sản phẩm công nghiệp có khả năng đáp ứng nhiều loại nhu cầu ở các trình độ ngày càng cao của xã hội.
Sản xuất công nghiệp là hoạt động sản xuất duy nhất toạ ra các sản phẩm làm chức năng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế. Đặc trưng này cho thấy vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là một tất yêú khách quan, xuất phát từ bản chất của quá trình sản xuất đó
b) Đặc trưng về kinh tế xã hội của sản xuất.
- Do các đặc điểm về mặt kĩ thuật của sản xuất trong quá trình phát triển, công nghiệp luôn là ngành có diều kiện phát triển về mặt kĩ thuật, tổ chức sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển nhanh ở trình độ cao, nhờ đó mà quan hệ sản xuất có tính tiên tiến hơn.
-Cũng do đặc điểm kĩ thuật của sản xuất, trong quá trình sản xuất công nghiệp đào tạo ra được một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỉ luật cao, có tác phong lao động "công nghiệp".
-Cũng do đặc trưng kĩ thuật sản xuất về công nghệ và sự biến đổi của đối tượng lao động, trong công nghiêp có điều kiện và cần thiết phải phân công lao động ngày càng sâu tạo điều kiện, tiền đề để phát triển nền sản xuất hàng hoá ở trình độ cao.
Nghiên cứu các đặc trưng về kinh tế-xã hội có ý nghĩa thiết thưc trong tổ chức sản xuất, trong việc phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp đối với các ngành kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia
2. Các phương pháp phân loại sản xuất công nghiệp.
Một trong những nội dung quan trọng của tổ chức quản lí ngành công nghiệp là tổ chức sắp xếp hoạt động sản xuất công nghiệp thành các lĩnh vực các loại hình sở hữu và thành các ngành có đặc trưng chuyên môn hoá để hình thành các đối tượng quản lí có đặc trưng khác nhau, từ đó tổ chức hợp lí và có hiệu quả quá trình chuyên môn hoá trong hoạt động quản lí. Để thực hiện được điều này cần phải có phương pháp phân loại sản xuất dựa trên những căn cứ khoa học nhất định.
2.1.Phân loại công nghiệp thành hai ngành sản xuất: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.
-Căn cứ của phương pháp phân loại này là dựa vào công dụng kinh tế của sản phẩm, người ta chia công nghiệp thành các ngành sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng. Các sản phẩm có chức năng là tư liệu sản xuất thuộc nhóm A, các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng thuộc nhóm B. Vận dụng phương pháp phân loại này để sắp xếp các cơ sở sản xuất công nghiệp vào hai nhóm ngành tương ứng là công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Ngành công nghiệp nặng là tổng hợp của các đơn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệu sản xuất, đặc biệt là tư liệu lao động. Còn ngành công nghiệp nhẹ là tổng hợp các đợn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng trong sinh hoạt là chủ yếu. Căn cứ của phương pháp phân loại này là dựa vào phương hướng sản xuất kinh doanh chủ yếu và tỷ trọng sản phẩm là tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng.
- Phương pháp phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong việc vận dụng quy luật tái sản xuất mở rộng để xây dựng mô hình cơ cấu công nghiệp phù hợp cho mỗi nước trong mỗi thời kì phát triển của nền kinh tế.
2.2. Phân loại công nghiệp thành ba nhóm ngành: khai thác, chế biến, điện ga và nước.
- Đặc điểm của công nghiệp khai thác, chế biến, điện ga và nước.
Công nghiệp khai thác có nhiệm vụ cắt đứt đối tượng lao động khỏi môi trường tự nhiên, tạo thành các loại nguyên liệu nguyên thuỷ.Công nghiệp chế biến làm thay đổi về chất của các đối tượng lao động là nguyên liệu nguyên thuỷ thành các sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến thành các sản phẩm cuối cùng. Cùng với quá trình phát triển của công nghiệp thì điện, ga và nước cũng được tách ra thành một ngành chuyên môn hoá hẹp độc lập với công nghiệp khai thacs và chế biến. Việc tách công nghiệp điện, ga và nước ra thành một ngành chuyên môn hoá độc lập vừa phù hợp với quá trình phát triển công nghiệp, khẳng định vai trò của công nghiệp điện, ga và nước, đồng thời làm cho sự phân loại trở nên chính xác hơn.
- Căn cứ của phương pháp phân loại này là dựa voà tính chất khác nhau của sự biến đổi đối tượng lao động, do sự tác động của lao động và công dụng sản phẩm của các hoạt động trên.
- Phương pháp phân loại này có ý nghĩa rất lớn đối với việc thực hiện cân đối trong quá trình sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, cân đối giữa nguồn nguyên liệu và chế biến nguyên liệu, xây dựng mô hình cơ cấu kinh tế cân đối giữa khai thác tài nguyên và chế biến tài nguyên trong nền kinh tế của mỗi quốc gia.
2.3. Phân loại công nghiệp thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp.
- Ngành chuyên môn hoá hẹp là tổng hợp các xí nghiệp mà hoạt động sản xuất chủ yếu của chúng có những đặc trưng kĩ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau:
+ Cùng thực hiện một phương pháp công nghệ hoặc công nghệ tương tự (cơ, lí, hoá hoặc sinh học).
+ Sản phẩm được sản xuất từ một loại nguyên liệu hay nguyên liệu đồng loại.
+Sản phẩm có công dụng cụ thể giống nhau hoặc tương tự nhau.
Trong ba đặc trưng này thì đặc trưng về công dụng cụ thể là quan trọng nhất.
-Căn cứ của phương pháp phân loại này được dựa vào các đặc trưng kĩ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau để sắp xếp các đơn vị sản xuất kinh doanh thành các ngành chuyên môn hoá.
Phân loại theo phương pháp này có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng các mô hình cơ cấu cân đối liên ngành, đặc biệt đối với các sản phẩm chủ yếu, quan trọng của công nghiệp trong việc lựa chọn các hình thức tổ chức mối liên hệ sản xuất giữa các ngành.
2.4. Phân loại công nghiệp dựa và sự khác nhau về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức sản xuất xã hội và trình độ kĩ thuật của sản xuất công nghiệp.
-Theo phương pháp này, hình thành các loại hình công nghiệp như: công nghiệp quốc doanh, công nghiệp ngoài quốc doanh với các loại hình sở hữu khác nhau, công nghiệp lớn vừa và nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và đại công nghiệp....
-Các phương pháp phân loại này có ý nghĩa lớn trong việc hoạch định các giải pháp xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong việc tổ chức và đầu tư vào việc ứng dụng khoa học và công nghệ trong công nghiệp.
II-/ Vị trí, vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
1. Vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế.
Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vị trí đó xuất phát từ các lí do chủ yếu sau:
- Công nghiệp là một bộ phận hợp thành cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp -dịch vụ. Do những đặc điểm vốn có của nó, trong quá trình phát triển nền kinh tế lên sản xuất lớn, công nghiệp phát triển từ vị trí thứ yếu trở thành ngành có vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế đó.
- Mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, công nghiệp là ngành không những chỉ khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên liệu nguyên thuỷ được khai thác và chế biến từ các loại tài nguyên khoáng sản, động thực vật thành các sản phẩm trung gian, để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho con người.
- Sự phát triển của công nghiệp là một yếu tố có tính quyết định để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền kinh tế lên nền sản xuất lớn, tuỳ theo trình đọ phát triển của công nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, xuất phát từ những đặc điểm và điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia mỗi thời kì cần phải xác định đúng vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, hình thành phương án cơ cấu công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ và định hướng từ chuyển dịch cơ cấu đó một cách có hiệu quả. Đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nền kinh tế, nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia.
2. Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu khách quan đó xuất phát từ bản chất và những đặc điểm vốn có của sản xuất công nghiệp.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệpluôn giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được hiểu là: trong quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp là nhành có khả năng tạo ra động lực và định hướng sự phát triển các ngành kinh tế khác lên nền sản xuất lớn. Vai trò chủ đạo đó dược thể hiệh trên các mặt sau:
- Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, công nghiệp có điều kiện tăng nhanh tốc đọ phát triển khoa học công nghệ, ứng dụngcác thành tựu khoa học công nghệ đó vào sản xuất, có khả năng và điều kiện sản xuất hoàn thiện. Nhờ đó lực lượng sản xuất trong công nghiệp phát triển nhanh hơn các ngành kinh tế khác. Do quy luật "quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất", trong công nghiệp có được có được hình thức quan hệ sản xuất tiên tiến. Tính tiên tiến về các hình thức quan hệ sản xuất, sự hoàn thiện về các mô hình tổ chức sản xuất đã làm cho công nghiệp có khă năng định hướng cho các ngành kinh tế khác tổ chức sản xuất đi lên nền sản xuất lớn theo "hình mẫu", theo "kiểu" công nghiệp.
- Cũng do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, đặc biệt là đặc diểm về công nghệ sản xuất, đặc điểm về công dụng sản phẩm công nghiệp, công nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm làm chức năng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế, từ đó mà công nghiệp có vai trò quyết định trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào để xây dựng cơ sở vất chất cho toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân.
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ trang bị cơ sở vật chất- kĩ thuật, và trình độ hoàn thiện về tổ chức sản xuất, hình thành một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỉ luật và trình độ kĩ thuật cao, cộng với tính đa dạng của hoạt động sản xuất, công nghiệp là một trong những ngành đóng góp phần quan trọng trong việc tạo ra thu nhập quốc dân,tích luỹ vốn để phát triển nền kinh tế, từ đó công nghiệp có vai trò quan trọng góp phần vào việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế như: tạo việc làm, xoá bỏ cách biệt thành thị nông thôn, giữa miền xuôi với miền núi...
- Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay Đảng có chủ trương "coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu" giải quyết vấn đề cơ bản về lương thực cung cấp nguyên liệu động thực vật để phát triển công nghiệp. Để thực hiện được những nhiệm vụ cơ bản đó, công nghiệp có vai trò quan trọng cung cấp các yếu tố đầu vào và giải quyết đầu ra đưa nông nghiệp lên nền sản xuất hàng hoá.
3. Những biểu hiện của của phát triển công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế.
- Phát triển công nghiệp là sự chuyển đổi căn bản cả về chất và lượng của công nghiệp trên cơ sở đổi mới công nghệ, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động làm nền tảng cho sự phát triển nhanh, hiệu quả cao và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. Kết quả của quá trình phát triển công nghiệp là sự chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế-xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao.
- Những biểu hiện của phát triển công nghiệp:
+ Chuyển dịch trên quy mô lớn chỗ làm việc từ nhà ở sang nhà máy.
+ Tập trung dân cư ở các đô thị.
+ Sự ra đời mạng lưới giao thông vận tải, thông tin liên lạc mới, tạo ra việc làm mới và cơ hội kinh doanh mới.
+ Tăng mạnh quy mô thị trường, bên cạnh thị trường hàng hoá xuất hiện các thị trường vốn, thỉtường lao động, thị trường công nghệ, các dịch vụ tín dụng, ngân hàng và nhiều dịch vụ khác tăng mạnh.
+ áp dụng ngày càng rộng rãi các phát minh khoa học và công nghệ mới.
Những biểu hiện này tạo cho xã hôi một bộ mặt mới gọi là xã hội công nghiệp.
4. Phát triển công nghiệp và những biểu hiện của nó trong nền kinh tế quốc dân
4.1. Phát triển công nghiệp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Phát triển công nghiệp là chìa khoá để phát triển kinh tế bởi năng xuất lao động cao trong công nghiệp sẽ dẫn đến sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng sức mua, mở rộng thị trưòng hàng tiêu dùng và dịch vụ.Đặc biệt là sự phát triển của công nghiệp chế biến.Vì đây là ngành tạo ra khả năng thay thế nhập khẩu có hiệu quả và cũng là ngành có khả năng tăng xuất khẩu, giải quyết đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, cải thiệ các chỉ tiêu kinh tế xã hội. Thúc đẩy phát triển kinh tế.
4.2. Phát triển công nghiệp với quá trình đô thị hoá.
Thông qua phân bố công nghiệp mà phân bố lại dân cư ở các vùng, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng, thực hiện quá trình đô thị hoá đất nước. Quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá thường diễn ra song song bởi các lí do sau:
a) Các yếu tố có tính chất tiết kiệm.
- Dân số đông sẽ giảm được chi phí tuyển dụng nhân công vào làm công nghiệp, đặc biệt là cán bộ giỏi, công nhân lành nghề.
- Không phải tăng thêm chi phí xã hội trong việc xây dựng thêm kết cấu hạ tầng.
- Dịch vụ y tế giáo dục đã được và có điều kiện phát triển cao ở thành phố.
b) Hiệu quả kinh tế của việc hôi tụ nhiều công ty của nhiều ngành vào gần nhau.
-Gần nơi cung cấp nguyên vật liệu sẽ giảm chi phí vận chuyển và cung cấp kịp thời.
- Gần các dịch vụ sửa chữa giảm chi phí.
- Tài chính nhân hàng cũng tập trung ở thành phố thuận lợi cho hoạt động công nghiệp.
- Có điều kiện tốt cập nhật thông tin trong nước và quốc tế.
c) Tiện nghi ở thành phố tốt hơn dễ thu hút mọi người.
Trong xã hội công nghiệp nhu cầu về tiện nghi sinh hoạt rất cao và ở khu vực thành thị có khả năng đáp ứng tốt hơn, thu hút được mọi người và chính lực lượng này sẽ đóng vai trò quan trọng trong phát triển công nghiệp
4.3. Phát triển công nghiệp với giải quyết việc làm.
Ngoài việc tạo ra công cụ lao động, phương tiện sản xuất trang bị kĩ thuật cho các ngành là cơ sở vất chất cho các ngành tạo ra việc làm thì quá trình phát triển công nghiệp cũng yêu cầu một lực lượng lớn lao động mà đặc biệt là lao động có trình độ cao cho quá trình phát triển. Công nghiệp càng phát triển thiyêu cầu về lao dộng càng cao, giải quyết được việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp của nền kinh tế.
4.4. Phát triển công nghiệp với những mối liên kết trong nền kinh tế.
Quá trình phát triển công nghiệp đòi hỏi sự liên kết ngược từ các ngành khác với công nghiệp cũng như giữa các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu tiêu dùng.
- Trước hết nông nghiệp có ảnh hưởng qua lại rất lớn đối với phát triển công nghiệp. Nâng cao năng xuất lao động trong nông nghiệp giúp cho công nghiệp phát triển thuận lợi hơn và ngược lại. Mối quan hệ được thể hiện ở các mặt sau:
+ Thu nhập cao của nông dân sẽ làm tăng cầu về hàng hoá công nghiệp.
+ Năng xuất lao động nông nghiệp tăng sẽ làm tăng nguồn nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp.
+ Năng xuất lao động nông nghiệp tăng sẽ tăng nhanh lượng nông sản xuất khẩu, thu ngoại tệ tăng tạo điều kiện nhập khẩu nguyên vật liệu làm đầu vào cho công nghiệp.
+ Thu nhập của nông dân tăng sẽ tăng khả năng tiết kiệm, tăng khả năng đầu tư phát triển kinh tế.
+ Năng xuất lao động nông nghiệp tăng lên cho phép rút bớt lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp. Đây là lực lượng lao động bổ sung cho công nghiệp.
+ Công nghiệp cung cấp đầu vào và giải quyết đầu ra cho nông nghiệp, công nghiệp phát triển thu nhập người dân tăng kích thích giá nông sản tăng có lợi cho nông dân, kích thích mở rộng sản xuất nông nghiệp, tăng năng xuất cây trồng vật nuôi...
4.5. Phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường tự nhiên.
a) Một số hậu quả của quá trình phát triển công nghiệp tới môi trường tự nhiên.
Môi trường tự nhiên có vai trò quan trọng đối với phát triển công nghiệp. Từ khí quyển, thuỷ quyển, địa quyển đều có những tác động lớn nhỏ tới phát triển công nghiệp. Môi trường tự nhiên cung cấp và đảm bảo không gian cần thiết, cũng như các loại tài nguyên làm nguyên liệu đầu vào cho phát triển công nghiệp.
Sản xuất công nghiệp là quá trình biến đổi vất chất từ dạng tự nhiên của nó thành dạng vật chất có giá trị sử dụng khác nhau đáp ứng nhu cầu của con người, đồng thời làm biến đổi môi trường tự nhiên. Toàn bộ chu trình biến đổi mà công nghiệp tác đông vào môi trường có thể thấy rõ qua sơ đồ:
Môi trường tự nhiênđ Sản xuất công nghiệpđ Chất thải công nghiệp
¯
Sản phẩm có ích
¯
Quá trình tiêu dùng
¯
Chất thải
_ ¯
Cùng với quá trình phát triển công nghiệp, mức độ tác động của nó tới môi trường tự nhiên cũng tăng lên. Những thành tựu của khoa học kĩ thuật được nhanh chóng đưa vào phát triển sản xuất công nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến môi trường. Cùng với quá trình này công nghiệp phát triển nhanh chóng tăng cả về quy mô, phạm vi, tốc độ, cơ cấu đã tác động rất mạnh đển môi trường, làm biến đổi môi trường. Sự phong phú đa dạng của hoạt động sản xuất công nghiệp với một hệ thống ngành nghề ngày càng tăng, đã tạo ra hàng loạt mhững sự tác động khác nhau vào môi trường tự nhiên. Con người thông qua sản xuất công nghiệp trở thành nhân tố tác động mạnh mẽ nhất đến môi trường tự nhiên, làm cho môi trường không chỉ đơn thuần vận động theo quy luật tự nhiên nữa. Thể hiện ở các mặt sau:
Quy mô của sản xuất công nghiệp tăng không ngừng và với tốc độ nhanh hàng loạt các ngành công nghiệp mới ra đời, đã khai thác sử dụng tài nguyên với một khối lượng lớn hơn trước rất nhiều, làm cho nguồn tài nguyên trở nên cạn kiệt. Hậu quả tất yếu không thể tránh khỏi là diện tích đất đai dành cho nông nghiệp và nguồn động, thực vật giảm đi nhanh chóng, phá vỡ thảm thực vất bao phủ bề mặt trái đất, làm giảm độ màu mỡ gây bạc màu chua mặn....
Tốc độ khai thác, sử dụng các loại tài nguyên động, thực vật dùng cho chế biến công nghiệp nhamh hơn rất nhiều lần khả năng tự tái sinh của thế giới động thực vật, đã làm giảm màu xanh trên trái đất. Tình trạng khai thác rừng ồ ạt với quy mô tốc độ lớn đã làm giảm tài nguyên rừng nghiêm trọng. Nhiều loại động, thực vật trên thế giới bị diệt chủng, khoảng 60000 loài động, thực vật đangtrong tình trạng suy thoái. Đây là nguy cơ dẫn đến hậu quả khôn lường do môi trường tự nhiên tác động trở lại.
Công nghiệp khai thác tài nguyên khoáng sản phát triển nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế biến đã tác động trực tiếp to lớn đến môi trường, phá huỷ bề mặt trái đất làm thay đổi địa hình nhiều nguồn tài nguyên bị sử dụng lãng phí. Một lượng chất thải lớn hàng năm được trả lại môi trường dưới các dạng lí hoá tính khác nhau.
Tất cả những tác động đó của phát triển công nghiệp dẫn đến những hậu quả to lớn đối với môi trường cụ thể là:
+ Hiệu ứng nhà kính, do tăng lượng khí _ EMBED Equation.2 ___ dẫn đến tăng nhiệt độ môi trường.
+ Phá vỡ tâng ôzôn.
+ Bão từ.
+Ô nhiễm đất, nguồn nước, không khí. Lượng ôxi và nguồn nước giảm trong khi đó các loại khí độc như _ EMBED Equation.2 ___ ... tăng rất nhanh.
b) Những biện pháp phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường.
- Lựa chọn công nghệ thích hợp vừa đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển công nghiệp hợp lí vừa đảm bảo các tiêu chí bảo vệ môi trường.
- Hoàn thiện hệ thống tổ chức sản xuất công nghiệp theo hướng kết hợp phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường tự nhiên.
- Tổ chức công tác sử lí chất thải công nghiệp tăng cường vai trò và hoàn thiện các công cụ quản lí của nhà nước, nhằm hạn chế tác động tiêu cực của phát triển công nghiệp tới môi trường.
- Tiến hành thực hiện một số biện pháp bảo vệ môi trường theo cơ chế thị trường:
+ Đánh thuế ô nhiễm.
+ Cấp giấy phép ô nhiễm chuyển nhượng.
+ Thành lập quỹ bảo vệ môi trường.
4.6. Phát triển công nghiệp với nâng cao chất lượng cuộc sống.
Một câu hỏi được đặt ra là: Công nghiệp hoá có thực sự nâng cao chất lượng cuộc sống hay không? Câu hỏi này được đặt ra bởi vì kết quả tăng trưởng kinh tế do công nghiệp mang lại thường dẫn đến sự tắc nghẽn giao thông, sự đi lại nơi làm việc ngày càng xa, gia tăng tội phạm, ô nhiễm môi trường. Nghĩa là tạo ra các yếu tố làm giảm chất lượng cuộc sống. Đó là một thực tế nhưng để đánh giá chất lợng cuộc sống thì có rất nhiều cách thức và rất nhiều yếu tố để đánh giá rất khó có thể đưa ra được kết luận đúng trên mọi giác độ. .Ngày nay phổ biến người ta dùng ba yếu tố cơ bản là: tuổi thọ bình quân, mức độ biết chữ, sức mua thực tế của người dân. Nhưng các yếu tố phản ánh chất lượng cuộc sống này đều phụ thuộc vào mức thu nhập quốc dân (GDP) trên đầu người. Tính quy luật là khi thu nhập quốc dân theo đầu người tăng lên thì tỉ lệ dân đô thị tăng lên, tỉ lệ học sinh tăng, tỉ lệ thầy thuốc trên 1000 dân tăng, tỉ lệ người dưới mức nghèo khổ giảm, tuổi thọ trung bình tăng....Những xu hướng trên khăng định rằng phát triển công nghiệp đã dẫn đến sự thay đổi căn bản về mức sống của dân cư, cải thiện chất lượng cuộc sống.
III-/ Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ
quá trình phát triển công nghiệp như đã phân tích ở trên ảnh hưởng rất lớn đến nhiều mặt của nền kinh tế trên cả hai mặt tiêu cực và tích cực. Nhưng đồng thời với quá trình đó thì công nghiệp cũng chịu tác động của nhiều yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội. Các yếu tố đó cụ thể như sau:
1.- Tiềm năng tự nhiên.
Vị trí địa lí đây là một nguồn lực cần được xem xét khi xác định cơ cấu công nghiệp để phát triển. Đó là một tất yếu trong quá trrình xây dựng nền kinh tế mở tăng cường và mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào đời sống kinh tế của quốc gia, khu vực và thế giới. Vị trí địa lí thuận lợi là đầu mối giao lưu kinh tế quốc tế, sẽ tạo thành lợi thế so sánh với các vùng khác. Vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ có một vị trí địa lí hết sức thuận lợi, nếu tận dụng được lợi thế này thì đây là một yếu tố tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế nói chung và tới phát triển công nghiệp nói riêng.
Các loại tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, lâm sản, hải sản) và các điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết, sông hồ, bờ biển, thềm lục địa...) tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển công nghiệp của vùng. Các yếu tố này hoạc trở thành đối tượng lao động để phát triển các ngành khai thác và chế biến, hoặc trở thành điều kiện để xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên phong phú, trữ lượng lớn, điều kiện khai thác thuận lợi sẽ cho phép xây dựng cơ cấu công nghiệp gồm nhiều ngành với nền tảng vững chắc để phát triển. Cần chú ý rằng các nguồn lợi tự nhiên trên có loại ảnh hưởng trực tiếp tới phát triển công nghiệp có loại ảnh hưởng gián tiếp đến cơ cấu công nghiệp qua sự ảnh hưởng đến phát triển các ngành kinh tế khác (nông, lâm, nghư nghiệp, kết cấu hạ tầng kĩ thuật...). Vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ không phải là vùng giầu tài nguyên nhất so với các vùng khác trong cả nước. Tuy vậy vùng có một số loại tài nguyên với trữ lượng lớn, quan trọng và một số chiếm tỉ trọng lớn so với cả nước. Địa bàn trọng điểm cần phải tận dụng tiềm năng này để tiềm năng có thể trở thành lợi thế so sánh cho phát triển công nghiệp.
2.- Dân số và nguồn nhân lực.
Dân số và nguồn nhân lực được coi là một nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng. Trước hết dân số và mức sống của dân cư tạo thành thị trường to lớn mà các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phải phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu. Thứ hai, trình độ dân trí, khả năng tiếp thu kĩ thuật mới của lao động tạo thành cơ sở quan trọng để phát triển các ngành kĩ thuật cao. ở những quốc gia có nguồn lao động dồi dào trong cơ cấu công nghiệp cần chú ý đúng mức việc phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động để góp phần tạo thêm việc làm, giải quyết tình trạng thất nghiệp. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có một lực lượng lao động với trình độ học vấn cao nhất cả nước, đây là một lợi thế rất lớn của vùng. Nếu như lợi thế này được phát huy đúng mức thì sẽ trở thành động lực để cho địa bàn trọng điểm phát triển hơn đúng với tiềm năng và yêu cầu đặt ra.
3.- Tiến bộ khoa học công nghệ
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay, cơ cấu công nghiệp của một nước vừa phải phản ánh su thế phát triển khoa học công nghệ, vừa phải biểu thị khả năng ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ. Sự ảnh hưởng của tiến bộ khoa học công nghệ đến ự phát triển công nghiệp thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
-Tiến bộ khoa học công nghệ thúc đẩy sự phát triển phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội xã hội là tác nhân trực tiếp tác động tới sự phát triển công nghiệp, tới sự phân hoá nội bộ ngành công nghiệp thành những phân hệ khác nhau. Bởi vậy, trình độ tiến bộ khoa học và công nghệ ngày càng cao, phân công lao động xã hội càng sâu sắc, sự phân hoá công nghiệp diễn ra càng mạnh và cơ cấu công nghiệp càng phức tạp, đa dạng tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển.
Việc thực hiện các nội dung của tiến bộ khoa ọc và công nghệ trong tất cả các lĩnh vức của đời sống kinh tế xã hội đòi hỏi phải phát triển mạnh một số ngành công nghiệp. Nói cách khác sự phát triển một số ngành công nghiệp then chốt, trọng điểm là điều kiện vật chất thiết yếu để thực hiện mạnh mẽ và có hiệu quả các nội dung của tiến bộ khoa học công nghệ. Đồng thời tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra những khả năng sản xuất mới đẩy nhanh nhịp độ phát triển một số ngành, tạo ra những nhu cầu mới, làm hạn chế ảnh hưởng của tự nhiên cho phép phát triển công nghiệp ngay cả khi những điều kiện tự nhiên không thuận lợi.
Về khoa học công nghệ của vùng kinh tế trọng điểm, đây là một hạn chế, công nghiệp trong vùng đã có từ rất lâu nhưng ít được đổi mới. Chính vì thế cho đến ngày nay công nghệ nhìn chung đã lạc hậu so với khu vực và thế giới. Địa bàn trọng điểm cần phải có sự đổi mới công nghệ, tránh tình trạng tụt hậu quá xa, hạn chế sự phát triển của công nghiệp cũng như sự phát triển chung của cả vùng.
4.- Các điều kiện về vốn.
vốn có loại cơ bản: vốn sản xuất và vốn đầu tư.
-Vốn sản xuất được hiểu là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện phục vụ cho quá trình sản xuất bao gồm vốn cố định và vốn tồn kho. Trong đó vốn cố định là bộ phận cơ bản.
-Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất, kinh doanh, dich vụ sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong mỗi gia đình.
Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với sự phát triển kinh tế nói chung và tới sự phát triển công nghiệp nói riêng. Hoạt động đầu tư tác động tới cả tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế. Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng...tăng lên. Quá trình đầu tư này sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị, phương tiện vận tải mới được đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Điều cần lưu ý là những tác động của vốn đầu tư và vốn sản xuất tới nền kinh tế mà cụ thể tới phát triển công nghiệp không phải là quá trình riêng rẽ mà nó là sự kết hợp, đan xen lẫn nhau, tác động một cách liên tục nhiều chiều.
Ngày nay vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Nếu lao động và tài nguyên chỉ được coi là yếu tố đầu vào thì vốn đầu tư vừa được coi là yếu tố đầu vào, vừa được coi là yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp, của ngành công nghiệp, của nền kinh tế, mà nó còn là điều kiện để năng coa trình độ khoa học-công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi mở rộng ra các công trình xâ dựng và mở rộng ra quy mô sản xuất. Cùng với quá trình đó là sự phát triển của ngành công nghiệp. Trên địa bàn trọng điểm Bắc Bộ trong những năm qua việc sử dụng vốn đầu tư đã góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như cơ cấu công nghiệp theo chiều hướng tích cực, tăng nhanh tỉ trọng của công nghiệp chế biến trong cơ cấu công nghiệp. Một số ngành kinh tế quan trọng như; thông tin, viễn thông, công nghiệp ximăng, sắt thép, điện tử, lắp ráp ôtô, xe máy đã có những bước phát triển đáng kể. Nhưng trong những năm gần đây, vốn đầu tư toàn xã hội trên vùng kinh tế trọng điểm có su hướng giảm sút. Việc giảm đầu tư này sẽ kéo theo những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển công nghiệp cũng như phát triển kinh tế của vùng. Đây là một vấn đề mà phải sớm có biện pháp giải quyết.
5.- Các điều kiện về kết cấu hạ tầng.
Kết cấu hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển công nghiệp. Người ta không thể phát triển được công nghiệp trên một hệ thống kết cấu hạ tầng yếu kém. Hệ thống giao thông, các cảng biển, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện, hệ thống thông tin liên lạc... đây là những yếu tố thuộc về kết cấu hạ tầng, tác động trực tiếp tới sự phát triển của công nghiệp. Đến lượt mình khi đã phát triển thì công nghiệp lại có những tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển của kết cấu hạ tầng. ở đây ta có thể nói kết cấu hạ tầng là điều kiện, tiền đề, là cơ sở vật chất cơ bản thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp. Chính vì vậy để phát triển công nghiệp thì việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng là vô cùng cần thiết. Nhưng có một vấn đề cần phải lưu ý là việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi một lượng vốn lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu, đây là lí do không khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này. Chính vì thế Nhà nước cần phải có sự đầu tư phù hợp vào kết cấu hạ tầng, việc xây dựng một hệ thống kết cấu hạ tầng phù hợp là điều rất cần thiết, điều này đảm bảo nguyên tắc là phát triển kết cấu hạ tầng để đạt được mục tiêu cuối cùng là phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế.
Trong thời gian qua vùng kinh tế trọng điểm cũng đã được đầu tư thích đáng vào hệ thống kết cấu hạ tầng tuy nhiên cũng còn có nhiều vấn đề cần phải xem xét lại trên một giác độ tổng hợp. Điều này sẽ được trình bày cụ thể hơn trong chương II “ Thực trạng phát triển công nghiệp trên địa bàn trọng điểm” của chuyên đề.
6.- Các vấn đề về thị trường.
Thị trường là một vấn đề có vai trò hết sức quan trọmg cho quá trình phát triển công nghiệp. Thị trường ngày càng trở nên đa dạng ngoài thị trường truyền thống là thị trường hàng hoá thì ngày nay xuất hiện them nhiều loại thị trường mới như thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường công nghệ....Để đánh giá ảnh hưởng của thị trường tới sự phát triển công nghiệp trên địa bàn trọng điểm ta chia các loại thị trường trên ra thành hai loại cơ bản là thị trường các yếu tố đầu ra và thị trường các yếu tố đầu vào. Nhìn chung sự phân chia này chỉ là tương đối nhưng cả hai loại thị trường này đều tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của công ngiệp. Ngoài ra người ta còn chia thị trường thành thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Dưới đây chuyên đề sẽ đi sâu phân tích những tác động của thị trường trong nước và thị trường ngoài nước tới sự phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm bắc Bộ.
a) ảnh hưởng của thị trường trong nước.
Theo thống kê cho thấy địa bàn trọng điểm có mối quan hệ trao đổi với tất cả các vùng và có thị trường trao đổi rộng khắp trong cả nước.
- Dự báo nhu cầu thị trường trong nước.
Theo dự báo dân số cả nước đến năm 2005 khoảng 83-84 triệu người năm 2010 khoảng 87-88 triệu người. Đây là thị trường rất lớn cần tính đến cho sự phát triển công nghiệp trên địa bàn trọng điểm.
Về nhu cầu hàng tiêu dùng
Theo dự báo sơ bộ phát triển kinh tế xã hội đến năm 2005 GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 600-800 USD và đến năm 2010 đạt 900-1200 USD, mức tiêu dùng hàng hoá bình quân đầu người đạt 250-300 USD/năm vào năm 2005 tăng 3-5 lần so với năm 1995, và đến năm 2010 đạt đạt 400-500 USD/năm tăng 6-8 lần so với năm 1995. Tuy nhiên nhu cầu hàng tiêu dùng không đơn thuần tăng lên về mặt số lượng mà thu nhập thay đổi thì cơ cấu tiêu dùng sẽ thay đổi, thu nhập ccàng coa thì yêu cầu về chất lượng hàng hoá, dịch vụ bán hàng, dịh vụ sau bán hàng đều phải nâng cao, đồng thời thì tỉ lệ thu nhập dành cho tiêu dùng các hàng hoá thứ cấp giảm và các hàng hoá tiêu dùng cao cấp sẽ tăng lên. Với những tính toán sơ bộ trên cho thấy công nghiệp trên địa bàn trọng điểm có một thị trương nội địa to lớn với sức mua ngày càng tăng, có cơ hội phát triển nhưng cúng sẽ phải cạnh tranh rất gay gắt với các địa bàn khác và hàng nhập khẩu.
Về nhu cầu tư liệu sản xuất
Từ nay đến năm 2010 cả nước đứng trước sự thay đổi to mlớn trên tất cả các mặt, đặt ra những nhu cầu cho ngành công nghiệp cả nước cũng như công nghiệp trên địa bàn trọng điểm.
-Nhu cầu to lớn về thiết bị và phụ tùng cho các ngành sản xuất, đáp ứng nhu cầu đầu chiều sâu của các ngành. Đó là các thiết bị nhỏ lẻ, phụ tùng thay thế, các máy công tác, các loại động cơ điện... những sản phẩm thuộc các ngành cơ khí chế tạo mà trên địa bàn đặc biệt là Hà Nội đã có ưu thế.
-Do yêu cầu về thay đổi cơ cấu trong nông nghiệp, tăng diện tích trồng cây công nghiệp ngắn ngày, cây công nghiệp và cây công nghiệp dài ngày, với một số lượng lớn nguyên liệu cần được chế biến làm tăng hiệu quả của sản xuất nông nghiệp và tạo ra sự phân công lao động mới trong nông nghiệp và nông thôn. Ngành cơ khí còn cần đáp ứng những thiết bị nhỏ, đáp ứng nhu cầu chế biến của nông nghiệp.
-Vùng núi phía Bắc và Tây nguyên có nhu cầu phát triển các thuỷ điện nhỏ, do đó cần được đáp ứng nhiều thiết bị thuỷ điện nhỏ mà địa bàn có khả năng sản xuất.
Vị trí địa bàn trọng điểm với hệ thống cảng biển và sông lớn có nhu cầu lớn về sửa chữa cũng như đóng mới các phương tiện thuỷ. Đó là tiền đề quan trọng để phát triển mạnh công nghiệp đóng, sửa chữa tàu biển trên địa bàn trọng điểm.
b) ảnh hưởng của thị trường nước ngoài.
- Thị trường Nhật Bản.
Nhật Bản là nước ôn đới, hầu như không có tài nguyên khoáng sản, nằm gần ta, hệ thống giao thông thuận lợi, Nhật Bản lại là một cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới, do đó quan hệ buôn bán giữa nước ta với Nhật Bản chiếm vị trí rất quan trọng. Hiện nay thị trường Nhật Bản đã chiếm một tỉ trọng cao giá trị hàng xuất khẩu của ta, những năm tới tỉi trọng này vẫn có thể được duy trì. Điều đó nói lên vị trí cực kì quan trọng đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Vùng kinh tế trọng điểm có thể xuất sang Nhật Bản các mặt hàng chủ yếu sau:
+ Về nông sản: Gạo, ớt, tỏi, đậu, rau, hoa quả tươi, nông sản chế biến...
+ Về lâm sản: Các sản phẩm đồ gỗ, hàng mây tre, các loại dược liệu, nhựa thông....
+ Về hải súc sản: Thịt các loại, cá , tôm, mực....
+ Về khoáng sản: Than đá và một số khoáng sản khác.
Các mặt hàng Việt Namcúng như vùng kinh tế trọng điểm có thể nhập khẩu từ Nhật Bản chue yếu là máy móc thiết bị có kĩ thuật cao, cac loại linh kiẹn điện tử, cac loại máy móc thiết bị phục vụ sinh hoạt....
- Thị trường Trung Quốc.
Trung Quốc nằm kề sát với nước ta về phía bắc, điều kiện giao thông thuận lợi, có nhiều cửa khẩu thông thương giữa hai nước. Quan hệ trao đổi buôn bán giữa hai nước đã có truyền thống lâu đời nhưng mấy năm gần đây quan hệ đó ở vào thời kì sôi động nhất. Hiện nay Trung Quốc đang có tỉ lệ tăng trưởng ổn định, bền vững, dân số khoảng 1.4 tỉ người, là một thị trường rất lớn. Việt Nam có thể xuất sang Trung Quốc các mặt hàng chủ yếu sau:
+ Hàng nông sản: Gạo, rau, đậu, hoa quả, đay, cói...
+Hàng lâm sản: Hàng mây tre, cá sản phẩm đồ gỗ, các loại dược liệu...
+ Hàng thuỷ súc sản: Cá, tôm, thịt các loại...
+ Các loại hàng khác như: Than, muối....
Mặt khác Việt Nam có thể nhập về các mặt hàng chủ yếu như nhà máy xi măng, luyện cán thép, dệt, máy phát điện, các loại mô tơ, máy bơm nước và một số mặt hàng tiêu dùng khác.
Thị trường Hàn Quốc.
Việt Nam có thể xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu sau:
+ Về nông sản: Lạc, đậu tương, đậu xanh, lâu dài có thể cung cấp hoa quả tươi, nông sản chế biến.
+ Về lâm sản: Các sản phẩm đồ gỗ, hàng mây tre...
+ Về hải, súc sản: Thịt lợn, bò và gia cầm, tôm, mực, cá các loại.
+ Về khoáng sản có: Than đá
Đối với Việt Nam chủ yếu là nhập nguyên liệu, nhiên liệu cho công nghiệp như sắt, thép, phân bón, hoá chất, máy móc thiết bị cho công nghiệp nhẹ, tơ sợi, linh kiện điện tử...
Thị trường EU.
Thị trường EU là thị trường mà Việt Nam đã xâm nhậptuy chưa lâu nhưng cho đến nay Việt Nam đã có một số mặt hàng khẳng định được vị trí của mình trên thị trường EU. Đây là một thị trường lớn, yêu cầu cao vè chất lượng, mẫu mã sản phẩm.
Việt Nam có thể xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu sau sang thỉtường EU.
+ Về nông sản: Gạo, lạc, đậu tương, đậu xanh, ớt, tỏi...
+ Về lâm sản: Các sanả phẩm đồ gỗ, hàng mây tre...
+ Về hải súc sản: Thịt các loại, gia cầm, tôm, mực...
+ Về các hàng công nghiệp nhẹ: Hàng may mặc, dệt, giày dép, gốm, sứ...
Việt Nam có thể nhập khẩu từ EU các loại mặt hàng như: Thiết bị toàn bộ hoặc thiếtbị lẻ, một số hàng tiêu dùng, thuốc tân dược,xe hơi, điện gia dụng, thiết bị khai thác dầu khí...
Thị trường ASEAN.
Việt Nam là một thành viên của ASEAN. Thị trường ASEAN là một htị trường lớn ta có thẻ nhập hoặc xuất rất nhiều các mặt hàng, khi hàng rào thuế quan bãi bỏ thì đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với ngành công nghiệp phần nào còn non trẻ của Việt Nam. Việt Nam cần phải có hướng đi dúng đắn để khai thác tối đa thị trường này, góp phần quan trọng vào việc khẳng định vị trí của Việt Nam trong trong khu vực và trên thế giới
7.- Chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chiến lược phát triển công nghiệp.
Công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế. Chiến lược phát triển công nghiệp có nhiệm vụ thể hiện rõ vai trò ấy, nghĩa là phải thể hiện rõ vai trò định hướng không phải chỉ của bản than công nghiệp mà còn định hướng sự phát triển của các ngành kinh tế quốc dân theo mô hình phong cách của công nghiệp, bảo đảm cho các ngành những điều kiện vật chất để thực hiện định hướng ấy. Do vậy, chiến lược phát triển công nghiệp giữ vị trí trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Một mặt, nó là một nội dung cấu thành chiến lược phát triển kinh tế xã hội, mặt khác nó chi phối nhiều nội dung khác của chiến lược này. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước phải định rõ phương hướng chuỷen dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Thực chất đây là việc xác định sự chuyển dịch vị trí của các ngành kinh tế quốc dân. Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá thì nông nghiệp được coi là “mặt trận hàng đầu”. Song sang giai đoạn đẩy nhanh qúa trình công nghiệp hoá, công nghiệp dần chuyển lên vị trí hàng đầu. Nghĩa là cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dịch từ cơ cấu nông- công nghiệp – dịch vụ sang cơ cấu công- nông nghiệp- dịch vụ. Chiến lược phát triển công nghiệp phải được định ra trên cơ sở phương hướng chung này và phải thể hiện rõ phương hướng này khi xác định quy mô, tốc độ phát triển các ngành công nghiệp chuyên môn hóa và các giải pháp cơ bản để thực hiện.
Chiến lược chung về phát triển công nghiệp là cơ sở để xác định chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp chuyên môn hoá có vị trí khác nhau trong hệ thống công nghiệp. Bởi vậy phương hướng, quy mô, tốc độ và bước đi phát triển của chúng cũng khác nhau. Điều này thể hiện trong chiến lược phát triển chung về phát triển công nghiệp và được cụ thể hoá trong quy hoạch phát triển từng ngành công nghiệp chuyên môn hoá. Những ngành then chốt, trọng yếu, những ngành mũi nhọn sẽ phải luôn được ưu tiên hơn về đầu tư, trang bị công nghệ. Mặt khác việc hình thành các loại hình khác nhau của khu công nghiệp cũng được hình thành trên cơ sở định hướng chung đã xác định tronh chiến lược phát triển công nghiệp. Đồng thời chiến lược phát triển công nghiệp cũng là cơ sở để xác định chiến lược sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tóm lại chiến lược phát triển công nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng với sự phát triển dài hạn của bản thân công nghiệp, của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và các doanh nghiệp. Nó phải được xây dựng trên cơ sở các luận cứ khoa học, đến lượt nó lại hình thành các luận cứ khoa học không thể thiếu để thực hiện các nội dung quản lí chiến lược cũng như quản lí tác chiến như xác định phương hướng vầ giải pháp huy động, phân bố nguồn lực, tạo thế chủ động để ứng phó với các tình huống bất thường xảy ra. Công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm không năm ngoài sự ảnh hưởng này.
Có rất nhiều cách xác định xác định nội dung, mô hình chiến lược phát triển công nghiệp. Căn cứ vào phương hướng phát triển và thị trường trung tâm của công nghiệp có ba loại hình chiến lược phát triển công nghiệp sau đây:
+Chiến lược hướng nội.
+ Chiến lược hướng ngoại.
+Chiến lược hỗn hợp.
8.- Các nhân tố về cơ chế chính sách.
Các nhân tố về cơ chế chính sách có thể ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của cả nước, của công nghiệp cả nước cũng như sự phát triển chung của vùng trọng điểm và công nghiệp của vùng trọng điểm. Tuỳ theo những yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, trình độ phát triển và các mục tiêu chính trị mà chính sách công nghiệp hoá ở các nước có mục tiêu khác nhau. Tuy vậy các công cụ chính sách được vận dụng để thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá vẫn có những nét chung. Thông qua các công cụ chính sách Chính phủ thiết lập các quy tắc trò chơi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong nền kinh tế quôc dân. Đây là một tập hợp các chính sách quyết định đường lối phát triển và tăng trưởng của công nghiệp. Tác dụng định hướng của các chính sách này là nhân tố quyết định sự hài hoà cân đối giữa các mục tiêu khác nhau. Ví dụ giữa công ăn việc làm và tốc độ tăng trưởng, giữa công bằng và hiệu quả.
Các chính sách phải tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp đồng thời phải tính đến các mục tiêu về tài chính, tiền tệ cũng như các mục tiêu khá của Chính phủ. Một công cụ chính sách được đánh giá là tốt khi được đa số quần chúng hiểu và thực hiện. Trong phần này chuyên đề nghiên cứu các công cụ chính sách chủ yếu tác động đến sự phát triển công nghiệp của Việt Nam cũng như của vùng trọng điểm.
a) Các chính sách thương mại.
Chính sách bảo hộ là một công cụ mạnh mẽ để khuyến khích phát triển công nghiệp ở các nước đang phát triển, chính sách bảo hộ không chỉ là sự kiểm soát trực tiếp đối với thương mại mà còn tác động qua chính sách tài chính, tiền tệ. Các chính sách đó liên hệ mật thiết với nhau. Việc sử dụng thuế, hạn ngạch nhập khẩu hay tỉ giá hối đoái đều kéo theo nhiều những tác động phức tạp đằng sau nó, ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất công nghiệp trong nước. Thực tế rất khó thực hiện một cách có hiệu quả tất cả các chính sách, trong nhiều trường hợp việc sử dụng các công cụ của chính sách thương mại lại có những tác động ngược chiều đối với sự phát triển công nghiệp.
b) Chính sách tền tệ.
ổn định tiền tệ là điều kiện để tăng mạnh đầu tư vào công nghiệp. Tuy nhiên không nên hi sinh sự tăng trưởng để đạt được sự ổn định tuyệt đối của giá cả. Các nhà doanh nghiệp có vẻ phát đạt khi giá cả tăng lên từ từ, nhưng khi tỉ lệ lạm phát gia tăng thì những rủi ro trong kinh doanh cũng gia tăng và nền kinh tế có thể bị nguy hại, công nghiệp không thể phát triển. Ví dụ cụ thể là cuộc khủng hoảng kinh tế Đông á vừa qua.
c) Chính sách tín dụng và ngân hàng.
Lãi suất và đầu tư quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi lãi suất tăng sẽ dẫn đến giảm đầu tư và ngược lại. Việc đưa ra được một lãi suất hợp lí là rất khó khăn. Nếu như lãi suất quá thấp thì khó có thể huy động được vốn trong dân cư, còn nếu như lãi suất cao thì việc đầu tư sẽ bị hạn chế. Đồng thời với cơ cấu nền kinh tế mở như hiện nay thì lãi suất trong nước phải phù hợp với lãi suất trên thị trường quốc tế. Những điều này đủ để khẳng định rằng chính sách tín dụng ngân hàng có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của công nghiệp và của cả nền kinh tế.
Trên đây chỉ là những chính sách cơ bản tác động trực tiếp tới sự phát triển của công nghiệp, ngoài ra còn rất nhiều các chính sách khác như: các chính sách về khai thác, quản lí, sử dụng tài nguyên, chính sách về môi trường, chính sách về chất lượng sản phẩm... đều ít nhiều tác động tới sự phát triển của công nghiệp trên nhiều mặt. Trong thời gian qqua Chính phủ đã có rất nhiều các văn bản pháp quy về các chủ trương chính sách liên quan đến sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Những chính sách này được cụ thể trong bảng phụ lục số 1.
9.- Các điều kiện về lịch sử xã hội của vùng.
Mỗi vùng đều có những ngành nghề truyền thống, kinh nghiệm, kĩ năng truyền thống và những tập quán sản xuất. Tất cả những yếu tố lịch sử xã hội của vùng là những nhân tố tác động tới phương án tổ chức sản xuất trên vùng, tới sự phát triển công nghiệp của vùng. Sự phát triển lâu đời còn tạo ra những mối quan hệ trong sản xuất cũng như trong đời sống xã hội của vùng. ở đây những người lao động, tâm lí, tập quán, thói quen với tiện nghi sinh hoạt đã tạo ra sự gắn bó với quê hương hình thành những nhu cầu mở rộng sản xuất, tạo việc làm tại chỗ cho số lao động tăng lên hàng năm. Dân tộc là biểu hiện tập trung của các yếu tố lịch sử xã hội có ảnh hưởng lớn đến tổ chức sản xuất rên vùng. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với một lực lượng lao động có dân trí cao đa phần là dân tộc kinh với ba đỉnh là ba thành phố lớn. Chính vì vậy các yếu tố lịch sử xã hội đều mang tính chất tiên tiến, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển. Tuy vậy cũng cần phải chú ý tới các yếu tố lịch sử xã hội này một cách đúng mức để nó luôn luôn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển, tránh tình trạng có những tác động tiêu cực ngược chiều.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6666.doc